Phim Liễu Phàm tứ huấn:
Lược trích:
............Công danh tiến thoái thăng trầm của một đời người đều do số mệnh định sẵn. Sự thành đạt đến sớm hay muộn đều có thời gian nhất định. Do đó cha buông trôi, an phận, không còn có lòng tranh đấu gì nữa.
Khi được tuyển làm chức Cống sinh, theo quy định phải đến trường Quốc Tử Giám ở Bắc Kinh để học. Cha ở kinh thành một năm, suốt ngày ngồi yên, không nói chuyện, cũng không suy nghĩ, tính toán. Tất cả sách vở đều không xem đến. Đến năm Kỷ Tỵ, cha trở về học ở trường Quốc Tử Giám tại Nam Kinh, tranh thủ thời gian trước khi nhập học đến núi Thê Hà bái kiến thiền sư Vân Cốc. Ngài là một vị cao tăng đắc đạo.
Cha ngồi đối diện với thiền sư trong một gian thiền phòng suốt ba ngày ba đêm, không hề chợp mắt. Vân Cốc thiền sư hỏi:
- Người ta sở dĩ không thể trở nên thánh nhân chỉ vì vọng niệm trong tâm khởi lên không ngừng. Ông tĩnh tọa ba ngày, ta chưa từng thấy ông khởi lên một niệm vọng tưởng, đó là vì sao?
Cha đáp:
- Số mệnh tôi đã được Khổng tiên sinh xem rõ rồi. Lúc nào sinh, lúc nào chết, lúc nào đắc ý, lúc nào thất ý đều có số định sẵn, không cách gì thay đổi được. Vậy cho dù có nghĩ tưởng mong cái gì đi nữa cũng vô ích, do đó trong tâm cũng không có vọng niệm.
Vân Cốc thiền sư ngồi bảo:
- Ta vốn cho rằng ông là bậc trượng phu xuất chúng, nào ngờ chỉ là kẻ phàm phu tục tử tầm thường!
Cha nghe xong không hiểu, bèn thỉnh giáo tại sao lại như thế. Vân Cốc thiền sư bảo:
- Một người bình thường không sao tránh khỏi tâm ý thức vọng tưởng sáo trộn. Đã có tâm vọng tưởng không dừng thì phải bị âm dương khí số trói buộc. Đã bị âm dương khí số trói buộc, sao có thể bảo là không có số mệnh được? Tuy nói rằng có số, song chỉ người bình thường mới được số mệnh trói buộc. Nếu là một người cực thiện thì số mệnh không sao ảnh hưởng được đến họ. Bởi vì người cực thiện, cho dù số mệnh vốn có chủ định phải chịu khổ sở, nhưng nhờ làm được điều thiện cực lớn, sức mạnh của việc thiện lớn này chỉ có thể chuyển khổ thành vui, nghèo hèn đoản mệnh thành phú quý trường thọ.
Còn người cực ác, số mệnh cũng không ảnh hưởng được đến họ. Vì cho dù số mệnh họ chủ định được hưởng phúc, song vì họ gây tạo việc ác lớn, chính sức mạnh của việc ác này khiến phúc trở thành họa, giàu sang trường thọ trở nên nghèo hèn chết yểu.
Số mệnh của ông trong hai mươi năm được Khổng tiên sinh đoán trước, không từng biết cải đổi một chút, trái lại còn bị số mệnh buộc chặt. Một người bị số mệnh buộc chặt chính là phàm phu tục tử. Vậy ông phải là kẻ phàm phu tục tử hay sao?
Cha hỏi Vân Cốc thiền sư rằng:
- Theo như thiền sư nói thì số mệnh có thể cải đổi được chăng?
Thiền sư trả lời:
- Mệnh do tự mình tạo, phúc do chính mình tìm. Ta làm ác tự nhiên bị tổn phúc. Ta tu thiện tự nhiên được phúc báo. Sách vở mà cổ nhân để lại xưa nay đã chứng minh tính chính xác của đạo lý này. Trong kinh Phật nói: “Muốn cầu phú quý được phú quý, muốn cầu con trai con gái được con trai con gái, muốn cầu trường thọ được trường thọ. Chỉ cần tu tạo việc lành thì số phận không sao trói buộc được chúng ta” . Nói vọng ngữ là đại giới của nhà Phật, chẳng lẽ Phật và Bồ tát lại lừa dối chúng ta sao.
Cha nghe xong trong lòng vẫn còn chưa rõ, mới hỏi thêm rằng:
- Mạnh tử từng nói: “Hễ cầu là được” là chỉ những gì ở trong lòng ta có thể làm được. Nếu không phải là những gì ở trong lòng thì làm sao có thể nhất định làm được? Ví như nói đạo đức nhân nghĩa, toàn là những thứ ở trong tâm chúng ta, ta lập chí làm một người nhân nghĩa đạo đức thì tự nhiên trở thành người nhân nghĩa đạo đức. Đây là cái mà ta có thể tận lực để cầu. Còn như công danh phú quý là cái không ở trong tâm, vốn ngoài thân chúng ta, nếu người khác chịu cho ta mới có thể lấy được, vậy ta làm sao để cầu?
Vân Cốc thiền sư bảo:
- Lời nói của Mạnh Tử không sai, song chính ông lại không hiểu hết ý nghĩa. Ông không thấy Lục Tổ Huệ năng nói sao: “Tất cả các loại phúc điền đều quyết định trong tâm chúng ta. Phúc không lìa tâm, ngoài tâm không có phúc để cầu”. Cho nên trồng phúc hay gieo họa đều do nơi tâm chúng ta. Chỉ cần từ tâm mình đi cầu phúc, không có gì mà không cảm ứng ra.
Nếu biết từ tâm mình mà cầu thì không những cầu được nhân nghĩa đạo đức trong lòng mà công danh phú quý bên ngoài cũng cầu được. Đó gọi là trong ngoài đều đều được. Nói cách khác, dùng cách gieo trồng ruộng phúc để cầu thì nhân nghĩa, phúc lộc chắc chắn sẽ được.
Một người số mệnh có công danh phú quý, cho dù không cầu cũng có; còn như số mệnh không có công danh phú quý lại không biết hướng về nội tâm cầu thì dù có cầu cũng vô ích. Cho nên, chúng ta nếu không biết kiểm điểm xét lại mình, chỉ hướng ngoài tìm cầu công danh phú quý một cách mù quáng thì không chắc chắn có được vì nó còn lệ thuộc vào phúc báo sẵn có của mình. Đó là khế hợp với ý hai câu nói của Mạnh Tử: “ Cầu phải có đạo lý, còn được hay không là do số mệnh”.
Phải biết rằng, cho dù ta cầu mà được thì đó cũng là phúc báo sẵn có của chính chúng ta, mà không phải chỉ do cầu mà có hiệu nghiệm! Cho nên cái gì đáng cầu mới cầu, không nên cầu một cách vô nguyên tắc, không có đạo lý.
Nếu như phúc báo không có mà khăng khăng muốn cầu thì không những công danh danh phú quý cầu không được mà còn vì tâm tham cầu quá đáng, không có mức độ, bất chấp thủ đoạn, nên đánh mất cả nhân nghĩa đạo đức trong tâm, Như vậy chẳng phải trong ngoài đều mất tất cả sao? Vì vậy cầu mà không có đạo lý là vô ích.
Viên Cốc thiền sư tiếp đó hỏi:
- Khổng tiên sinh đoán số mệnh cả đời của ông như thế nào?
Cha thuật lại tường tận những gì Khổng tiên sinh đã tính, vào năm nào thi đậu hạng mấy, năm nào làm quan, bao nhiêu tuổi mất.. Viên Cốc thiền sư bảo:
- Ông tự suy xét xem, mình có thể thi đậu được công danh không? Có thể có con trai hay không?
Cha xét lại những việc làm của mình đã qua, suy nghĩ rất lâu mới trả lời:
- Tôi không có phúc tướng nên biết phúc báo không có bao nhiêu; lại không biết tích công đức, làm việc thiện để vun bồi phúc báo. Lại thêm tôi không biết nhẫn nại, không chịu gánh vác những việc phức tạp, nặng nề. Tôi lại có tính hẹp họi, nói năng tùy tiện, ai làm gì sai không thể bao dung. Có lúc tôi còn tự cao tự đại, đem tài năng, trí thức của mình ra lấn lướt người khác. Những biểu hiện trên là tướng bạc phúc, làm sao có thể thi đậu được công danh?
Sạch sẽ là đức tính tốt, song nếu quá mức sẽ trở thành tính khí khó chịu. Nên người xưa bảo: Chỗ nào nhiều phân rác, cây cối lại tốt tươi; nơi nào nước quá sạch, tôm cá không thể sống. Tính tôi sạch sẽ quá mức, thành ra mọi người xa lánh. Đây là nguyên nhân thứ nhất tôi không có con trai.
Vạn vật phải nhờ vào ánh Mặt Trời ấm áp, gió mưa mát mẻ thấm nhuần mới sinh trưởng được. Tính tôi lại nóng nảy giận hờn, không có hòa khí tươi mát làm sao có thể sinh trưởng được con trai? Đây là nguyên nhân thứ hai.
Nhân ái là cội rễ của sự sống. Nếu tâm tàn nhẫn, không có từ bi thì khác nào trái cây không được hạt, làm sao nảy mầm mọc thành cây được? Cho nên người xưa bảo: Tàn nhẫn là gốc của tuyệt tự. Tôi chỉ biết yêu tiếc danh tiết của mình, không chịu hi sinh bản thân để hành toàn cho người khác, không làm điều thiện, tính công đức. Đó là nguyên nhân thứ ba tôi không có con trai.
Nói nhiều dễ dàng hại đến khí. Tôi lại nhiều lời nên than thể không được khỏe mạnh, làm sao mà có được con trai? Đây là nguyên nhân thứ tư tôi không có con trai.
Người ta sống lại nhờ tinh, khí, thần. Một người tinh lực không đầy đủ, cho dù sinh ra con trai cũng không được trường thọ. Đây là nguyên nhân thứ năm tôi không có con trai.
Người ta ban ngày không nên ngủ, ban đêm không nên thức. Tôi thường ngồi suốt đêm, không chịu ngủ sớm. Đó là không biết bảo dưỡng nguyên khí tinh thần. Đây là nguyên nhân thứ sáu tôi không có con trai. Ngoài ra còn có nhiều sai lầm, không sao nói hết.
Vân Cốc thiền sư bảo:
- Ông như vậy không có được công danh mà nhiều thứ khác cũng không có được. Nên biết có phúc hay không phúc đều do tâm tạo ra. Người có trí tuệ biết rằng đó là tự mình làm, tự mình nhận lấy kết quả. Người không hiểu biết lại đổ thừa cho vận mệnh.
Ví dụ như trên thế gian có người giàu sang, sản nghiệp ngàn lạng vàng, đó là họ có phúc báo ngàn lạng vàng. Người có sản nghiệp trăm lạng vàng, đó là họ có phúc báo trăm lạng vàng. Còn người nghèo cùng chết đói, là họ có quả báo chết đói. Ví dụ như người lành tích đức, trời sẽ cho họ hưởng phần phúc báo tương ứng; kẻ ác tạo tội; trời sẽ bắt họ chịu tai họa tương ứng.
Trời đây chính là Ta ở tiền kiếp, Ta ngày nay là Ta của tiền kiếp đã kết tinh thành, Ta ngày nay vừa là vật thọ tạo của ta ngày trước và đồng thời cũng là đấng tạo hóa (Trời) của Ta sau này. Cái mà mọi người quen gọi là số mệnh thực sự chỉ là Nghiệp, tự ta đã tạo ra ( tự nghiệp) chứ không phải là một quyền lực nào ngoài mình tạo ra cả. ta là chủ nghiệp của Ta. Ta chính là người tạo ra số mệnh của Ta và chỉ có Ta mới thay đổi được số mệnh của Ta. Tự mình tạo ra thì cũng tự mình thay đổi nó ( nếu muốn).
Theo nhà Phật, nghiệp quá khứ là nguyên nhân động lực của kiếp sống hiện tại. Nó chỉ huy tất cả. Thành ra con người giống như một bộ máy bị một định mệnh vô hình chi phối ( ta thường gọi là “số mệnh”). Động lực chính của sự tạo nghiệp là ý thức. Ý thức có một tác dụng vô cùng mạnh mẽ, nó chi phối tất cả mọi thứ khác, lại có quyền sáng tạo và thay đổi cả một cuộc đời của con người. Trong giai đoạn hiện tại, cá nhân phải gánh chịu tất cả những quả báo của nghiệp quá khứ ( túc nghiệp) và nghiệp hiện tại ( hiện nghiệp). Nhưng ý thức với sự phụ họa của các thức khác trong giai đoạn sống hiện tại lại cũng có quyền năng tạo nghiệp mới, để làm động lực cho sự phát sinh sinh mệnh sau này.
Hạnh phúc hay đau khổ do chính con người tạo ra, không ai có quyền ban phúc giáng họa hoặc thưởng phạt ai cả. Chỉ có nhân quả nghiệp báo là quan tòa công lý vận hành quyết định số mệnh của Ta mà thôi.
Tiếp theo, Vân Cốc thiền sư mượn cái thấy của người thế tục để khuyên cha tích đức hành thiện:
- Còn việc sinh con trai giống như chúng ta gieo hạt vậy. Nhân tốt sẽ gặp quả tốt, nhân xấu sẽ gặp quả xấu. Một người tích chứa công đức được một trăm đời thì con cháu trong một trăm đời gìn giữ phúc báo của họ. Một người tích chứa công đức được mười đời thì có con cháu trong mười đời gìn giữ phúc báo của họ. Tích chứa công đức được hai ba đời thì có con cháu trong hai ba đời gìn giữ phúc báo của họ. Còn người chỉ được hưởng phúc trong một đời, đến đời sau lại tuyệt hậu, đó là công đức chứa chỉ bấy nhiêu. Song nghiệp tội của người đó có lẽ lại không ít!
Ông đã tự biết khuyết điểm của mình thì phải hết lòng hết sức cải đổi những tính xấu, biểu hiện bạc phúc khiến không được công danh và có con trai. Ông nhất định phải làm lành tích đức, đối với người phải hòa khí từ bi, bao dung độ lượng và quý tiếc gìn giữ tinh thần của mình.
Hãy coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi; còn những việc về sau như hôm nay mới sinh ra. Sống với cuộc đời bằng trái tim từ bi, yêu thương mọi người, mọi loài luôn sống hạnh phúc trọn vẹn trong hiện tại. Làm được việc này là ông đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Thân huyết nhục của chúng ta còn có khí số nhất định, song còn sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến thiên lý. Thiên Thái Giáp trong “Kinh Thư” nói:” Trời giáng xuống tai họa còn có thể tránh; tự mình gây ra tai họa thì không thể tránh, ắt phải chịu khổ.”
“ Kinh Thư” cũng nói: “ Người ta phải thường xét nghĩ đến hành vi của mình có hợp với đạo trời hay không? Nếu hợp với đạo trời thì phúc báo không cầu cũng tự nhiên đến”. Cho nên phúc hay họa đều là do mình. Thiên lý hay Đạo trời được nói đến đây chính là luật nhân quả.
Khổng tiên sinh tính số cho ông bảo không có công danh, lại thêm không con thừa tự. Tuy là bảo số trời định sẵn, song vẫn có thể cải đổi. Ông chỉ cần mở rộng lòng đạo đức nhân nghĩa sẵn có, gắng sức làm lành, tích chứa âm đức. Đó là ông tự mình tạo ra phúc báo cho mình, người khác muốn cướp muốn giật cũng không được, làm sao mà không hưởng được phúc?
“ Kinh Dịch” cũng vì những người giữ lòng nhân đức mà tính trước nên đi hướng nào sẽ kiết tường, tránh được những việc hung hiểm, những người hung hiểm , những chỗ hung hiểm.
Nếu nói nhất định vận mệnh không thể thay đổi thì làm sao có thể đến được chỗ kiết tường, tránh nơi hung hiểm? Chương mở đầu của “Kinh Dịch” đã nói:” Gia đình nào hành thiện, ắt sẽ dư nhiều phúc báo, để lại cho con cháu”. Đạo lý này ông thực sự có tin không?
Cha tin lời Vân Cốc thiền sư, đảnh lễ tạ ơn và theo lời chỉ giáo. Cha đồng thời đem những việc sai lầm tội lỗi lúc trước, không luận là lớn nhỏ nặng nhẹ, ra trước bàn thờ Phật thành tâm sám hối. Cha cũng làm một bài kệ, trước hết tỏ lòng nguyện cầu có được công danh, kế đó phát nguyện làm ba ngàn việc thiện để báo đáp ân nghĩa của trời đất và công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.......
( sưu tầm)
Ghi chú:
Viên Liễu Phàm tên thật là Viên Hoàng, tự là Khôn Nghi, hiệu là Liễu Phàm, sống vào đời nhà Minh, quê ở Gia Thiện thuộc Chiết Giang. Ông tinh thông Phật giáo và Đạo giáo, chú trọng phép tĩnh tọa dưỡng sinh. Trứ tác nổi tiếng của ông là Nhiếp Sinh Tam Yếu và Viên Liễu Phàm Tiên Sinh Tĩnh Tọa Yếu Quyết. Quyển Tĩnh Tọa Yếu Quyết có 3 thiên: Dự Hành, Tu Chứng, và Điều Tức. Thiên Dự Hành giới thiệu những điều cần yếu của người luyện tĩnh tọa, trọng điểm là điều tâm, hệ duyên thu tâm, tá sự luyện tâm, tĩnh xứ dưỡng khí, náo xứ luyện thần. Thiên Tu Chứng thảo luận sự tự thể nghiệm của việc tọa thiền. Thiên Điều Tức giới thiệu 3 phương pháp điều tức của Phật Giáo Thiên Thai Tông (tức là Lục Diệu Môn, Thập Lục Đặc Thắng, Thông Minh Quán).
Liễu Phàm tiên sinh còn để lại cho đời một tác phẩm rất nổi tiếng, đó là quyển sách "Liễu Phàm Tứ Huấn". Quyển sách này dạy người ta cách biến đổi vận mệnh của mình theo hướng tích cực bằng cách làm thiện tích phước và thường xuyên sửa đổi lỗi lầm.
Sửa bởi HuuDuyenSeGap: 15/04/2014 - 19:11