HÔM NAY, KỶ NIỆM HAI SỰ KIỆN XẢY RA CÁCH ĐÂY 135 NĂM
Hôm nay, ngày 13/7/2020 (23 tháng Năm, Canh Tí), là một ngày rất đặc biệt: kỷ niệm 135 năm ngày “Thất thủ kinh đô” (23 tháng Năm, Ất Dậu, nhằm ngày 5/7/1885) và kỷ niệm 135 ngày vua Hàm Nghi ban “Dụ thiên hạ Cần vương” (ngày 2 tháng Sáu, Hàm Nghi nguyên niên, nhằm ngày 13/7/1885) ở căn cứ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị), kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp cùng triều đình nhà Nguyễn.
Xin giới thiệu tóm lược về hai sự kiện này từ những nguồn tài liệu đã được công bố, để ai quan tâm thì đọc, copy hay share tùy ý.
1. THẤT THỦ KINH ĐÔ
Nhận rõ việc trước sau gì thực dân Pháp cũng mở rộng ách xâm lược ra toàn cõi Đại Nam và sẽ bắt triều đình nhà Nguyễn trở thành một triều đình hư vị đặt dưới sự cai trị của người Pháp, nhóm chủ chiến trong triều đình Huế do Tôn Thất Thuyết (Phụ chính đại thần, Thượng thư bộ Binh) cầm đầu, đã chuẩn bị một kế hoạch kháng Pháp lâu dài.
Sau khi phế bỏ được vua Hiệp Hòa (cầm quyền được 4 tháng năm 1883, bị nhóm chủ chiến cho là thân Pháp), nhóm chủ chiến đã khởi công xây dựng căn cứ Tân Sở ở vùng rừng núi thuộc huyện Cam Lộ, phía tây tỉnh Quảng Trị từ cuối năm 1883.
Song song với việc chấn chỉnh quân đội, nâng cao khả năng và tinh thần chiến đấu, tinh giản bộ máy hành chính, nhóm chủ chiến đã bắt tay chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài: họ sắp đặt kế hoạch dời các tỉnh thành lên các sơn phòng ở phía tây, tu bổ và mở rộng con đường thượng đạo dọc theo Trường Sơn, chuẩn bị để đưa nhà vua rời khỏi Huế trong trường hợp xảy ra giao chiến...
Tuy nhiên, công việc chuẩn bị và thực hiện của nhóm chủ chiến ở triều đình Huế, đều bị các giám mục Caspar (ở Huế), Camelbeck (ở Quy Nhơn) và Puginier (ở Hà Nội) theo dõi và mật tường trình cho Pháp.
Để ngăn chặn quá trình thực hiện của triều đình Huế, vào tháng 3/1884, tướng Pháp Courbet đã đề nghị với chính phủ Pháp cho phép ông ta mở cuộc tấn công vào Kinh đô Huế, nhưng bấy giờ hai bên đang thương thảo một hòa ước, sau này có tên là Hòa ước Giáp Thân (ký kết vào ngày 6/6/1884), nên kế hoạch tấn công Kinh đô Huế của Courbet không được chuẩn thuận.
Đầu tháng 7/1885, Thống tướng De Courcy (Pháp) đem quân đến Huế với ý đồ gây áp lực buộc triều đình phải thi hành Hòa ước Giáp Tuất (1884). Hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là quan Phụ chánh nắm hết mọi quyền hành trong triều lúc bấy giờ. Thái độ của De Courcy rất hống hách; vừa đến nơi thì hôm sau đã yêu cầu hai quan Phụ chánh sang gặp mặt để bàn định về việc bệ kiến vua Hàm Nghi. Chỉ có Nguyễn Văn Tường, vốn mưu trí và ngoại giao khôn khéo, sang gặp, còn Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đi; De Courcy bảo dẫu có bệnh cũng phải khiêng sang. Bàn về lễ bệ kiến vua Hàm Nghi, De Courcy đòi cùng đoàn tùy tùng đi cửa giữa của Ngọ Môn. Điều này trái với quốc lễ vì cửa giữa chỉ dành riêng cho vua. Phía triều đình chỉ bằng lòng để một mình De Courcy đi cửa giữa (như sứ Tàu), còn đoàn tùy tùng thì đi cửa hai bên nhưng De Courcy không chịu. Thái độ hống hách này làm Phụ chánh Tôn Thất Thuyết không chịu được, quyết định phải đánh úp một trận, may ra thắng được thì cũng hả dạ.
Ngày 04/7/1885, De Courcy từ chối không tiếp các quan của Viện Cơ Mật sang Tòa Khâm sứ để thương thảo về nghi thức bệ kiến vua Hàm Nghi, ông ta cũng từ chối không nhận quà tặng xã giao của Hoàng Thái hậu Từ Dụ (mẹ vua Tự Đức). Tối hôm đó, lợi dụng việc De Courcy mở tiệc tại Tòa Khâm sứ khoản đãi các sĩ quan Pháp, Phụ chánh Tôn Thất Thuyết đã phóng ra một cuộc tấn công vào hai mục tiêu là Tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá (Trấn Bình Đài) là nơi Pháp đóng quân tại góc đông bắc Kinh thành Huế.
Ban đầu, vì bị tấn công bất ngờ, lại đêm hôm tăm tối, chưa nắm được tình hình nên quân Pháp chỉ bắn cầm cự, đến tảng sáng, khi quân Việt hết thuốc đạn, cuộc nổ súng yếu dần thì quân Pháp phản công, quân ta thua chạy, đến 8 giờ sáng ngày 05/7/1885 (tức 23 tháng Năm Ất Dậu), Kinh đô hoàn toàn thất thủ. Nhà cửa dân chúng, dinh thự, bị đốt cháy, kho tàng bị cướp phá, hàng ngàn dân chúng và quân lính chết vì súng đạn hoặc vì dẫm đạp lên nhau khi tranh nhau chạy thoát ra các cửa thành, tạo nên một cảnh tang tóc kinh hoàng chưa từng có.
Phụ chánh Nguyễn Văn Tường được bà Từ Dũ chỉ thị ở lại để điều đình với Pháp. Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, rồi Quảng Bình, cầm đầu cuộc kháng chiến Cần vương chống Pháp. Không chiêu dụ được vua Hàm Nghi trở về, người Pháp và triều đình Huế lập Kiên Giang Quận Công Nguyễn Phúc Ưng Đường, anh ruột vua Hàm Nghi, lên thay (19/9/1885), tức vua Đồng Khánh.
Do sự tổn thất lớn lao này, ngày 23 tháng Năm hàng năm trở thành ngày giỗ tập thể của Huế bắt đầu từ đó, và chính triều đình cũng phải lập một đàn thờ những oan hồn này ngay trong Kinh thành và làm lễ tế hàng năm.
(Dẫn theo: Trần Viết Ngạc, “Không có chiếu Cần vương nào cả!”,
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
; Ngày 9/11/2010; Võ Hương-An, “Từ điển Nhà Nguyễn”, Nam Việt xuất bản, California, 2012, tr. 638).
2. VUA HÀM NGHI BAN “DỤ THIÊN HẠ CẦN VƯƠNG” TỪ TÂN SỞ
Nhiều sử liệu bằng tiếng Việt đã gọi văn bản do vua Hàm Nghi ban hành từ Tân Sở (Quảng Trị) là “Chiếu Cần vương”, trong khi sách “Đại Nam thực lục” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, ghi là “Dụ thiên hạ Cần vương” hay “Dụ Cần vương” (Đại Nam thực lục, tập 36, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 225, 241, 244).
* Theo NNC. Trần Viết Ngạc (trường ĐH Sư phạm TPHCM), thì:
“Chiếu và dụ là hai loại văn bản đều do nhà vua ban hành, nhưng hình thức cũng như nội dung rất khác nhau:
- “Chiếu” (proclamation) là một tuyên cáo, một thông báo quan trọng của nhà vua cho toàn dân được biết về một sự kiện quan trọng, một nhu cầu thiết yếu của quốc gia như “Chiếu dời đô” (Lý Thái Tổ), “Chiếu thân chinh Chiêm Thành” (Lê Thánh Tông), chiếu lên ngôi, chiếu cầu hiền... Mở đầu của bài chiếu là một cụm từ quy ước: “Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chiếu viết”... hoặc là “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết”... (Vâng trời ứng vận, Hoàng đế ban chiếu rằng...).
- “Dụ” (decree, edict) là một mệnh lệnh của nhà vua có giá trị như một đạo luật, một sắc lệnh, bắt buộc đối tượng nhận “dụ” (tiếp dụ) phải thi hành. Kháng dụ là một trọng tội. Mở đầu một đạo dụ là hai chữ: “Dụ viết” (dụ rằng), khi dịch có thể viết “Dụ” hoặc “Dụ rằng”... Kết thúc luôn luôn là hai chữ “khâm thử”. Như thế mở đầu và kết thúc của dụ rất đơn giản và không thể khác được”.
* Theo sách “Từ điển Nhà Nguyễn” của NNC. Võ Hương-An (tức Võ Văn Dật, California, Hoa Kỳ), thì:
- “Dụ (諭): Lệnh của vua truyền ra bằng lời hoặc bằng văn bản. Khi Quốc sử quán vâng lệnh chép bộ “Đại Nam thực lục” (Thực lục I, tr. 200), đã đề ra những nguyên tắc biên soạn (Phàm lệ), có nói rõ: Lời vua ban xuống gọi là sắc là dụ. Công đồng tuân theo ý của vua mà truyền bảo cũng viết chữ sắc, chữ dụ”
- “Cần vương” nghĩa là hết lòng, tận tụy vì vua.
(Võ Hương-An, “Từ điển Nhà Nguyễn”, Nam Việt xuất bản, California, 2012, tr. 146).
Như vậy bản văn mà chúng ta quen gọi là “Chiếu Cần vương”, thực ra là “Dụ Cần vương” hay “Dụ thiên hạ Cần vương”, là một mệnh lệnh của vua Hàm Nghi ban ra từ Tân Sở (xem ảnh).
* “Dụ Cần vương” được ban hành vào ngày 13/7/1885 sau khi vua Hàm Nghi cùng những lãnh đạo chủ chốt của nhóm chủ chiến thất bại trong vụ phản công Kinh thành Huế vào ngày 5/7/1885, phải xuất bôn ra Tân Sở, ban dụ kêu gọi toàn dân thi hành nghĩa vụ cứu vua, giúp nước.
Bấy giờ vua Hàm Nghi còn vị thành niên, nên có thể hiểu rằng dụ này do Tôn Thất Thuyết nhân danh vua mà làm ra và ban hành.
Nội dung lời dụ nhằm kêu gọi, là sự kích động lòng trung quân ái quốc chống Pháp, từ đó đã dẫn đến Phong trào Cần vương , do những văn thân, sĩ phu yêu nước, đứng lên hiệu triệu đồng bào, tập hợp lực lượng và chỉ huy họ đánh Pháp, kéo dài từ năm 1885 đến năm 1913.
* Phong trào cần vương
Ngay sau khi “Dụ Cần vương” được ban bố, lời kêu gọi “Cần vương, kháng Pháp” của vua Hàm Nghi đã được đáp ứng ở khắp Trung Kỳ, Bắc Kỳ, ngoại trừ Nam Kỳ là nơi đã trở thành thuộc địa của Pháp:
- Tại Thừa Thiên có cha con Đặng Hữu Cát và Đặng Hữu Phổ.
- Tại Quảng Nam có Trần Văn Dư và Nguyễn Duy Hiệu.
- Tại Quảng Ngãi có Lê Trung Đình.
- Tại Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, có Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Bùi Giáng, Bùi Điền.
- Tại Quảng Bình có Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực.
- Tại Hà Tĩnh có Lê Ninh, Phan Cát Tựu, Nguyễn Thoại, Nguyễn Thạch.
- Tại Nghệ An có Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ.
- Tại Thanh Hóa có Nguyễn Đôn Tiết.
Kịch liệt nhất trong phong trào Cần vương này là những cuộc kháng chiến lâu năm và gây nhiều tổn thất cho quân Pháp của Phan Đình Phùng ở Vụ Quang (Hà Tĩnh), của Nguyễn Thiện Thuật với chiến khu Bãi Sậy ở Hưng Yên, của Đinh Công Tráng với chiến lũy Ba Đình ở Thanh Hóa, và của Hoàng Hoa Thám với chiến khu Yên Thế.
(Võ Hương-An, “Từ điển Nhà Nguyễn”, Nam Việt xuất bản, California, 2012, tr. 81-82).
Phong trào Cần vương đã tập hợp được nhiều tầng lớp nhân dân ở Trung Kỳ trở ra, tiến hành kháng chiến chống Pháp, khiến cho thực dân Pháp và triều đình Đồng Khánh (1885 - 1889) thân Pháp ở Huế phải vất vả đối phó trong nhiều năm trời. Mãi đến khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế bị dập tắt vào năm 1913, thì phong trào Cần vương mới thực sự chấm dứt.
Hôm nay là tròn 135 năm ngày xảy ra hai sự kiện trên (tính theo ngày âm là 23 tháng Năm và theo ngày dương là 13/7).
Trùng hợp ngẫu nhiên, và quá nhiều ý nghĩa.
Bài: Ts Trần Đức Anh Sơn