1/ Khi nghiên cứu huyền không phi tinh, tôi thấy Thẩm Trúc Nhưng có nói đến phương pháp thế quái.
a/ Tại sao kiêm hữu hoặc kiêm tả (so với chính hướng) thì cũng đều dùng một sao để thế. Ví dụ nhà tọa Tý hướng Ngọ kiêm Đinh 5 độ (kiêm hữu) cũng giống như nhà tọa Tý hướng Ngọ kiêm Bính 5 độ (kiêm tả), nghĩa là đều có cùng một tinh bàn thế quái như nhau? Trường hợp kiêm nghịch tử hoặc kiêm xuất quái thì cách luận có giống như kiêm thuận tử hay kiêm phụ mẫu hay không? Ví dụ : Nhà tọa Nhâm hướng Bính kiêm Ngọ 5 độ và nhà tọa Nhâm hướng Bính kiêm Tỵ 5 độ có giống nhau về cách luận- mặc dù tinh bàn giống hệt nhau? Tại sao tại sơn hướng đó khi kiêm hơn 3 độ lại ứng với sao ấy để dùng thay thế? Các bạn xem đoạn trích trong Thanh nang áo ngữ được Thẩm Thị chú giải sẽ rõ sự thắc mắc của tôi:
- Khôn Nhâm Ất Cự Môn tòng đầu xuất (Tại sao phải lấy Cự Môn để thay thế mà không lấy sao nào khác?)
- Cấn Bính Tân vị vị thị Phá Quân (Tại sao phải lấy Phá Quân để thay thế mà không lấy sao nào khác hơn?)
- Tốn Thìn Hợi tận thị Vũ Khúc vị (Tại sao phải lấy Vũ Khúc để thay thế mà không lấy sao khác?)
- Giáp Quý Thân Tham Lang nhất lộ hành (Tại sao phải lấy Tham Lang để thay thế mà không lấy sao khác?)
Cứ thế mà suy…….
b/ Tại sao chỉ dùng các sao 1, 2, 6, 7, 9 mà không dùng sao 3, 4, 8 để thay thế? (Ở đây thống nhất không dùng sao 5 là đại sát Ngũ Hoàng). Phải chăng các sao 3, 4, 8 có biệt lệ gì khác hơn?
c/ Theo lý thuyết hễ kiêm trên 3 độ thì dùng thế quái. Nhưng trong 24 sơn hướng thực tế chỉ có 13 sơn dùng thế quái là: Sửu Cấn Dần Giáp Mão Ất Thìn Tốn Tỵ Bính Nhâm Canh Thân, còn lại 11 sơn không dùng thế quái là: Tuất Càn Hợi Tý Quý Ngọ Đinh Mùi Khôn Dậu Tân. Thử hỏi các sơn này (nhóm 11 sơn hướng) muốn kiêm bao nhiêu cũng được vì vẫn không bị tạp khí lẫn lộn như lý thuyết đã nêu? Điều này có đúng không? Cách luận trạch vận có sự thay đổi gì không?
2/ Khi nghiên cứu huyền không đại quái thì cũng mấy câu thơ được trích trong bộ Thanh nang áo ngữ của Dương Quân Tùng nêu trên, tác giả lại giải thích:
- Khôn Nhâm Ất Cự Môn tòng đầu xuất tức là tại 3 sơn khôn-Nhâm-Ât xuất hiện 3 quẻ Thăng-Quán-Tiết, nghĩa là sơn Khôn đối lạc với quẻ Thăng + quẻ Quán trong vận 2 và quẻ Tiết trong vận 8.
- Cấn Bính Tân vị vị thị Phá Quân tức là tại 3 sơn Cần-Bính-Tân xuất hiện 3 quẻ Minh Di-Đại Hữu- Tiểu Quá, nghĩa là sơn Cấn đối lạc với quẻ Minh Di + quẻ Tiểu Quá trong vận 3 và quẻ Đại Hữu trong vận 7.
- Tốn Thìn Hợi tận thị Vũ Khúc vị tức là tại 3 sơnTốn kiêm Thìn- sơnTốn kiêm Tỵ và sơn Hợi xuất hiện 3 quẻ Lý + quẻ Đại Súc và quẻ Tụy, nghĩa là sơn Tốn đối lạc với quẻ Tụy + quẻ Đại Súc trong vận 4 và quẻ Lý trong vận 6.
- Giáp Quý Thân Tham Lang nhất lộ hành tức là tại 3 sơn Giáp-Quý-Thân xuất hiện 3 quẻ Ly-Ích-Vị Tế, nghĩa là tại sơn Giáp đối lạc với quẻ Ly trong vận 1 và quẻ Ích + Vị Tế trong vận 9.
Các trường hợp khác cứ thế mà suy…
(ta thấy trong trong từng câu chữ xuất hiện đồng vận và hợp thập)
Vậy thử hỏi cách nào đúng, cách nào sai, tại sao?
Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn!