Tài Liệu về Chiêm Tinh Học Cổ
Nguyên tác từ tài liệu của anh NguyenVu, đã được QNB biên tập lại, chú thêm.
Chiêm tinh thuật:
Tinh chiêm thuật là học thuyết và phương pháp dùng việc quan sát tượng sao mà dự đoán sự thay đổi của tự nhiên, quốc sự và nhân sự. Phổ biến trong lịch sử các nước. Ở Trung Quốc có từ trước đời Thương. Theo sử liệu, Vu Hàm là nhà chiêm tinh sớm nhất đời Thương, cùng với Cam Đức, Thạch Thân thời Chiến Quốc là ba nhà chiêm tinh lớn.
Học thuyết và phương pháp chiêm tinh trong lịch sử từng trải qua nhiều thay đổi. Từ các thuật ngữ tên gọi Tinh Quan, Tinh Số, Phương Vị, đến cách quan sát sao thường có sự khác nhau. Nhưng về cơ bản đều thông qua các Phân Dã, độ sáng mạnh yếu của sao, khả năng nhìn thấy hay không nhìn thấy, sự dao động của ánh sáng sao, sự biến đổi vị trí và sự vận hành ngũ tinh theo ngày, tháng mà chiêm đoán.
Trước tác sớm nhất về Tinh Quan và phép chiêm tinh còn giữ được đến nay, là Sử Ký - Thiên Quan Thư của Tư Mã Thiên. Các tác phẩm khác, ngoài những điều có trong các loại Thiên Văn Chí - Hán Thư, do Ban Số soạn vào thời Hán), có Ất Tỵ Chiêm của Lý Thuần Phong đời Đường, có Khai Nguyên Chiêm Kinh của Cù Đàm Tất Đạt thời nhà Đường, Linh Đài Bí Phạm của Vương An Lễ thời Bắc Tống và Quan Tượng Ngọan Chiêm đời Minh,... Nội dung của chúng có chứa đựng nhiều tư liệu Thiên Văn Học cổ đại.
Thiên chiêm:
Thuật Số nghiên cứu cát hung của quốc sự, nhân sự qua hiện tượng dị thường của bầu trời sao. Bầu trời trong mà sáng là bình thường, đổi màu sắc là dị thường, là do ngũ hành âm dương không hòa hợp, là hung, đất nước sẽ rối loạn. Bầu trời dị thường bao gồm Thiên Liệt (trời rạn nứt N.D), Thiên Liệt Kiến Nhân (trời rạn nứt thấy người N.D), Thiên Khai Kiến Quang (trời mở ra thấy ánh sáng N.D), Thiên Mệnh Hữu Thanh (trời kêu có tiếng N.D) v. v...
Tùy Thư - Thiên Văn Chí dẫn sách Hồng Phạm - Ngũ Hành truyện: "Thiên Liệt ( trời rạn nứt) là dương không đủ là thần (bầy tôi) mạnh, cấp dưới hại cấp trên, quốc hậu phân liệt, kẻ dưới làm chủ. Thiên Khai Kiến Quang thì máu chảy tràn lan. Thiên Liệt Kiến Nhân thì binh khởi mất nước. Thiên Minh Hữu Thanh thì bậc chí tôn kinh sợ; đều là hiện tượng đất nước rối lọan." Đồng thời đưa ra những ví dụ chiêm nghiệm, như năm Thái An thứ 2 đời Hán Huệ Đế, trời có hiện tượng rạn nứt. Năm Thăng Bình thứ 5 đời Mục Đế, trời lại rạn nứt phát ra tiếng vang như sấm, sau đó đều xảy ra binh biến.
Tinh Tượng:
Cách gọi chung vị trí của các ngôi sao và sự thay đổi vận hành của chúng. Trung Quốc thời cổ cho rằng tượng sao trên trời gắn liến với nhân sự dưới trái đất. Sao ở các khu vực khác nhau trên trời đai diện cho các khu vục khác nhau dưới đất; tượng sao thay đổi chứng tỏ nhân sự sẽ thay đổi. Từ đó xuất hiện Thuật Chiêm Tinh, Tinh Mệnh Học và Tinh Tướng học.
Quan Tượng thụ Thời:
Thông qua quan sát sự biến đổi của tượng sao mà phán đoán thời tiết 4 mùa trong năm. Ở Trung Quốc, nội dung chủ yếu của việc quan sát tượng sao sớm nhất là vào thời kỳ tiền Lịch Pháp. Tương truyền thời thượng cổ có chức quan "Hỏa Chính", lấy sự mọc hay lặn của sao Hỏa làm mốc định thời tiết. Hạ Tiều Chính có chép kinh nghiệm quan sát sao trời mỗi tháng để xác định Thời - Tiết.
Thứ Dân duy Tinh:
Quan niệm tượng sao thời thượng cổ ở Trung Quốc. Mỗi ngôi sao đại diện cho một người dân, sao trên trời có ảnh hưởng và chứng tỏ sự thay đổi nhân sự. Thuật Chiêm Tinh dùng Tinh Quan thuyết minh Tượng Trời, dùng Phân Dã chỉ rõ các Châu Quận dưới Đất, mà đại diện Tinh Quan, là dựa trên quan niệm này. Trong tư tưởng Chiêm Tinh cổ đại, người ta còn cho rằng nỗ lực của nhân gian có thể gây ảnh hưởng tới sự thay đối Tượng sao, như vua chúa thất đức thì sẽ có Nhật Thực, nếu có đức độ cao thì có thể làm cho Nhật Thực sắp xảy ra sẽ không xảy ra nữa.
Phân Dã :
Thuật ngữ của thuật Chiêm Tinh, Thiên Văn. Chỉ sự phân phối các tinh Tượng tương ứng với các khu vực dưới mặt đất.
Thuật Chiêm Tinh Trung Quốc cổ đại cho rằng tượng sao gắn liền với nhân sự, cho nên dùng tượng sao làm đại diện hoặc tượng trưng cho các khu vực khác nhau dưới mặt đất. Cho rằng một sự biến đổi đặc định nào đó của tượng sao sẽ có ảnh hưởng và chi ra sự thay đổi về tự nhiên, quốc sự ở khu vực tương ứng dưới đất.
Chu Lễ viết rằng, "họ Bảo Chương cai quản sao trời, dùng Tinh thổ (địa phận của sao) phân biệt 9 Châu. Mỗi Châu dưới đất đều có sao chủ ở trên trời, quan sát sao chủ ấy, sẽ có thể dự đoán cát hung ở mỗi Châu".
Phân Dã chính thức hình thành vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Cách phân phối có đôi chỗ khác nhau. Chu Lễ - Xuân Quan - Bảo Chương thị Trịnh chú viết rằng việc phân chia 9 Châu diễn ra 12 lần, Thiên Quan Thư sắp xếp 28 tinh Tú, Xuân Thu Vĩ sắp xếp 7 sao Bắc Đẩu, Lã Thị Xuân Thu thì sắp xếp Cửu Thiên.
Sự sắp xếp của đời sau phối hợp các cách đó. Sử ký - Thiên Quan Thư của Tư Mã Thiên nói về Phân Dã 28 tinh tú : "Giác, Cang, Đê, ở Doãn châu; Phòng, Tâm, ở Dự châu; Vĩ, Cơ, ở U châu; Đẩu, Giang, ở Hồ châu; Khiên Ngưu, Vụ Nữ, ở Dương châu, Hư, Nguy, ở Thanh châu; Doanh, Thất, Bích, ở Tịnh châu; Khuê, Lâu, Vị, ở Từ châu; Ngang, Tất, ở Dực châu; Tư Huề, Chẩn, ở ích châu; Tỉnh, Qủy, ở Ung châu; Liễu, Thất tinh, Trương, ở châu Tam Hà; Dực, Chẩn, ở Kinh châu".