Lãn Ông nói: "
Người có mạch Xích như cây cỏ có rễ, cành lá tuy khô héo mà gốc rễ vẫn sinh ra".
THEO ĐÔNG Y:
Theo Đông Y, thận là gốc của phủ tạng. Quan niệm này có những cơ sở vững chắc về phương diện âm dương, cũng như về phương diện ngũ hành và kinh mạch.
Phương diện âm dương:
Thận có cả âm lẫn dương, không những âm dương hậu thiên, mà cả âm dương tiên thiên. Biển Thước, tác giả quyển Nạn Kinh (225 tr.CN) quan niệm: "
Thận có hai quả, phải và trái, y như trời có âm dương. Quả bên trái là THẬN (âm), quả bên phải là MỆNH MÔN (dương)".
Trương Trọng Cảnh (thế kỷ II sau CN) cũng theo thuyết này. Trương Gia Tân, tức Cảnh Nhạc (1563 - 1640) có quan niệm khác: "
Thận gồm hai quả thận ở hai bên (nhị âm), và Mệnh Môn ở giữa (nhất dương) tạo thành quẻ Khảm thuộc thủy".
Lãn Ông mô tả: "
Hai quả thận nằm song song với nhau, dính sát ở hai bên sương sống, quả bên phải là dương thủy, quả bên trái là âm thủy, ở giữa là Mệnh Môn (cửa sống). Trong Mệnh Môn có hai lỗ: lỗ trái là chân âm hay chân thủy, lỗ phải là chân dương hay chân hỏa. Như vậy, Thận - Mệnh Môn là Thiên tiên Thái cực trong cơ thể".
Ở đây, cần nhấn mạnh Hỏa của Mệnh Môn là Long lôi hỏa, Hỏa nằm trong Thủy mà không bị diệt.
Phương diện ngũ hành:
Thận - Mệnh môn có cả thủy lẫn hỏa, cho nên trên cơ sở ngũ hành sinh khắc, có thể nói là Thận có một chỗ đứng thứ hai ở gần tâm. Như vậy, trong vòng sinh sẽ thấy: - thận thủy sinh can mộc rồi can mộc sinh tâm hỏa - Mệnh môn hỏa sinh tỳ thổ, đồng thời tiếp sức cho tâm hỏa, rồi tỳ thổ sinh phế kim.
Qua các mối liên hệ này, có thể nói: "
Thận là tinh thần của tâm, là khí của phế, là sự quyết đoán của can đởm, là sự thu nạp và vận hóa của tỳ vị, là sự đùn đẩy của đại tiểu trường, là sự hóa khí của bàng quang, là sự thăng giáng của tam tiêu". Bây giờ, nếu đặt Thận - Mệnh môn ở trung tâm, thì trong vòng sinh của ngũ hành, càng thấy rõ vai trò quan trọng của nó: Thận - Mệnh môn sinh cả Mộc lẫn Thổ.
Phương diện kinh mạch:
Kinh túc thiếu âm Thận có liên hệ "biểu lý" với kinh Túc thái dương bàng quang, và có lạc mạch chạy vào Phế, tim, mồm và tai, cửa ngõ của kinh thận.
THEO TÂY Y:
Về phương diện Tây y, Thận không hẳn là gốc của cơ thể, nhưng giữ một nhiệm vụ rất quan trọng, vì Thận có mối liên hệ qua lại hai chiều với mọi phủ tạng. Điều này, được biết đến những chứng minh sau:
1- Qua chức năng hình thành nước tiểu, thận đào thải nước dư thừa và những cạn bã của chuyển hóa, đồng thời Thận giữ được cân bằng acid - baz và hằng định nội môi. Nói một cách khác, Thận che trở và tạo điều kiện thuận lợi cho phủ tạng hoạt động, với chứng cớ là trong thận, chức năng của các phủ tạng bị rối loạn đôi khi trầm trọng.
2- Thận tác động vào phủ tạng qua các kích tố: thận có các kích tố chính sau:
2.1- Renin trong hệ thống renin-angiotensin- aldosteron để điều hòa huyết áp. Trong sự điều hòa này thận liên hệ với gan và phổi:
- Với Gan, qua angiotensinogen để hình thành angiotensin 1 không có hiệu năng tăng huyết áp.
- Với Phổi, qua men chuyển đổi để biến hóa angiotensin 1 thành angiotensin II, có tác dụng tăng huyết áp.
2.2- Erythropoietin kích thích tủy xương sinh hồng cầu
2.3- DHCC (Dihydro cholecalciferol (1,25 (OH2)D3) tăng tổng hợp vitamin D kích thích Calxi gắn vào xương.
2.3- Prostaglandin E2 (PGE2) giúp tiểu quản thận đào thải Natri, và điều hòa chuyển hóa nước
2.5- Kallicrein được chuyển hóa thành Brady-kin và Kinin làm giảm huyết mạch
3- Kích tố của cơ quan nội tiết tác động vào Thận:
3.1- Vasopresin tức ADH của hậu tuyến yên làm tăng tái hấp thu tại tiểu quản thâu thập
3.2- PTH của tuyến cận giáp tăng đào thải phosphat và tăng kìm giữ Calci
3.3- Gluco corticoid của tuyến thượng thận, tức là cortison, corticosteron, desoxy corticosteron, prednison, tăng độ lọc của tiểu cầu, giảm tái hấp thu của tiểu quản.
3.4- Aldosteron của tuyến thượng thận, tác động vào tiểu quản, làm tăng tái hấp thu Natri, kéo theo sự tăng nước ngoại bào tức là làm ứ nước.
4- Thận và các phủ tạng đều vị chi phối bởi hệ thần kinh thực vật giao cảm - và đối giao cảm, cũng là một cơ sở để chứng minh Thận có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với toàn thể phủ tạng.
5- Xét nghiệm nước tiểu đánh giá được chức năng của phủ tạng: thông qua dung lượng nước tiểu, thông qua xét nghiệm sinh hóa, thông qua xét nghiệm cặn lắng và tế bào nước tiểu.
Như vậy, về phương diện Tây y, thận đóng một vai trò vô cùng can hệ. Khi quan niệm như Đông y, có nghĩa là nói thận bao gồm cả tuyến sinh dục, thì có thể khẳng định, Thận là gốc của phủ tạng.
Cho nên,
Mệnh Môn là cửa để sống, trong Tử vi nói đến chữ MỆNH, là nói đến sự sống vậy !
Sửa bởi HaUyen: 21/09/2011 - 03:49