Cách tính nguyệt hạn theo tháng và giờ
toritran84 23/02/2014
Theo sách ghi:
Khởi từ cung tiểu hạn gọi là tháng giêng, tính nghịch đến tháng sinh, rồi từ đó kể là giờ tý, tính thuận đến giờ sinh, tới cung nào thì cung đó là tháng giêng của tiểu hạn
Như lá số trên, năm tiểu hạn năm nay là năm ngọ rơi vào cung thìn
Vậy cho mình hỏi khởi từ cung tiểu hạn là cung thìn hay cung ngọ vậy?
Sửa bởi toritran84: 23/02/2014 - 10:26
Khởi từ cung tiểu hạn gọi là tháng giêng, tính nghịch đến tháng sinh, rồi từ đó kể là giờ tý, tính thuận đến giờ sinh, tới cung nào thì cung đó là tháng giêng của tiểu hạn
Như lá số trên, năm tiểu hạn năm nay là năm ngọ rơi vào cung thìn
Vậy cho mình hỏi khởi từ cung tiểu hạn là cung thìn hay cung ngọ vậy?
Sửa bởi toritran84: 23/02/2014 - 10:26
TiKiTaKa 23/02/2014
toritran84, on 23/02/2014 - 10:24, said:
Theo sách ghi:
Khởi từ cung tiểu hạn gọi là tháng giêng, tính nghịch đến tháng sinh, rồi từ đó kể là giờ tý, tính thuận đến giờ sinh, tới cung nào thì cung đó là tháng giêng của tiểu hạn
Như lá số trên, năm tiểu hạn năm nay là năm ngọ rơi vào cung thìn
Vậy cho mình hỏi khởi từ cung tiểu hạn là cung thìn hay cung ngọ vậy?
Khởi từ cung tiểu hạn gọi là tháng giêng, tính nghịch đến tháng sinh, rồi từ đó kể là giờ tý, tính thuận đến giờ sinh, tới cung nào thì cung đó là tháng giêng của tiểu hạn
Như lá số trên, năm tiểu hạn năm nay là năm ngọ rơi vào cung thìn
Vậy cho mình hỏi khởi từ cung tiểu hạn là cung thìn hay cung ngọ vậy?
Soothsayer 23/02/2014
Tiểu hạn năm ngọ của bạn là cung thìn trên ls. Nên đếm nghịch tháng sinh sẽ đến cung ngọ, đếm xuôi giờ dần thì tháng giêng năm ngọ bắt đầu từ cung thân
toritran84 23/02/2014
[u said:
Soothsayer[/url]' timestamp='1393126372' post='435872']
Tiểu hạn năm ngọ của bạn là cung thìn trên ls. Nên đếm nghịch tháng sinh sẽ đến cung ngọ, đếm xuôi giờ dần thì tháng giêng năm ngọ bắt đầu từ cung thân
Tiểu hạn năm ngọ của bạn là cung thìn trên ls. Nên đếm nghịch tháng sinh sẽ đến cung ngọ, đếm xuôi giờ dần thì tháng giêng năm ngọ bắt đầu từ cung thân
đó là cách tính theo mình đúng như vậy, nhưng trên 1 số diễn đàn, như lyso24h.com
mình 0 hiểu đây là cách tính như thế nào, đây là an của cụ vân đằng thái thứ lang, mình chưa hiểu cách này?
Sửa bởi toritran84: 23/02/2014 - 11:34
minghe 23/02/2014
Bên lyso24 nói là cách an sao theo vdttl tuy nhiên nguyệt hạn lại an theo cụ thiên lương hoặc tử vi bửu dình. Là khởi han tháng giêng từ cung dần.
Soothsayer 23/02/2014
Nói chung cũng lắm thể loại tính hạn lắm. Còn có cách tính nguyệt hạn theo lưu thái tuế nữa cơ. Vd theo cách tính thái tuế để định đẩu wan thì tháng 1 năm ñay của bạn lại ở cung tuất ( mệnh).
Sửa bởi Soothsayer: 23/02/2014 - 12:23
Sửa bởi Soothsayer: 23/02/2014 - 12:23
Durobi 23/02/2014
Còn cách thứ tư nữa là khởi tháng Giêng ở tại cung lưu Thái Tuế luôn, tức ở Ngọ. Thử nghiệm hết 4 cách xem hợp lối nào.
Sửa bởi Geek: 23/02/2014 - 12:20
Sửa bởi Geek: 23/02/2014 - 12:20
Monday 23/02/2014
Cứ từ từ nghiệm, thấy cách nào phù hợp với mình nhất thì dùng.
Quách Ngọc Bội 23/02/2014
Cách tính Nguyệt Hạn từ Tiểu Hạn mà nghịch tháng thuận giờ sinh (cách 1 trong sách TVĐS Tân Biên) chính là phép ngoại suy từ cách an cung Mệnh.
Phép ngoại suy đó như thế nào?
Thưa, các cụ suy từ việc dùng cung Dần làm "tháng Giêng gốc" để mà tìm ra vị trí của cung Mệnh. Thì Tiểu Hạn (chính là cung Lưu Mệnh) sẽ được dùng để suy ngược lại mà tìm ra Nguyệt Hạn (bắt đầu từ "tháng Giêng lưu").
Điều này cũng cho phép ta biết được, phép Lưu cung là được tiền nhân sử dụng từ thời sơ khai của khoa Tử Vi, chứ chẳng phải nó là phát minh gần đây của mấy ông Đài Cảng gì cả.
------
Dưới đây lấy ví dụ an Nguyệt hạn tháng Giêng năm Tị và Nguyệt Hạn tháng Giêng năm Ngọ cho 1 người [sinh năm Tý tháng 5 giờ Sửu], ta sẽ thấy "hình ảnh động" qua cách xoay lá số.
- Trường hợp này sẽ quan sát tổng quát mối tương quan giữa [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)] với:
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Tị - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Tị)].
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Ngọ - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Ngọ)].
Phân tách ra, ta sẽ thấy:
1, Đây là [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)]
2, còn dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Tị.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Tị đến Mão (tức lưu Mệnh đến cung Mão), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị sẽ an ở cung Tý.
Hình vẽ sau biểu diễn sự xoay lá số để thấy mối tương quan của chúng.
3, và dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Ngọ.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Ngọ đến Thìn (tức lưu Mệnh đến cung Thìn), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ sẽ an ở cung Sửu.
Cách an Nguyệt Hạn như trên cho thấy: Mối quan hệ giữa Mệnh và Tháng Giêng luôn luôn được bảo toàn.
-------
Phương pháp trên khi áp dụng cho Lưu Mệnh ở cung có Lưu Thái Tuế thì sẽ tìm ra sao Nguyệt Tướng, tức là Đẩu Quân.
Tử Vi Đẩu số toàn thư có nói:
斗君,正月初一日管事,遇吉斷吉,遇凶斷凶
Phiên âm:
Đẩu Quân, chính nguyệt sơ nhất nhật quản sự, ngộ cát đoán cát, ngộ hung đoán hung.
Dịch nghĩa:
Đẩu Quân chủ quản sự việc ngày mồng Một tháng Giêng (tức ngày mồng 1 Tết), nếu gặp Cát tinh (tụ hội) thì đoán là tốt lành, nếu gặp Hung tinh (tụ hội) thì đoán là hung hiểm.
Tức là cung có chứa Lưu Đẩu Quân cho ta biết điềm báo cát/hung trong năm ấy (điềm báo của ngày mồng 1 Tết thì ứng quá đi chứ lị, cho nên ngày xưa Mồng Một Tết người ta kiêng kị ghê lắm ).
Sửa bởi QuachNgocBoi: 23/02/2014 - 13:28
Phép ngoại suy đó như thế nào?
Thưa, các cụ suy từ việc dùng cung Dần làm "tháng Giêng gốc" để mà tìm ra vị trí của cung Mệnh. Thì Tiểu Hạn (chính là cung Lưu Mệnh) sẽ được dùng để suy ngược lại mà tìm ra Nguyệt Hạn (bắt đầu từ "tháng Giêng lưu").
Điều này cũng cho phép ta biết được, phép Lưu cung là được tiền nhân sử dụng từ thời sơ khai của khoa Tử Vi, chứ chẳng phải nó là phát minh gần đây của mấy ông Đài Cảng gì cả.
------
Dưới đây lấy ví dụ an Nguyệt hạn tháng Giêng năm Tị và Nguyệt Hạn tháng Giêng năm Ngọ cho 1 người [sinh năm Tý tháng 5 giờ Sửu], ta sẽ thấy "hình ảnh động" qua cách xoay lá số.
- Trường hợp này sẽ quan sát tổng quát mối tương quan giữa [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)] với:
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Tị - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Tị)].
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Ngọ - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Ngọ)].
Phân tách ra, ta sẽ thấy:
1, Đây là [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)]
2, còn dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Tị.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Tị đến Mão (tức lưu Mệnh đến cung Mão), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị sẽ an ở cung Tý.
Hình vẽ sau biểu diễn sự xoay lá số để thấy mối tương quan của chúng.
3, và dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Ngọ.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Ngọ đến Thìn (tức lưu Mệnh đến cung Thìn), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ sẽ an ở cung Sửu.
Cách an Nguyệt Hạn như trên cho thấy: Mối quan hệ giữa Mệnh và Tháng Giêng luôn luôn được bảo toàn.
-------
Phương pháp trên khi áp dụng cho Lưu Mệnh ở cung có Lưu Thái Tuế thì sẽ tìm ra sao Nguyệt Tướng, tức là Đẩu Quân.
Tử Vi Đẩu số toàn thư có nói:
斗君,正月初一日管事,遇吉斷吉,遇凶斷凶
Phiên âm:
Đẩu Quân, chính nguyệt sơ nhất nhật quản sự, ngộ cát đoán cát, ngộ hung đoán hung.
Dịch nghĩa:
Đẩu Quân chủ quản sự việc ngày mồng Một tháng Giêng (tức ngày mồng 1 Tết), nếu gặp Cát tinh (tụ hội) thì đoán là tốt lành, nếu gặp Hung tinh (tụ hội) thì đoán là hung hiểm.
Tức là cung có chứa Lưu Đẩu Quân cho ta biết điềm báo cát/hung trong năm ấy (điềm báo của ngày mồng 1 Tết thì ứng quá đi chứ lị, cho nên ngày xưa Mồng Một Tết người ta kiêng kị ghê lắm ).
Sửa bởi QuachNgocBoi: 23/02/2014 - 13:28
TiKiTaKa 23/02/2014
Không cần phức tạp vậy. Chỉ cần tính từ cung Mệnh nghịch tháng thuận giờ luôn là cung Dần là họ hiểu nguyệt vận tháng giêng so với cung lưu niên tiểu vận cũng giống như cung Dần so với cung mệnh.
Suy ra nếu gán:
Mệnh=tiểu vận
thì
Cung Dần=tháng Giêng
tức phép ngũ Dần.
Tôi và ông Tử Vân quen dùng phép khởi tháng giêng tại cung Lưu Thái Tuế tức phép ngũ Tí.
Các thầy có thể biết hai phương pháp khác nhau thế nào. Hà hà, không có cái nào sai đâu.
Giá trị thu được là họ có thể gán cung tiểu vận cho lưu Mệnh. Đài Cảng gán đại vận cho Mệnh cũng hoàn toàn khớp với phép này. Nhưng vì sao Đài Cảng không dùng tiểu vận mà dùng lưu thái tuế đồng thời gán lưu thái tuế thành mệnh luôn thì bí ẩn. Nhờ các thầy chém to kho mặn xử lý vậy.
PS: Cỡ Thần Y phải giải quyết bài toán Lưu Niên Đại Vận của Thái Thứ Lang chớ lị, ai lại làm họa sĩ thế kia.
Sửa bởi renaissance: 23/02/2014 - 15:00
Suy ra nếu gán:
Mệnh=tiểu vận
thì
Cung Dần=tháng Giêng
tức phép ngũ Dần.
Tôi và ông Tử Vân quen dùng phép khởi tháng giêng tại cung Lưu Thái Tuế tức phép ngũ Tí.
Các thầy có thể biết hai phương pháp khác nhau thế nào. Hà hà, không có cái nào sai đâu.
Giá trị thu được là họ có thể gán cung tiểu vận cho lưu Mệnh. Đài Cảng gán đại vận cho Mệnh cũng hoàn toàn khớp với phép này. Nhưng vì sao Đài Cảng không dùng tiểu vận mà dùng lưu thái tuế đồng thời gán lưu thái tuế thành mệnh luôn thì bí ẩn. Nhờ các thầy chém to kho mặn xử lý vậy.
PS: Cỡ Thần Y phải giải quyết bài toán Lưu Niên Đại Vận của Thái Thứ Lang chớ lị, ai lại làm họa sĩ thế kia.
Sửa bởi renaissance: 23/02/2014 - 15:00
minhgiac 23/02/2014
"Cách tính Nguyệt Hạn từ Tiểu Hạn mà nghịch tháng thuận giờ sinh (cách 1 trong sách TVĐS Tân Biên) chính là phép ngoại suy từ cách an cung Mệnh."
có lẽ không nên hiểu theo ý trên!
mà đó là dựa theo giống cách tìm " nguyệt tướng" tức đẩu quân. mỗi một năm một chi thì theo đúng tuần tự lịch pháp, theo đúng sự biến thiên của dịch.
thái tuế cũng có chu kỳ như vậy nhưng là sao quai quản các thần sát nên không dùng để lưu nguyệt thí dụ năm 27 tuổi thái tuế đến đâu......sao tang môn làm chủ thần sát.....
còn trường hợp khỏi từ cung dần thì gọi là "chết dịch" vì bất cứ năm nào cũng khởi tháng giêng tại cung dần lại phải dùng tứ hóa theo can tháng của năm đó
nói chung tùy ý người hiểu, người dụng, người dùng hihi
Sửa bởi minhgiac: 23/02/2014 - 17:38
có lẽ không nên hiểu theo ý trên!
mà đó là dựa theo giống cách tìm " nguyệt tướng" tức đẩu quân. mỗi một năm một chi thì theo đúng tuần tự lịch pháp, theo đúng sự biến thiên của dịch.
thái tuế cũng có chu kỳ như vậy nhưng là sao quai quản các thần sát nên không dùng để lưu nguyệt thí dụ năm 27 tuổi thái tuế đến đâu......sao tang môn làm chủ thần sát.....
còn trường hợp khỏi từ cung dần thì gọi là "chết dịch" vì bất cứ năm nào cũng khởi tháng giêng tại cung dần lại phải dùng tứ hóa theo can tháng của năm đó
nói chung tùy ý người hiểu, người dụng, người dùng hihi
Sửa bởi minhgiac: 23/02/2014 - 17:38
CHUBBYCAT 23/02/2014
QuachNgocBoi, on 23/02/2014 - 12:55, said:
Cách tính Nguyệt Hạn từ Tiểu Hạn mà nghịch tháng thuận giờ sinh (cách 1 trong sách TVĐS Tân Biên) chính là phép ngoại suy từ cách an cung Mệnh.
Phép ngoại suy đó như thế nào?
Thưa, các cụ suy từ việc dùng cung Dần làm "tháng Giêng gốc" để mà tìm ra vị trí của cung Mệnh. Thì Tiểu Hạn (chính là cung Lưu Mệnh) sẽ được dùng để suy ngược lại mà tìm ra Nguyệt Hạn (bắt đầu từ "tháng Giêng lưu").
Điều này cũng cho phép ta biết được, phép Lưu cung là được tiền nhân sử dụng từ thời sơ khai của khoa Tử Vi, chứ chẳng phải nó là phát minh gần đây của mấy ông Đài Cảng gì cả.
------
Dưới đây lấy ví dụ an Nguyệt hạn tháng Giêng năm Tị và Nguyệt Hạn tháng Giêng năm Ngọ cho 1 người [sinh năm Tý tháng 5 giờ Sửu], ta sẽ thấy "hình ảnh động" qua cách xoay lá số.
- Trường hợp này sẽ quan sát tổng quát mối tương quan giữa [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)] với:
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Tị - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Tị)].
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Ngọ - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Ngọ)].
Phân tách ra, ta sẽ thấy:
1, Đây là [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)]
2, còn dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Tị.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Tị đến Mão (tức lưu Mệnh đến cung Mão), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị sẽ an ở cung Tý.
Hình vẽ sau biểu diễn sự xoay lá số để thấy mối tương quan của chúng.
3, và dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Ngọ.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Ngọ đến Thìn (tức lưu Mệnh đến cung Thìn), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ sẽ an ở cung Sửu.
Cách an Nguyệt Hạn như trên cho thấy: Mối quan hệ giữa Mệnh và Tháng Giêng luôn luôn được bảo toàn.
-------
Phương pháp trên khi áp dụng cho Lưu Mệnh ở cung có Lưu Thái Tuế thì sẽ tìm ra sao Nguyệt Tướng, tức là Đẩu Quân.
Tử Vi Đẩu số toàn thư có nói:
斗君,正月初一日管事,遇吉斷吉,遇凶斷凶
Phiên âm:
Đẩu Quân, chính nguyệt sơ nhất nhật quản sự, ngộ cát đoán cát, ngộ hung đoán hung.
Dịch nghĩa:
Đẩu Quân chủ quản sự việc ngày mồng Một tháng Giêng (tức ngày mồng 1 Tết), nếu gặp Cát tinh (tụ hội) thì đoán là tốt lành, nếu gặp Hung tinh (tụ hội) thì đoán là hung hiểm.
Tức là cung có chứa Lưu Đẩu Quân cho ta biết điềm báo cát/hung trong năm ấy (điềm báo của ngày mồng 1 Tết thì ứng quá đi chứ lị, cho nên ngày xưa Mồng Một Tết người ta kiêng kị ghê lắm ).
Phép ngoại suy đó như thế nào?
Thưa, các cụ suy từ việc dùng cung Dần làm "tháng Giêng gốc" để mà tìm ra vị trí của cung Mệnh. Thì Tiểu Hạn (chính là cung Lưu Mệnh) sẽ được dùng để suy ngược lại mà tìm ra Nguyệt Hạn (bắt đầu từ "tháng Giêng lưu").
Điều này cũng cho phép ta biết được, phép Lưu cung là được tiền nhân sử dụng từ thời sơ khai của khoa Tử Vi, chứ chẳng phải nó là phát minh gần đây của mấy ông Đài Cảng gì cả.
------
Dưới đây lấy ví dụ an Nguyệt hạn tháng Giêng năm Tị và Nguyệt Hạn tháng Giêng năm Ngọ cho 1 người [sinh năm Tý tháng 5 giờ Sửu], ta sẽ thấy "hình ảnh động" qua cách xoay lá số.
- Trường hợp này sẽ quan sát tổng quát mối tương quan giữa [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)] với:
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Tị - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Tị)].
+ [cung lưu Mệnh của Tiểu Hạn năm Ngọ - tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ (tạm gọi là cung Dần lưu của TH năm Ngọ)].
Phân tách ra, ta sẽ thấy:
1, Đây là [cung Mệnh gốc - cung Dần gốc (tháng Giêng năm sinh)]
2, còn dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Tị.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Tị đến Mão (tức lưu Mệnh đến cung Mão), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Tị sẽ an ở cung Tý.
Hình vẽ sau biểu diễn sự xoay lá số để thấy mối tương quan của chúng.
3, và dưới đây là an Nguyệt Hạn cho Tiểu Hạn của năm Ngọ.
Khi đó, cung nhập hạn của Tiểu Hạn năm Ngọ đến Thìn (tức lưu Mệnh đến cung Thìn), thì Nguyệt Hạn tháng Giêng của Tiểu Hạn năm Ngọ sẽ an ở cung Sửu.
Cách an Nguyệt Hạn như trên cho thấy: Mối quan hệ giữa Mệnh và Tháng Giêng luôn luôn được bảo toàn.
-------
Phương pháp trên khi áp dụng cho Lưu Mệnh ở cung có Lưu Thái Tuế thì sẽ tìm ra sao Nguyệt Tướng, tức là Đẩu Quân.
Tử Vi Đẩu số toàn thư có nói:
斗君,正月初一日管事,遇吉斷吉,遇凶斷凶
Phiên âm:
Đẩu Quân, chính nguyệt sơ nhất nhật quản sự, ngộ cát đoán cát, ngộ hung đoán hung.
Dịch nghĩa:
Đẩu Quân chủ quản sự việc ngày mồng Một tháng Giêng (tức ngày mồng 1 Tết), nếu gặp Cát tinh (tụ hội) thì đoán là tốt lành, nếu gặp Hung tinh (tụ hội) thì đoán là hung hiểm.
Tức là cung có chứa Lưu Đẩu Quân cho ta biết điềm báo cát/hung trong năm ấy (điềm báo của ngày mồng 1 Tết thì ứng quá đi chứ lị, cho nên ngày xưa Mồng Một Tết người ta kiêng kị ghê lắm ).
Theo ý của bác thì lưu nguyệt vận có lưu tất cả cung theo để xem không. Tức là đặt cung nguyệt vận = mệnh, rồi xoay qua xem lưu nguyệt vận tài, lưu nguyệt vận quan. ?
Quách Ngọc Bội 24/02/2014
minhgiac, on 23/02/2014 - 17:20, said:
"Cách tính Nguyệt Hạn từ Tiểu Hạn mà nghịch tháng thuận giờ sinh (cách 1 trong sách TVĐS Tân Biên) chính là phép ngoại suy từ cách an cung Mệnh."
có lẽ không nên hiểu theo ý trên!
mà đó là dựa theo giống cách tìm " nguyệt tướng" tức đẩu quân. mỗi một năm một chi thì theo đúng tuần tự lịch pháp, theo đúng sự biến thiên của dịch.
có lẽ không nên hiểu theo ý trên!
mà đó là dựa theo giống cách tìm " nguyệt tướng" tức đẩu quân. mỗi một năm một chi thì theo đúng tuần tự lịch pháp, theo đúng sự biến thiên của dịch.
Hiểu như vậy là hiểu ngược em ạ, sẽ khó thấy cái bản chất của vấn đề "tại sao Mệnh lại được an như thế?".
Tử Vi không có sao Nguyệt Tướng (Đẩu Quân) thì chỉ mất đi một chút giá trị. Nhưng Tử Vi mà không xác định được nơi lập Mệnh thì có còn là Tử Vi nữa hay không.