←  Tử Bình

Tử Vi Lý Số :: Diễn đàn học thuật của người Việt

»

tử bình giản ý

lamkytien's Photo lamkytien 12/04/2018

Bài này tôi nghiên cứu và ghi lại theo cảm hứng, nên không theo abc từ đầu là vượng, nhược, can, chi, xung, khắc... và mong các bạn trẻ (và cả già lão) đang muốn hiểu thêm tứ trụ của mình có thêm tự nghiệm chứng. Có gì xin cứ hỏi chen vào, nhưng đừng hỏi nhờ đoán tứ trụ.

Đầu tiên là nói về hành vận, cả đại vận và lưu niên, thí dụ can ngày là Kỉ, thân nhược:
- can Mậu (Kiếp), chi Thìn hay Tuất (cũng là Kiếp): thành công về mặt tài chánh, có thể trúng số!
- can Kỉ (tỉ), chi Dậu (thực): có tiền, tiêu tiền cũng nhiều
- can là Tỉ Kiếp, chi là Tài, hoặc chi là Quan Sát: giống như trên, tức sẽ có cơ hội xài hết tiền!
- can là Tỉ Kiếp, chi là Kiêu Ấn, thí dụ như Mậu Ngọ: tiền vô như nước
- can là Quan Sát, chi là Tỉ Kiếp: bấm bụng tiêu tiền thí dụ như phải trả nợ
- can là Quan Sát, chi là Thực Thương: cẩn thận ốm đau, phiền nhiễu từ công việc
- can là Quan Sát, chi là Tài, thí dụ như Giáp Tí: giảm được tai họa qua việc phải xài tiền!
- can là Quan Sát, chi là Kiêu Ấn: có cơ hội làm ăn
- can là Thực Thương, chi là Tỉ Kiếp: sức khỏe tốt, tài chánh cũng ok
- can chi cùng là Thực Thương, thí dụ như Canh Thân, Tân Dậu: sức khỏe kém, dễ bị bịnh

Nếu Kỉ nhật chủ là thân vượng:
- can chi cùng là Tỉ Kiếp, như Mậu Thìn, Kỉ Sửu: suy nhược, tài chánh giảm, tự nhiên nghèo!
- can là Tỉ Kiếp, chi là Thực Thương: cũng giảm bớt tài chánh
- can là Tỉ Kiếp, chi là Tài: tiêu tiền mà không biết lúc nào mới thấy lại!
- can là Tỉ Kiếp, chi là Quan Sát: công ăn việc làm bị đố kị (mobbing)
- can là Tỉ Kiếp, chi là Kiêu Ấn: tiêu tiền vì sức khỏe kém
- can là Tài, chi là Tỉ Kiếp, như Nhâm Thìn, Nhâm Tuất: tiền vào rồi ra như gió vào nhà trống
- can là Tài, chi là Thực Thương: có tài và danh vọng đầy đủ
- can chi cùng là Tài, như Quí Hợi: có cơ hội lớn ở các mặt về tài chánh, hôn nhân
- can là Tài, chi là Quan Sát: có nghề nghiệp, tạo ra tiền của
- can là Tài, chi là Kiêu Ấn, như Quí Tị: có tiền nhưng sức khỏe kém
- can là Thực Thương, chi là Tỉ Kiếp: hữu danh vô thực (có tiếng nhưng không có miếng ăn!)
- can chi cùng là Thực Thương: nổi tiếng bất ngờ

Nói chung, các điều trên gọi là đề mục của hành vận, tâm tính của ta sẽ hướng về những điều đó, thành tựu đến bao nhiêu phần trăm thì phải xét hình xung trong tứ trụ. Dễ xem mà cũng không dễ... Tuy nhiên chúng cho ta biết đại ý vấn đề mà suy đoán thêm về hành xử, thí dụ như có cơ hội kiếm tiền thì tới luôn, không thì phải biết tự hãm phanh.
Trích dẫn

CaspianPrince's Photo CaspianPrince 13/04/2018

Phiền anh viết thêm về thân nhược gặp can vận là kiêu ấn và về thân vuợng gặp can vận là quan sát
Trích dẫn

lamkytien's Photo lamkytien 13/04/2018

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

CaspianPrince, on 13/04/2018 - 11:10, said:

Phiền anh viết thêm về thân nhược gặp can vận là kiêu ấn và về thân vuợng gặp can vận là quan sát
Theo tôi thì tôi cứ tính thân nhược mà gặp Ấn, Tỉ là tốt nhất, dù trong trụ có Sát, Thực nhiều hoặc ngay cả không có Ấn, Tỉ. Vì dù sao nhược được thêm lực mà không bị hình xung thì giảm được các hung lực khác; can Ấn chi Tỉ như thí dụ của tôi (Kỉ nhật chủ) là Bính Tuất thì 10 năm này có đủ việc làm, hôn nhân, thành tựu học hành..v.v.... Vấn đề sau đó là giữ được những thành tựu này như thế nào, tùy tứ trụ.
Đại vận tới như "khách", chủ nhà phải tiếp kiến, như Bính vận phá Nhâm trong trụ, mà Nhâm là tài thì theo tôi là có động "lớn" ở tiền tài, vợ con, mà quả là như vậy, yap

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

! Miễn là thân nhược gặp Ấn Tỉ là như thế, còn ngoài ra thì phải tùy tình hình tứ trụ mà sai biệt nhiều ít...
Nhật can vượng mà gặp Quan Sát thì không phải cứ thế mà dùng Quan Sát, hạ được đối thủ này (dùng được nó) thì tốt nhất là Tài tinh kém đi 1 chút, vì Tài tinh mạnh cố hữu là đàn áp nhật chủ, nên tâm sức nhật chủ khó tập trung dùng được Quan Sát.
Sửa bởi anatmaan: 13/04/2018 - 13:12
Trích dẫn

lamkytien's Photo lamkytien 13/04/2018

Trích dẫn

- can là Tài, chi là Thực Thương: có tài và danh vọng đầy đủ
Có một thí dụ ở mục Tử Vi, lá số mà ai cũng biết là ai (ất mùi-tân tị-canh thìn-kỉ mão, hiện đang gặp quan tai ủ tờ), thân vượng, đại vận Ất Hợi là Tài trên Thực. Gần 10 năm đại vận này lên như diều gặp gió, nhưng tới hạn lưu niên Mậu Tuất xuống dốc, can chi cùng là Ấn kị thần quá vượng thì dấu ấn phải trả lại cho đời.
Trích dẫn

lamkytien's Photo lamkytien 19/04/2018

Can, Chi cùng đại vận, lưu niên nảy sinh tương tác với nhau (Xung, Hợp, Hình, Hại…) đối với từng trụ có thể đoán thời gian và sự việc xảy ra:

Trụ năm: khoảng 1-18 tuổi, việc xảy ra với cha mẹ hay tuổi thơ của nhật chủ.
Trụ tháng: khoảng 16-36 tuổi, liên quan đến cha mẹ hoặc anh chị em.
Trụ ngày: khoảng 32-54 tuổi, liên quan đến nhật chủ, thời trung niên, nên thường đoán hôn nhân ở trụ này
Trụ giờ: khoảng thời gian sau 55 tuổi, là trụ con cái và tuổi già.

Đoán những việc có thể xảy ra thì chú trọng đến dụng thần, kị thần, hỉ thần và các loại thần sát thông dụng.

Thí dụ nữ chết đuối ở hồ nước vận Kỉ Sửu (13-22 tuổi), lưu niên Nhâm Tí (17 tuổi). Bát tự:
Ất Mùi, Đinh Hợi, Nhâm Ngọ, Đinh Mão

Xét hình xung khắc hại: Sửu đại vận xung Mùi trụ năm, Tí lưu niên xung Ngọ trụ ngày.
Xét hợp: Hợi+Tí+Sửu là tam hội thủy, lại có Nhâm lộ, nhật chủ đối với Tí gặp sao Hàm Trì nên chủ về liên can đến nước, sông hồ hay biển cả..
Thêm Kỉ đại vận hợp trói Giáp trụ ngày (hợp mà không hóa gọi là hợp chặt, hợp trói) cũng là tượng khó khăn.
Kị thần của người này là Thổ, gặp xung, hợp nên động hung.

Thí dụ 2, nữ kết hôn vận Nhâm Dần (34-43 tuổi), lưu niên Giáp Ngọ 2014 (43 tuổi). Bát tự:
Tân Hợi, Mậu Tuất, Bính Tuất, Nhâm Thìn

Xét hình xung khắc hại: Nhâm đại vận khắc Bính trụ ngày, sao Hồng Loan ở Dần đại vận
Xét hợp: có tượng hợp trụ ngày là Dần+Ngọ+Tuất, trong Ngọ có Tướng tinh
Tuy nhiên, Cô thần ở Dần và Sát ở Ngọ nằm ở tam hợp cũng báo hiệu hôn nhân gặp khó khăn trễ nãi, vì đương số qua tuổi 40 mới lấy chồng. Kị thần là thổ, trong tứ trụ là Thìn Tuất, nhưng Tuất hợp Dần Ngọ đúng lúc nên hôn nhân mới thành.

Ngoài những việc đáng kể như trên, còn có thể suy đoán sức khỏe, nhất là tính cả nguyệt hạn (tháng), nhật hạn (ngày):
Trụ năm: liên quan đến vùng đầu
Trụ tháng: vai, tay chân, vùng ngực tới bụng
Trụ ngày: vùng bụng
Trụ giờ: từ 2 chân trở xuống
Sửa bởi anatmaan: 19/04/2018 - 10:43
Trích dẫn

lamkytien's Photo lamkytien 19/04/2018

Trích dẫn

Thí dụ nữ chết đuối ở hồ nước vận Kỉ Sửu (13-22 tuổi), lưu niên Nhâm Tí (17 tuổi). Bát tự:
Ất Mùi, Đinh Hợi, Nhâm Ngọ, Đinh Mão
xin sửa lại, trụ ngày là Giáp Ngọ, Hợi Mão Mùi tam hợp, có Giáp Ất lộ, sinh tháng Hợi chứa Giáp nên tòng Mộc cách, Thổ, Kim là kị.
Trích dẫn

AnKhoa's Photo AnKhoa 19/04/2018

Giáp sinh tháng hợi, toạ ngọ mùi xuất Đinh, tối kị Nhâm hợp khắc Đinh, tý xung ngọ, sửu xung mùi. Mất hết chỗ dựa.
Trích dẫn

lamkytien's Photo lamkytien 19/04/2018

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

AnKhoa, on 19/04/2018 - 12:49, said:

Giáp sinh tháng hợi, toạ ngọ mùi xuất Đinh, tối kị Nhâm hợp khắc Đinh, tý xung ngọ, sửu xung mùi. Mất hết chỗ dựa.
Đúng đó bác AnKhoa. Bác gái Ất Mùi này nghe nói là đã thoát chết 1 lần ở khoảng 5, 6 tháng tuổi, vì bị ho gà uốn ván vào tháng Nhâm Thìn, năm Bính Thân (có cô thần quả tú ở cả Thìn và Thân). Nhưng theo tôi thì thoát chết vì Thìn thổ không vong, kị thần không xuất chiêu được.
Trích dẫn

lamkytien's Photo lamkytien 23/04/2018

Tử Bình hiện đại có điểm khác nhau với Tử Bình truyền thống không? Truyền thống là những sách nào tiêu biểu? Tích Thiên Tủy, Cùng Thông Bửu Giám... và những sách đặt quan hệ Cách Cục là quan trọng nhất. Còn hiện đại thì chắc hẳn là xuất phát một cách công khai quần chúng là sách của Thiệu Vĩ Hoa. Mong là các anh chị lão luyện trong đây như các bác hieuthuyloi, AnKhoa, thienkhanh... (tôi không biết nhiều hơn, xin thứ lỗi) đóng góp ý kiến thêm.

1. Đầu tiên là "vượng nhược", sách cổ cho rằng Cách Cục quyết định điều này, như Cách Tài, Quan, Thực Thương mà thành công là thân vượng. Cũng hiểu là nhật chủ điều khiển được Tài Quan là hai điểm tối ưu trong đời. Nếu Cách Cục là Ấn thì thân nhược. Hiện đại tử bình thì xét thân vượng từ lệnh tháng và ngũ hành thập thần trước, xong rồi mới tính thân vượng thì đảm đương được Tài, Quan và Thực Thương. Ngược lại, nếu thân nhược thì cần Ấn và Tỉ Kiếp. So sánh thì có khác mà không khác nhiều, mấu chốt là quan niệm về Tài và Quan.

2. Thứ nhì là "dụng thần", theo truyền thống thì dụng thần chỉ nằm trong tháng sinh, đặc biệt là cách Kiến Lộc và Dương Nhận. Trong tháng xuất ra can tàng nào thì lấy đó làm dụng thần và từ đó xét dụng thần có lực, thành bại ra sao. Còn hiện đại thì xét dụng thần ở mọi Can, Chi sau khi xét vượng nhược của nhật chủ. Điểm này cũng tương tự nhau, vì vượng nhược của tb hiện đại, như điểm 1 nêu ra cũng là rút từ lệnh tháng.

3. Dụng thần theo truyền thống còn chia ra "thiện" và "bất thiện". Chính Tài, Chính Quan, Chính Ấn, Thực Thần là thiện; Thiên tài, Thiên Quan (Sát), Thiên Ấn (Kiêu) và Thương Quan là bất thiện. Hiện đại thì không phân chia rạch ròi như vậy, mà dụng thần nào cũng hữu dụng cho nhật chủ. Điểm khác biệt rõ ràng thì nằm ở Ấn tinh: truyền thống không ngại Thiên Ấn, vì đã là Ấn thì điểm này sẽ làm cho nhật chủ vượng lên, còn tb hiện đại thì thân vượng rất ngại có Thiên Ấn.

4. Chỉ có 1 điểm khác biệt lớn là sách cổ đề cao việc "thuận dụng" và "nghịch dụng", nếu không hiểu cơ sở này thì không thể phân tích tứ trụ. Còn tb hiện nay thì không cho là quan trọng, mà trọng tâm chỉ là phân tích nhật chủ vượng hay nhược, từ đó suy ra sức mạnh của các can chi, tổ hợp khác trong tứ trụ.
Trích dẫn