- Thị giác (sắc màu): phân biệt thế giới dựa trên 5 màu (xanh hành mộc, trắng hành kim, đỏ hành hỏa, đen hành thủy, vàng hành thổ)
- Thính giác (âm thanh): phân biệt thế giới dựa trên 5 âm (cung hành thổ, thương hành kim, giốc hành mộc, chủy hành hỏa, vũ hành thủy)
- Vị giác (vị): phân biệt thế giới dựa trên 5 vị ( mặn hành thủy, chua hành mộc, đắng hành hỏa, cay hành kim, ngọt hành thổ).
- Khứu giác (hương): ???
- Xúc giác (cảm giác): ????
Như vậy, nạp âm miêu tả vũ trụ bằng âm thanh....
*************************************************************************
Nói về Âm Thanh, theo định nghĩa được chia ra là:
- Âm: có ngũ âm bao gồm Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ (tức 5 âm Đô Rê Pha Son La... tui không rành âm nhạc
- Thanh: tức 12 cung bậc biến của 5 âm nói trên
Sau đó dùng số Đại Diễn (50 - 1 = 49) mà trừ đi tổng số của 2 cặp can chi, thừa trừ 10 sao cho có số dư, số dư đó tương ứng với cặp số nào trong Hà Đồ thì lấy ngũ hành nạp âm theo đó.....
SỐ THÁI HUYỀN CỦA 10 CAN VÀ 12 CHI
Để có bảng nạp âm, chúng ta sẽ cần 2 thành phần:
- 10 can
- 12 chi
Tại sao lại chỉ có số từ 4 tới 9? Bởi số 1, 2, 3 là số của Thiên, Địa, Nhân là đại số không dùng. Trong khi số tự nhiên chỉ có cùng cực là 9 số (tới số 10 = 1). Giải thích cho số của 10 can là:
- Giáp Kỷ hóa thổ, thổ tính bền vững, từ xưa tới giờ chưa từng bị hủy nên số 9 (cửu, trường cửu).
- Ất Canh hóa kim, tính kim kiên cố là vua của vạn vật, cho nên số 8.
- Bính Tân hóa thủy, thủy tuy không kiên cố như kim nhưng do nhu nhược cũng rất lâu bền, cho nên số của nó là 7.
- Đinh Nhâm hóa mộc, mộc thì mỗi năm có chu kỳ khô héo rồi tốt tươi (tức không thường hằng như 3 hành kia) cho nên số của nó là 6.
- Mậu Quý hóa hỏa, là hành hóa sinh cuối cùng nên số nó là 5.
Ta thấy ở đồ hình trên thì:
- Tý Ngọ nạp Càn/Chấn
- Sửu Mùi nạp Khôn/Tốn
- Dần Thân nạp Khảm
- Mão Dậu nạp Ly
- Thìn Tuất nạp Cấn
- Tị Hợi nạp Đoài
Theo thứ tự gia đình bao gồm cha mẹ, con trai trưởng, con gái trưởng, con trai giữa, con gái giữa, con trai út, con gái út như sau:
- Ngọ nạp Càn là cực dương của cha nên số 9, Mùi nạp Tốn là trưởng nữ thống quản cho mẹ nên số 8, kế tới Thân nạp Khảm là trai giữa nên số 7, Dậu nạp Ly là con gái giữa nên số 6, Tuất nạp Cấn con trai út nên số 5, Hợi nạp Đoài con gái út nên số 4
- Tý nạp Chấn là con trai trưởng (thay mặt cho Càn) nên số 9, Sửu nạp Khôn là mẹ - cực âm nên số 8, 'Dần nạp Khảm là con trai giữa nên số 7, Mão nạp Ly là con gái giữa nên số 6, Thìn nạp Cấn con trai út nên số 5, Tị nạp Đoài con gái út nên số 4.
KHỞI SỐ NẠP ÂM NGŨ HÀNH
Theo số của hà đồ, ta có các cặp số sau:
- 1 & 6: là cặp số của hành thủy
- 3 & 8: là cặp số của hành mộc
- 2 & 7: là cặp số của hành hỏa
- 4 & 9: là cặp số của hành kim
- 5 & 10: là cặp số của hành thổ
"Thụy Quế Đường Hạ Lục" luận là "60 Giáp Tý nạp âm có thể dùng kim mộc thủy hỏa thổ - tức ngũ âm - gia thêm vào để nói cho rõ nghĩa ra". Ví dụ như ta có cặp Giáp Tý/Ất Sửu và Bính Dần/Đinh Mão, thử đánh số tiên thiên của chúng sẽ được:
- Giáp (9) + Tý (9) + Ất (8) + Sửu (8) = 34, lấy số đại diễn 49 - 34 còn dư 15, bỏ số 10 không dùng còn dư 5 là hành thổ, lấy thổ sinh kim nên Giáp Tý/Ất Sửu là hành kim
- Bính (7) + Dần (7) + Đinh (6) + Mão (6) = 26, lấy số đại diễn 49 - 26 = 23, bỏ số 10 không dùng còn dư 3 là hành mộc, lấy mộc sinh hỏa nên Bính Dần, Ất Sửu là hành hỏa...
</p>
LUẬT CỦA KHÍ VÀ ÂM THANH
Luật của âm thanh thì có 5 âm, 12 cung bậc:
- Ngũ âm bao gồm: Cung (thổ), Thương (kim), Giốc (mộc), Chủy (hỏa), Vũ (thủy).
- 12 cung bậc bao gồm: Hoàng chung, Đại lữ, Thái thốc, Giáp chung, Cô tẩy, Trọng lữ, Nhuy tân, Lâm chung, Di tắc, Nam lữ, Vô dịch, Ứng chung. Mỗi tên của mỗi cung đều có ý nghĩa nguồn gốc sâu xa, ứng với 12 tháng thời gian.
Thẩm Quát nói rằng: Khí bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, Âm (tức âm thanh) thì khởi từ phương Tây mà đi về bên trái:
- Khí bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải: bốn mùa bắt đầu từ mùa Xuân (phương Đông hành mộc), tiếp tới là mùa Hạ, mùa Thu, mùa Đông. Vận hành thuận chiều qua tay phải.
- Âm thanh khởi từ phương Tây: ngũ âm bắt đầu ở kim, chuyển xoay qua trái là hỏa, tiếp tới là Mộc, cuối cùng là thủy.
Tại sao quy tắc của nạp âm lại đi nghịch từ Kim qua Hỏa tới Mộc, tới Thủy rồi mới tới Thổ? Câu trả lời là:
Theo đồ hình tiên thiên thì Càn/Đoài đóng đầu thuộc kim, kế tới là Ly hỏa, tiếp nữa là Chấn/Tốn mộc, cuối cùng là Khôn/Cấn thổ - đây là ý nghĩa "bắt đầu ở Càn mà hoàn thành ở Khôn; kim dùng cương của thiên, thổ dùng nhu của địa, hỏa phụ vào cho thiên, thủy phụ vào cho địa, mà mộc lấy sinh khí ở giữa - đó là gốc của việc nạp âm dựa vào tiên thiên đồ.
Đồ hình hậu thiên cũng lấy Càn/Đoài kim vượng ở phương Tây làm đầu, nghịch chuyển tới Ly hỏa vượng ở phương Nam; lại chuyển tới Chấn/Tốn mộc vượng ở phương Đông; tiếp tới lại chuyển tới Khảm thủy vượng ở phương Bắc, mà thổ vượng ở tứ quý vì vậy lui về Cấn/Khôn là chỗ đóng cuối cùng - như thế là gốc của nạp âm ở thứ tự hậu thiên.
NGUYÊN TẮC NẠP ÂM
- Nạp Âm đồng loại Thú Thê : Cách bát sinh Tử, Luật Lữ tương sinh chi pháp dã.
Dịch thơ Việt:
Lấy Vợ cùng Hành. Cách 8 sinh Con .
Kim, Hỏa, Mộc, Thủy, Thổ, mỗi một vòng 3 đôi.
Hai câu thơ trên miêu tả ngắn gọn quá trình nạp âm của bảng 60 đơn vị hoa giáp. Từ Giáp Tý khởi hành kim, vợ của nó là Ất Sửu tính số 1, đếm tới 8 sẽ được Nhâm Thân (kim), vợ của Nhâm Thân là Quý Dậu tính số 1, đếm tới 8 ta được Canh Thìn hành kim (xem bảng dưới đây).
Tóm lại ta có:
- Giáp Tý là trọng kim (âm thương của luật Hoàng chung)
- Nhâm Thân là Mạnh kim (âm thương của luật Di tắc)
- Canh Dần là Quý kim (âm thương của luật Cô tẩy)
sau 3 đời cha mẹ, con cái, cháu chắt của nhà kim, ta sẽ tiếp tục tính tới nhà hỏa (vì âm thanh phát từ kim, tới hỏa, tới mộc, tới thủy rồi mới tới thổ như trên đã giải thích).
Lúc này, Canh Thìn là chồng, Tân Tị là vợ sẽ đếm 1, lần lượt tới 8 sẽ sinh con là Mậu Tý hành hỏa VÀ khai tử hành kim, vợ nó là Kỷ Sửu đếm là 1, tới 8 được Bính Thân hành hỏa; vợ của Bính Thân đếm là 1, tới 8 gặp Giáp Thìn cũng hành Hỏa. Tóm lại:
- Mậu Tý là trọng hỏa (cha)
- Bính Thân là mạnh hỏa (con)
- Giáp Thìn là quý hỏa. (cháu)
Cứ như thế tuần hoàn thành bảng nạp âm...
THƯỢNG NGUYÊN, TRUNG NGUYÊN, HẠ NGUYÊN
Đồ hình ở trên lấy:
- Giáp Tý/Ất Sửu làm thượng nguyên, Nhâm Thân/Quý Dậu làm trung nguyên; Canh Thìn/Tân Tị làm hạ nguyên. Hết tam nguyên hành kim sẽ chuyển qua tam nguyên hành hỏa.
- Mậu Tý/Kỷ Sửu làm thượng nguyên, Bính Thân/Đinh Dậu làm trung nguyên, Giáp Thìn/Ất Tị làm hạ nguyên. Qua tam nguyên hành hỏa sẽ chuyển tiếp tới tam nguyên hành mộc...
Cuối cùng ở Đinh Tị là nạp âm tiểu thành, sau đó lại bắt đầu từ Giáp Ngọ/Ất Mùi là kim thượng nguyên khởi tương tự như trên, đến cuối cùng ở Đinh Hợi là nạp âm đại thành. Theo 10 can, 12 chi thành 60 nạp âm; mà 5 âm x 12 luật cũng bằng 60 nạp âm. Theo phương pháp cách bát sinh con, mỗi lần đi qua 3 nguyên mà chuyển qua hành khác. Cũng giống như mùa Xuân trải qua 3 tháng mạnh trọng quý mà chuyển qua mùa Hạ vậy:
- từ Giáp Tý tới Đinh Tị là tam nguyên của ngũ hành được một vòng. Giống như Dịch đi 3 vạch là tiểu thành.
- từ Giáp Ngọ tới Đinh Hợi là tam nguyên của ngũ hành được thêm vòng nữa, giống như Dịch thành quẻ 6 vạch là đại thành.
NGŨ HÀNH NGŨ ÂM
Chu Hy nói về phép nạp âm như sau: "chỗ nói là nạp âm, tức là lấy Can/Chi phân ra phối với ngũ âm là: Cung - Thương - Giác - Chủy - Vũ; ngũ hành chỗ sinh của bản âm chính là chỗ âm được nạp của can chi đó". Ví dụ lấy:
- Cung thổ: sinh ra Giáp Tý kim
- Thương kim: sinh ra Bính Tý thủy
- Giác là mộc: sinh ra Mậu Tý hỏa
- Chủy hỏa: sinh ra Canh Tý thổ
- Vũ thủy: sinh ra Nhâm Tý mộc
theo tính chất của một cặp theo nhau thì sẽ tính ra cung Sửu (ví dụ: Giáp Tý là kim thì kế tới Ất Sửu cũng là kim). Cũng như vậy, lần lượt dùng ngũ âm cung, thương, giác, chủy, vũ mà tính cho ngũ Dần...
----------------
Lời bàn: hóa ra vũ trụ là bản hòa ca bất tận, mà sinh mạng người/vật là một nốt nhạc nhỏ bé...