LỊCH SỬ CỦA TRÀ
Hôm nay tôi kể cho các anh chị nghe lịch sử của một thứ hết sức quen thuộc với chúng ta, đó là trà, một số nơi còn gọi là chè. Trà là loại đồ uống phổ biến thứ hai trên thế giới, chỉ sau … nước lọc. Hãy nhớ điều này: Người Ấn có thể cấm ăn thịt bò, người Âu – Mỹ cấm ăn thịt chó mèo cũng như người Hồi cấm ăn thịt lợn và cả rượu nữa, nhưng trên thế giới tuyệt nhiên không có quốc gia nào cấm trà cả. Cách uống trà cũng có vô vàn cách khác nhau: Uống trực tiếp với nước sôi, uống bột trà qua túi lọc, uống bột trà xanh matcha kiểu Nhật, uống trà với sữa nóng như người Ấn – Hồi hay uống trong ấm Samovar như người Nga … gần như mỗi dân tộc đều có một loại trà hoặc cách uống trà riêng của mình. Nhưng lịch sử của trà đã có từ khi nào?
I. LỊCH SỬ CÂY TRÀ
Truyền thuyết kể lại rằng Thần Nông - vị vua huyền thoại của Trung Hoa có một đam mê mãnh liệt với thực vật và dược liệu, ông được xem là thủy tổ nghề trồng trọt và nghề y. Một tối nọ, vị vua huyền thoại ngồi đun một nồi thuốc dưới một cái cây to, trăng thanh gió mát, bỗng đâu một cơn gió nhẹ làm một chiếc lá trên cái cây rơi vào nồi thuốc ông đang đun. Vốn rất nhạy cảm, ngay lập tức ông nhận ra có điều gì đó đang xảy ra trong cái nồi của mình, một mùi thơm rất lạ bay lên, thanh t*o và nền nã, Thần Nông không kìm được tò mò, bèn múc nước uống thử, tức thì ông cảm thấy khoan khoái, tỉnh táo hẳn ra, những mệt nhọc, ưu tư tự nhiên bay biến đâu mất hết, đó là câu chuyện về lá trà trong lịch sử. Tất nhiên khi đó chưa có giấy, mực, những công dụng cũng như đặc tính của trà và các loại dược liệu khác chủ yếu được truyền miệng từ đời này sang đời khác. Sau này lá trà được nhắc đến trong Thần Nông bản thảo kinh (sách thuốc của Thần Nông) và có lẽ đó là tài liệu cổ nhất ghi lại sự có mặt của lá trà.
Về mặt phân loài, trà thuộc họ Theaceae, người Pháp gọi là Thé (giờ các bạn biết Koi Thé là gì rồi đấy), người Đức học theo cách phát âm của người Pháp nên gọi là Tee (tê nha, not ti), tới lượt người Anh lại chuyển âm thành Tea. Còn người Trung Quốc gọi gần giống người Việt: Cha-a. Dù rằng ngày nay trên thế giới có cả ngàn loại trà khác nhau theo tên giống cây và cả theo nơi xuất xứ nhưng các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng chúng có chung một tổ tiên duy nhất là một loài thực vật bản địa ở Vân Nam - Trung Quốc. Sau đó khoảng hai ngàn năm, một loài cây khác có họ hàng gần với trà cũng được tìm thấy ở phía tây Trung Quốc, ứng với Ấn Độ ngày nay, gọi là trà Assam, là loài cây bản địa ở Ấn Độ, Miến Điện, Lào, Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Trà trong tự nhiên là loài cây cổ thụ, mọc hoang, ra quả từ sau 4 đến 12 năm. Tuy nhiên, do nhu cầu sử dụng, hầu như chẳng bao giờ người ta để cho trà lớn lên với kích thước thật của nó, thậm chí quả trà cũng là thứ cực kỳ hiếm thấy trong tự nhiên. Trà là một trong những loài cây được trồng trên quy mô công nghiệp sớm nhất trong lịch sử loài người và con người cũng thay đổi hoàn toàn cách sinh trưởng của cây trà: Không chỉ giăm cành thay cho gieo bằng hạt, con người còn liên tục cắt tỉa cây trà (để ra búp mới), biến loài cây vốn là thân mộc trở thành cây bụi và phát triển cả một nền văn hóa lâu đời gắn bó với trà.
II. CÁC LOẠI TRÀ PHỔ BIẾN
Chế biến trà gồm 5 bước cơ bản:
- Hái: bao gồm hái búp, lá và xử lý cơ bản.
- Làm héo: làm héo và mềm lá trà.
- Vò : làm dập vỡ các tế bào và tạo hình cho lá khi thành phẩm
- Oxy hoá: vấn đề này tôi sẽ nói rõ hơn ở đoạn dưới.
- Sấy: định hình và làm khô.
Không phải mọi loại trà đều trải qua tất cả các công đoạn này. Một số loại trà có thể bỏ bớt một vài bước hoặc lặp đi lặp lại một bước nào đó nhiều lần. Và tùy theo các cách thực hiện khác nhau sẽ cho ra những loại trà khác nhau, sau đây là một số loại trà phổ biến nhất.
+ Đầu bảng chắc chắn phải là Trà Xanh, nhưng nếu theo cách gọi của người Việt thì phải gọi là trà tươi, tức trà nguyên thủy theo đúng như tên gọi của nó. Cách uống cũng vô cùng đơn giản: Lá trà, cành nhỏ của trà được hái xuống, rửa sạch, chần qua nước sôi và uống. Tôi tin trong gia đình các anh các chị nhiều người vẫn uống trà theo cách này. Đây là hình thức uống trà cổ điển nhất, nguyên thủy nhất và ... dễ dàng nhất. Tuy nhiên do lá trà còn tươi nên chứa rất nhiều tanin, khi uống trà xanh vào sáng sớm lúc chưa ăn gì dễ bị cào ruột, cá biệt người không quen còn có thể ... say. Trên thế giới, người ta định nghĩa trà xanh khác với quan niệm của chúng ta: Trà xanh được làm bằng 4 bước: hái búp, làm héo, vò và sấy. Điều kiện tiên quyết của làm trà xanh là không để cho trà bị oxy hóa. Để trà không bị oxy hoá thì ngay từ khi búp trà được hái xuống, người ta tiến hành làm rất nhanh công đoạn làm héo, đem ra phơi nắng trên bạt ngay sau khi hái, và chỉ phơi từ 1 giờ đổ lại. Sau đó đem lá trà đi xào hoặc hấp. Nhiệt độ cao sẽ làm các enzym trong lá trà ngưng hoạt động. Sợi trà xanh được tạo hình bằng cách xoa trên tay, nhấn trên chảo, vò hay lăn, tạo ra rất nhiều hình dạng khác nhau. Trà xanh thường có nước trà màu xanh hoặc vàng, có mùi cháy (trà xào) hoặc mùi lúa non (trà hấp), vị chát. Một số loại trà xanh được ướp thêm hương, hoa rất phổ biến tại Miền Nam như trà lài, trà sen, trà sói, trà sâm dứa (gọi theo tên loại cây/ loại hoa được ướp vào trà).
+ Tiếp theo là Trà Ô Long, đây thực chất là một dòng trà riêng biệt, nhiều người VN vẫn lầm tưởng trà Ô Long là một nhãn hiệu trà, đấy là hiểu sai. Trà Ô Long khác trà xanh ở chỗ là lá trà sẽ để cho oxy hóa lâu hơn, lá trà sau khi phơi trên bạt cho hết ẩm sẽ tiếp tục được chuyển sang nong tre để phơi, đây là cảnh các bạn hay gặp trong các phim cổ trang. Bất cứ loại trà nào để cho oxy hóa từ 8 - 80% đều gọi là trà Ô Long, độ oxy hóa được phản ánh qua màu sắc của nước trà từ vàng hổ phách tới nâu đỏ. Trà Ô Long là loại trà tốn nhiều thời gian nhất để chế biến. Nó sử dụng cả 5 bước cơ bản tôi đã nói ở trên, trong đó bước vò và oxy hoá có thể được lặp lại nhiều lần. Sau mỗi lần vò, lá trà lại được nghỉ ngơi để oxy hoá, rồi lại vò, lại nghỉ, lặp lại nhiều lần như thế trong rất nhiều giờ (vài ngày). Quá trình này giúp trà có được các lớp hương thơm và vị hết sức phong phú. Hương vị này phức tạp hơn nhiều so với trà xanh. Trà có vị chát rất mềm và mượt, giàu hương vị của hoa hoặc trái cây. Chính vì sự giàu có về hương vị nhưng lại rất mượt mà của trà Ô Long mà nó trở thành loại trà thích hợp nhất cho người mới uống trà. Ngoài Trà Ô Long các bạn hay nghe, còn có một số loại trà khác mà ở Việt Nam các bạn nghe tên rất quen nhưng thực chất nó cũng là Trà Ô Long mà thôi, có thể kể ra đó là Thiết Quan Âm, Tiểu Long Châu hoặc Đại Hồng Bào, Đông Phương Mỹ Nhân…
+ Tiếp đến là Trà Đen, khỏi phải nghĩ ngợi nhiều, tất nhiên trà đen là trà đã được oxy hóa hoàn toàn, lên đến 100%. Trà đen cũng phải trải qua 5 bước như trên nhưng sẽ không có bước nào được lặp lại, nó đi thẳng một lèo từ a tới á luôn. Nước trà thường có màu nâu sáng tới đỏ đậm. Các loại trà đen có hương vị mạnh nhất, một số loại rất chát. Ở Việt Nam không có nhiều người uống trà đen nguyên chất do gu thị hiếu khác biệt. Nhưng chắc rằng 99,99% các bạn đã từng nhấm nháp một tách Lipton túi lọc hay thương thức trà trong một ly trà sữa? Loại trà đó chính là trà đen. Trà đen rất phổ biến ở Châu Âu, Ấn Độ, thường dùng ở dạng túi lọc hoặc pha cùng với sữa. Tại sao người Châu Âu lại chuộng trà đen? - Vì nó để được lâu (đã oxy hóa hoàn toàn) nên không bị mốc, dễ vận chuyển trên những con tàu vượt đại dương trong thế kỷ 17 - 18, có thế thôi. Lịch sử tìm ra trà đen cũng hết sức thú vị: Có một thôn chuyên trồng trà ở Trung Quốc khi xưa là thôn Cao Sơn, nơi đây nổi tiếng về sản xuất loại trà Ô Long danh tiếng. Thời Nam - Bắc triều, thiên hạ loạn lạc, một hôm có một đám loạn binh chạy đến thôn Cao Sơn, với tôn chỉ hết sức tàn bạo của chúng Trai hiếp, Gái giết, dân làng bèn rủ nhau trốn hết vào trong núi. Nửa tháng sau, khi đi trốn về, dân làng phát hiện ra số trà tươi mới hái bị lũ cướp đá đổ hết, lại còn bị chúng trải ra như đệm để nằm, ngồi. Dân làng bèn đem trà đó đi ... cho bò ăn, thế nhưng có một người đàn ông để ý thấy rằng con bò nhà mình ăn cái đống trà đó ... khá ngon miệng, thế là hắn lấy lại một ít, đem sấy lên và pha ra uống thử, dù không bằng trà Ô Long nhưng đấy cũng là một vị lạ, sau đó không biết bằng cách nào, loại trà này được phát hiện ra rất hợp với sữa gia súc, từ đó món trà sữa ra đời.
+ Trà Trắng lại được xem như trà tiến vua dưới thời phong kiến. Hoàng đế Tống Huy Tông nhà Tống là một nghệ nhân thực thụ, anh làm cái đ*o gì cũng giỏi, trừ mỗi làm chính trị là nát... Nói về trà, có lẽ sau thánh trà Lục Vũ thì Huy Tông là người xếp thứ hai. Huy Tông bỏ ra rất nhiều thời gian để quan sát và nghiên cứu các giống trà cũng như cách chế biến trà, và ông đã nghiên cứu ra loại trà trắng này: Trà được thu hoạch ở một đồi riêng biệt, có thể nói là toàn những cây trà hảo hạng, trăm cây chọn một. Được những trinh nữ trong làng dậy sớm đi hái trước canh năm, khi những búp trà còn đẫm hơi sương, và chỉ hái búp sắp bung, không hái lá. Những chiếc lá non còn nguyên lông tơ màu trắng khi hái, chính vì vậy mà gọi là "trà trắng". Sau khi hái, búp trà phải mang ra suối rửa trực tiếp dưới dòng chảy của suối rồi phơi dưới nắng mùa xuân cuối tháng 3, đầu tháng 4, sau đó thì sao lên rồi vò nhỏ, đóng thành bánh, có thế thôi. Một bánh trà trắng có thể đổi ... 1 lượng vàng và chỉ bán cho một người duy nhất: Chính là đương kim thánh thượng. Người khác muốn mua vui lòng để lại cái đầu... Ngày nay thì trà trắng không quá cầu kỳ như vậy, nhưng cách thu hoạch, chế biến thì cũng như cách đây 800 năm. Đơn giản chỉ là hái và phơi khô búp trà tự nhiên dưới ánh nắng mặt trời, thực sự chỉ có thế thôi. Nếu thời tiết không thuận lợi thì cũng có thể sấy, nhưng nhiệt độ rất thấp. Lá trà trắng không cuộn lại như các loại trà thường thấy mà nó có hình dạng tự nhiên, chỉ hơi quăn lại vì khô. Mặc dù quá trình làm khô trà trắng có thể diễn tra trong vài ngày, nhưng vì các tế bào trong lá không bị vỡ ra nên quá trình Oxy hoá chỉ diễn ra rất chậm. Trà trắng khi pha thường có nước màu xanh hoặc vàng rất nhạt, hương và vị “tinh tế”, nhẹ nhất trong các loại trà.
+ Trà Phổ Nhĩ: Là đặc sản xuất xứ từ Phổ Nhĩ, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Nhưng thật ra đây là loại trà của các dân tộc ít người của miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam chế biến ra. Loại trà này còn có nhiều tên gọi khác như Trà Kim Qua Cống, Nhân Đầu Cống là vì ngày xưa triều đình Trung Hoa thu thuế các dân tộc ít người này theo đầu người: 1 bánh trà/1 người trưởng thành/1 năm. Trà Phổ Nhĩ là nhóm trà có thể nói là đắt đỏ nhất thế giới vì 2 lý do. Thứ nhất là trà Phổ Nhĩ thường được làm từ giống trà cổ thụ (có thể trồng hoặc mọc hoang). Cụ thể, nguyên liệu để làm loại trà này là shan tuyết cổ thụ. Cây trà được trồng trên núi cao ở vùng Vân Nam hàng chục năm rồi mới bắt đầu thu hoạch để chế biến. Sau khi tuyển những lá trà đủ chất lượng thì gốc trà vẫn được giữ nguyên, tiếp tục chăm sóc cho nhiều mùa sau bởi cây trà càng lâu năm thì sẽ càng cho ra loại trà thượng hạng. Có cây đến hàng trăm năm tuổi vẫn còn được sử dụng tốt.
Thứ hai, giống như rượu vang ủ lâu năm, trà Phổ Nhĩ sau khi lên men đạt tiêu chuẩn thì càng để lâu, càng ngon, càng đắt tiền. Theo đó, lá trà Phổ Nhĩ được lên men hoàn toàn ở trạng thái rắn và khô, tách hết nước trong lá trà, nhưng giữ lại các vi sinh vật có trong lá trà cổ thụ để chuyển loại bỏ hết chất xấu, giữ lại chất tốt trong lá trà. Quá trình lên men tự nhiên này rất tốn thời gian, có khi mất vài năm, nén lại thật chặt thành đủ hình dạng, phổ biến nhất là hình tròn với một lỗ hõm ở giữa mới tạo nên một bánh trà hoàn hảo. Trà ngon và đủ chất lượng phải bảo có hương thơm trầm dịu, hậu vị sâu. Chất dinh dưỡng trong lá trà phải phong phú, nước trà đậm, khí trà mạnh mẽ và giữ được hương rất lâu trong miệng. Trà Phổ Nhĩ có thể chia làm hai loại là Phổ Nhĩ Sống và Phổ Nhĩ Chín. Theo đó, trà Phổ Nhĩ lên men nhân tạo thường được gọi là trà Phổ Nhĩ Chín, thường dùng để giảm cân. Còn trà Phổ Nhĩ Sống thường dùng để thanh lọc cơ thể. Loại trà này được lên men trong thời gian khá ngắn, hoặc trà tích trữ mà không qua lên men, trên thực tế công dụng giảm cân của trà sống là nhờ trà giàu polyphenol, có hiệu ứng tương tự trà xanh, trà Ô Long. Lưu ý, trà Phổ Nhĩ không được bảo quản đúng cách, nó sẽ bị mốc như thức ăn thông thường. Nếu trà Phổ Nhĩ bị mốc, mà không được xử lý ngay, sẽ tạo ra rất nhiều vi khuẩn có hại, có thể gây ra ung thư nghiêm trọng, chúng ta nên loại bỏ nó đi không dùng nữa.
+ Mạt trà - Matcha: Cái này nếu gọi theo tiếng Việt, chúng ta cũng thường gọi là trà xanh, dựa theo màu sắc của loại trà này. Nhưng tên gọi đúng thì phải là bột trà. Đầu tiên, những cây trà xanh được sử dụng để làm matcha được trồng trong bóng râm trong ba đến bốn tuần trước khi thu hoạch, loại trà đó gọi là gyokuro - ngọc sương, còn loại không trồng trong bóng râm gọi là sencha - trà xanh bình thường. Che cây trà trong bóng râm sẽ làm chậm sự tăng trưởng, kích thích sự gia tăng nồng độ chất diệp lục, làm cho lá có màu xanh đậm hơn và tạo ra sự sản xuất axit amin, đặc biệt là theanine. Sau khi thu hoạch những chiếc lá trà được đặt phẳng cho khô. Sau đó loại bỏ phần thân và gân lá rồi đem lá đi nghiền thủ công bằng cối đá cho đến khi thành dạng giống bột tan, mịn, có màu xanh lá tươi sáng được gọi là mạt trà. Nghiền lá là một quá trình mất nhiều thời gian vì đá dùng để xay không được quá nóng, kẻo mùi thơm của lá bị thay đổi. Có thể cần đến một giờ để xay 30g mạt trà. Matcha lại chia thành các loại hấp và không hấp, nhưng thôi, ở đây không nói thêm, vì trà đạo Nhật Bản thâm sâu như biển, ko thể nào trong một bài này mà viết hết được. Cách uống mạt trà theo kiểu người Nhật đang uống hiện nay là cách uống trà cùa Trung Hoa thời Đường - Tống, thời đó người Trung Quốc ép trà thành dạng bánh tròn, rồi pha chế bằng cách rang và nghiền thành bột, bột trà thu được sẽ được pha trong nước nóng, sau đó thêm muối. Năm 1191, thiền sư Eisai đã sang Trung Quốc và lĩnh hội được nghi thức uống, cách pha trà của người Trung Quốc và từ đó dung nạp vào dòng Thiền Tông của Nhật Bản để trở thành Trà đạo như hiện nay. Về sau, do ảnh hưởng của chiến tranh, loạn lạc và sự đổi thay triều đại, du nhập văn hóa mới nên người Trung Hoa không uống bột trà nữa mà chuyển sang "hãm" trà khô trong nước nóng, còn Nhật Bản thì vẫn giữ để đến hôm nay Trà đạo trở thành 1 trong 4 nghệ thuật độc đáo mà Nhật Bản còn lưu giữ (3 cái còn lại là Hương Đạo, Hoa Đạo và Chỉ Đạo (xếp giấy)). Ngày nay matcha không chỉ được dùng như thức uống mà còn là một loại gia vị trong ẩm thực.
III. NGUỒN GỐC CÁC LOẠI DANH TRÀ
Hầu hết ai cũng từng nghe qua tên các loại trà nổi tiếng, nhưng không phải ai cũng biết tại sao nó có tên gọi như thế và tất nhiên, nhiều người chưa hề có cơ hội uống thử các loại trà mà họ có thể gọi tên vanh vách ấy. Đầu tiên, hay nghe nói tới nhất chính là Thiết Quan Âm.
Truyền thuyết về trà Thiết Quan Âm bắt nguồn từ Thanh Đảo, ngày nay là Đài Loan. Vào thế kỷ 15, có một người đàn ông trên đảo này tên là Duy, không rõ họ vốn là chủ một tàu đánh cá. Một ngày nọ tàu của ông Duy ra khơi gặp sóng dữ, toàn bộ thủy thủ đoàn cùng với con tàu đều chìm xuống biển, chỉ trừ mình ông chủ. Lo hậu sự đền bù cho các nạn nhân xong ông Duy lâm vào cảnh khánh kiệt, người vợ của ông không chịu nổi cảnh nghèo khổ, ôm con trở về nhà mẹ. Trở thành tay trắng chỉ sau một đêm, ông Duy bèn... đi nhậu, nhậu xỉn ông bắt đầu chửi đời, chửi người, rồi chửi tới trời. Chửi cho đã, ông mệt và say quá nên thiếp đi. Trong cơn mơ, ông chợt thấy Phật bà Quan Âm hiện ra, hứa rằng sẽ giúp cho ông trở nên giàu có gấp nhiều lần lúc trước, nhưng với điều kiện là ông phải chia sẻ sự giàu có đó cho mọi người. Tất nhiên là ông Duy gật sái cổ. Sau đó, ông tìm đến một hang núi như lời phật bà dạy, ban đầu ông cứ tưởng mình sẽ tìm được một kho báu hay gì đó, nhưng khi chui vào hang, ông mới thấy một mầm cây nhỏ, đó là một cây trà. Ông Duy đem cây trà đó về trồng và sau đó nhân giống nó, hương vị của loại trà đó hoàn toàn mới lạ, giữ đúng lời hứa, ông Duy đem cây trà đó cho dân trên đảo cùng trồng và trở nên giàu có. Sau này để tưởng nhớ công đức của Phật Bà Quan Âm, ông Duy đã dựng một bức tượng Quan Âm bằng sắt trên đảo, và người dân gọi loại trà mới đó là trà Thiết Quan Âm.
Trà Long Tỉnh cũng là một loại trà danh tiếng của Trung Hoa. Ngày nay trà Long Tỉnh được trồng nhiều không chỉ ở Trung Quốc mà còn cả ở Nhật Bản, trà này có màu xanh sáng và hương vị thanh mát, trong lành. Truyền thuyết kể rằng vào năm 250, người dân ở một làng ở Hàng Châu lâm vào nạn hạn hán, người dân trong làng vô cùng lo lắng vì những cây trà đang chết dần, nếu không cống đủ sản lượng trà, cả làng sẽ bị bắt tội. Dân làng bèn đi đến một thầy bói nổi tiếng trong vùng, thầy gieo quẻ và bảo dân làng soạn lễ đến cúng ở đền thờ Long Vương trong vùng. Dân làng làm theo, tối hôm đó trưởng làng mơ thấy một con rồng trắng hiện ra, bảo rằng làng đang bị trời phạt, phải chịu hạn hán 3 năm. Nếu rồng làm mưa giúp thì nó phải chịu tội, nhưng con rồng sẵn đang "bất mãn chế độ" nên sẵn sàng giúp dân làng một vé, với điều kiện sau này dân làng phải đời đời hương khói cho nó, trưởng làng ok ngay. Sáng hôm sau, trời kéo mây đen vần vũ, mưa từ giờ mão đến giờ mùi mới tạnh, sông hồ, ao chum trong vùng đều ngập nước. Cuối trận mưa, có xác một con rồng lớn nổi lềnh phềnh trên con sông chảy qua làng, người ta bảo do biết làm trái mệnh trời nên con rồng tự xử luôn. Từ đó, người dân trong thôn đặt tên cho loại trà ngon nhất của họ là trà Long Tỉnh, cả thôn cũng đổi tên thành thôn Long Tỉnh (nghĩa là Rồng thức giấc).
Tuy nhiên, loại trà danh tiếng nhất của Trung Quốc đối với phương tây là Tuyết Sơn Hầu Trà. Dịch nôm na nghĩa là Trà của khỉ trên núi tuyết. Trà này ra đời vào thế kỷ 18, núi tuyết ở đây là núi A Lý Sơn, loại trà ở đây là trà Ô Long Thiết Quan Âm mọc ra từ những cây trà cổ thụ, nằm tuốt trên đỉnh núi cheo leo và khắc nghiệt nơi con người không thể trèo lên được. Thay vào đó, người ta huấn luyện khỉ trèo lên đỉnh núi hái trà nên có cái tên như vậy. Loại trà này uống vào ban đầu có vị chát ở đầu lưỡi, uống hết lại lưu lại vị ngọt nhẹ ở cổ họng. Đây là loại trà tiến cống cho vua dưới triều Càn Long, chỉ có hoàng đế và các vương gia mới có thể uống, ngày nay đây là loại thức uống nổi tiếng của các tửu lầu Trung Hoa tên đất Mỹ.
Một loại trà nữa cũng được coi là “siêu cấp vô địch”, vua của các loại trà Trung Quốc và là trà dành cho các vị vua, ấy là Tu Mi Trà, hay trà chân mày. Trà Tu Mi là trà trắng tiến vua, nhưng lá trà lại được lựa chọn, gấp trải đúng quy chuẩn, kích thước để làm sao cho khi ngâm vào nước nóng, lá trà không nở bề ngang mà chỉ dài ra, thanh và mảnh như chân mày thiếu nữ.
Không thể không nhắc đến thức uống làm điên đảo giới trẻ ngày nay, đó là trà sữa Trân Châu, đây là một biến tấu mới của trà mới ra đời cách đây hơn 30 năm. Năm 1988, trên khu phố ăn vặt Thập Phần nổi tiếng của Đài Loan những người bán trà sữa lề đường đã nảy ra sáng kiến cho thêm những viên bột sắn dây bọc đường vào trong món trà sữa truyền thống, sau đó họ thay bằng bột củ năng, rồi mạch nha, ca cao … với hương vị và kích cỡ vô cùng đa dạng. Sau đó, nó nhanh chóng vượt ra khỏi biên giới Đài Loan, xâm nhập vào Hongkong, Đại Lục, sau đó là Hoa Kỳ và ngày nay là toàn Châu Á. Người Hoa gọi món đồ uống mới này là Tsang chau nài tcha – tức Trà sữa trân châu, còn người phương tây thì gọi là buble tea – trà bong bóng.
Trà đen Ấn Độ tuy không nổi đình nổi đám như trà tàu (ít ra là đối với người Việt Nam) nhưng trên thế giới lại là một câu chuyện khác. Thoạt kỳ thủy, trà đen và hồng trà vốn không có sự khác biệt. Với người Trung Hoa, họ chỉ phân biệt giữa hồng trà và trà xanh, trà đen đồng nghĩa với hồng trà. Từ thế kỷ 16 trở đi, người Hà Lan, người Bồ Đào Nha tìm được đường đến viễn đông bằng thuyền buồm và họ bắt đầu nhập khẩu trà vào Châu Âu. Đến thế kỷ 17 thì trà đã trở nên quen thuộc với người Châu Âu, riêng người Ăng-lê thần thánh thì nghiện trà luôn, thế là họ cũng nối gót người bồ, người hà tìm đến Trung Hoa.
Tuy nhiên, người Hoa lại không thích người Anh vì vậy chỉ bán cho chúng loại trà thứ cấp với giá cắt cổ, đồng thời các đồ dùng trong uống trà (đồ sứ) cũng có giá trên trời. Thâm hụt thương mại do buôn trà ngày càng lớn khiến chính phủ Anh không thể chịu được, cuối cùng người Anh đã tìm được thứ để “cân bằng cán cân thương mại”, ấy là thuốc phiện. Tuy nhiên, trước thời điểm chiến tranh thuốc phiện chừng 30 năm, Robert Bruce - một nhà thám hiểm người Scotland vào khoảng năm 1823 đã thông báo là tìm thấy một loại cây mọc "hoang dã" ở vùng Assam khi lưu lại ở đây. Maniram Dewan – người dẫn đường của Bruce đã hướng dẫn anh đến người đứng đầu của địa phương. Bruce đã chú ý đến những người vùng này pha trà từ lá của bụi cây "hoang dã" đó và sắp xếp với các thủ lĩnh bộ lạc để cung cấp cho anh ta các mẫu lá và hạt mà anh dự định sẽ kiểm tra một cách khoa học. Nhưng không may sau đó, Bruce đã mất. Mãi đến năm 1830, anh trai của Bruce là Charles đã gửi bụi cây trà Assam đến vườn thực vật ở Calcuta để kiểm tra thích hợp. Ở đó, cây được xác định là Camellia sinensis var Asamica, khác với phiên bản cây trà Trung Quốc (Camellia sinensis var Sinensis), nhưng thật ra cây này ở vùng Vân Nam Trung Quốc vẫn có, chỉ là người ta không thích uống nó, do vị caffeine cao hơn trà thường. Sau đó công ty Assam đã độc quyền sản xuất trà Assam trong hai thập kỷ, hoạt động tại các quận Thượng Assam.
Đến những năm 1840, một bác sĩ người Anh là Campbell lại đem cây trà Trung Hoa đi trồng thử ở vùng Darjeeling, tây Bengal, Ấn độ thu được kết quả mỹ mãn. Công ty Đông Ấn năm 1847 đã không bỏ qua cơ hội này mà phát triển đồn điền trà bao la bát ngát để tự cung tự cấp không cần phải cầu kỳ mua trà của Trung Quốc nữa. Đến năm 1870, số đồn điền trà ở Darjeeling lên đến con số 56 với tổng diện tích là 4,400 héc ta đạt sản lượng 71,000 kg. Những năm 1800s, 90% lượng trà tiêu thụ ở Tây Bắc Âu đến từ Trung hoa thì sang năm 1900 giảm xuống còn 10%! - Darjeeling trong tiếng Tây Tạng nghĩa là “vùng đất của sấm sét” là vùng núi ở độ cao từ 1500 – 2400m so với mực nước biển, nơi có nhiệt độ ngày đêm chênh lệch lớn. Darjeeling first flush là trà thu hoạch vào mùa xuân diễn ra từ tháng 3 đến cuối tháng 4 có hương vị nhẹ hơn – người sành trà vẫn hay gọi là trà Darjeeling vụ đầu.
Ngoài ra có đợt thu hoạch thứ 2 trước mùa mưa nghĩa là tầm tháng 6 tháng 7. Màu sắc của trà vụ sau đậm hơn trà xuân và loại trà này có thân cành tốt hơn. Các hoa, hương vị và mùi thơm cũng khác đặc biệt có trà có ngả màu vàng. Trà đen Darjeeling Himalaya - là loại trà đen Ấn Độ tinh khiết, hái vào mùa thu trên sườn phía nam của dãy Himalaya, giáp với Nepal. Sự khác biệt ở trà dây được phát hiện thông qua trạng thái cân bằng về màu sắc, hương vị và mùi thơm của riêng của nó. Những chiếc lá trà màu nâu đen khi pha cho trà mùi thơm và hương vị mạnh mẽ. Khác với trà Assam được phát triển từ cây trà hoang của Ấn độ có lá to dày hơn thì Darjeeling được lấy giống từ đúng cây trà của Trung Quốc Camellia sinensis var Sinensis. So về độ caffeina thì Assam nặng đô hơn Darjeeling, còn về mặt chất lượng hương vị thì Darjeeling được đánh giá cao hơn.
Trà đen Nilgiri Shiva được trồng trong dãy núi xanh của Kerala ở phía tây nam của Ấn Độ, mảnh đất theo truyền thuyết thuộc về thần Shiva. Trà có màu cam nâu và hương vị thoảng mùi trái cây.
Trà Chai là loại trà assam được pha trong sữa đặc và ngọt. Trà Chai là một loại trà truyền thống của Ấn Độ, ảnh hưởng từ phong cách uống trà của người Anh, người Ấn cho sữa, đường và đôi khi cả muối vào trà và quậy lên. Món trà này là thủy tổ của các thể loại trà kéo, trà lắc của Indo, Singapore. Tại Ấn Độ, một khẩu phần của trà chai khoảng 200ml rất hay được sử dụng trong các bữa tiệc.
Trà đen Masala – ban đầu là loại trà dùng trong các nghi lễ tôn giáo truyền thống của Ấn Độ. Người ta trộn trà với một hỗn hợp các loại gia vị: bột gừng, bạch đậu khấu, hạt tiêu trắng, cây hồi và đinh hương. Phục vụ với sữa ấm và mật ong. Trà có một mùi hương thơm đậm và uống nhiều có thể say.
Theo thống kê Trà “Earl Grey” – Trà Bá tước Anh Quốc là loại trà được tiêu thụ nhiều thứ 2 trên thế giới và đây là một trong các loại trà phổ biến, nổi tiếng nhất ở phương Tây. Trà Bá Tước – Earl Grey là loại trà được đặt theo tên của Earl Grey đệ nhị, thủ tướng Anh Quốc trong thập niên 1830. Theo truyền thuyết, Trà Bá Tước – Earl Grey là loại trà được khám phá ra bởi Charles Grey khi ông làm đại sứ Anh tại Trung Quốc. Để tạo hương vị đặc trưng cho loại trà này Ông đã cho bổ sung tinh chất quả Bergamot vào trà, tạo nên mùi thơm sang trọng, trầm lắng, đúng như tên gọi “Bá tước” của nó. Nhưng sự thật thì Earl Grey chưa bao giờ đặt chân tới Trung Quốc và người Trung Quốc cũng hoàn toàn không biết tới quả Bergamot. Thật ra đây chỉ là một cách marketing, giống như một loại rượu cognac lấy tên là rượu Napoleon vậy. Trong trường hợp này, các chuyên gia đã tạo ra một loại trà mới bằng cách kết hợp sáng tạo trà đen với tinh dầu Bergamot và đặt theo tên Earl Grey – vì ở Anh, Earl Grey là một người nổi tiếng và có công với đất nước.
Nói về Bergamot thì đây là loại cây lai giữa cam và quýt vì thế nên có các múi nhỏ màu vàng xanh. Nó được xuất hiện ở quần đảo Canaria, thuộc Tây Ban Nha, nhưng phát triển mạnh ở Sicilia– hòn đảo lớn nhất ở Địa Trung Hải. Ở Ý, loại cây Bergamot đã được trồng từ lâu và thành phố Bergamot là nơi đầu tiên quả Bergamot được bày bán. Nhưng có lẽ mọi người sẽ ít biết đến Bergamot nếu người Anh không thêm nó vào trà. Bergamot có công dụng giúp xua tan mọi căng thẳng và trấn tĩnh, an thần, rất hiệu quả trong việc hỗ trợ tiêu hóa ,có tác dụng giảm stress. Nó là một trong những loại tinh dầu có giá trị quý giá nhất giúp lấy lại sự cân bằng cho tinh thần và sức khỏe.
Ngày nay chúng ta đều biết đến thương hiệu trà túi lọc nổi tiếng thế giới, trà Lipton. Đây là tên một người đàn ông đã góp phần đem trà phổ biến đến mọi tầng lớp quần chúng, nhờ có ông văn hóa uống trà và cách uống trà của người Âu Mỹ mới trở nên thịnh hành như ngày nay. Câu chuyện bắt đầu vào năm 1864, chàng thanh niên Scotland là Thomas Lipton quyết định rời nước Anh, sang Mỹ để chu du, tại Mỹ chàng trai trẻ vừa làm nhiều nghề để kiếm sống, vừa đi du lịch nước Mỹ. Ở New York, ông làm bán hàng cho một tiệm tạp hóa, ông thường xuyên được ông chủ giao nhiệm vụ mang những túi nhỏ chứa các mẫu trà đến cho khách hàng dùng thử. Vài người sẽ đổ ra ấm, pha bình thường, nhưng có những người sẽ ngâm cả chiếc túi vải vào trong nước nóng và chờ cho trà ngấm ra ngoài, Lipton đã lưu ý đến cách uống trà tiện dụng đó. Năm 1870, cha Lipton biên thư gọi con về tiếp quản công việc gia đình. Rất may mắn là công việc của Lipton lại thành công dễ dàng, trong vòng 10 năm, ông mở rộng hệ thống tiệm tạp hóa của gia đình đến toàn cõi Scotland và cả nước Anh.
Năm 1888, khi đã có hơn 300 cửa hàng trong tay, cùng thời điểm đó, giá trà ở Anh đã hạ nhiệt rất nhiều so với 100 năm trước đó, Lipton quyết định sẽ đem trà đến tận những gia đình lao động của nước Anh. Ông quyết định sẽ mua tận gốc và bán tận tay người tiêu dùng, triệt tiêu khâu trung gian để có giá thành rẻ. Lipton đã mua lại những đồn điền trà ở thuộc địa Ceylon của Anh và thuê nhân công địa phương, Ceylon sau này giành độc lập vào năm 1948, lấy tên đến ngày nay là Srilanka. Lipton đã thành lập công ty trà mang tên chính mình và cung cấp loại trà nhuyễn như bột, đựng trong các túi vải như khi xưa ông đã thấy ở Mỹ. Đồng thời ông cũng cho in những tờ giấy nhỏ treo kèm vào các túi trà, đó là hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm của ông. Dần dần người ta thay túi vải bằng túi giấy và Lipton tiếp tục là một thương hiệu lớn cho đến tận ngày nay.
(Còn tiếp).
=.=.= Bách Hiểu Sinh =.=.=
From: Facebook Chuyện Đông - Chuyện Tây