Các hành tinh trong hệ Mặt Trời đã từng “nằm rất gần nhau”
Mặc dù không thể nằm chính xác trên một đường thẳng, nhưng các hành tinh trong hệ Mặt Trời cũng đã từng nằm ở rất gần nhau trên bầu trời (ta có thể gọi là hình khối hành tinh hay nhóm hành tinh trên bầu trời).
Năm 1983 đã xảy ra sự kiện tất cả các hành tinh (kể cả Diêm Vương tinh và Trái Đất) đều năm trong cung góc 96 trên bầu trời – không phải trong một đường thẳng như hầu hết mọi người đều lầm tưởng. Tất cả các hành tinh nằm cùng một phía với Mặt Trời và cùng nằm trong cùng một góc (quadrant) thường xảy ra khoảng 200 năm một lần.
Các hành tinh không thể nằm cùng trên một đường thẳng, nhưng có thể cùng xuất hiện trên bàu trời. Đó cũng là một hiện tượng vũ trụ thú vị.
Sự kiện các hành tinh thẳng hàng hay có lẽ nói đúng hơn phải là giao hội các hành tinh xảy ra gần đây nhất là vào năm 2000. Và người ta cho rằng đó là thời điểm Trái đất sẽ diệt vong, nhưng trên thực tế đã không có chuyện gì xảy ra.
Phần 2: Thượng Cổ Giáp Tý – là điểm xuất phát chung thứ nhất:
Người xưa đã chọn một điểm xuất phát chung gọi là Thượng Cổ Giáp Tý - để lấy mốc thời gian mà sao Thái Ất dùng để xoay quanh một vòng trời. Năm gọi là gốc thời gian, vì có hiện tượng 7 sao tụ hội, tức là tất cả nhật nguyệt hợp bích, và 5 tinh liên châu đều họp ở cung Tý, cho nên năm, tháng, ngày, giờ, thiên chính, đông chính lấy cung Tý làm mốc đầu hết, gọi là Thượng Cổ Giáp Tý. Rồi sách vở lại ghi rằng thời Vua Nghiêu cũng có hiện tượng 7 sao tụ hội. Cho nên tạo lịch pháp đều lấy thời đó gọi là Thượng Nguyên Giáp Tý. Vậy lịch pháp lấy Năm Thái Ất và ngày tháng giờ đều theo con số gốc mà gọi là Thượng Cổ Giáp Tý
(Theo quyển 6, Thái Ất Thần Kinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Phần 3:
Xem sao Bắc Đẩu buổi chiều khoảng 18 giờ sẽ biết dưới trần gian đang ở vào mùa nào. Thí dụ:
- Tháng 11 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Tí.
- Tháng 12 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Sửu.
- Tháng 1 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Dần.
- Tháng 2 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, v.v.
Như vậy, sao Bắc Đẩu chính là đồng hồ để chỉ mùa, chỉ tháng quanh năm.
Sao Bắc Đẩu còn quay một vòng trong một ngày, như chiếc kim đồng hồ. Thí dụ: Lúc 18 giờ buổi chiều nào đó, ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, thì 6 giờ sau tức vào nửa đêm, ta sẽ thấy nó chỉ hướng Ngọ. Sáu giờ sau nữa (tức 6 giờ sáng ngày hôm sau), nó sẽ chỉ hướng Dậu. Suy ra thì 12 giờ trưa hôm sau nó sẽ chỉ hướng Tí, để rồi 18 giờ chiều lại chỉ hướng Mão, v.v.
Ngũ tinh thường không lấp lánh như các sao khác, trừ khi bầu khí quyển bị chấn động.
Thủy Tinh rất gần mặt trời, nên thường rất khó thấy.
Kim Tinh vì gần mặt trời nên mọc và lặn xấp xỉ như mặt trời. Sáng mọc phía Đông gọi là Sao Mai, Tối lặn phía Tây gọi là Sao Hôm. Kim Tinh là một ngôi sao sáng nhất trên trời.
Mộc Tinh cũng là sao rất sáng, màu sáng bạc.
Hỏa Tinh thì màu sáng đỏ.
Thổ Tinh màu trắng nhợt.
Thập Nhị Thần
Thập Nhị Thần là nơi mà các sao Đẩu Cương của Bắc Đẩu chỉ vào mỗi tháng. Đẩu Cương của Bắc Đẩu chỉ vào đâu thì nguyên khí của tháng ở tại đấy.
- Tháng Giêng, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Dần.
- Tháng Hai, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Mão.
- Tháng Ba, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Thìn.
- Tháng Tư, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Tị.
- Tháng Năm, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Ngọ.
- Tháng Sáu, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Mùi.
- Tháng Bảy, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Thân.
- Tháng Tám, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Dậu.
- Tháng Chín, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Tuất.
- Tháng Mười, Đẩu Cương Bắc Đẩu chỉ Hợi.
Gọi là Nguyệt Kiến vì nguyên khí của trời thì vô hình, nên cứ trông sao Bắc Đẩu chỉ vào đâu, thì biết nguyên khí ở đó.
Bắc Đẩu có 7 sao. Sao thứ nhất là Khôi, sao thứ năm là Hành, sao thứ bảy là Tiêu. Ba sao ấy gọi là Đẩu Cương. Như tháng Dần, thì buổi tối, sao Tiêu chỉ Dần; nửa đêm, sao Hành chỉ Dần; tảng sáng sao Khôi chỉ Dần. Các tháng khác cũng phỏng theo đó.
Bản đồ Thiên văn
TÚ THỨ THẦN DÃ CHÂU ĐỘ Hư Huyền Hiêu 9o ¼ Nguy Tề 16o Thất Hợi Thanh Châu 17o
Nhóm sao phía Bắc là Huyền Võ 玄 武, có 7 chòm sao:
(1) Đẩu 斗 m , l , f , p , t , x , Sagittarii
(2) Ngưu 牛 a , b , x Neb. 323, 324 Capricorne, Neb. 322 Sagittarii
(3) Nữ 女 n , m , n , xx 493 Piazzii, Aquarii
(4) Hư 虛 b Aquarii, a Equlei
(5) Nguy 危 a Aquarii, e ,d Pegasi
(6) Thất 室 Aquarii, a ,b Pegasi
(7) Bích 璧 a Andromedæ g Pegasi
Vĩ Tinh
Vĩ Tinh (hành tinh) là tinh hoa của Ngũ hành:
- Mộc là Tuế Tinh (Jupiter).
- Hỏa là Huỳnh Hoặc (Mars).
- Thổ là Trấn Tinh (Saturne).
- Kim là Thái Bạch (Vénus).
- Thủy là Thần Tinh (Mercure).
Ngũ Tinh với mặt trời, mặt trăng gọi là Thất chính. Tất cả đều bám vào trời. Trời chuyển vận nhanh, Thất chính chuyển vận chậm; chậm bị nhanh lôi cuốn, nên Thất chính đều cùng với bầu trời mọc đàng Đông, lặn đàng Tây.
Ngũ Tinh phụ tá cho Nhật Nguyệt, khiến cho ngũ khí chuyển vần y như 6 hàng quan chức trong nước tùy theo chức vụ mà trị dân, ra mệnh lệnh cho thiên hạ. Lợi hại an nguy trong nước đều do đó sinh ra.
Gặp thời bình yên thịnh trị, mọi người xử sự hẳn hoi, thì Ngũ tinh, Thất chính đều đi đúng độ số.
Nếu vua rây vào việc bầy tôi, nếu bầy tôi chuyên quyền vua, thì chính lệnh sẽ sai lạc, phong giáo sẽ suy vi, rối loạn. Cái bầu không khí gàng quải ấy sẽ cảm tới Thất chính, nên Thất chính sẽ biến hóa lung tung, không còn theo lẽ thường.
(theo Thiên văn học cổ Trung Hoa - Nhân tử Nguyễn Văn Thọ)
Phần 4: Từ Thượng Cổ Giáp Tý tính đến các năm:
Năm Thượng Cổ Giáp Tý = 10.155.889 -1972 = 10.153.917 trước công nguyên
Sửa bởi danhkiem: 08/08/2018 - 16:16