Jump to content







Advertisements




(Phi Tinh) Tử Vi Đẩu Số - Phân tích Mệnh Vận

Từ Tăng Sinh Phi Tinh Đẩu Số Phi Tinh phái Tứ Hóa Phi Tinh

53 replies to this topic

#16 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 18/03/2019 - 21:38

CHƯƠNG 15: Ý NGHĨA CỦA HÓA KỊ


Nhìn tới một từ [Hóa Kị], trực giác trong lòng liền nổi da gà mà cảm thấy khó chịu, chỉ trích là [là thần của sự hối tiếc ăn năn, quản nhiều chuyện], ai mà bị Hóa Kị quấy nhiễu là liền gặp xui xẻo, hầu như những người mới tiếp xúc Đẩu Số thì ai cũng vì cái cảm xúc đối với tên gọi Hóa Kị mà không có thể quên được. Tại sao như vậy? Chúng ta hãy xem Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chú thích về ý nghĩa của [Hóa Kị] như thế nào:

[Hóa Kị là thần quản nhiều chuyện, thủ mệnh thân suốt đời không thuận. Tiểu Hạn mà gặp thì một năm thiếu thốn, Đại Hạn mà gặp thì mười năm hối tiếc ăn năn. Nhị hạn Thái tuế giao lâm thì chắc chắn bị lận đận. Văn nhân không bền, quân nhân dù có quan tai khẩu thiệt cũng không ngại. Cho dù là nhưng người làm nghề buôn bán hay kỹ nghệ cũng đều không có lợi. Nếu như hội Tử Phủ Xương Khúc Tả Hữu, lợi về quyền chức tài lộc; Cùng với Kị đồng cung mà có thêm Tứ Sát thì làm cho tài lộc không giữ được; chính là cái cảnh của câu “Miêu nhi bất tú, Khoa tinh hãm ư hung hương” (Khoa tinh rơi vào chốn hung thì như lúa non nảy mầm mà chẳng thể trổ bông). Như đơn độc gặp Tứ Sát Hao Sứ Kiếp Không thì chủ bôn ba và mang tật, tăng đạo cũng lưu đày hoàn tục, nữ nhân một đời nghèo yểu. Nếu như Thái Dương ở Dần Mão Thìn Tị hóa Kị, còn Thái Âm ở Dậu Tuất Hợi Tý hóa Kị, luận ngược lại là phúc, còn lại các sao hóa Kị, đều xem xét Ngũ hành khác nhau, như Liêm Trinh ở Hợi hóa Kị là vì hỏa đi vào nơi của nước, lại gặp người mạng Thủy, thì hóa Kị cũng không phải là hại].
Và:
[Hóa Kị dương Thủy, là sao quản nhiều chuyện ở thượng giới, chủ về thị phi khẩu thiệt, còn có tên là sao Kế Đô. Sao Hóa Kị chưa hẳn đã có thể phá cách, chỉ chủ có nhiều thị phi dây dưa mà thôi. Trước hết phải xem Chính Tinh có miếu vượng hay không, nếu miếu vượng thì có thuyết [Vượng địa hóa Kị cũng không ngại], Hãm địa thì chủ hung, lại còn có các sao thuộc Kim Thuỷ khi miếu vượng hóa Kị càng không kị (ngại), vẫn có cả phú quý, như Thái Âm ở Hợi hóa Kị, và Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tị nơi của Trường Sinh. Như các sao thuộc Hỏa Mộc hóa Kị ở vượng cung, như Thái Dương cư Ngọ, và Thiên Cơ hóa Kị ở Mão, phần lớn vẫn phú mà không quý, hoặc quý mà không phú. Các sao thuộc Thổ không hóa Kị, nhưng nếu đã hóa Kị mà lại nhập vào cung Tứ Mộ thì chủ tăng hung. Lại như các sao thuộc Hỏa, ở chỗ Thủy như Hợi Tý mà hóa Kị thêm sát thì hung ác dị thường, phần nhiều là bị thương tàn yểu vong. Sao này (Hóa Kị) mà nhập Mệnh, chủ suốt đời lắm thị phi, dễ bị đố kị, tình tình nóng vội, mang tật bệnh, thành bại thất thường. Nhưng quan võ trái lại thì luận là cát, hành vận cũng thế. Nữ mệnh có Hóa Kị, bất luận vượng suy, dễ lắm lời thị phi, vượng địa cũng có giàu có, nhưng không thể được quý, mà lại lúc già nhiều bệnh. Hãm cung có thêm sát tinh thì lục thân bất hòa, phần nhiều thị phi, cũng nghèo hèn. Sao này ở trong 12 cung, thì trước tiên xem Hóa tinh có đắc địa hay không, và xem tính chất của Chính Tinh, mới xác định cát hung của nó].

Thì ra căn cứ vào những điều nói về Hóa Kị trong sách thì biểu tượng của sao Hóa Kị đều là không tốt lành, vì vậy làm cho mọi người khủng hoảng, trên thực tế có phải là như vậy hay không? Căn cứ theo tiên sư truyền lại, không hoàn toàn như vậy, mặc dù trong phần lớn các tình huống thì Hóa Kị đại biểu cho ý nghĩa [bất lợi, khốn đốn, tổn thương], thế nhưng có một số tình huống sau thì sao Hóa Kị cũng có một mặt cát lợi.

Hóa Kỵ là một ngôi Hoá tinh vừa đáng yêu vừa đáng sợ, ở ngoài những ý nghĩa [bất lợi, khốn đốn, tổn thương], nó còn vốn có [tính kết dính], đương nhiên cái tính kết dính này đối với sự là có lợi hay bất lợi thì đều có tác dụng và hiệu lực riêng. Vì vậy, gặp cát thì cát lợi mà gặp hung thì hung hiểm, cho nên nếu có thể hiểu được cơ chế tác dụng của sao Hóa Kị thì mới có thể ứng dụng cái đạo tìm lành tránh dữ, chuyển hóa [Hóa Kị] thành ra cát lợi. Ngũ Hành của sao Hóa Kị thuộc Thủy, mà Thủy thì đại biểu [trí tuệ], các bậc tiên hiền có câu: "Đại trí nhược ngu, thượng thiện nhược thủy" (Khôn mà giả dại, đạt được cái tốt lành như nước), đều là ám chỉ sao Hóa Kị có cái ý nghĩa [tùy duyên, thuận theo tình thế], khi niên hạn gặp phải sao Hóa Kị là lúc không thể cưỡng cầu và làm ngược lại tình thế, hoặc cố chấp đối đầu, mà cần phải [thu mình lại, ẩn tàng, tu dưỡng lâu dài], dùng cái hàm ý phù hợp với sao Hóa Kị, như thế đụng tới Hóa kỵ thì không thể cố chấp xông xáo, mới có thể giữ gìn yên ấm.

Rốt cuộc thì ý nghĩa của sao [Hóa Kị] là gì? Căn cứ trên mặt chữ để giải thích, chữ Kị (忌) mang ý nghĩa chiết tự là cái "Tâm” (心) của “Bản thân” (Kỷ 己), ý chỉ sao Hóa Kị nắm giữ các nghĩa [khốn đốn, hối lận, không thuận lợi] đều là do tâm cảnh (cõi lòng) của mình tạo thành. Giả như biết chỗ tiến thoái, không ham không lấy, không đòi không hỏi, tất cả tùy duyên thuận thế làm, tự nhiên mà hóa giải được ác tính của sao Hóa Kị, cho nên [Hóa Kị] là họa hay là phúc thì tất cả đều nằm ở ý niệm của người trong cuộc.

Con người đều có một bản năng sinh vật, đó là bản năng [né tránh ] tai họa, nếu kẻ địch chém tới một đao thì chúng ta nhất định sẽ né tránh lưỡi đao; một cỗ xe lao tới thì chúng ta cũng sẽ nhảy tránh ra; Cho nên bản năng né tránh tai họa theo không gian vật lý là cái mà tất cả mọi người bẩm sinh đều có, là một loại tác dụng phản xạ trực giác. Thế nhưng trong cái không gian tâm lý, là [tâm cảnh] thì không phải là trực giác có thể cải biến để tránh hung họa như thế. Tri thức sở học của chúng ta đều không đủ để phán đoán hết thảy những thị phi đúng sai có trong thế gian.

Ví dụ như: [tôi vẫn cảm thấy vị này là đối tượng không tệ, muốn gả cho anh ta, cho dù mọi người phản đối, vẫn kết hôn, ở thời điểm ra quyết định hoàn toàn là bị tình cảm của mình sở che lấp, hoàn toàn gạt những lời khuyên nhủ của mọi người sang một bên], ở trong lúc hạ quyết tâm thì thậm chí còn có [sự khoái trí cho rằng mọi người đều mê ngủ, chỉ có mình ta tỉnh táo mà thôi]?! Bởi vậy có thể thấy được liên quan tới vấn đề của [tâm cảnh], chứ cũng không phải là người khác góp ý một câu liền có thể thay đổi hoặc trong chớp mắt mà có thể hoàn toàn cải biến, thường thường là tình huống "Tự cho là đúng” nên quyết định sai lầm. Bởi vậy có thể thấy rõ cái tâm của mình, là vì sao lại khó có thể nắm giữ! Cho nên nói: "Kẻ địch lớn nhất của con người chính là bản thân mình".

Trên cơ bản, mỗi người đối với tương lai đều luôn hy vọng là ngày mai sẽ tốt hơn, ở sau cái điều kiện tiên quyết này, mỗi người ở trước lúc quyết định chắc chắn sẽ lấy những điều kiện có lợi nhất cho chính mình để cân nhắc. Nhưng là vì sao có sự giàu nghèo khác nhau? Chức vụ có phân chia cao thấp? Sự nghiệp có phân biệt lớn nhỏ? Tóm lại một câu nói do [tâm cảnh] tạo thành. Có người suy tính tương đối sâu rộng, cho nên mệnh vận mọi chuyện thuận buồm xuôi gió, còn ai mà suy nghĩ nông cạn lỗ mãng thì vận mệnh ngược gió nên mọi chuyện bất lợi. Do đó thành tựu có phân chia lớn nhỏ khác nhau, muốn sử dụng bí quyết để chính mình bước tới tương lai tốt đẹp hơn thì chỉ có cải tạo tâm cảnh mà thôi.

Vì vậy, không gian vật lý thì tất cả mọi người có bản năng sinh vật để né tránh hoàn cảnh bất lợi, còn trong không gian tâm lý là [tâm cảnh] thì thường ở tình huống tự cho là [đã nhận định chính xác, ra quyết sách không sai lầm], đó là đã mắc phải sai lạc mà không tự nhận ra, đến sau khi thành sự thật mới biết hối hận. Đó là lý do mà tâm cảnh chính là then chốt biến hóa của vận mệnh, cho nên sao [Hóa Kị] chủ về sự ăn năn hối hận mới dùng 2 chữ "Kỷ Tâm" (lòng mình) để hợp thành, nhằm ám chỉ sự vô cùng trọng yếu của tâm cảnh.

Trong môn Đẩu Số thì Hóa Kị thuộc Thủy, mà Thủy lúc bình thường vốn nhu thuận, giúp lợi nuôi dưỡng sinh vật, nhưng lúc tràn lan thì nguy hại sinh linh cuốn đi nhà cửa ruộng vườn. Cho nên ở ý nghĩa gốc của sao Hóa Kị nói bên trên, đã ám chỉ khả năng có thể là thiện và có thể là ác. Nếu như có thể thuận theo cái tính chất của [Hóa Kị], thì có thể chuyển hóa nghịch cảnh thành xuôn sẻ, nếu như hiểu cái tính chất của [Hóa Kị] thì có thể chuyển hóa cái [Hóa Kị] thành hữu dụng, bằng không thì họa tới không phải là ít, cho nên hiểu được [Hóa Kị] mới có thể đổi vận, lại phối hợp với sự hoán chuyển về mặt không gian vật lý để thu được hiệu quả tìm lành tránh dữ.

Do đó, [Hóa Kị] cũng không phải hoàn toàn là hung, cũng không phải hoàn toàn là cát, đầu mối đều ở tại người trong cuộc có thể khả năng hay không trong việc cải tạo tâm cảnh và biết làm thế nào để nắm giữ vận dụng không gian mà phân định ra. Người mà có trí tuệ cao, kiến thức rộng, thì có năng lực nội tâm trực quan chính xác, phàn chiếu vũ trụ vạn vật, không dùng cái tâm bản thân, mà lấy trời đất làm tâm, cho nên suy xét của người ấy cũng sâu sắc, tư tưởng của người ấy rộng rãi, vượt qua Thời gian Không gian. Do đó, cái gì gọi là [cải vận ]? Đó chính là sự cải tạo cõi lòng vậy.

Có rất nhiều cách cải vận, nhưng đều là phải dựa vào chính mình, bởi vì [tâm cảnh] là cái mà người khác không thể suy đoán và nắm trong lòng bàn tay được. Từ đầu tạo nên tâm cảnh chỉ có dựa vào sự nỗ lực thực hiện của chính mình một cách kiên trì, mới có thể cải tạo được vận mạng của mình. Việc cải tạo tâm tình không cần đến sự xin thần hỏi bói, hết thảy có thể tự mình nâng cao chất lượng cuộc sống, như các việc [đọc sách, tham gia các tổ chức tình nguyện, quy y tôn giáo] đều có thể chuyển hóa tâm cảnh, thì thấy cái ngọn nguồn của những thứ không xưng ý toại lòng của bạn là cái gì, sẽ liền có thể hướng tới phương diện để cải thiện rồi. Giống như khi trình độ học vấn không tốt cho nên không tìm được công việc tốt, thì phải đọc sách và học nhiều hơn chứ sao nữa; Nếu do vô công dồi nghề mà đi đâm bị thóc chọc bị gạo gây chuyện thị phi, thì phải đi tham gia vào đội tình nguyện giúp đỡ người già cô đơn không nơi nương tựa và tán gẫu với họ đi! Cải vận chính là đơn giản như vậy.

#17 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 19/03/2019 - 22:11

CHƯƠNG 16: VẬN THẾ LƯU CHUYỂN


Có vài người trông thấy cung Phu Thê toàn là các sao Thiên Đồng, Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Âm, về mặt con chữ thoạt nhìn đều là các sao cát lợi, thì liền thầm tự sướng rằng sẽ có một vị hôn phối tốt rồi; cũng có người thấy cung Tài Tạch có các sao may mắn như Tử Vi, Thái Âm, Vũ Khúc, Thiên Phủ, đã cao hứng cho rằng trọn đời sẽ không ngại thiếu thốn. Trên thực tế có đúng như vậy hay không? Tin rằng những ai đã từng an lá số của người ta thì trong lòng cũng sẽ có nghi vấn: Vì sao không thấy xuất hiện những may mắn như là ở trên phương diện con chữ của các sao? Đây là bởi vì bỏ quên nhân số biến hóa của Thời Gian và Không Gian, mà chỉ theo sự cao thấp của mệnh cách để đoán mệnh, cho nên phát sinh những suy đoán không phù hợp với thực tế. Chỉ có thấy tên gọi của sao tốt thì cũng không có nghĩa là sẽ có thể có đợc danh tiếng, địa vị hoặc tài phú. Mà phải từ những nỗ lực hậu thiên trải Thời Gian qua năm này tháng nọ, phối hợp với sự rèn luyện ảnh hưởng trong Không Gian, mới có thể tạo nên cuộc đời thành công, cho nên Mệnh tốt không bằng Vận tốt, Vận tốt cũng không bằng có nghị lực chăm chỉ tốt.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Có người sinh ra trong nhà giàu, vận lúc nhỏ tuổi là không tệ, có gia nghiệp to lớn của cha bao che. Thế nhưng liệu có thể bảo đảm anh sẽ trọn đời được phú quý như thế hay không? Chưa chắc, có thể sau khi cha của anh ta qua đời, sẽ chẳng để lại tài sản gì; nhưng cũng có một khoảng thời gian khốn đốn mà tới trung niên thì tay trắng làm nên, trở thành một thí dụ về mệnh giàu có. Những câu chuyện này đầy rẫy quanh quý vị, và chúng nói rõ một điểm, vận mệnh của con người là sự biến động. Cho nên việc đoán mệnh không thể chỉ suy tính bản mạng mà bỏ qua suy luận lý lẽ thăng trầm của vận đồ, bằng không thì sự tốt xấu của mệnh vận sẽ sai một ly mà đi ngàn dặm rồi. Nếu theo sự tốt xấu của mệnh cách để đoán mệnh, thì không thể nắm được động thái biến hóa của vận, mà muốn nắm được động thái biến hóa của vận thì cần phải lý giải được cái ý nghĩa thay đổi trên hoạt bàn (lá số động, tinh bàn của vận).

Vận mệnh là một hệ đồ thị 3 chiều của "Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện", giả như chúng ta lấy quan niệm vi mô để quan sát, thì lý giải nó không phải như một đồ thị đường thẳng trên mặt phẳng. Thí dụ như đem những chuyện đã xảy ra trong một ngày của người ta, các nhân tố thời gian và không gian, vẽ thành đồ thị thì nhất định là một cái đường cong không liên tục có đầy rẫy các bước ngoặt, điểm uốn. Thế nhưng đem khoảng thời gian từ 1 ngày mở rộng thành 1 năm hoặc 10 năm qua quan sát, tựa hồ là một cái đồ thị trơn tru. Hơn nữa, lại giống như cái biểu đồ giá cổ phiếu của thị trường chứng khoán, có quy luật biến hóa nhất định. Những quy luật biến hóa đó, qua những nghiên cứu của các nhà khoa học hiện nay chính là từ chế độ chủ quản của gen di truyền. Tuy nhiên nền khoa học hiện nay vẫn chưa có cách nào dùng các loại nhân tố như gen hay hoocmon để phân tích sự thăng trầm số phận của một cá nhân. Thế nhưng, mệnh lý học có thể thông qua một số công cụ phân tích xu thế vận mệnh. Chỉ có điều, với cái đồ thị phức tạp như vậy thì để phân tích vận mệnh cả đời của một cá nhân thì cũng cần đem vận mệnh cả đời để chia làm các đoạn mà phân tích, như thế thì mới có thể nắm giữ những hình ảnh sự kiện chuẩn xác hơn, theo như cách thức phân chi hiện hành, có 6 loại giai đoạn như sau:

Bản Mệnh (Mệnh gốc): Vận của cả đời người.
Đại Hạn: Vận của 10 năm.
Lưu Niên: Vận của 1 năm.
Lưu Nguyệt: Vận của 1 tháng.
Lưu Nhật: Vận của 1 ngày.
Lưu Thời: Vận của 1 giờ.

Trong đó tính ứng dụng của Lưu Thời vẫn còn ở giai đoạn kiểm chứng, chưa có ai có thể suy đoán chính xác tới mức độ Lưu Thời cả, mà hầu hết đều chính xác tới mức độ Lưu Nguyệt, nếu như người nào hiểu rõ mệnh lý học thì sẽ đạt được độ khó cao của sự chính xác tới mức độ Lưu Nguyệt mà thôi.

Thực ra chỉ thường xài chỉ có 4 loại thế cục lá số là Bản Mệnh, Đại Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt các loại bốn cái Mệnh bàn mà thôi, và 4 cái thế cục lá số này lại hoàn toàn liên kết, tầng tầng điều khiển. Nếu như giữa chúng có một khâu nào đó không có mối liên hệ, thì cái kết quả sau cùng liền không thể tạo ra được. Cho nên suy luận vận mệnh cũng chính là ở chỗ lý giải ra mối quan hệ ảnh hưởng của những khâu này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Đại Hạn là chủ vận 10 năm, nếu Ngũ hành Cục là Thổ Ngũ Cục của tiểu thư A sinh năm Giáp Thìn (thuộc Dương Nữ, nên Đại Hạn đi nghịch chiều), thì Đại Hạn thứ nhất từ 5-14 tuổi. Vượt qua 14 tuổi thì cung Mệnh liền nhảy sang cung Huynh Đệ, điều này tức là cung Đại Hạn thứ hai, chủ quản vận mười năm từ 15-24 tuổi. Mười một cung khác cũng căn cứ theo trình tự chuyển đổi như vậy (hình 41), mà thu được mệnh bàn theo Đại Hạn mới (Lá số của Đại Hạn mới / hoạt bàn Đại Hạn mới). Trong khi ứng dụng thực tế, cũng không cần đem 12 cung Đại Hạn để viết cả vào trong lá số, để tránh khỏi rối rắm, chỉ ghi chú rõ cung 3 trọng yếu là Mệnh – Tài – Quan mà thôi.

Sau Đại Hạn mới tới phân chia Lưu Niên, mệnh bàn của Đại Hạn với mệnh bàn của Lưu Niên có quan hệ mật thiết. Thí dụ như tiểu thư A năm nay (1998) là 35 tuổi, đã tiến vào cung Đại Hạn thứ tư, cho nên các cung vị của vận Lưu Niên 35 tuổi và của Đại Hạn thứ tư sản sinh mối quan hệ, còn đối với cung vị của Đại Hạn thứ ba thì nó đã tách biệt rồi nên không liên quan nữa (hình 41). Cung Mệnh của Lưu Niên 35 tuổi ở Dần, cái 11 cung khác cũng theo thứ tự lần lượt điền vào. Nhưng vì để tránh cho lá số lem nhem bẩn thỉu, chỉ ghi chú rõ ở góc cung Dần số 35 mà thôi, biểu thị [cung Mệnh của Lưu Niên] 35 tuổi dừng chân ở chỗ này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Còn quy tắc phép khởi của Lưu Nguyệt là:
Từ cung Mệnh của Lưu Niên bắt đầu tính, nghịch kim đồng hồ đếm tới tháng sinh, rồi tại cung mà tháng sinh rơi vào ấy bắt đầu tính là giờ Tý, thuận kim đồng hồ đếm tới giờ sinh, chính là chỗ sở tại của tháng Giêng của Lưu Nguyệt, với 11 tháng còn lại thì cứ thuận kim đồng hồ theo như tự viết vào bên trong cung là được. Cung sở tại của tháng Giêng gọi là là Đẩu Quân (hình 10/2).

Trong lúc đoán mệnh, thông thường đều từ cung Mệnh của Đại Hạn bắt đầu xem đi, có vài người suy tính vận Lưu Niên lại hay dùng cung Mệnh của Lưu Niên để suy tính, đây là quan niệm không chính xác. Bởi vì cát hung của Lưu Niên sẽ ứng nghiệm ở Lưu Nguyệt, không hề chủ tốt xấu của Lưu Niên, còn cát hung của Lưu Niên cần phải từ Đại Hạn để suy tính. Nếu không thì cứ mỗi 12 năm sẽ lặp lại một lần, muốn phân biệt sự khác nhau giữa chúng thì hoàn toàn phải dựa vào Đại Hạn, cho nên Đại Hạn là một khâu vô cùng trọng yếu.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mối quan hệ của Bản Mệnh, Đại Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt là như hình trên, trong đó đã nói ra sự phân biệt rõ ràng về mối quan hệ của Bản Mệnh, Đại Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt, giữa chúng có quan hệ xen khớp từng tầng từng tầng. Thấu triệt được loại quan hệ này mới có thể lần dò đầu mối để mà tìm ra nơi và thời gian phát sinh sự kiện.

Thí dụ như: Muốn tài vận của Lưu Niên, thì trước tiên xem Tứ Hóa của cung Tài Bạch của Mệnh gốc và cung Tài Bạch của Đại Hạn được phân bố trên lá số ở góc độ nào? Có hay không sự hình thành góc độ đặc biệt, nếu như hình thành góc độ đặc biệt thì sẽ sinh ra lực cảm ứng lành dữ. Lúc này sẽ lại căn cứ tổ hợp tinh tú để suy đoán cát hung của tài vận Lưu Niên. Tuyệt đối không thể trực tiếp dùng Tứ Hóa hoặc tổ hợp tinh tú của cung Tài Bạch Lưu Niên để suy đoán liền về năm đó tài vận có may mắn hay không, như thế nhất định sẽ phạm sai lầm, bởi vì thiếu đi 2 cái mắt xích liên kết với Mệnh gốc và Đại Hạn, thì sự kiện cũng sẽ không thể thành lập được.

Cho nên, lúc suy đoán vận Lưu Niên thì Đại Hạn chính là dấu vết đã bước qua của sự suy đoán Lưu Niên, còn Lưu Niên chính là thừa hưởng những kết quả sau khi ảnh hưởng của Mệnh gốc và Đại Hạn, ngàn vạn lần không thể nhầm lẫn cái thứ tự này.

Từ quan niệm ấy để xem, lúc đoán Lưu Niên, là [Dụng] các sao Tứ Hóa của Đại Hạn, xem mối quan hệ giữa chúng với cái [Thể] của lá số gốc, cho nên lúc đoán Lưu Niên thì lấy lá số gốc làm [Thể], lá số Đại Hạn làm [Dụng], đầy đủ Thể Dụng mới có thể suy đoán được vận đồ. Nếu khi đoán Lưu Nguyệt, thì lá số Đại Hạn làm [Thể], lá số Lưu Niên làm [Dụng]; sao Hóa Kị của [Dụng] không được xung vào [Thể], nếu xung tới thì ắt có hung tượng phát sinh. Đương nhiên, các sao Hóa cát như Khoa Quyền Lộc của [Dụng] mà nhập vào [Thể] hoặc chiếu đến [Thể] thì đều chủ về cát tượng. Đây chính là quan niệm cơ bản của việc đoán mệnh, không thể không biết! Sau khi sáng tỏ mối quan hệ của [Thể] với [Dụng], là có thể nắm được quy tắc cơ bản của Tứ Hóa phi tinh, sẽ không còn cái nghi hoặc kiểu "Phi lai Hóa khứ, bất tri sở dĩ nhiên" (nghĩa là, bay đến lại hóa đi mà không hiểu nguyên cớ vì sao lại vậy).

Suy tính về vận biến động, tối trọng yếu ở Lưu Niên, có thể nắm được cát hoặc hung của Lưu Niên thì liền có thể kế thừa cái trước mà tạo ra cái mới, xâu chuỗi mối quan hệ Không Gian – Thời Gian. Bởi vì Lưu Niên chính là từ ảnh hưởng của Mệnh gốc và Đại Hạn mà hiển lộ ra dấu hiệu, nếu Lưu Niên có dấu hiệu thì đến khi suy tính Lưu Nguyệt mới có ý nghĩa, nếu Lưu Niên không có dấu hiệu lại đi đi suy tính thẳng đến Lưu Nguyệt thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Vì vậy, lúc đoán mệnh cần lần lượt từng bước từ từ mà thâm nhập. Đương nhiên, còn phải cân nhắc mối quan hệ giưa lá số Đại Hạn và lá số gốc, cũng chính là cần xem kỹ cung X của Đại Hạn là cái cung vị nào của lá số gốc? Thí dụ như: cung Mệnh của Đại Hạn là cung Phu Thê của lá số gốc, thì nam nữ đều có xu hướng kết hôn rất rõ ràng. Nếu cung Tài Bạch của Đại Hạn là cung Nô Bộc của lá số gốc, thì sự tốt xấu của tiền tài sẽ có quan hệ rất rõ ràng với bạn bè. Đây mới chỉ là một dạng cách xem thô thiển, cơ chế ảnh hưởng thực tế còn phải có sự dính líu đến Tứ Hóa mới có thể biết được mối quan hệ thực sự.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 7 Members:

#18 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 19/03/2019 - 23:02

CHƯƠNG 17: SỰ KHÁC NHAU CỦA HÓA XUẤT VÀ HÓA NHẬP


Chương này muốn cùng mọi người bàn luận về cái gì gọi là [Xuất]? cái gì gọi là [Nhập]? Đây là quan niệm nhập môn Phi tinh Tử Vi Đẩu Số, không biết rõ phương pháp sử dụng của [Nhập] và [Xuất] thì không còn cách nào tiến vào phần cốt lõi của Phi tinh Tử Vi Đẩu Số. Bởi vì những thứ ấy là quy tắc vận chuyển của Tứ Hóa, nếu như về quy tắc cơ bản mà cũng không hiểu thì sao có thể vận dụng Phi tinh Tử Vi Đẩu Số để suy đoán vận mệnh.

Trong các sách bày bán trên phố thì có khả năng các vị từng xem qua suy đoán: "Năm gặp Kị xung hoặc tọa Kị thì coi chừng phát sinh các chuyện như tổn thất tiền tài, sự nghiệp thất bại, thân thể tổn thương". Thế nhưng sau khi trải qua năm đó vẫn tung tăng vui vẻ, suôn sẻ cực kỳ. Vì sao suy luận và thực tế lại sinh ra sự khác biệt lớn như vậy? Ắt là bỏ quên sự khác biệt giữa [Nhập] và [Xuất]. Cho nên, đối với người học Tử Vi Đẩu Số thì Hóa Nhập và Hóa Xuất là quan niệm rất quan trọng. Nhưng, cái gì gọi là [Xuất]? cái gì gọi là [Nhập]?

Giả như đem 12 cung vị trên lá số, căn cứ theo mối quan hệ giữa chúng với ta có tính gắn bó hay không để mà chia làm Tha cung (cung của nó) và Ngã cung (cung của ta). Như thế thì, một cung nào đó (lấy cung X để gọi) có Hóa nhập vào cung vị của ta, thì gọi là [Hóa Nhập]. Hóa Nhập vào cung vị của ta thì đương nhiên những sự việc được chủ bởi cái cung X đó [là cái ta nhận được, là cái ta dụng được], là ý nghĩa cát lợi. Nếu mà cung X hóa nhập cung vị của nó, tức là [Hóa Xuất], ý nghĩa như tên gọi, đó là những sự việc được chủ bởi cái cung X đó lại bị người khác đoạt được, hay được sử dụng vì người khác, thế thì đối với ta chính là cái hàm ý [tổn thất, không chiếm được]. Vì vậy phân chia rõ ràng sự khác biệt của [Xuất] và [Nhập], mới biết được Tứ Hóa của cái cung X đó phi ra thì đối với ta mà nói là ý nghĩa cát hoặc hung.

Phi tinh Tử Vi Đẩu Số dùng các cung vị gồm:
Cung Mệnh (1) – Tài (5) – Quan (9) - Điền (10) – Phúc (11) - Tật (6), vì có sự gắn bó chặt chẽ với ta nên các cung vị của [Ta] được gọi là [Ngã Cung] (nghĩa là cung của Ta).
Còn các cung như Nô (8) – Bào (2) – Phối (3) – Tử (4) - Phụ (12) - Thiên Di (7) đều không thuộc về ta nên các cung vị của [nó] được gọi là [Tha Cung] (nghĩa là cung của Nó).

Những cung vị này phi xuất Tứ Hoá rơi vào các cung mệnh cục khác nhau, bởi vì cung vị phi nhập có sự phân biệt giữa Tha Cung với Ngã Cung, mà cái cung khởi phi lại cũng có sự phân biệt giữa Tha Cung với Ngã Cung. Do đó, có thể phân biệt được sự khác nhau của mối quan hệ [Xuất] và [Nhập] từ cung khởi phi của Tứ Hóa với cung mà chúng nhập vào, và cũng phân được ý nghĩa cát hung của chúng.

1, Tứ Hóa phi xuất từ Ngã Cung:
Nếu bàn về vận tiền tài của ta, thì lấy cung Tài Bạch làm bản cung, vì nó có liên quan với ta, mà Lộc với Kị đều từ bản cung phi xuất, căn cứ theo Lộc phi xuất hoặc Kị nhập Ngã Cung hay Tha Cung mà phán định cát hung, các loại hình cơ bản gồm có:

1.1, Lộc nhập Ngã Cung, Kị nhập Ngã Cung:
Cái này tức là nói đến cát với hung của sự kiện đều do chính mình gánh chịu, không thông qua sự trung gian của người khác, như: [Tài Bạch hóa Lộc nhập cung Mệnh, hóa Kị nhập Quan Lộc] tức là biểu thị cát hung của tiền tài đều là yếu tố cá nhân chứ hoàn toàn không liên quan gì đến những người khác, chính mình có nỗ lực hay không, hưng suy của tài vận do chính mình quyết định, cũng có thể nói chính là cách cục tự lực cánh sinh.

1.2, Lộc nhập Tha Cung, Kị nhập Ngã Cung:
Tuy là Hóa Lộc đến cho người khác, chính mình dường như không chiếm được, thế nhưng Hóa Kị phi nhập Ngã Cung, căn cứ hiện tượng của [Lộc theo Kị đi ] thì cái [Hóa Lộc] này sẽ bị [Hóa Kị] mang về Ngã Cung, nhưng là ta sở hữu, đối với ta thì tinh thần hoặc vật chất trước khi đầu tư trở về sau, đều có thể có sự quay trở lại, thuộc về loại hình [Đắng trước Ngọt sau], thí dụ như phương thức phi hóa của [cung Mệnh hóa Lộc vào Nô, hóa Kị vào Tài bạch ] chính là loại hình này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




1.3, Lộc nhập Ngã Cung, Kị nhập Tha Cung:
Theo hiện tượng của [Lộc theo Kị đi ] để giải thích, Hóa Lộc tuy nhập Ngã Cung, nhưng sẽ bị Hóa Kị mang đi ra ngoài đến Tha Cung. Thí dụ như: [Tài Bạch hóa Lộc nhập vào cung Mệnh, hóa Kị nhập vào cung Nô], loại hình thái phi hóa này nếu như có mối quan hệ qua lại về tiền tài với bạn bè thì ắt sẽ có tổn thất tiền bạc, tránh việc qua lại về tiền tài với bạn bè thì giảm thiểu được tổn thất, cũng có thể giữ được tình bạn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




1.4, Lộc nhập Tha Cung, Kị nhập Tha Cung:
Bất kể là tốt hay xấu đều giao cho người khác hết, đây là hiện tượng hung nhất. Thí như: [cung Tài Bạch hóa Lộc nhập vào Phụ Mẫu, hóa Kị nhập vào Nô] là đem tiền của mình giao cho bạn bè, tự mình thành ông thần tài qua cửa nhà bạn mà thôi. Thậm chí cả cuộc đời đều đi làm kiếm tiền cho người khác, mà chính mình chẳng được gì cả, loại người có hình thái này rất phù hợp với dân đi làm công trong ngành tài chính, không nên ham muốn những quyền lợi không thỏa đáng, biết đủ thì mới được hạnh phúc, sẽ có thể bình an qua ngày.

2, Tứ Hóa phi xuất từ Tha Cung:
Đó là hiện tượng phi Tứ Hóa từ Tha Cung, xem chúng nhập vào Ngã Cung hay Tha Cung để mà luận về cát hung.

2.1, Lộc nhập Ngã Cung, Kị nhập Ngã Cung:
Là tượng may mắn, thí dụ như: [Phụ Mẫu hóa Kị nhập vào Quan Lộc, hóa Lộc nhập vào Tài Bạch], khi Hóa Kị nhập vào Quan Lộc của ta thì dường như có sự bất lợi về sự nghiệp, thế nhưng có Hóa Lộc nhập vào Tài Bạch của ta, căn cứ vào nguyên lý [Lộc theo Kị đi ] thì chính là Tài Bạch của bạn bè (Nô) nhập vào Quan Lộc của ta, là có ý nghĩa rằng bạn bè mang tiền tới giúp đỡ, đầu tư cho ta.

2.2, Lộc nhập Ngã Cung, Kị xung Ngã Cung:
Hung tượng, chủ về tổn thất; đây cũng là hiện tượng của [Lộc theo Kị đi], tuy rằng Lộc nhập vào Ngã Cung, nhưng Kị tới xung Ngã Cung, cái Hóa Lộc ấy là Lộc ảo, sau khi có được thì còn trả lại hết, thậm chí còn phải trả cả vốn lẫn lãi. Cho nên gặp phải loại hình này thì không nên vì lúc đầu thu được Lộc mà ngộ nhận cho rằng đang ở tình thế tốt, mở rộng đầu tư, thường thường lúc này mới chính là thời khắc mấu chốt của việc thịnh đến cực sẽ sinh ra suy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




2.3, Lộc xung Ngã cung, Kị nhập Ngã cung:
Theo giải thích về tượng [Lộc theo kỵ đi], đây chính là cát tượng, thí dụ như: [Nô hóa Lộc xung cung Mệnh, hóa Kị nhập Tài Bạch] là hiện tượng bạn bè sẽ không đầu tư hoặc giúp đỡ ta, thế nhưng Hóa Kị nhập Ngã Cung thì vẫn sẽ dành cho sự ủng hộ về tinh thần hay đạo nghĩa, lúc này Ngã Cung không thể lại Tự Hóa, sẽ có sự khác biệt là điềm báo hiệu tổn thất, loại hiện tượng này sẽ không thể lại vay tiền bạn bè.

2.4, Lộc và Kị cùng nhập Ngã Cung:
Tốt xấu cát hung của Tha Cung, hoàn toàn từ Ngã Cung tiếp nhận, gặp Ngã Cung cát thì theo đó được cát, còn Ngã Cung hung thì theo đó xảy ra hung, thí dụ như: [cung Nô hóa Lộc nhập vào cung Tài Bạch, hóa Kị nhập vào cung Mệnh] là ý nghĩa bạn bè đem tiền giúp đỡ ta, thế nhưng Hóa Kị cũng nhập cung Mệnh của ta (Ngã), nếu như cung Mệnh là cát thì hiện ra cát tượng, còn cung Mệnh không cát thì sẽ sản sinh nguy hại, thật giống như cái ý [bạn bè lấy tiền giúp đỡ ta với mục đích là dụ ta cắn câu, sau đó sẽ tùy cơ để nuốt trọn sự nghiệp của ta].

2.5, Lộc và Kị cùng xung Ngã Cung:
Hung tượng, chủ về tổn thất to lớn, có lợi ở Tha Cung mà Ngã Cung không được hưởng, còn phải đề phòng Tha Cung tới xung vào Tài Bạch, Quan Lộc của ta. Chúng ta kiếm tiền, làm việc, cùng đối tượng qua lại với nhau, nhất định sẽ cùng Tha Cung sản sinh quan hệ, như tượng này chủ không được hưởng chỗ tốt, lại còn phải đề phòng bị nguy hiểm xung phá.

2.6, Lộc nhập Tha Cung, Kị xung Ngã Cung:
Cũng hiện ra hung tượng, nếu Lộc đã nhập vào Tha Cung, đối với ta cũng đã là bất lợi rồi, mà Kị lại tới xung phá Ngã Cung, cái tổn thất ấy càng lớn hơn nữa. Cái tượng (hình ảnh) này có ý nghĩa là chỗ tốt của nó dành cho người khác, lúc có chuyện hoặc gặp phải cửa ải khó khăn, thì mới tìm đến ta, đối với ta mà nói, ta nỗ lực trả giá mà không được hưởng chỗ tốt của nó, bởi vì nó đã bị người khác hớt tay trên hết rồi, chỉ có tới tìm ta cứu trợ.

Nhưng mà trục Tài Bạch - Phúc Đức, thì không có cái loại hình Kị xung kiểu đó, bởi vì khi Kị nhập vào Tài Bạch hay Phúc Đức thì đều thuộc về Ngã Cung, cho nên không chủ về sự tổn thất, mất mát.

Những quy tắc bên trên có thể đem áp dụng vào Đại Hạn để mà luận cát hung của Đại Hạn, nếu luận về cát hung của chuyện vợ chồng, có thể lấy cung Phu Thê làm cung Mệnh, rồi tìm ra Ngã Cung và Tha Cung của Phu Thê, [thí dụ như: cung Phúc Đức của Ta chính là cung Quan Lộc của cung Phu Thê, là thuộc về Ngã Cung của cung Phu Thê], cân nhắc tổ hợp các sao tọa ở trong cung, cũng như phi Tứ Hóa, sẽ biết ngay tốt xấu, lúc này, phi Tứ Hóa ứng với quy về lá số của ta để mà luận cát hung [thí dụ như: lấy Can của cung Phúc Đức phi Tứ Hóa, nhập vào cung Quan Lộc của ta, đại biểu cho sự nghiệp của vợ chồng cùng vận trình cũng không tệ ], nguyên tắc của những cung khác cũng như trên, cứ phỏng theo đó.

Còn như, hành vận lại sẽ sản sinh ra mối quan hệ của [Hóa Nhập] và [Hóa Xuất], xin mời tham khảo ở các chương có liên quan trong sách này.

#19 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 20/03/2019 - 21:15

CHƯƠNG 18: QUAN NIỆM VỀ “THIÊN - ĐỊA – NHÂN”


Khi học Đẩu Số thì thường nghe các thuật ngữ “Thiên - Địa – Nhân”, có người đem chụp mũ nó trở thành Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số làm ra vẻ rất chi là thần bí. Rốt cuộc thì Thiên Địa Nhân đại biểu cho ý nghĩa gì? Có rất nhiều sách giải thích nói rằng, Mệnh gốc là Thiên Bàn, Đại Hạn là Địa Bàn, Lưu Niên chính là Nhân Bàn, đây chính là ý nghĩa của Thiên Địa Nhân bàn. Không sai! Nhưng là lại đem cái quan niệm của Thiên Địa Nhân giới hạn hẹp hòi trong mấy cấp độ tầng lớp của lá số Tử Vi, nếu như dùng cái Thiên Địa Nhân bàn thiên lệch hẹp hòi như thế để mà suy diễn mệnh lý thì thường rơi rụng thiếu cân xứng khiến sinh ra sai sót.

Kỳ thực [Thiên - Địa - Nhân] là một loại quan niệm, nó chính là trình tự là suy diễn trong mệnh lý, chỗ suy xét của nó hoàn toàn liên kết một dải rộng các nhân tố. Cái gọi là “dải rộng các nhân tố” chính là do có rất nhiều đại lượng biến thiên như: các loại yếu tố cấu thành thời đại (độ tuổi), sự tình, vật phẩm, vùng miền. Thí dụ như đem hoàn cảnh thời đại nơi ở coi như là dải rộng các nhân tố, thì ở bên trong đó dải rộng các nhân tố đó sẽ bao gồm:
- Chế độ Chính trị: Là chế độ chính phủ chuyên chế, hoặc là chế độ chính trị dân chủ, hoặc là chế độ c.... s..,… những người sống trong các chế độ chính trị khác nhau thì nhất định sẽ không cùng vận mệnh.
- Trình độ Y học: Có vài loại bệnh ngày xưa coi là nan y, nhưng bây giờ đã có thuốc có thể điều trị khỏi.
- Phong tục Tập quán: giữa dân bản địa với dân tộc Hán, hoặc giữa dân tộc Thái với dân tộc Hán có rất nhiều tập tục không giống nhau.
- Bầu không khí Xã hội: Xã hội nông nghiệp bảo thủ, dù tình cảm vợ chồng không tốt nhưng nhờ sự chịu đựng nhiều nên tình trạng ly hôn ít, so với xã hội công thương ngày nay thì giới nữ có năng lực tự chủ cao về kinh tế, nơi công tác lại có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người khác giới, sự khuyến rũ bên ngoài cũng nhiều, cho nên một khi đã ngoại tình hoặc không hòa hợp trong tình cảm vợ chồng thì đa số sẽ ly hôn, cho nên tình trạng hôn nhân cũng cũng thay đổi.
- Tình hình an ninh trật tự: sự hung hăng ngang ngược của giới xã hội đen, ma tuý, tham quan hống hách, cũng ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân lương thiện, suy giảm về ý nguyện đầu tư xí nghiệp, kinh tế không tăng trưởng thì đương nhiên đời sống sinh hoạt liền rất túng thiếu, nếu như là ở tình trạng chiến tranh, thì số phận của những người sống trong hoàn cảnh như vậy càng bị ảnh hưởng rõ ràng hơn, thậm chí còn chẳng có gọi là số phận cá nhân bởi vì vận mệnh quốc gia vốn có sức ảnh hưởng tuyệt đối.
- Khoa học kỹ thuật phát triển: Máy tính xuất hiện đã thay đổi sinh hoạt của con người, như các hình thức giải trí, đi làm, buôn bán, mua sắm, đều khác với trước đây.
Các đại lượng biến thiên ấy đều là nhân tố bên ngoài mà ảnh hưởng đến vận trình của một cá nhân. Chúng còn tạo thành sự tương ứng cùng với hoàn cảnh vị trí ngay lúc xem số mệnh, cân nhắc người tới coi số mệnh có thuộc về cái hoàn cảnh lúc bấy giờ hay không, sau đó mới giải thích cho phù hợp. Như việc đem Đại Hạn bàn (lá số của Đại Hạn) mà coi như là vùng đại lượng biến thiên lớn, như thế thì ở trong khu vực lớn ấy sẽ bao gồm các đại lượng biến thiên:
* Các cung nhân sự của Đại Hạn
* Mối quan hệ trùng lặp của các cung nhân sự trên lá số của Đại Hạn với các cung nhân sự của lá số gốc (Mệnh bàn).
* Tổ hợp các sao tọa thủ ở lá số của Đại Hạn
* Thiên Can trên lá số của Đại Hạn
* Địa Chi trên lá số của Đại Hạn
Chúng lại còn có mối quan hệ xung chiếu hội nhập với các cung cùng loại trên lá số gốc, xác định ý nghĩa hình tượng của sự kiện xảy ra, rồi cho phép từ trong lá số của Lưu Niên hiển lộ ra mức độ nặng nhẹ về cát hung của hình ảnh sự kiện.

Một con người tồn tại trong cái thế giới này, dù ít dù nhiều thì đều vẫn sẽ chịu ảnh hưởng lên số phận của mình bởi các loại biến động bên ngoài. Đối với con người mà nói, thì không cách nào tự tách mình ra khỏi xã hội để mà tạo thành một quá trình mệnh vận cá nhân độc lập được. Cho nên "Thiên - Địa - Nhân" cho thấy chính là một cái ren xoắn của quá trình suy luận vận mệnh, còn [Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa ] chính là vòng xoắn thứ nhất trong quá trình đó.

Trong khi suy đoán số mạng của một người, ngàn vạn lần không thể xem nhẹ lực ảnh hưởng của sự biến động hoàn cảnh. Căn cứ vào lá số gốc (Mệnh bàn) để suy diễn ra kết quả chỉ đại diện cho cát hung họa phúc của một cá nhân mà thôi, tùy theo sự thay đổi hoặc diễn biến của hoàn cảnh lớn thì mức độ cát hung họa phúc của một cá nhân cũng sẽ tăng giảm theo. Thí dụ như nói: Dân nghèo ở Đài Loan chắc chắn còn sung sướng hơn so với dân nghèo ở vùng nội chiến tại Lư-An-Đạt (Luanda – thủ đô Angola).

Đến như sự biến hóa của Thiên Vận đối với vận mệnh mỗi cá nhân cũng có có liên quan, ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì cần dựa vào điều gì hoặc ký hiệu nào để mà liên hệ? Cổ nhân dùng Can Chi để ghi chép năm, Thiên Can phối với Địa Chi, lấy 60 năm làm một chu kỳ gọi là 60 Giáp Tý, mà 10 Thiên Can lại cấu thành một cái chu kỳ nhỏ, mỗi 1 Thiên Can lại nắm giữ các sao Tứ Hóa, lợi dụng tính chất quản lý của các sao Tứ Hóa ấy, có thể suy tính khái quát ra được tình trạng của thời vận. Khi vận dụng cái quy tắc thứ nhất này, không thể coi thường lực ảnh hưởng của Địa Chi.

Thí dụ như: năm Bính Tý có Bính thuộc Hỏa còn Tý thuộc Thủy, mà Thủy Hỏa tương khắc, cho nên là những biến chuyển bất an, lại thêm can Bính làm Liêm Trinh hóa Kị, mà Liêm Trinh là Đinh hỏa chủ về Quan tụng thị phi, nguồn năng lượng (điện), ám hỏa (không có ngọn lửa nhưng vẫn sẽ phát ra nguồn năng lượng nhiệt). Cho nên năm Bính Tý sẽ càng có nhiều sự kiện tư pháp, mà nguồn năng lượng cũng sẽ tách ra. Nhưng can Bính làm cho Thiên Đồng hóa Lộc, Thiên Cơ hóa Quyền đều thuộc về các bộ phân phục vụ công chúng, vì vậy năm Bính Tý thì chính phủ sẽ có những hành động tích cực hăng hái truy quét tệ, nhưng Thủy Hỏa tương khắc cho nên sự việc thì gấp bội mà công hiệu chỉ có nửa phần, đó là các nhân tố bên ngoài. Giả như lúc đoán mệnh gặp phải cách “Cơ nguyệt đồng lương” thì năm đó tất có càng nhiều cơ hội thể hiện, mệnh cục của cách cục tốt thì ắt sẽ có cơ hội một mình đảm trách một phương, còn mệnh cục của cách cục kém thì phải cẩn thận đụng vào pháp luật. Có biến hóa của hoàn cảnh lớn, phối hợp với mệnh cục cao thấp của cá nhân, lại cân nhắc đến hiệu lực tăng giảm, thì cát hung thành bại của một cá nhân nào đó đã có thể rõ ràng trong lòng rồi.

Vì chẳng phải hễ ai có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương cũng đều là nhân viên công vụ, cho nên trong lúc suy đoán cũng cần áp dụng các đại lượng biến đổi sai biệt để giúp căn chỉnh, mới có thể biết được chính xác vận trình tốt xấu. Nếu như mệnh tạo (đương số) có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương đang đi làm cho công ty xây dựng, ở năm Ất Hợi đụng tới gian của Thái Âm hóa Kị thì năm ấy liền phải cẩn thận. Cách cục đẹp, vận trình tốt vẫn có cơ hội để thể hiện, hoặc có thể thay nghề đổi nghiệp thành công, nếu như cách cục kém và vận trình yếu, liền phải cẩn thận công ty đóng cửa, gặp phải cảnh thất nghiệp. Xưa kia, ở Đài Loan có thật nhiều tập tục mà ngày hiếm thấy như kiểu con dâu nuôi từ bé, ở rể. Bây giờ do cuộc sống đã giàu có rồi, những thứ tập tục này đều dần dần biến mất, ở trên góc độ mệnh lý cũng có thể thông qua kinh nghiệm tích lũy, quy nạp ra những ai có cách cục nào dễ gặp các hiện tượng kể trên. Cho đến ngày nay nhất định phải sửa đổi, như loại này do yếu tố Thời-Không đã thay đổi nên lúc đoán mệnh cũng phải thêm những đại lượng biến đổi vào sự suy xét. Đây chính là cái gọi là [Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa] chỗ tạo thành mối quan hệ Thiên Địa Nhân bàn, cũng có thể gọi là "Thiên bàn".

Trong lúc suy đoán lá số (Mệnh bàn) thì giữa 3 yếu tố Người đoán số mệnh, Kẻ đến hỏi số mệnh, cùng với Lá số cũng hình thành mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân. Trong mối quan hệ giữa 3 yếu tố đó, dùng Kẻ đến hỏi số mệnh làm Thiên bởi vì nguồn gốc của tất cả hoạt động đều xuất phát từ ý niệm của kẻ đó để biến thành hành động, sau khi hành động thì sinh kết quả, có kết quả mới có hiệu ứng cát hoặc hung. Coi cái Người đoán số mệnh làm Địa, vì người này tiếp nhận cái ý chí hoặc tư tưởng của Kẻ đến hỏi số mệnh, nhận định các điều kiện Thiên thời Địa Lợi Nhân hòa của hoàn cảnh Thời-Không của kẻ đó, cân nhắc ý chí của người trong cuộc, phân tích suy diễn mệnh lý, từ trong lá số mà căn cứ vào các yếu tố Tứ Hóa, tổ hợp các sao, vận trình niên hạn, xác định ý nghĩa xảy ra cát hung với hình ảnh sự vật. Đồng thời dựa vào sự trình bày của người tới hỏi số mệnh, để nói ra hình ảnh cát hung cụ thể. Cho nên lá số (Mệnh bàn) ở vào vai trò của Nhân bàn, tiếp nhận ý chí của người trong cuộc mà biểu hiện ra cát hung đó thôi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cho nên, Tử Vi Đẩu Số đoán mệnh chính là một loại khoa học thảo luận, trong quá trình đoán mệnh thì từ Người đoán số mệnh và Kẻ đến hỏi số mệnh, cứ một hỏi một đáp để mà hoàn thành. Quá trình đó nhất định phải căn cứ vào vấn đề của Kẻ đến hỏi số mệnh, từ trong Mệnh bàn mà tìm ra cung vị lập hướng. Lại căn cứ quy tắc suy luận của Tứ Hóa, định nghĩa ra hình ảnh sự vật cát hung. Nếu như Người đoán số mệnh có thể nắm trong tay rõ ràng sự biến thiên của hoàn cảnh bên ngoài, tâm tư của Kẻ đến hỏi số mệnh, suy tắc suy đoán Mệnh bàn, thì cho dù là: sự thay đổi về tư tưởng, sự cảm thụ nội tâm, cho đến các loại hành vi tỉ mỉ, đều cũng có thể từ trong Mệnh bàn hiển hiện ra. Đây chính là mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân giữa 3 yếu tố là Kẻ đến hỏi số mệnh, Người đoán số mệnh, và Mệnh bàn, cũng có thể gọi là "Địa bàn".

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Còn như cái đạo lý thứ ba của mối quan hệ Thiên - Địa - Nhân chính là sự cấu thành bởi 3 loại lá số của Mệnh gốc - Đại Hạn - Lưu Niên, tục xưng là Thiên Địa Nhân bàn. Mối quan hệ của chúng cùng với sự khác biệt về mệnh bàn niên hạn liên hệ với nhau thông qua Tứ Hóa như thế nào, đồng thời cấu thành mối quan hệ cát hung ra làm sao, ở trong các chương tiết của sách này đã có nói rõ, xin mời tham khảo chi, tại chương này không cần nhắc lại. Từ mối quan hệ tầng lớp sự cấu thành bởi 3 loại lá số của Mệnh gốc - Đại Hạn - Lưu Niên có thể gọi là "Nhân bàn".

Cho nên cái thuyết Thiên Địa Nhân của Tử Vi Đẩu Số, cũng không hề ám chỉ hạn hẹo trong mối quan hệ Mệnh gốc - Đại Hạn - Lưu Niên, mà là hàm ý mối quan hệ 3 vòng lòng ghép của [Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa], [Đoán mệnh, Hỏi mệnh, Mệnh bàn] và [lá số của Mệnh gốc, Đại Hạn, Lưu Niên], giữa chúng thông qua ảnh hưởng của Thiên Can, Địa Chi, Tứ Hóa mà liên hệ thành lập mối quan hệ tương hỗ qua lại. Cho nên Người đoán mệnh không được chỉ chuyên chú vào sự suy đoán mệnh lý mà xem nhẹ sự biến động của môi trường, cần phải lúc nào cũng quan tâm tới chuyện thiên hạ mới có thể liệu sự như thần. Từ xưa đến nay, các chuyên gia mệnh lý vĩ đại đều có sự thấu hiểu sâu sắc về những chuyện quốc gia đại sự, như: Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn v.v… không được phép tự ti mà chỉ nghiên cứu thuật đoán mệnh mà thôi.

Nghiên cứu đạo lý số mệnh, suy tính cát hung họa phúc của vận trình cá nhân, ở các nhân tố suy xét theo trình tự tầng lớp Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, thực ra là có cùng 1 dạng giống với việc quản trị quốc gia, cho nên đó chính là cái nguyên nhân mà từ thời cổ đại thì những bậc lương đống phù tá đều đa số tinh thông mệnh lý học.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 4 Members:

#20 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 20/03/2019 - 22:27

CHƯƠNG 19: ẢNH HƯỞNG CỦA TỨ HÓA ĐỐI VỚI VẬN THẾ


Sự nổ tung của bầu tinh vân cổ đại (QNB chú: ám chỉ vụ nổ Bigbang) sinh ra vũ trụ trong 1 sát na, Thời Gian liền bắt đầu được tính toán, Thời Gian lại giống như một sợi dây dài vô tận đem chúng ta ngay tại giờ khắc này liên kết với tự cổ chí kim. Mặc dù nó chỉ có tiến tới chứ không bao giờ quay trởi lại, nhưng nó cũng khắc họa lại những hình bóng rõ nét gắn liền với thời gian. Khi bạn cảm nhận được sự tồn tại của sợi giây này thì bạn liền có thể nhận thức rõ ràng bản thân mình ở chỗ nào. Từ cổ chí kim cho dù xa xôi mà bàng bạc nhưng suy cho cùng thì cũng là sự lần lượt bước qua của Thời Gian, dọc theo cái đầu mối này, bạn liền có thể tìm ra sự phát triển của lịch sử. Thời Gian chính là gốc rễ của Lịch Sử, là khởi thủy của Sinh Mệnh, là quy luật vĩnh cửu (hằng thường) của ngàn đời. Mà sinh mệnh con người chẳng qua chỉ có năm tháng cuộc đời ngắn ngủi, có sinh mệnh thì mới có sự tồn tại của vận mệnh, sự biến hóa của vận mệnh chính là lấy đơn vị Tuổi tác để đo lường, hoặc lấy đơn vị Thời Gian của Lịch Pháp để đo lường.

Số Tuổi: Là độ dài ngắn của thời gian từ lúc bắt đầu cất tiếng khóc chào đời cho tới hôm nay (QNB chú: có lẽ ám chỉ ngày mà tác giả viết cuốn sách này, ngày 30 tháng 11 năm 1993), vừa khéo được 40 tuổi 3 tháng lẻ 10 ngày.

Thời Gian của Lịch Pháp: nếu như sinh ra vào ngày 20 tháng 8 năm 1952 năm, cho tới hôm nay (ngày 30 tháng 11 năm 1993) mới thôi, tổng cộng là 40 năm 3 tháng lẻ 10 ngày.

Hai khái niệm đó là không hề giống nhau, mệnh vận của con người là theo sự biến đổi của Số Tuổi mà thay đổi, còn Thời Gian của Lịch Pháp lại không hề bị thay đổi theo những yếu tố như sự chỉnh sửa Lịch Pháp, sự khác biệt về quy định quy ước của Lịch Pháp. Nếu như quy định quy ước của Lịch Pháp mà sai lầm thì tất nhiên toàn mệnh bàn đều sai lầm. Khi chúng ta đang lúc suy tính vận thế của Lưu Nguyệt, Lưu Niên, thì cái Năm – Tháng – Ngày mà các bạn nói đến ấy là dùng Thời Gian của Lịch Pháp để làm chuẩn hay là dùng Số Tuổi để làm chuẩn đây?

Thời Gian của Lịch Pháp và Số Tuổi sinh mệnh, giữa 2 cái này có mối quan hệ gì để hỗ trợ nhau trong việc tính toán sợi dây của Thời Gian? Hai khái niệm này lại cần dựa vào đầu mối liên kết chặt chẽ của loại quan hệ nào để khởi? Vì sao chúng ta chia thành các khoảng thời gian vận khí của Lưu Niên, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, ấy chính là lấy Thời Gian của Lịch Pháp để làm chuẩn ư?

* Khởi Dần thủ (Thiên Can cung Dần / theo phép Ngũ Hổ độn) nhất định chính là Thiên Can tháng Giêng của năm mà đương số được sinh ra đời. Cho nên Can của các cung sau khi an bài lá số (mệnh bàn) tương đồng với Thiên Can của các tháng trong năm Âm Lịch mà đương số được sinh ra. Lấy nó để mà suy đoán vận trình cát hung của Đại Hạn hoặc Lưu Niên hoặc Lưu Nguyệt, chứ không phải áp dụng Thiên Can của cái năm Lưu Niên đang xem đó. Rồi lại khởi Dần thủ để mà tìm ra Can mới của cung nhằm biểu diễn Tứ Hóa, đại diện cho suy luận mệnh bàn. Tất cả đều phải lấy Thiên Can năm sinh của đương số, cho nên Thiên Can Dần thủ (ngũ Hổ độn) chính là tiêu chuẩn cơ bản. Điều này biểu thị Số Tuổi của đương số cùng với Thời Gian của Lịch Pháp mượn phép Ngũ Hổ độn khởi Thiên Can cung Dần để mà khiến 2 khái niệm hợp lại làm một. Do đó, mệnh bàn khởi Dần thủ Thiên Can chính là một việc vô cùng trọng yếu, bởi vì Thiên Can của các cung, đại diện cho Thiên Can của mỗi tháng trong 12 tháng của năm mà đương số được sinh ra đời. Cho nên suy luận thời gian ứng nghiệm của sự việc, quyền quyết định là ở chỗ Thiên Can chứ không phải ở chỗ các Địa Chi.

[Thời gian Ứng nghiệm]: Phối hợp các tình huống hội hợp xung chiếu của Tứ Hóa ở trên mệnh bàn, từ Thiên Can của cung mà khởi phi Tứ Hóa, xác định ra cung vị Địa Chi của Lưu Niên ứng nghiệm.

Muốn phán đoán là lúc nào phát sinh, nhất định phải xem là cái Thiên Can 1 cung nào bị Hóa Kị xung tới để mà phán đoán thời kỳ ứng nghiệm, Thiên Can của cung khởi phi chính là “Thời Gian” ứng nghiệm.

Tại vì sao ở các chương trước đây có nhắc tới "Địa Chi" đại biểu cho "Thời Gian", thế này lại chẳng hóa ra là trước sau mâu thuẫn ư? Trước đây đã từng nói qua, Địa Chi dựa vào sự biến đổi của Thiên Can, bóng nắng mặt trời (nhật ảnh) mà có sự tăng giảm, nó chính là tuân theo sự thay đổi của Thiên Can di chuyển mà có sự biến đổi. Thiên Can là dựa vào sự thay đổi của quý tiết (mùa, thời kỳ), các địa phương khác nhau thì cũng có thể thay đổi khác nhau. Địa Chi thì sau khi trải qua sự xác định rõ, không hề còn sự biến đổi, cố định lại (bởi vì cổ nhân cho rằng mà Địa/Đất thì bất động, còn Thiên/Bầu Trời thì chuyển động xung quanh Địa vậy). Nó đối với tất cả mọi người là giống y như nhau, đối với mệnh bàn mà nói, thì nó chính là đại diện cho mỗi 1 ô vuông có tên gọi theo trình tự thuận chiều, trừ điều đó ra, trong khi đoán mệnh với vận thì nó chẳng có ảnh hưởng gì. Do nó là cố định nên phải dựa theo diễn biến Tứ Hóa của Thiên Can để mà định ra thời kỳ ứng nghiệm.

Còn như "Ứng nghiệm kỳ" là năm nào ư? Đương nhiên là lấy Địa Chi của chỗ Thiên can sở tại là năm ứng nghiệm, như: cung Dậu, thì Thiên Can của nó có khả năng là 5 Can âm gồm Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý; chứ chẳng phải là tất cả Can cung đều có thể phát sinh sự việc, mà mỗi một Thiên Can mang tính chất riêng khiến cho các Hóa tinh thay đổi, phát ra năng lượng hoặc cát hoặc hung mới có thể làm phát sinh sự kiện. Cũng không phải là cứ đến cung Dậu, chỉ cần thấy các sao tọa thủ giống nhau thì đều sẽ phát sinh sự kiện giống nhau, mà phải biết sẽ phát sinh hay không là mấu chốt nằm ở "Thiên Can". Cho nên "Thời gian của Ứng nghiệm" chính là lấy Thiên Can của cung nào đó trên lá số (mệnh bàn), kết hợp với Địa Chi của Lưu Niên mà tìm ra cái năm lưu niên ứng nghiệm sự kiện. Vì lẽ đó, dựa vào môi trường trung gian của Địa Chi, xâu chuỗi Thiên can, đem Thời gian Ứng nghiệm của sự kiện đời người và Thời gian Lịch pháp mà hợp lại làm một. Đó là lý do mà từ sự suy tính của mệnh bàn có thể biết được:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vì vậy, Tử Vi Đẩu Số áp dụng Lưu Niên mà không cần Tiểu Hạn, dựa vào sự kết hợp 12 Địa Chi trên mệnh bàn và Lưu Niên, khiến cho "Mệnh" cùng với "Thời" phối hợp. Mượn "Can" độn "Tinh" vay "Tượng" hợp "Chi" ứng "Thì". Còn như, ảnh tượng (hình ảnh) của sự việc và nguyên nhân của sự việc, thì lại từ: Sự trùng điệp cung vị và các hóa tinh tạo thành. Cũng chính là: có nguyên nhân và hình tượng, mới có thể miêu tả "Sự kiện" một cách cụ thể. Còn như, mối quan hệ giữa 2 yếu tố là nguyên nhân của sự kiện và hình tượng của sự việc, thì cũng không thể phân chia rành mạch thành hai yếu tố được, vì chúng đan xen lẫn nhau thành cặp.
Đối với việc vận dụng:
Hình tượng của Sự kiện: Từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị, xác định ý nghĩa hình tượng của các Hóa tinh.
Nguyên nhân của Sự kiện: Từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị & đường bay đến của các Hóa tinh, tìm ra nguyên nhân đối ứng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Khảo sát Thí dụ 1:
Giờ đưa ra một thí dụ đoán mệnh (mệnh lệ) để mà phân tích xem hình tượng của sự kiện & nguyên nhân sự kiện được tìm ra như thế nào ở trong 12 cung? Cái mệnh lệ rất quý giá này là được cung cấp bởi một vị Đại sư môn Tử Vi Đẩu Số cực kỳ nổi tiếng người Nhật Bản.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



* Nguyên do:
Chủ nhân lá số này mở một cửa hàng bán tặng phẩm ở Nhật Bản, có việc muốn tìm Đại sư Tử Vi Đẩu Số chỉ điểm bến mê, đã hẹn được ngày gặp mặt. Vào 11h đêm cái hôm trước ngày hẹn, khi ngồi tàu điện trên đường về nhà từ cửa hàng bán tặng phẩm, liền thầm nghĩ: "Ngày mai phải đi bái kiến Đại sư, đầu tóc đã chừng mấy ngày chưa gội rồi. Không hay lắm!!! Dẫu ngay lập tức trở về tắm gội và chờ cho khô thì cũng đã khuya lắm rồi. Sáng sớm ngày mai phải chạy tới chỗ Đại sư. Có lẽ là sẽ ngủ không đủ giấc, hoặc là bị ngủ quên. Nếu như để sáng sớm mai mới tắm gội, chờ làm khô thì cũng bị trễ hẹn. Bằng không thì sẽ phải dậy từ rất sớm để chuẩn bị. Rốt cuộc cần phải làm sao đây?". Cứ trăn trở suy nghĩ về cái vấn đề này mãi.
Ngày hôm sau đến chỗ Đại sư, khi mở Mệnh bàn ra, chẳng hiểu sao mà câu nói đầu tiên của Đại sư lại hỏi ngay là: "Giờ Tý tối qua, có phải là vì chuyện đầu tóc mà khiến bạn hao tổn tâm trí hay không". Khiến cho chủ nhân lá số sợ ngây người, tại sao lại có thể nói trúng sự việc trong tâm tư của mình ở mấy canh giờ trước đây?!

* Vấn đề: Ở trong sự kiện này có mấy điều cần phải nghiên cứu
1, Lưu Nhật & Lưu Thời được vị Đại sư này khởi như thế nào? Một tháng có 30 ngày mà Mệnh bàn có 12 cung, mỗi 1 cung có thể có thể đại biểu 2 ngày hoặc 3 ngày. Ông ấy làm thế nào để từ trong đó mà tìm ra chính xác Nhật kỳ để khởi Lưu Thời nhỉ?
2, Tại sao là tóc nhỉ? Vì sao biết rõ chỉ là hao tổn tâm trí mà thôi?

* Phân tích: (trước tiên, mời các tự mình phân tích Mệnh bàn xem)
Giờ Tý ngày X tháng 12 năm 31 tuổi (năm Đinh Mão) vì việc đầu tóc mà phải hao tâm tổn trí. Đầu tiên: Chúng ta muốn định ra các cung vị Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời của Lưu Liên, căn cứ vào quy tắc tên gọi tương quan ghi vào các cung vị đã định ra.

Thiên can (Quý) của cung Phúc Đức ứng giờ Tý của Lưu Nhật (bên trong cung có Thái Dương và Thái Âm tọa thủ) khiến Tham Lang hóa Kị nhập cung Điền Trạch của Lưu Thời xung vào cung Phúc Đức của Lưu Nguyệt (bởi vì đã biết là sự việc phiền não, cho nên lấy cung Phúc Đức làm cung biểu lộ hình tượng); ăn khớp với điều kiện của đồng loại tương xung, cho nên có sự việc phiền lòng, quả không sai. Bởi vì can Quý khiến Tham Lang hóa Kị xung vào cung Phúc Đức của Lưu Nguyệt, mà sao Tham Lang lại là Quý thủy là nước bẩn, mà lại ở cung Điền Trạch, nên biết được chính là các loại nước như là nước tắm, nước giặt quần áo, tắm cơm canh,… Bởi vì mối liên hệ của Thái Dương và Thái Âm nên có thể dẫn tới rõ hơn là "Gội đầu". Cho nên thường là vì việc gội đầu mà phiền lòng.

Ở trong thí dụ này: (tham khảo hình bên dưới)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Từ các loại trạng thái hoặc tổ hợp tinh tú, Tứ Hóa, Can Chi của cung khởi phi và cung bay đến, giúp cho sự suy xét tổng hợp, đem những ký hiệu này đối chiếu tới những sinh hoạt hàng ngày. Tìm ra sự vật đối chiếu để giải thích, là có thể phán đoán gọn gàng khúc chiết, gãi đúng chỗ ngứa, dùng dự đoán chính xác tương lai.

Trở lại một vấn đề nữa: Cùng 1 Cung vị, có thể sẽ trùng điệp nhiều tầng (lần), ở trong tất cả thì rốt cuộc là cần phải rút ra tầng tầng nào để mà giải thích? Ở trong ví dụ này, chúng ta tìm xem canh giờ nào có sự phiền lòng, cho nên lấy cung Phúc Đức của Lưu Thời để phi Tứ Hóa, xem Hóa Kị có xung vào cung Phức Đức của Lưu Nhật hay không. Đó là lý do mà, cần nắm lấy mối quan hệ của "Cung vị trùng điệp" để giải thích "Hình tượng". Thí dụ này phải lấy mối quan hệ cung vị trùng điệp của Lưu Thời để giải thích, mà khi giải thích thì dựa vào cung Phúc Đức chính là cung khởi phi, là cung hỏi sự việc, cho nên dùng nó làm trọng điểm. Cung Điền Trạch chính là cung bay tới, là cung tiếp nhận Hóa tinh bay tới từ can cung hỏi sự việc. Chỉ có thể giúp cung khởi phi biểu lộ ra hình tượng của nó. Ảnh hưởng quan trọng nhất trong cung bay tới, là ở Hóa tinh nằm bên trong đó từ Can cung phi Tứ Hóa tới (giống vai trò của sao Tham Lang hóa thành Kị ở trong ví dụ này), nó tham khảo cung hỏi sự việc để tìm ra "Hình tượng" của sự việc chính.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bởi vì các tinh tú của cung khởi phi có rất nhiều tổ hợp hình thái, cho nên Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh chỉ dùng 28 sao thì có thể đại biểu ngàn vạn hiện tượng trong nhân thế. Do số sao thì ít mà sự việc thì nhiều, cho nên một sao phải dựa theo sự khác biệt về cung vị, cũng như sự kết hợp với các phụ tinh đồng cung để mà hiển hiện ra hình tượng khác nhau, như trong ví dụ này:

Thái Dương, Thái Âm đều có hình tượng Chủ, mà vì 2 sao đồng cung ở Phúc Đức, cho nên lựa ra hình tượng "Đầu Tóc" để mà sử dụng. Lại thêm Tham Lang ở cung Điền Trạch, cho nên lựa ra hình tượng "Nước" để mà sử dụng. Phối hợp lại mà giải ra là "Gội đầu". Đương nhiên, cũng có thể là "Tóc bị ướt". Việc suy luận tinh tế tỉ mỉ hình tượng đến mức như vậy, phải là người đã nghiên cứu Đẩu Số vài chục năm mới có thể có công lực định hướng chính xác như vậy. Nếu như định hướng không đúng, cho dù đã đầu tư cả trăm năm tâm huyết thì vẫn không biết được nguyên cớ, đành phải tìm kiếm đáp án qua tâm linh huyền bí mà thôi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mối liên hệ cung vị trùng điệp, chính là lấy sự sảo hợp trong quan hệ của tam bàn Thiên Địa Nhân. Để định nghĩa các cung vị trùng điệp, cũng chính là: Mệnh gốc hóa cho Đại Hạn sử dụng, cho nên nếu cung Quan Lộc của Mệnh gốc khiến Hóa Quyền nhập vào cung Phu Thê, và nếu Đại Hạn lại vừa vặn đi tới cung Phu Thê thì biểu thị sự nắm giữ quyền uy trong sự nghiệp. Nếu người đã kết hôn, thì Đại Hạn này sẽ rất chăm chỉ trong công việc, cũng sẽ có thành tựu. Nhưng nếu chưa kết hôn, ý chí phấn đấu quyết liệt của Hóa Quyền sở chủ ý chí chiến đấu trùng kính, hùng tâm hăng hái hướng về phía trước gặt hái được các thành quả và cũng sẽ chịu chút thiệt thòi về tình cảm. Bởi vì chưa kết hôn, cung Phu Thê chính là gốc của Hư Vị, đây chính là nguyên tắc của cung vị Hư – Thực, mà các bạn đọc cần phải biết.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mối liên hệ của Thiên Địa Nhân bàn, cần phải phân tích các hạng mục:
1, Lá số gốc (bản Mệnh bàn) hóa cho Tứ Hóa của lá số Đại Hạn (Đại Hạn bàn), ở trong lá số của Đại Hạn thì hiển thị ra những loại quan hệ nào?
* Xung (sao Hóa Kị)
* Chiếu (sao Lộc, Quyền, Khoa)
* Hội (nhập)
* Hợp (tam hợp)

2. Lá số của Đại Hạn lại hóa cho Tứ Hóa của Lưu Niên dùng, xét các quan hệ dưới đây?
* Tam Hợp phương của lá số gốc (bản Mệnh bàn) có bị hoặc là Kị xung? hoặc là Kị nhập vào Mệnh gốc hay không?
* Tứ Hóa của lá số Đại Hạn và Tứ Hóa của lá số gốc, hiển thị ra loại quan hệ nào? Đặc biệt là sao Hóa Kị, có hiện ra sự đối xung hay không? Hoặc 2 ngôi Kị tinh đều vào trong cùng một cung?

3. Cung vị của lá số gốc & cung vị của lá số Đại Hạn hiển thị loại quan hệ nào?
Thí dụ như: Cung Tật Ách của lá số gốc chính là cung Tài Bạch của lá số Đại Hạn, 2 cái trùng điệp cùng một chỗ, đây chính là cung vị trùng điệp, đại biểu tiền bạc của Đại Hạn có mối quan hệ với Tật Ách của Mệnh gốc. Mức độ mật thiết của sự liên hệ này thì dùng Tứ Hóa để kết hợp, các mục 1, 2 đã nói ở trên chính là sự suy xét mức độ mật thiết của sự kết hợp. Nếu như Tứ Hóa đều "Nhập" thì đại biểu sự kết hợp chặt chẽ, biết rất chăm chỉ nỗ lực đi kiếm tiền. Nếu như là "Xung" thì biểu thị không còn cách nào kết hợp, bác bỏ lẫn nhau, chính là lười nhác không cố gắng đi kiếm tiền.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



4. Thời gian Ứng nghiệm? Hoặc kỳ hạn Ứng nghiệm?
* Cung bị Xung phải chịu tổn hại lớn nhất, khi Lưu Niên đi qua cung bị Xung thì sẽ bị hung.
* Tam hợp Cục, lấy Quyền ở cung Quan Lộc của Lưu Niên là cát.
* Đồng loại không thể tương xung, như Tật Ách của Đại Hạn không thể xung Tật Ách của Mệnh gốc.
* Hóa nơi Mệnh gốc, ứng nghiệm ở Lưu Niên.
* Hóa nơi Đại Hạn, ứng nghiệm ở Lưu Nguyệt.
* Đại Hạn xung Mệnh gốc, 10 năm không thuận lợi.
* Lưu Niên Kị xung, 1 năm hối lận.

Cùng cái lý ấy:
* 3 sao Hóa cát của Đại Hạn hội vào tam hợp Mệnh gốc, 10 năm cát tường.
* 3 sao Hóa cát của Lưu Niên hội vào, 1 năm thuận lợi may mắn.

Khảo sát Thí dụ 2:
Cái này từ trong bộ sưu tập các thí dụ đoán mệnh của người viết, lại đưa ra để cùng với quý vị tham khảo: Trước tiên mong quý vị suy ngẫm một chút, xem xem đương số này ở hạn cung Ngọ phát sinh tai họa to lớn gì?

Sau khi quý vị suy đoán, nhất định là đã tìm ra từ sự cân nhắc lần lượt các cung nhân sự của Đại Hạn Giáp Ngọ, để mà tìm ra cung nhân sự của Đại Hạn và cung đồng loại của lá số gốc xem hiện ra cung vị của mối quan hệ tương xung:
1, Thiên Can cung Phụ Mẫu của Đại Hạn có Hóa Kị xung tới cung Phụ Mẫu của Mệnh gốc hay không?
2, Thiên Can cung Phúc Đức của Đại Hạn có Hóa Kị xung tới cung Phúc Đức của Mệnh gốc hay không?
3, Thiên Can cung Điền Trạch của Đại Hạn có Hóa Kị xung tới cung Điền Trạch của Mệnh gốc hay không?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Kết quả phát hiện được:
* Thiên Can cung Tật Ách của Đại Hạn khiến Hóa Kị xung tới cung Tật Ách của Mệnh gốc (phù hợp với cung đồng loại tương xung)
* Thiên Can cung Tật Ách của Mệnh gốc khiến Hóa Kị lại "Nhập" cung Tật Ách của Đại Hạn (biểu thị sự quan hệ chặt chẽ của 2 cung này), từ sự quan hệ chặt chẽ cho nên lực xung của cung Tật Ách của Mệnh gốc rất hung.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tới bước này, chỉ biết là Tật Ách có hung hiểm, thế nhưng là dạng "Hung sự" gì thì cũng không biết. Cần phải sử dụng cung khởi phi và cung bay đến, cùng với tổ hợp các sao để khởi thì mới có thể hiện lộ ra "Hình tượng".

Hơn nữa, sau khi khảo sát mối quan hệ của cung khởi phi và cung bay đến, rồi mới định ra “Hình tượng” biến hóa khôn lường nằm ở tổ hợp nhóm tinh tú:

Bởi vì, các cung trên lá số gốc là trạng thái tĩnh, đại biểu cho một số đặc tính mà thôi, còn "Vận thế" nhân có Tứ Hóa và các tinh tú xung kích thì mới có hiệu ứng cát hung. Cho nên, cát hung của vận thế, cần phải xem ở mối quan hệ tương hỗ của lá số Đại Hạn. Tong ví dụ này, chính là cung Tật Ách của Đại Hạn làm Hóa Kị nhập vào cung Mệnh của Đại Hạn và đồng thời xung tới cung Thiên Di của Đại Hạn. Mà cung Thiên Di của Đại Hạn lại chính là cung Tật Ách của Mệnh gốc (lá số gốc), đại biểu cho bệnh tật của vận này và việc xuất ngoại có quan hệ. Do phải chịu Hóa Kị xung tới cho nên là hung họa. Vì vậy nên tiếp sau đó, khi giải thích về "Hình tượng" của tổ hợp các tinh tú, liền cần phải theo phương hướng này mà nắm lấy hình tượng đối ứng để giải thích.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cho nên đương số này: Vì bị tai nạn xe cộ nên não chấn thương nghiêm trọng, thận và dạ dày cũng bị tổn thương do vụ va chạm. Bởi vì Văn Xương hóa Khoa của năm sinh bị Kị xung phá, khiến Khoa tinh mất đi tác dụng bảo vệ, thành ra gặp tai nạn trí mạng.

Tiếp tục, sẽ phải tìm ra "Thời gian" phát sinh. Trong những phân tích đã nói bên trên, chỉ biết là nằm trong 10 năm Đại Hạn ấy, sẽ có phát sinh tai nạn xe cộ nghiêm trọng. Mà 10 năm là một quãng thời gian khá dài, nên cũng không thể bảo người ta là trong 3650 ngày thì ngày nào cũng đều phải thấp thỏm đề phòng. Cho nên, từ trong lá số thì việc quan sát các mối quan hệ xung chiếu hội nhập của Tứ Hóa để tìm ra "Thời gian Phát sinh" là trình tự rất trọng yếu. Do thí dụ đoán mệnh này là thuộc về:

Tình huống mà cung Tật Ách của Đại Hạn làm Hóa Kị xung tới cung Tật Ách của Mệnh gốc (đồng loại tương xung). Cho nên, khi Lưu Niên đi tới năm Hợi của (đại) hạn cung Ngọ, thì Hóa Kị xuất ra từ Can cung Tật Ách của Đại Hạn vừa đúng chỗ cung Tật Ách của Lưu Niên, cho nên ở năm đó gặp chuyện không may.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thí dụ này là một thí dụ đoán mệnh rất điển hình, ngoài việc các bạn cần phải nắm vững trình tự suy luận để sáng tỏ rõ ràng từng ly từng tý mạch suy nghĩ, thì cũng cần phải thu thập nhiều thí dụ đoán mệnh. Thế nhưng trên thị trường có rất nhiều sách đoán mệnh ấy vậy mà lại lấy lá số giả tạo không có căn cứ. Hơn nữa, về thí dụ ghi lại không rõ ràng, không còn cách nào truy được tiền căn hậu quả, khiến cho chẳng có cách nào theo dõi ở trên lá số để tìm ra tính quan quan của cung vị đối ứng, cùng Tứ Hóa khởi phi, hay nơi mà chúng bay tới. Cho nên muốn phải tăng cường công lực, phải lấy nhiều ví dụ đoán mệnh thì mọi người mới có thể đi sâu vào giải thích.

#21 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 21/03/2019 - 20:33

CHƯƠNG 20: CÂN BẰNG CỦA MỆNH CỤC ĐẨU SỐ


Quá trình diễn tiến cuộc sống, có thể ví von như là một người đạp lên trên 1 khối cầu không hoàn toàn tròn trịa, ở trên bề mặt nhấp nhô khúc khủy của Thời Gian và Không Gian tạo thành mà tiến về phía trước. Bên ngoài lại còn có kình phong thổi tới, tùy vào các thời điểm khác nhau mà thay đổi hướng. Vì để tránh bị ngã xuống, buộc phải dựa vào tất cả mọi thứ vốn có của mình (tức khối cầu đang dẫm lên), phối hợp với hướng gió thổi đến, né tránh các khu vực lồi lõm, tùy lúc tùy nơi mà thay đổi con đường đi tiếp. Khi thì đi tới, lúc thì đi lui, khi thì né bên trái, khi thì hướng bên phải, và thỉnh thoảng lại thay đổi tư thế của thân thể khiến trọng tâm ổn định. Luôn luôn phải tìm ra một điểm thăng bằng, nếu không sẽ bị té từ trên trái cầu xuống, lại còn phải tùy cơ mà ứng biến, nếu như mất đi thăng bằng thì sẽ sinh ra đủ các loại tai họa như: Bệnh nặng, thất nghiệp, phá sản, ly hôn, tai nạn xe cộ…

Cho nên ở trong Mệnh Cục, chỉ cần có 1 cung nhân sự bị mất đi cân bằng, thì sẽ sinh ra mầm tai vạ. (nói trước một chút, không được ngã từ trên trái cầu xuống, vì ngã xuống là liền mất đi tất cả tài nguyên, tức là biểu thị sự tử vong).

Tử Bình Bát Tự là từ mối quan hệ sinh khắc Ngũ Hành của Thiên Can – Địa Chi trong bát tự mà tuyển chọn lấy Dụng Thần điều hòa gia giảm, lại cùng với mối quan hệ sinh khắc Ngũ Hành theo vận hạn, mà cân nhắc điểm thăng bằng cường nhược ngũ hành, rồi phán đoán biến hóa cát hung vận trình. Cho nên Bát Tự chính là lấy ngũ hành sinh khắc chế hóa xem đã cân bằng chưa để làm tiêu chuẩn cơ bản của quá trình phán đoán vận hạn cát hung.

Tử Vi Đẩu Số thì hoàn toàn không (coi trọng việc) áp dụng mối quan hệ ngũ hành sinh khắc chế hóa để làm tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá có cân bằng hay không, có 3 nhân tố tiêu chuẩn cơ bản được dùng để cân nhắc thăng bằng của Tử Vi Đẩu Số:

* Tổ hợp các Sao
* Tứ Hóa năm sinh
* Mối quan hệ xung chiếu hội nhập của Cách Cục trên lá số Gốc & lá số Đại Hạn.

1. Tổ hợp các sao
Trước tiên bàn một chút về quan hệ cân bằng của tổ hợp các sao. Phàm là an bài lá số, trước hết phải đánh giá tổ hợp các sao của mỗi một cung để quyết định về sự cao thấp tốt xấu của mệnh cục. Giả như sát tinh quần tụ trong một cung nào đó thì nhất định là vấn đề nằm ở chỗ cái cung ấy, trong cuộc sống của người chủ cái lá số ấy, xác định cái cung ấy chủ về người hoặc sự việc gì, dẫn dắt tới chuyện đáng tiếc cả đời. Người viết đã xem qua rất nhiều cung Phu Thê có 2 sát tinh tọa thủ, thì người phối ngẫu của họ nếu không bị đột tử thì cũng là dính líu tới xã hội đen, hoặc hung man tàn bạo. Người có loại tổ hợp ấy rất kỳ quái, cũng không phải điều kiện bản thân họ không được tốt, thế nhưng năng lực kén vợ kén chồng lại không thế nào cao minh được. Ngay trong lúc có rất nhiều người theo đuổi, thường lại chọn trúng kẻ kém nhất. Đương nhiên cũng có bị hoàn cảnh vội vã, mà không phải là không có sự lựa chọn (như kiểu bị thủ đoạn cưỡng ép kết hôn).

Cho nên tổ hợp sao không đẹp, mất đi lực lượng kiềm chế lẫn nhau, tức đại biểu cho sự đánh mất ảnh hưởng thăng bằng, cái cung đó sẽ nổi lên sóng gió, sản sinh tai họa, ngăn trở cuộc sống. Hơn nữa, từ chỗ biểu hiện của lá số Gốc, đại diện cho sự trở ngại ảnh hưởng cả đời, bất kể là trải qua Đại Hạn nào đi nữa cũng sẽ không thay đổi cái ảnh hưởng bất lợi của nó đến cả cuộc đời của đương số. Nếu như cung nào đó của lá số Đại Hạn gặp phải tổ hợp kể trên, thì cái Đại Hạn ấy cũng sẽ có chuyện bất lợi phát sinh ở cung đó, nhưng khi vượt qua cái Đại Hạn ấy thì chuyện bất lợi kia sẽ trời quang mây tạnh. Loại ảnh hưởng của tai họa ở Đại Hạn kiểu này thì chỉ có 10 năm hiệu lực mà thôi. Đây chính là nguyên tắc của việc luận đoán cát hung từ mối quan hệ cân bằng của tổ hợp các sao.

Có người sẽ hỏi: Trong một cung mà có cả cát tinh và lại có cả sát tinh thì phải luận như thế nào đây? Đúng là cái vấn đề ấy làm cho người khác bối rối. Căn cứ cái tiêu chuẩn cơ bản nào để có thể phân định xem tổ hợp sao tọa thủ ở cùng chung một cung thì có làm mất đi sự cân bằng hay không? Phương pháp đánh giá rất đơn giản, có thể quy nạp như sau:

Một, trong cùng 1 cung có từ 2 sát tinh trở lên tụ tập, như đoạn nói về cung Phu Thê ở trên có song Sát xâm nhập đồng cung đã nói rõ.
Hai, sát tinh tuy chỉ có một ngôi, nhưng cùng với Chính tinh tạo thành cách cục ác liệt như các loại là: “Linh Xương Đà Vũ, hạn tới nhảy sông”, “Cự Hỏa Kình dương, cuối đời treo cổ”, “Thái Âm Hỏa Linh, phản thành thập ác”, “Xương Tham cư Mệnh, thịt nát xương tan”,… các bạn đọc đều có thể từ những kinh nghiệm của các bậc tiên hiền lưu lại trong Thái Vi Phú, Phát Vi Luận, Chư tinh Vấn Đáp,… chọn ra các Cách Cục khả tín để áp dụng. Nếu như người viết có thời gian, thì sẽ nói rõ những cổ văn này đã nêu, hiện tại trên thị trường có rất nhiều sách vở giải thích nhưng một số nội dung bị sai lệch, cũng có một số tác giả là học Bát Tự, rồi lại dùng hình thức tư duy của Bát Tự để giải thích khiến phát sinh sai lệch.
Ba, những sao chậm trễ an nhàn, thì ưa được một sao có tính mạnh mẽ nhanh chóng để kích phát, chủ hăng hái có thành tựu. Nhưng mà có từ 2 sát tinh trở lên xâm nhập thì mất đi cân bằng mà đe dọa hung hiểm. Thí dụ như Thiên Đồng thủ Mệnh thì chủ lười biếng, thích hưởng thụ, nếu có Hỏa Tinh đồng cung sẽ kích phát ý chí phấn đấu, nhưng lại có thêm 1 sát tinh nữa xâm nhập thì sẽ trở thành dè dặt, do dự bất quyết, mà bỏ phí rất nhiều cơ hội.
Bốn, tổ hợp tinh tú của Đối Cung và Bản Cung, về cơ bản thì tổ hợp Chính Tinh của tinh hệ Tử Phủ là không thay đổi, còn tổ hợp của các Phụ tinh, Sát diệu thì khá biến động. Giả như có 2 sát tinh chia ra chiếm cứ ở Bản Cung & Đối Cung, thì sẽ sản sinh tác dụng và hiệu lực như dưới đây:

Kiềm chế lẫn nhau: lực lượng của 2 sát tinh kiềm chế lẫn nhau, khiến cho hung lực triệt tiêu, biểu hiện ở những người gặp được trong cuộc sống, rất ngang ngược nên phải tiêu hao rất nhiều tinh lực khắc phục sự phiền nhiễu. Tuy nhiên đều có thể đạt thành mục tiêu, nhưng đã sức cùng lực kiệt rồi, khiến cho thành tựu đạt được giảm đi không ít.

Nối giáo cho giặc: sự cấu kết với nhau của 2 sao đối lập, tăng mạnh ảnh hưởng lực của sát tinh, đối với Chính tinh của Bản cung sinh ra khuếch trương nguy hại hoặc xu hướng hư hỏng. Ở hiện tượng nhân sự, thì có các loại hiện tượng như: cá tính thấp thỏm bất ổn, tráo trở bất thường, tư tưởng quái dị, tính tình thô bạo, tiểu nhân âm thầm phá hoại, kiềm chế, khiến cho tất cả nỗ lực vốn có đều trôi theo nước chảy.

2. Tứ Hóa năm sinh
Ở trên mới thuần túy lấy trạng thái tổ hợp sao để luận về quan hệ cân bằng, chỉ có điều nói về tổ hợp sao nếu có Hóa tinh của năm sinh rơi vào, thì Tứ Hóa năm sinh sẽ sinh ra hiệu ứng tăng giảm về lực lượng cát hung của tổ hợp sao. Nếu như tổ hợp hung ác gặp Hóa Lộc, Hóa Khoa đồng cung, thì có hiệu lực gặp dữ hóa lành, đụng tới lúc cam go thì luôn luôn xoay chuyển ra đường sống, khiến tổn thất rất ít hoặc giữ được tài nguyên. Nếu như Hóa Kị xâm nhập, thì thành ra dâng mỡ miệng mèo, nối giáo cho giặc, khiến cho tổ hợp sao hung ác sinh ra lực phá hoại mạnh mẽ hơn. Nếu như tổ hợp cát lợi gặp phải Hóa Kị đồng cung, thì có ngăn ảnh hưởng ngăn trở, nhưng không tổn hại đến thành tựu, chẳng qua chỉ khiến con đường tới thành công bị vất vả hơn mà thôi. Đương nhiên, nếu như tổ hợp sao cát lợi gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa khoa, thì như là gấm được thêm hoa khiến thành tựu thêm huy hoàng hơn, xuất sắc hơn.

Tứ Hóa năm sinh rơi vào cung dựa theo tổ hợp của nó lại chia ra thành các tình huống: chỉ có 1 ngôi Hóa tinh rơi vào, hoặc 2 ngôi Hóa tinh trở lên rơi vào. 2 ngôi Hóa tinh trở lên rơi vào đồng cung thì e rằng sẽ quá vượng mà làm cho mất đi cân bằng, phản chuyển thành không luận là cát. Nói như thế nào đây? Các cung Tài Bạch và Quan Lộc mà có 2 ngôi Hóa tinh cát lợi rơi vào thì đương nhiên tốt, nhưng các cung vị như Tật Ách, Phu Thê lại không thể quá vượng, nếu như cung Tật Ách quá vượng sẽ chủ thân thể dễ có u bướu dài, mà cung Phu Thê quá vượng thì có ý nghĩa nhiều phối ngẫu. Cho nên, tổ hợp quá vượng cũng phải nhìn kỹ cung vị, giúp cho có được sự giải thích hợp lý, đây là 1 điểm khác để cân nhắc điểm thăng bằng.

3. Mối quan hệ xung chiếu hội nhập của cách cục lá số Gốc & lá số Đại Hạn
Trạng thái thăng bằng của hành vận lại cần phân định như thế nào đây? Đương nhiên là không nằm ngoài 2 yếu tố:
* Tổ hợp sao
* Tổ hợp Tứ Hóa

Tổ hợp sao thì như đã bàn ở phần trước, nhưng mối quan hệ của Tứ Hóa nhất định phải nghiên cứu các mối quan hệ tổ hợp của:
* Tứ Hóa ở các cung của Lá số Gốc
* Tứ Hóa ở các cung của Lá số Đại hạn
mới có thể biết là cân bằng hay không! Đương nhiên Tứ Hóa bao quát 4 ngôi Lộc, Quyền, Khoa, Kị cần được cân nhắc đồng thời, chứ không thể chỉ xem một Hóa tinh nào đó mà thôi. Trên cơ bản thì Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa là cát lợi, còn Hóa Kị chủ không được thuận lợi. Tại đây chúng ta chỉ thảo luận mối quan hệ tổ hợp của Hóa Kị trên lá số Đại Hạn với Hóa Kị trên lá số Gốc, để quyết định trạng thái cân bằng của Mệnh với Vận.

Tốt rồi! Rốt cuộc thì mối quan hệ cân bằng của Hóa Kị trên lá số Gốc & Hóa Kị trên lá số Đại Hạn được định nghĩa như thế nào? Nhớ kỹ một số nguyên tắc căn bản dưới đây:

* Bất luận cung nào hóa Kị tới xung cung Mệnh cũng đều không tốt:
- Cung nào đó của Lá số gốc hóa Kị xung tới cung Mệnh gốc,
- Cung nào đó của lá số Đại Hạn hóa Kị xung tới cung Mệnh của Đại Hạn, hoặc
- Cung nào đó của lá số Gốc hóa Kị xung tới cung Mệnh của Đại Hạn, hoặc
- Cung nào đó của Đại Hạn hóa Kị xung tới cung Mệnh gốc,
Đều là xu hướng bất lợi, đại biểu cho mối quan hệ giữa cung Mệnh và cung nào đó, có xu hướng thoát ly, chia lìa, mất đi.

* Nếu như cung Mệnh hóa Kị xung 11 cung còn lại thì cũng là bất lợi:
- Cung Mệnh gốc hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Gốc, hoặc
- Cung Mệnh gốc hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Đại Hạn, hoặc
- Cung Mệnh của Đại Hạn hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Gốc, hoặc
- Cung Mệnh của Đại Hạn hóa Kị xung tới cung nào đó của lá số Đại Hạn,
Những cái này cũng là có xu hướng giải khai, chia lìa, thoát ra.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



* Cung đồng loại của lá số Gốc không được hóa Kị xung cung đồng loại của lá số Đại Hạn
- Cung Mệnh của lá số Gốc hóa Kị xung cung Mệnh của lá số Đại Hạn,
- Cung Huynh Đệ của lá số Gốc hóa Kị xung cung Huynh Đệ của lá số Đại Hạn,
- Cung Phu Thê của lá số Gốc hóa Kị xung cung Phu Thê của lá số Đại Hạn,
- Cung Tử Tức của lá số Gốc hóa Kị xung cung Tử Tức của lá số Đại Hạn,
- Cung Tài Bạch của lá số Gốc hóa Kị xung cung Tài Bạch của lá số Đại Hạn,
- Cung Tật Ách của lá số Gốc hóa Kị xung cung Tật Ách của lá số Đại Hạn,
- Cung Thiên Di của lá số Gốc hóa Kị xung cung Thiên Di của lá số Đại Hạn,
- Cung Nô Bộc của lá số Gốc hóa Kị xuug cung Nô Bộc của lá số Đại Hạn,
- Cung Quan Lộc của lá số Gốc hóa Kị xung cung Quan Lộc của lá số Đại Hạn,
- Cung Điền Trạch của lá số Gốc hóa Kị xung cung Điền Trạch của lá số Đại Hạn,
- Cung Phúc Đức của lá số Gốc hóa Kị xung cung Phúc Đức của lá số Đại Hạn,
- Cung Phụ Mẫu của lá số Gốc hóa Kị xung cung Phụ Mẫu của Đại Hạn,
Nếu có các tình huống kể trên, thì thì cái cung nhân sự ấy sẽ có phát sinh tình huống bất lợi, nếu là các cung lục thân mà nói thì phát sinh các sự việc ngoài ý muốn, ngã bệnh, tử vong,... nếu mà là các cung sự việc thì phát sinh các sự việc quan tụng, biến động, chuyển nhà, mất tiền,…

* Cung đồng loại của lá số Đại hạn cũng không được hóa Kị xung tơi cung đồng loại của lá số Gốc.
- Cung Mệnh của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Mệnh của lá số Gốc,
- Cung Huynh Đệ của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Huynh Đệ của lá số Gốc,
- Cung Phu Thê của lá số Đại Hạn hóa Kị xung Phu Thê của lá số Gốc,
- Cung Tử Tức của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Tử Tức của lá số Gốc,
- Cung Tài Bạch của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Tài Bạch của lá số Gốc,
- Cung Tật Ách của Đại Hạn hóa Kị xung cung Tật Ách của lá số Gốc,
- Cung Thiên Di của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Thiên Di của lá số Gốc,
- Cung Nô Bộc của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Nô Bộc của lá số gốc,
- Cung Quan Lộc của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Quan Lộc của lá số Gốc,
- Cung Điền Trạch của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Điền Trạch của lá số Gốc,
- Cung Phúc Đức của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Phúc Đức của lá số Gốc,
- Cung Phụ Mẫu của lá số Đại Hạn hóa Kị xung cung Phụ Mẫu của lá số Gốc.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nếu có những tình huống kể trên, thì các cung đương sự sẽ phát sinh các tình huống bất lợi, nếu là các cung lục thân mà nói thì phát sinh các sự việc ngoài ý muốn, ngã bệnh, tử vong,... nếu mà là các cung sự việc thì phát sinh các sự việc quan tụng, biến động, chuyển nhà, mất tiền,…

Giả như một cung vị nào đó của lá số Gốc & lá số Đại Hạn đều xuất hiện một trong những tình huống kể trênthì cái cung vị đó nhất định sẽ sản sinh tai họa.

4. Ứng dụng
Trong khi suy đoán:
* Trước tiên kiểm tra cách cục của lá số Gốc: Xem 1 cung nào đó khiến hóa Kị xung tới cung Mệnh của lá số Đại Hạn, có lúc xung tức là đại biểu cái cung ấy ở cái Đại Hạn ấy đã có tiềm ẩn cái nguyên nhân gây họa rồi. Trở lại kiểm tra cung đồng loại của Đại Hạn: Xem xem có hóa Kị xung tới cung Mệnh gốc hoặc là cung đồng loại của nó trên lá số Gốc hay không. Nếu như mà có bị, thì chứng tỏ là các cung đồng loại ấy của lá số Gốc và của lá số Đại Hạn đã bị mất đi cân bằng. Vì vậy, nhất định sẽ gây hoạ, hình tượng hoặc tình cảnh của tai họa, lại cần dùng tổ hợp tinh tú ở cung đồng loại mà bị xung để làm biểu tượng của hình ảnh sự việc. Nếu như có các sát tinh hoặc Tứ Hóa năm sinh, ắt phải cân nhắc tăng giảm mức độ nghiêm trọng của nó.

Cái mà nó biểu hiện ở trên lá số Gốc, chỉ là gieo Tượng mà thôi, đại diện cho 1 cung nào đó của lá số Gốc bị yếu nhất hoặc vượng quá, làm mất đi thăng bằng. Giống như là bị 1 tên cường đạo lấy dao dí vào bên hông thông thường, phải co phần bụng dưới lại để tránh. Khi ở Đại Hạn sẽ phải chú ý nhiều hơn nữa, từ tất cả mọi cung trên lá số Gốc mà phi xuất Tứ Hóa ra ngoài. Nếu như mà Hóa Kị của cung nào đó trong các cung ấy xung tới cung đồng loại của Đại Hạn hoặc cung Mệnh của Đại Hạn, ắt biểu thị là cái Đại Hạn ấy cần phải lưu ý đến hiện tượng bất lợi của cái cung đó. Nếu như mà Đại Hạn lại còn gặp thêm tình huống mà cung đồng loại xung cung Mệnh thì cái cung đó sẽ mất đi cân bằng, vốn đã bị dí dao rồi lại còn bị xô một phát mà mất thăng bằng, nhất định sẽ khiến cho hung tinh tàn phá làm người thụ thương, nảy sinh tai họa.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#22 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 22/03/2019 - 23:40

CHƯƠNG 21: GIẢI LÁ SỐ NHƯ THẾ NÀO


Tinh túy của Tử Vi Đẩu Số có thể dùng 1 câu như sau để diễn đạt:
Tá Can độn Tinh, giả Tượng hợp Chi ứng Thì.
(Mượn "Can" độn "Sao", vay "Tượng" hợp "Chi" ứng "Thì").
Trong câu này đã chỉ rõ ra quy tắc luận mệnh của Tử Vi Đẩu Số, nhưng rốt cuộc hàm ý của câu này là gì, chương này sẽ đi sâu vào nghiên cứu.

Cầm trên tay 1 lá số được an xong xuôi, trong đó có các ký hiệu Thiên Can, Địa Chi, Tinh Diệu, Tứ Hóa, Đại Hạn, Cung chức v.v… khi phân tích lá số thì rốt cuộc cần phải căn cứ vào dấu hiệu nào để mà mổ xẻ? Những dấu hiệu này đều là các yếu tố cần thiết của sự thành thành lập nên lá số. Trong lúc luận giải lá số, những dấu hiệu này chia ra để nắm giữ quản lý các chức năng khác nhau.

Trên thị trường, có rất nhiều sách vở đều lấy tổ hợp tinh diệu làm chính, hoàn toàn quên sức ảnh hưởng của những ký hiệu khác như Thiên Can, Địa Chi. Điều này là không phù hợp!

Sự vận hành của mệnh vận không phải là chỉ do tự bản thân mình mà hoàn thành được. Nó nhất định phải có sự ảnh hưởng qua lại với các yếu tố Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Nữ, Tài Bạch, Quan Lộc, Điền Trạch mới có thể diễn hóa ra được quá trình mệnh vận muôn màu muôn vẻ.

Phải biểu thị mối quan hệ của sự ảnh hưởng qua lại giữa chúng, thì mới dựa vào những ký hiệu của chúng để mà hiển hiện ra những tín hiệu cụ thể của sự kiện. Do có sự khác nhau về hoàn cảnh, ảnh hưởng của xã hội, cùng với những sự kiện đáng nhớ đã trải qua, gây ra sự thay đổi về Thời Gian và Không Gian. Con người bởi vì thích ứng với sự sự biến đổi Thời Gian và Không Gian, tất nhiên sẽ dựa vào quá trình thích ứng sẽ có một ít cải biến hoặc quyết sách, kết quả của sự hỗ trợ tác động lẫn nhau giữa con người cùng sự vật sự việc sinh ra hiệu ứng cát hung, vận mệnh chính là tại chỗ này mà sản sinh ra.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cho nên trong mệnh bàn, tất cả những yếu tố có thể sử dụng như Thiên Can, Địa Chi, Tinh Tú, Tứ Hóa đều không thể bỏ qua. Khi luận giải mệnh bàn nhất định phải nhìn tổng quan, dựa vào những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của tất cả những yếu tố mệnh bàn sở hữu để suy xét mới có thể phân tích rõ ràng chính xác những nội hàm trong đó. Nếu như chỉ dùng tổ hợp tinh tú để luận mệnh, thường thường sẽ xảy ra sai lầm. Đây chính là nguyên nhân tại sao chỉ dùng có các sao để luận mệnh thường sẽ không ứng với thực tế.

Như vậy những dấu hiệu trong mệnh bàn, rốt cuộc ở trong lúc suy đoán lá số sẽ đóng vai trò gì? Trước hết, bắt đầu nói rõ từ Địa Chi, ở trên khoảng trống của mệnh bàn đã ghi lại một dấu hiệu duy nhất chính là Địa Chi.

Chức năng của bó là biểu thị Thời Gian, bởi vì Thời Gian là nhân tố không thể khống chế, nó là đại lượng thường hằng không thay đổi, biến đổi. Đối với quan lại quyền quý cho tới người buôn bán nhỏ hay kẻ hầu người hạ, thì Thời gian đều là không thay đổi nhịp bước. Từng giây từng phút hướng tới tương lai, vĩnh viễn không quay trở lại. Bất kể là ngoại lực gì cũng không cách nảo cản bước thời gian. Mà Tử Vi Đẩu Số lấy lúc ra đời của một người làm nền tảng cơ bản để phát triển tới thuật đoán mệnh.

Bởi vậy, Thời Gian là tiêu chuẩn cơ bản chung, giúp cho mệnh bàn Tử Vi đẩu số và số phận con người có thể liên kết chặt chẽ với nhau. Cho nên, ở trên khoảng trống của mệnh bàn đã đem Địa Chi in lên. Ở trong Tử Vi Đẩu Số, đem Thời Gian chia làm các loại đơn vị Mệnh, Đại Hạn, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời, mỗi đơn vị chủ quản các khoảng thời gian khác nhau.

Mệnh Gốc chủ quản các đặc tính tổng quát của cả cuộc đời hoặc các đặc tính bẩm sinh, nó là một hình ảnh thô sơ giản lược mơ hồ. Bình thường sử dụng lời miêu tả qua loa để hình dung tất cả các sự vật hiện tượng mà Mệnh Gốc đại biểu.

Bởi vì Mệnh Gốc có thể rơi vào bất cứ một chi nào đó trên 12 Địa Chi, cho nên cái Địa Chi ấy tức là chỗ sở tại của Mệnh Gốc. Bởi vì Địa Chi ấy có thuộc tính Ngũ Hành của nó, những thuộc tính Ngũ Hành này sẽ cùng Mệnh Gốc tương tác mà thay đổi đặc tính. Nhân cái ảnh hưởng sự vật hiện tượng tiêu biểu của nó, nên các Địa Chi ngoại việc biểu thị Thời Gian ra thì thuộc tính ngũ hành ẩn chứa bên trong của chúng cũng sẽ cải biến sự vật hiện tượng hoặc ảnh hưởng tới đặc tính bẩm sinh. Trên thị trường có rất nhiều sách lấy tổ hợp sao tọa trong cung để luận mệnh, phạm vi thảo luận chỉ là ở đây, nó sẽ phát huy sức ảnh hưởng cả đời.

Mệnh cách ở lá số Gốc đại biểu cho đặc tính tổng thể của một cá nhân, nó là một đường bao quát chung về mệnh vận tổng thể của một người. Giống như thân thể của chúng ta, có người cao, có người thấp, có người cao to khỏe mạnh, có người cao mà lại gầy ốm, do mối quan hệ về hình dáng thể trạng mà sau này đối với việc có thể đảm nhiệm đều đã được định hình. Bởi vậy, từ Mệnh cách ở lá số Gốc có thể giải được một cá nhân có thể thành tựu được bao nhiêu về sự nghiệp.

Muốn phân tích mệnh cách cao thấp của một cá nhân, rốt cuộc cần phần tích những điều kiện nào?

Thứ nhất, đầu tiên phải xem sự tốt xấu của các tinh diệu hội họp ở tam phương tứ chính của cung Mệnh, có hình thành cách cục tốt hoặc xấu hay không?
Chú ý, nhất định phải xem Tam Phương Tứ Chính. Tại sao vậy?
Lấy cung Mệnh làm chủ, tam phương chính là Quan Lộc và Tài Bạch, nếu như Quan Lộc rất tốt mà Tài Bạch rất xấu, thì cái tốt tựa như là có người được cộng sự bầu lên làm Chủ tịch, nhưng sản nghiệp của công ty thì lại không được tốt. Suốt ngày bận bịu, hoặc ký phát chi phiếu trả tiền, do vì là người phụ trách công ty nên nhất định phải gánh vác nợ nần của công ty. Đảm đương chức danh Chủ tịch chính là hàm ý có cung Quan Lộc tốt nhưng mà lưng đeo nợ nần của công ty chính là ý cung Tài Bạch kết cấu hung ác.
Các cung khác cũng như vậy, đều phải chú ý kết cấu của tam phương. Không thể chỉ khán bản cung mà thôi. Như xem sự tốt xấu của cung Điền Trạch cần phải xem xét cân nhắc các cung vị hội nhập từ tam phương của cung Điền Trạch: cung Huynh Đệ, cung Tật Ách và cung Tử Tức.
Ở trong Thái Vi Phú, Cốt Tủy Phú đều có nhắc đến các cách cục và các đặc trưng tương quan, hoặc ngay sách này cũng có những chương tiết luận bàn về cách cục, có thể tham khảo.
Trong khi luận cát hung ở góc hình thành độ Tứ Hóa ở trên mệnh bàn; cũng cần phải suy xét cân nhắc cát hung của các cung vị tam phương hội nhập, mới có thể lý giải cung ấy cát tường hay không.

Thứ hai, nếu như mệnh cách có liên quan đến cặp sao Thái Dương & Thái Âm, lại cần phải xem là người sinh ban ngày hay sinh ban đêm.
Thái Dương tốt cho người sinh ban ngày, còn Thái Âm tốt cho người sinh ban đêm, đương nhiên Mệnh cục có Thái Âm lại còn cần xem có phải là người sinh vào đêm trăng tròn hay không? Giả như người sinh ban đêm gặp đúng đêm trăng tròn thì lại càng gia tăng cát lợi, có thể phát huy tối đa ánh sáng của sao Thái Âm.

Thứ ba, cung Mệnh rơi vào cung vị nào? Mối quan hệ sinh khắc chế hóa về ngũ hành của chủ tinh cung Mệnh và địa chi cung vị có quan hệ như thế nào?
Giả như cung Mệnh tại Hợi có sao Thái Âm tọa thủ, chính là vị trí miếu vượng của Thái Âm, cát lợi của nó không thể nói hết. Nếu cung Mệnh ở cung Ngọ có sao Thái Âm tọa thủ, lại là sao ban đêm mà ở cung vị của ánh mặt trời chói lọi giữa trưa, sẽ sản sinh ảnh hưởng không tốt đối với sao Thái Âm, mà biểu hiện ở trên mệnh cách của người là giống như cương liệt quật cường mà không hiểu lý lẽ, có hiện tượng bất lợi đối với người thân mà thuộc giới nữ. Đến đây thì lại đem điều kiện nam mệnh hoặc nữ mệnh thêm vào, nam mệnh có sao Thái Âm sẽ âm nhu sẵn có nữ tính như đã nói, nhưng khi tiến vào vùng của các cung ở phía sau cung Ngọ, mặc dù có những phong thái kể trên nhưng đã giảm đi rất nhiều. Lúc luận giải có thể cân nhắc giúp cho có sự lý giải về sự khác nhau của độ mạnh yếu, những sao khác cũng có thể phỏng theo như vậy để giải thích.

Thứ tư, ảnh hưởng Tứ Hóa của mỗi cung vị trên lá số Gốc.
Ngoài Tứ Hóa của Can năm sinh, còn phải chú ý đến ảnh hưởng Tứ Hóa của mỗi cung vị trên lá số Gốc. Quan sát mối quan hệ Tứ Hóa xung chiếu hội nhập của Ngã cung đối với mỗi một cung vị, thí dụ như:
Cung Huynh Đệ hóa Kị xung ngã Mệnh cung, nhất định giữa anh em trong nhà có nhiều việc xung đột bất hòa, khó được sự giúp đỡ từ anh em. Mọi ngườiị có thể sẽ hỏi: chẳng lẽ không cần phân tích các sao tọa thủ trong cung Huynh Đệ có cát lợi hay không ư? Giả như Thiên Tướng độc tọa cung Huynh Đệ, thì anh em có bất hòa và có dẫn đến tình trạng anh em không tương trợ nhau hay không?
Ở chỗ này phải phân biệt rõ ràng hai chuyện: có thể trong mắt người ngoài là anh em có hòa khí thân thiện, nhưng khi hai người ở chung trong nhà lại không hòa hợp. Tình cảm anh em đối với việc người ngoài nhìn vào là do các sao tọa trong cung Huynh Đệ biểu hiện, còn mối quan hệ chung sống giữa anh em thì lại là từ Tứ Hóa của cung Huynh Đệ để mà biểu lộ dấu hiệu. Hai việc đó không thể gộp lại làm một mà nói.
Về phần giữa Tha-Ngã (Họ và Ta) vì chuyện gì mà tranh chấp? Điều này có liên quan tới Thiên Tướng (sao tọa thủ). Sao Thiên Tướng có đặc tính nhiệt tình vì lợi ích chung, có một số người vốn có tiềm lực, ở trong cái tiềm lực của bản thân mình mà có thể bỏ tiền xuất lực ra để tương trợ cho bạn bè; nhưng cũng có một số người lại từ chối giúp đỡ anh em trong nhà như với bạn bè của mình, do đó mới xảy ra chuyện anh em bất hòa. Cung Huynh Đệ có sao Thiên Tướng tọa thủ, Hóa Kị xung vào cung Mệnh, chính là gây ra cái hiện tượng kiểu này. Đương nhiên, có một số tổ hợp sao tọa thủ ở cung Huynh Đệ cũng gây ra chuyện tình cảm anh em không thể hòa hợp được, và lúc này nếu như Hóa Kị đến xung cung Mệnh thì còn có khả năng không phải là vấn đề đối đãi nữa, mà còn mang ý nghĩa về anh em phải chia lìa xa cách không thể sum họp hoặc là sinh ly tử biệt.

Thông qua việc phân tích 4 tầng lớp (như vừa nói trên), mới có thể hiện ra đặc tính của một mệnh cách, chứ không phải giống như trong sách nói rằng chỉ khán trạng thái hội hợp của tinh diệu tọa thủ tại cung và tam phương tứ chính là có thể luận đoán được đặc thù mệnh cách của một cá nhân.

Thế nhưng liệu có phải là cứ có mệnh cách tốt là có thể được bảo đảm mai sau sẽ thuận buồm xuôi gió, thăng tiến vùn vụt hay không? Việc đó cũng không nhất định, bởi vì sự hoán chuyển của Đại Hạn khiến cho vận trình đi theo chiều thuận hoặc nghịch, các sao tọa thủ trong cung Đại Hạn mới tiến vào cũng sẽ khác biệt, cho nên vận trình sinh ra sự thay đổi lên xuống. Vậy cái nhân tố nào khiến cho vận trình sinh ra sự lên xuống ư? Đi tới các cung vị Đại Hạn khác nhau. Rốt cuộc cần phải cân nhắc nhân tố nào để phán đoán cát hung của Đại Hạn đây? Dưới đây sẽ lần lượt thuyết minh rõ các nhân tố của việc cân nhắc cát hung cho Đại Hạn:

Vận trình chính là trạng thái cát hung hối lận và tất cả những gì đã gặp trong quá trình trưởng thành của một người. Bởi vì, 12 cung vị không cách nào đại biểu cho vận trình cát hung của mỗi một năm, sẽ sinh ra trường hợp cứ 12 năm thì hiện tượng sẽ trùng lặp. Cho nên đem vận trình chia thành các loại đơn vị: Đại Hạn (10 năm), Lưu Niên (năm), Lưu Nguyệt.

Bởi vì mỗi Đại Hạn quản 10 năm vận đồ, mà mệnh bàn có 12 Địa Chi, cho nên mỗi một Đại Hạn cũng sẽ không có sự trùng lặp về Lưu Niên. Bởi vì trong mệnh cách đã định hình thể chất tiên thiên của một cá nhân. Cho nên ở trong vận trình thì các hiện tượng cát hung gặp được sẽ dựa theo sự mạnh yếu của thể chất tiên thiên mà sản sinh lực ảnh hưởng mạnh lên hoặc giảm xuống. Thí dụ như mệnh cách của 1 người đã định hình là tam phương Sát Kị trùng trùng xung củng, vận trình lại bất lợi thì nhất định hung tính sẽ tăng mạnh; nếu như mệnh cách trên lá số Gốc có cát tinh hội tụ tại tam phương, Lộc Quyền Khoa củng, mà vận trình lại tới gặp Sát Kị tụ tập, tuy rằng phải gặp sự trở ngại, nhưng mà lực phá hoại cũng được giảm bớt, chứ không đến nỗi gây ra sự tổn thương to lớn.

Bởi vì mối quan hệ của âm dương nam nữa sẽ ảnh hưởng tới vận trình đi thuận hoặc đi ngược chiều. Cùng một lá số nhưng mà giới tính Nam hoặc Nữ lại tạo ra vận trình Đại Hạn đi thuận chiều kim đồng hồ hoặc đi nghịch chiều kim đồng hồ, do đó vận mệnh cũng sẽ sinh ra những biến hóa khác biệt. Cho nên, nếu luận đoán về số mạng của một người thì nhất định phải đem Mệnh gốc và vận trình cùng nhau cân nhắc thì mới được.

Đại Hạn từ Ngũ Hành Cục Số của cung Mệnh xác định số tuổi bắt đầu và kết thúc, chủ nắm giữ về việc lên xuống của 10 năm vận thế, so với Mệnh gốc, nó có thể miêu tả chi tiết hơn về hình ảnh của sự vật hiện tượng. Nói cách khác, thông qua việc phân tích tầng lớp của Mệnh gốc (bản mệnh) và Đại Hạn, thì tới giai đoạn Đại Hạn sẽ có thể miêu tả chính xác hơn những hình ảnh của người, sự vật.

Đại Hạn cứ 10 năm chuyển đổi 1 lần, sức ảnh hưởng của Đại Hạn chỉ có hiệu lực ở trong số tuổi 10 năm thuộc Đại Hạn đó mà thôi. Một khi đi đến Đại Hạn sau, lực ảnh hưởng của các cát hung tinh, Kị Sát Lộc Khoa… hội nhập ở tam phương tứ chính của Đại Hạn ấy liền suy vi biến mất. Thế nhưng những tính cách của đương số được bồi dưỡng ở trong Đại Hạn đó, lại sẽ theo Đại Hạn di chuyển mà kéo dài tiếp. Trường hợp này cần không thể xem thường cũng không thể phủ định.

Có một số người có tổ hợp (sao) trên lá số Gốc vốn không tệ, nhưng ở Đại Hạn lúc trưởng thành lại gặp phải tổ hợp cực ác liệt, cho nên tiếp nhận sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ đạo trong Đại Hạn đó mà nuôi thành các thói quen không tốt. Tuy nhiên vượt qua được cái Đại Hạn đó thì cũng không thể lập tức dứt bỏ hoặc thay đổi những dắt bỏ thói quen đó. Những tập tính, thói quen này cũng sẽ ảnh hưởng tới vận trình trong Đại Hạn tiếp theo. Cho nên, trong lúc luận đoán Đại Hạn thì không được quên lực ảnh hưởng của loại hiện tượng này. Bởi vì, nhân tài là cần phải bồi dưỡng, trong quá trình trưởng thành đã tiếp nhận giáo dục tại trường học, giáo dục của gia đình, giao du với bạn bè, hoàn cảnh chung quanh, giáo dục của xã hội cùng tạo nên một nhân cách cá nhân, cái này nhất định sẽ ảnh hưởng số mạng của một người. Những bậc làm cha mẹ, thầy cô, quản lý liệu có thể không cẩn thận được ư?

[Có người nói rằng: có kẻ tuy các sao thủ cung Mệnh không tồi nhưng có hành vi dơ bẩn ti tiện, là bởi vì sao tọa thủ cung Thân quá tồi hoặc cái gọi là địa bàn không được tốt mà đưa đến nhận định trên. Tôi là tôi không tán thành sự lý giải này.]

Phán đoán cát hung của Đại Hạn thì phải cân nhắc nhiều nhân tố, so với xét mệnh cách phải phức tạp hơn nhiều. Đại Hạn sẽ cùng Mệnh gốc tác dụng lẫn nhau, diễn hóa thành các dạng hiệu ứng cát hung, do vậy phải cùng lúc nhận định đối chiếu cả mệnh cách ở lá số Gốc và Đại Hạn thì mới có thể biết xu thế của cát hung họa phúc.

Cho nên lúc suy đoán cát hung của Đại Hạn, phải đặt Mệnh Gốc ở vị trí thứ nhất. Chúng ta có thể ví von, Mệnh Gốc là nền móng của công trình, Đại Hạn thì là nhà cửa ở bên trên, nếu như nền móng vững chắc kiên cố, thì có thể đắp nhà cao tầng. Nếu như là nền móng yếu, thì chỉ có thể dựng lều mà thôi, tới khi gặp phải mưa to liền sụt lở tạo thành đại họa. Còn như nhà lầu xây trên nền móng kiên cố, tuy rằng gặp phải mấy ngày liền mưa to tối đa chỉ là tường bị thấm nước mà thôi chứ không gây nên nguy hại lớn. Tương tự, nếu như đương số có một mệnh cách kiên cố vững chắc, gặp phải Đại Hạn bất lợi chỉ sẽ gây nên tổn hại nhỏ; nếu như mệnh cách phù phiếm vô lực, lúc gặp phải Đại Hạn không tốt thì tạo thành thương tổn nghiêm trọng. Bởi vậy, khán vận trình Đại Hạn thì nhất định phải đem Cách cục của lá số Gốc phối vào để suy xét thì mới có thể cân nhắc chính xác sự tốt xấu của Đại Hạn sẽ gây ra lực ảnh hượng mạnh yếu đối với mệnh cách.

Yếu tố thứ hai của việc cân nhắc vận trình cát hung của Đại Hạn chính là tình hình phân bố của Tứ Hóa Đại Hạn. Quan sát xem bố cục hình thành của Tứ Hóa Đại Hạn bay vào các cung vị tại lá số của Đại Hạn và mối quan hệ của sự [Xung, Chiếu, Hội, Nhập] vào tam phương của cung Mệnh của Đại Hạn biểu thị thế nào? Và cả mối quan hệ của sự [Xung] hoặc [Chiếu] hoặc [Hội] hoặc [Nhập] với cách cục trên lá số Gốc. Giả như có hình thành quan hệ kể trên, thì hiệu ứng cát hung sẽ biểu hiện tương đối mạnh và rõ, nếu không thì lực hơi yếu.

Trở lại kiểm tra kết cấu tổ hợp sao tọa thủ trong cung Đại Hạn hiện ra là cát hay hung, các kết cấu tổ hợp tinh diệu cát hung này vốn có giải thích ở trong các sách vở của tiền nhân có thể tham khảo. Về cơ bản, ngoại trừ tổ hợp có chứa hung tinh mà có thể trở thành cách cục cát lợi (như Linh Tham cách), chỉ cần gặp hung tinh nhập vào tổ hợp tinh diệu tất sẽ không tốt.

Lưu Niên chủ nắm giữ tốt xấu của vận khí 1 năm, lực ảnh hưởng của nó chỉ gói gọn trong 1 năm mà thôi. Trên cơ bản nó tiếp nhận những chuyển biến diễn hóa từ Mệnh Gốc, Đại Hạn, để mà ứng nghiệm ở trong Lưu Niên. Trong quá trình hình thành sự kiện nó có vai trò bị động, chúng ta không thể dùng tổ hợp tinh tú Lưu Niên hoặc Tứ Hóa Lưu Niên để phân định xem trong năm Lưu Niên ấy sẽ phát sinh ra chuyện gì. Thế nhưng khi suy tính xem vào ngày nào sẽ phát sinh thì phải căn cứ vào quan niệm Thiên Địa Nhân bàn. Lưu Niên cho phép suy tính được [Ngày] xảy ra sự kiện.

Bởi vì có 12 Địa Chi phối hợp 12 tháng, cho nên từ Đại Hạn suy tính cái [Tháng] xảy ra sự việc là khá đơn giản. Nhưng một tháng có 30 ngày mà lá số chỉ có 12 Địa Chi, cho nên sẽ có Địa Chi có đến 2 hoặc 3 ngày ở trên cung đó.

Muốn tìm ra ngày nào sẽ là ngày ứng nghiệm sự kiện ư? Cái này cần dựa vào linh cảm, người viết vẫn chưa thể hoàn toàn nắm vững được cơ chế triển khai suy luận. Chỉ có điều trong sách này tiếp nhận sử dụng 1 thí dụ luận mệnh do một vị cao thủ Tử Vi Đẩu Số lão thành ở Nhật Bản cung cấp, chính là dùng để nói rõ suy tính Lưu Nhật phát sinh, các vị có thể tham khảo. Trong đó đem mối quan hệ của Đại Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật cùng nói rõ một lượt.

Địa Chi của Lưu Niên lại chính là tên gọi của Lưu Niên, thí dụ như năm Bính Tý thì cung Mệnh Lưu Niên ngay cung Tý. Địa Chi lại chính là điểm then chốt của tên gọi Lưu Niên, và cung vị sở tại của Tiểu Hạn là khác nhau. Về phần Tiểu Hạn, người viết không sử dụng, cái này là sự tâm đắc của người viết qua nghiệm chứng gần 1000 ví dụ luận mệnh. Nếu muốn đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa Tiểu Hạn và việc phát sinh sự kiện, các vị có thể tiến hành nghiệm chứng thêm một chút về độ chuẩn xác của nó.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tổ hợp tinh tú còn có công năng đại biểu cho điều gì?
Mọi người đều biết lúc muốn miêu tả một sự kiện, thì 5 yếu tố “Người”, “Việc”, “Thời”, “Nơi”, “Vật” là không thể thiếu. Tương tự, trong lúc suy luận mệnh bàn thì chúng ta cũng mong mỏi từ trong đó lựa ra 5 yếu tố này để hình dung sự kiện. Như đã nói trước đây, Thời Gian phát sinh sự kiện là do Địa Chi hiển hiện. Vậy thì rốt cuộc mối quan hệ giữa "Người, Nơi, Việc, Vật" và "Can cung, Cung chức, Tổ hợp tinh diệu" hình thành như thế nào?

Khi phân tích vấn đề này, hiểu ra được những chuyện gì? Chúng không phải là mối quan hệ tay đôi một đối một mà những yếu tố này ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Nói cách khác thì Cung chức vừa có thể có thể đại biểu Người, lại cũng có thể đại biểu Vật, còn Tổ hợp tinh diệu vừa có thể đại biểu Nhân vật, lại cũng có thể đại biểu Phẩm vật. Không như Thời Gian chỉ do mỗi mình Địa Chi đại biểu, mà Cung chức, Can cung, Tổ hợp tinh diệu phải nhất định được phối hợp sự ảnh hưởng lẫn nhau để hiển hiện lên Người – Việc – Nơi – Vật.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Phải phối hợp các ảnh hưởng lẫn nhau ấy như thế nào? Điểm then chốt ở bên trong chính là Can cung, từ 4 ngôi Hóa tinh diễn hóa ấy mà xâu chuỗi các Cung chức và Tổ hợp tinh diệu, khơi ra ảnh hưởng diễn hóa mà nhận ra được hình tượng của Người – Việc – Vật. Do vậy, hình ảnh của Người – Việc – Vật không phải chỉ đơn thuần do một mình cung chức biểu hiện, cái này có chỗ khác biệt đối với sở học trước đây của quý vị cũng như so với các sách đang bán trên thị trường ghi lại về từng cung từng sao. Sở dĩ việc giải thích của sự hiển hiện về hình tượng nào đó là khác nhau mà trải qua sự phối hợp mệnh vận ảnh hưởng qua lại chính là một loại động thái thể hiện ra vận thế, cho nên giải thích như bên trên sẽ như:

Sự lý giải của việc phối hợp ảnh hưởng [Anh chuyển nhà sẽ kiếm được tiền] hoặc [cưới chồng thì mẹ chồng sẽ chết trong vòng 3 tháng]. Trong những lý giải này, đem 2 cung vị của Tử Vi Đẩu Số: [Điền Trạch & Tài Bạch], [Phu Thê & Phúc Đức] kết hợp với nhau để đồng thời phân tích. Chính là sử dụng Can cung Điền Trạch phi Tứ Hóa tiến nhập cung Tài Bạch, đem quan hệ liên kết của hai cung tạo ra, rồi cân nhắc lý giải về trạng thái tổ hợp tinh diệu thu được.

Đương nhiên, việc xem kỹ mối quan hệ trùng điệp giữa một cung nào đó của Đại Hạn là loại cung nào của lá số Gốc thì cũng không được xem thường. Nếu như, cung Tài Bạch của Đại Hạn và cung Nô Bộc của lá số Gốc trùng điệp thì cát hung về tiền tài của Đại Hạn ấy sẽ có sự liên quan rất lớn đến bạn bè nô bộc. Đó chính là Phép xem (khán pháp) từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị giữa lá số Gốc và Đại Hạn để mà giải thích hình tượng sự vật.

Cho nên Tứ Hóa chính là Dụng thần của Đẩu Số, thông qua tác động của Tứ Hóa mới có thể đem các cung nhân sự độc lập để mà liên kết lại với nhau, khiến cho giữa chúng sản sinh tác động lẫn nhau. Thông qua sự diễn hóa tầng tầng Tứ Hóa của Đại Hạn và lá số Gốc làm sự tăng mạnh hoặc giảm nhẹ ảnh hưởng thì mới có thể khiến cho sự kiện được thành tượng hay là khiến cho sự kiện tiêu tan đi.

Nhân đây, chúng ta sử dụng hình 1 để nói rõ, bởi vì cung Phu Thê có [Thiên Đồng, Thiên Lương Quyền, Thiên Hình, Đà La] tọa thủ, mà cung Mệnh Gốc làm Thiên Đồng hóa Kị nhập vào cung Phu Thê, cung Mệnh của Đại Hạn làm Thiên Lương hóa Lộc nhập vào cung Phu Thê, hình thành việc cung Phu Thê đồng thời tiếp nhận sự tiến đến bởi Hóa Lộc và Hóa Kị của 2 ngôi sao khác nhau do 2 cung vị khác nhau. Loại tình huống này khác với tình huống cùng là một ngôi sao vừa Hóa Lộc vừa Hóa Kị, có ý rằng [bản thân mâu thuẫn, nội tâm xung đột]. Bởi vì [Hóa tính] của 2 ngôi sao đều sẽ đồng thời tồn tại nguyên cớ ở cái cung vị ấy. Đây là hiện tượng không thể xem thường khi luận giải mệnh bàn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Từ Can cung của Cung chức phi Tứ Hóa nhập vào một cung vị nào đó liền đại biểu cho sự hình thành mối quan hệ của cung khởi phi và cung nhập vào thông qua Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hay Hóa Kị. Hơn nữa còn là từ cung khởi phi chủ động, còn cung nhập vào chỉ là nơi bị động tiếp nhận Tứ Hóa nhập vào.

Ví dụ như: cung Mệnh có can Mậu, hóa Tham Lang thành Lộc nhập vào cung Huynh Đệ thì là do ta chủ động quan tâm anh em, giúp đỡ anh em nhưng anh em có ấm lòng tương tự đáp lại ta hay không? Sẽ phải xem Can cung Huynh Đệ phi Tứ Hóa nhập cung vị nào của mệnh bàn để đi tới quyết định.
Trong lúc phân tích, vẫn phải chú ý là cái sao nào tham gia vào Tứ Hóa? Cùng là hóa Lộc như các sao Liêm Trinh (can Giáp), Thiên Cơ (can Ất), Thiên Đồng (can Bính)... thì liệu có phải là mỗi một ngôi sao ấy hóa Lộc đều đại biểu ý nghĩa giống nhau hay không?

Không! Giữa chúng có khác biệt, các ngôi sao khác nhau hóa Lộc sẽ thể hiện ra các hình tượng khác nhau. Còn việc nhập vào các cung vị khác nhau cũng sẽ có các giải thích khác nhau. Trong khi giải thích hình tượng Người – Việc – Nơi – Vật, cần phải cân nhắc sự khác nhau trong đó để mà thay đổi các loại hình tượng. Trong việc cân nhắc cần phải tham khảo ba điều dưới đây:
Thứ nhất, cung khởi phi và cung nhập vào.
Thứ hai, là sao nào tham gia Tứ Hóa.
Thứ ba, là tổ hợp tinh diệu.

Điều thứ nhất và thứ hai như đã nói ở trước, điều thứ ba cũng là nhân tố rất quan trọng. Nếu như tổ hợp tinh diệu không đẹp, dẫu là hóa Lộc tiến đến cũng là sản sinh ảnh hưởng tiêu cực, làm tiêu giảm lực tốt đẹp của hóa Lộc. Thí dụ như, tuy rằng cung Tử Tức hóa Lộc tiến nhập cung Mệnh của ta, con cái hiếu thuận ta, nhưng sao tọa thủ cung lại là các sát tinh như Hỏa Tinh, Đà La, Hóa Kị, Thiên Không (Địa Không), thì con cái có thể là hạng lưu manh, ngược lại khiến cho ta lo lắng con cái liệu có phạm pháp, ngồi tù hay không. Mặc dù rất hiếu thuận nhưng xin hỏi trường hợp này là cát hay hung?

Do đó, khi giải thích ý tượng của tinh diệu, phải phối hợp đồng thời cả Tứ Hóa và Tổ hợp tinh diệu mới có thể biết chính xác cát hung, không được chỉ xem mình Tứ Hóa mà thôi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thông qua trình tự kể trên lần lượt mổ xẻ là có thể giải ra các bí mật được giấu ở mệnh bàn, cũng là giải pháp để phân tích Lưu Niên, Lưu Nguyệt… Phỏng theo trình tự này cũng có thể giải ra được câu đố của lá số Lưu Niên, Lưu Nguyệt. Đương nhiên mối quan hệ của đơn vị thời gian khác nhau, nhất định phải áp dụng vào quy tắc Thiên Địa Nhân bàn để đi tới phân giải, xin mời tham khảo chỗ nói về Thiên Địa Nhân bàn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 7 Members:

#23 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 23/03/2019 - 20:23

CHƯƠNG 22: THUYẾT KHÍ VẬN LƯU CHUYỂN


"Khí" là một danh từ rất trừu tượng, ở trong Y học, Nhân Tướng học truyền thống của Trung Hoa đều có rất nhiều chỗ nói tới "Khí" nhưng nó nhìn không thấy, cũng sờ không tới, càng khó sử dụng văn từ đễ diễn đạt. Bởi vậy, trong khi đọc văn từ giải thích, nhất định phải phỏng đoán thông hiểu ý tứ, mới có thể lĩnh hội sự ảo diệu mà về sau hiểu rõ trong lòng, từ trong đó mà vận dụng linh hoạt. Ở trong Đẩu Số, cũng có vấn đề của "Khí".

Các Thiên Can, Địa Chi, Tinh tú ở trên mệnh bàn, có thể biến hóa thành vạn sự vạn vật, chất chứa sự kỳ diệu của Thiên địa tạo hóa. Nhưng khó để nói cho rõ ràng, chỉ là viết ẩu vài chữ mà thôi, không thể nói hết cái ảo diệu bên trong. Các sao dựa vào Thiên Can mà hóa thành Tứ Hóa nhập vào các cung vị, biến hóa thành Tứ Hóa phi tinh của vạn sự vạn vật, chính là vấn đề vận chuyển "Khí" trong Đẩu Số. Trên mệnh bàn, chúng có thể dựa vào các Can cung mà biến hóa nhập vào cung vị khác nhau. Lại từ cung vị khác biệt tái phi hóa Tứ Hóa nhập vào cung khác nào đó nữa, rồi lại có thể tái chuyển phi Tứ Hóa đi tiếp nữa, đây chính là "Khí vận lưu chuyển" của Phi tinh Tử Vi Đẩu Số.

Trước đây đã từng nói qua về cách hiểu đối với việc tinh tú có [tại Số] và [hóa Khí], trong đó [hóa Khí] chính là sự biến hóa sản sinh ra từ các tinh tú sau khi trải qua tác động của Thiên can Tứ Hóa mà ảnh hưởng đến tính chất của chúng, như: Sao Liêm trinh, căn cứ chương Ngũ Xuẩn sách Hàn Phi Tử có nói: Nay anh em bị (kẻ xấu) xâm lấn thì nhất định người tấn công (kẻ xấu) là Liêm vậy; biết bạn bè bị (kẻ xấu) làm nhục thì người oán hận (kẻ xấu) là Trinh vậy; hành động của Liêm Trinh trọn vẹn, nhưng phạm vào phép vua vậy. (Sự sáng tạo của các bậc tiên hiền trong môn Đẩu Số là rất có học vấn)

Đó là ý nghĩa gốc của nó. Trải qua tác động thúc đẩy biến hóa của Thiên can Bính: Liêm Trinh hóa Kị, đặc tính của sao Liêm trinh như nói trên hoặc như tính chất của phần giảng trong [chương phú văn giải thích tính chất sao] đã nói. Thông qua Thiên can Bính thúc đẩy biến hóa mà vi phạm tới pháp luật của nhà nước, sẽ phải bị nhốt vào nhà giam. Cho nên "Liêm Trinh hóa Khí gọi là Tù"; Nếu như là Thiên can [Giáp] khiến cho [Liêm Trinh hóa Lộc] thì ắt biến thành công chức chấp pháp chủ trì chính nghĩa, giữ gìn pháp luật. Đây chính là sự lý giải rõ về [hóa Khí] của sao Liêm Trinh.

Còn sự lý giải rõ về [tại Số] của nó: Sẽ phải xem là nó đang ở một cung vị nào đó để quyết định các giải thích về nó, như ví dụ này là ở 2 cung vị [cung Quan Lộc] và [cung Mệnh] để giải thích. Bởi vậy việc giải thích hình ảnh một sao thì cần phải phân biệt sao đó tại cung chức khác nhau, mỗi cung đều khiến sao đó có một ý nghĩa sở chủ khác nhau.

Sự lý giải về [hóa Khí] của tinh tú: các sao thông qua tác động của Thiên can Tứ Hóa mà biến đổi tính chất của nó. Có thể chia thành 4 loại biến hóa là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị. Sau khi trải qua sự thúc đẩy biến hóa bởi Thiên can mà phản ứng và xuất ra năng lượng cát hung của chúng. Điều khác biệt là, tại cung chức khác nhau thì có cách giải thích hình tượng khác nhau.

Nhất là rất nhiều người mới học, đem Tứ Hóa và Hóa tinh gộp lại để bàn luận, rất dễ lẫn lộn không rõ. Cần phải đem Hóa tinh và Tứ Hóa tách biệt ra để mà thảo luận, lối suy nghĩ mới có thể rõ ràng, minh xác.

Mặt khác, sự biến hóa của Hóa tinh có thể chia làm 2 loại tình huống:

1, Hóa tinh do Thiên can cung chức (chỗ mà nó) tọa lạc, hóa thành Tứ Hóa phi xuất đi.
Ví dụ như: (hình 1) cung Mệnh tại Tý có sao Thiên Lương tọa thủ, can cung là Giáp, can Giáp có Tứ Hóa là:
Liêm Trinh hóa Lộc ở Phụ Mẫu ---- hiếu thuận với cha mẹ.
Phá Quân hóa Quyền ở Nô Bộc ---- có năng lực lãnh đạo, quan tâm bạn bè.
Vũ Khúc hóa Khoa ở Nô Bộc ------- là quý nhân của bạn bè, trợ giúp bạn bè.
Thái Dương hóa Kị ở Thiên Di ---- trong lòng háo hức tin tức về thế giới sôi động bên ngoài, thích hợp đi ra bên ngoài phát triển.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Lấy "Mệnh" mà nói, Tứ Hóa từ cung Mệnh phi xuất đi, đại biểu ý nghĩa là từ bản thân mệnh tạo (đương số) đi "Quan tâm" người khác / tha cung, cho nên là hành vi của bản thân.

Theo "Khí thế" mà nói, khi Đại Hạn đi vào cung Phụ Mẫu, Nô Bộc, Thiên Di, bởi vì Tứ Hóa từ cung Mệnh Gốc phi đến, cho nên vận đồ của 3 Đại Hạn và Tứ Hóa cung Mệnh Gốc có sự liên quan mật thiết.

Như khi Đại Hạn tiến vào cung Phụ Mẫu, căn cứ vào mối liên hệ cung Mệnh phi hóa Lộc vào cung vị, cho nên Đại Hạn này khá thuận lợi cát tường.

Nếu lúc Đại Hạn tiến vào cung Nô Bộc, căn cứ vào mối liên hệ với vị trí tọa thủ của hóa Quyền, hóa Khoa, cho nên Đại Hạn ấy khá quyết chí tự cường, có ý chí phấn đấu, mà lại nhiều quý nhân tương trợ, lời nói rất có trọng lượng với bạn bè. Nhưng lúc đi vào Đại Hạn cung Nô Bộc, cũng là Đại Hạn từ 54 - 63 tuổi, chính là lúc về hưu, cho nên vận trình tuổi già chắc chắn vất vả khó nhọc.

Khi đi đến Đại Hạn 64- 73 tuổi, bởi vì chính là cung vị mà cung Mệnh khiến Thái Dương hóa Kị nhập vào, nên Đại Hạn ấy chắc chắn bất lợi, người lớn tuổi cẩn thận đề phòng các loại bệnh tật cao huyết áp, bệnh tim, trúng gió.

Ở trên là những ảnh hưởng của “Mệnh” & “Vận Thế” từ việc cung Mệnh phi Tứ Hóa vào các cung. Đương nhiên, nếu là khi "Chiếu" các cung Đại Hạn, thì cũng có thể phỏng theo cách giải thích như trên.

2, Hóa từ những Can cung chức khác phi Tứ Hóa tiến đến ngã cung
Loại hiện tượng này chính là Can của những cung chức khác khiến cho một Hóa tinh tọa trong cung nào đó sản sinh ý nghĩa biến hóa của Tứ Hóa.
Ví dụ như: (hình 2) cung Mệnh ở Thìn, có sao Tham Lang tọa trong cung, can cung là Mậu.
Cung Mệnh can Mậu ---- Tham Lang tự hóa Lộc, chăm lo nhân duyên, nói chuyện nhân tình (chuyện của chính mình)
Cung Phụ Mẫu can Kỷ ---- Tham Lang hóa Quyền, cha mẹ và các bậc trưởng bối hài lòng với ta, coi trọng ta.
Cung Nô Bộc can Quý ---- Tham Lang hóa Kị, bạn bè quan tâm ta, nói chuyện nghĩa khí.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Lấy "Mệnh" mà nói, phàm là Tha cung phi hóa nhập Ngã cung, đều là người khác đem tới cho ta, gây ra cho ta, còn mệnh tạo (đương số) chỉ là tiếp nhận mà thôi.
Lấy "Vận thế" mà nói, cung Mệnh Tham Lang tự hóa Lộc biểu thị khi còn bé cũng rất có nhân duyên, chiếm được sự yêu mến của mọi người. Lúc Đại Hạn đi vào cung Phụ Mẫu, do ở tại đây quan hệ hóa Quyền, tràn ngập lòng cầu tiến, nỗ lực tiến thủ, giàu sức sống, cũng dễ có được sự trọng dụng hoặc đề bạt của trưởng bối, thầy cô (bởi vì cung Phụ Mẫu vừa chủ thầy cô, trưởng bối, người quản lý).

Còn như cung Nô Bộc hóa Kị nhập vào cung Mệnh ta, vì hóa Kị chủ tình nghĩa, quan tâm về mặt tinh thần mà thôi, không chủ vật chất, cho nên không được có giao dịch tiền bạc qua lại với bạn bè, nếu như có thì thường kẻ tổn thất chính là mình. Khi Đại Hạn đi vào cung Nô Bộc, bởi vì phi hóa Kị nhập cung Mệnh cho nên Đại Hạn ấy nhất định không được thuận lợi, thân thể nhiều bệnh, ước đoán có bệnh dẫn đến tử vong bởi vì cung Mệnh Gốc đã biến thành cung Tật Ách của Đại Hạn.

Hai loại tình huống kể trên, đều là thuộc về sự lưu chuyển của Khí. Trong một đời người, vận thế có mạnh yếu, có lên xuống, chính là ở sự lưu chuyển của phi tinh Tứ Hóa dẫn đến. Phối hợp trạng thái tổ hợp các sao trong cung Đại Hạn để phân định vận thế mạnh yếu lên xuống , giống như sự lưu chuyển của bốn mùa.

Mùa Xuân đến rồi, sẽ phải trồng trọt, gieo hạt.
Mùa Hè đến rồi, sẽ phải làm cỏ, bón phân.
Mùa Thu tới, sẽ thu gặt, phơi nắng.
Mùa Đông tới, sẽ tồn trữ lương thực cho tốt qua mùa Đông.

Trong một đời người cũng vậy, phải tùy theo thời mà nỗ lực, biết tiến biết thủ, chờ đời thời cơ mà hành động, sáng lập thành công, tiến để bảo tồn thành quả, tổ chức lâu dài. Nếu như không tuân theo trình tự bốn mùa mà làm, ngược lại nếu như đi ngược đường thì sự thất bại chỉ là vấn đề thời gian.

Hình ảnh Hóa Kị của Tứ Hóa phi tinh kiểu này, phân bố vào tam phương của Mệnh gốc, nhất định là cuộc đời lận đận, vận hạn công việc tiến thoái khốn quẫn. Lại có thêm "Kị tinh" tới xung, nhất định thất bại. Cho nên sao hóa Kị lấy xung là hung nhất, bay tới phân bố ở phương Tam Hợp của đối cung là kém hơn. Nếu như có thể thuận thế mà làm, thủ thế mà phát, thì mới có thể làm từ một nửa mà thành gấp đôi.

Đường bay của Hóa tinh của Tứ Hóa khởi phi, nhập vào, lại tái chuyển hóa, có 2 loại hiệu dụng: Thu liễm và phát tán. Các loại hiệu dụng này khiến cho vận đồ sản sinh nước ngoặt lên xuống. Cho nên con đường phi hóa của Tứ Hóa phi tinh đã hàm chứa bên trong nó mối quan hệ nhân quả cát hung của sự kiện.

Cũng có thể dựa vào quan sát "Bề ngoài của người" mà sẽ nhận ra khí thế và tinh thần của một cá nhân, nhưng cách này chỉ có thể dựa vào hiện trạng ở kề cận mới xem được. Nếu như đã trang điểm quá mức hoặc là quan sát khí sắc 3 tháng nữa, thì không thể nhìn ra được để mà phán đoán nếu chẳng được trời ban cho "Con mắt thấy được tương lai". Nhưng mà thông qua lá số thì không gặp phải những hạn chế đó.

Hóa từ Tha Cung nhập Ngã Cung hoặc từ Ngã Cung hóa nhập Tha Cung, lại từ Can cung mà Hóa nhập để tái chuyển phi Tứ Hóa nhập các Tha Cung khác,
Loại này tức là "Cung nào đó" hóa Lộc nhập cung A, Thiên can cung A lại tái chuyển hóa Lộc nhập cung B, phương thức phi hóa của Thiên can cung B lại tái hóa Lộc nhập cung C, chính là đại biểu cho việc sử dụng "Lộc khí" của cung nào đó phi hóa cấp cung A, cung B, cung C. Bởi vì Hóa phi xuất đi, có thể thu hồi hay không thì phải xét xem sau chuyển hóa thì có sự quay trở lại cái "Cung nào đó" hay không? Nếu như có quay trở lại cái "Cung nào đó" thì đại biểu là "Trạng thái thu liễm", Lộc tinh hóa xuất đi có thể thu trở về.

Nếu như Hóa xuất đi cung A, cung A chuyển hóa nhập cung B, mà Can cung B tự hóa, thì đại biểu Khí bị tiết ra, nếu là "Hóa Lộc", biểu thị "Lộc khí" sẽ bị tiết lộ mất ở "cung B". Loại này thuộc về "Trạng thái Phát tán", không cách nào thu về của Hóa xuất đi, mà hiện ra ý nghĩa "Hung", bởi vì là trao đi mà lại không có biện pháp để thu về.

[Tác dụng Thu liễm] và [Tác dụng Phát tán]:
Con đường khởi phi của Tứ Hóa và diễn tiến của việc tái chuyển phi Tứ Hóa, đại biểu cho sẵn có mối liên hệ nào đó giữa cung khởi phi và cung nhập vào. Nếu quá trình phi hóa không có Tự Hóa, đại biểu cho [Tác dụng Thu liễm] sẵn có, trao đi lại có thể thu về.
Nếu có cung vị Tự Hóa hoặc Hóa xuất, thì đại biểu cho [Tác dụng Phát tán], khí phát đi bị tiêu hao mất, không có cách ào để thu hồi.

[Khí vận Lưu chuyển]:
Phương thức phi tinh của loại này là cung nào đó khởi phi Tứ Hóa, nhập vào cung nào đó, lại từ cái cung nhập vào ấy tái chuyển phi Tứ Hóa gọi là [Khí vận Lưu chuyển].

Trong mệnh bàn:
Phương thức phi hóa của Cung nào đó phi Tứ Hóa rồi lại tái chuyển hóa Tứ Hóa nhập vào cung nào đó, biểu thị sự Lưu chuyển của Khí. Thường những nơi mà khí liên thông, chính là có tồn tại tính liên quan chặt chẽ với cung phát xạ. Đây chính là Khí thế của lá số. Nó có thể dựa vào đây quan sát khí vận mạnh yếu tốt đẹp của cả đời đương số, không cần lại đi xem thêm về "Sắc mặt" của người, có thể tránh được hạn chế về Thời Gian hoặc về "Thực thể".

Có rất nhiều ví dụ luận mệnh cho thấy, có một số mệnh bàn mà tam phương hội sát, cách cục bị phá, nhưng là mệnh giàu có nhất một phương hoặc quyền uy nhất một thời. Sự khác biệt trong đó ở chỗ: "Lưu chuyển của Khí thế" cho đến những người có cùng mệnh mà thành tựu có cao thấp khác nhau, là do có nắm giữ thế cục của khí vận hay không, thuận thế mà hành động hay không.

Chỉ cần mệnh bàn không có Tự Hóa tiết mất Khí, thì loại mệnh tạo này suốt đời được cát tường. Nếu có Tự Hóa, thì hầu như sẽ không nắm giữ được cơ hội, hoặc có cơ hội tới cũng không có năng lực nắm cho chắc, vô duyên cớ hối tiếc về việc để cho nó trôi qua hoặc là cung Tự Hóa mà phá hỏng. Mà trong cuộc đời khí vận tương đối thất thế, nhất định phải bằng lòng với số mệnh, mới có thể thường được an vui.

Đối với mệnh tạo có Khí vận Phát tán, cố gắng gấp bội cũng không đảm bảo tuyệt đối là sẽ thành công, đổi lại nên giữ vững thái độ sống "Vui vẻ biết đủ", không nên cưỡng cầu "Danh và lợi" mới có thể thường được yên vui. Bởi vậy, mệnh bàn dù có Tự Hóa phá hủy sự ngưng tụ của "Khí", nhưng đối với mệnh tạo cũng không sản sinh ảnh hưởng xấu, nếu như ngược đường mà đi ắt gặp hung hiểm, thất bại.

Mặt khác, khi phân tích mệnh bàn, không nên coi các cung Tử Tức, Phụ Mẫu, Tật Ách, Nô Bộc là các cung thứ yếu hoặc nhàn cung và không nên chỉ coi trọng ba cung Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc (sự nghiệp) mà thôi. Cung Tật Ách một khi đã phá, cho dù tiền tài tựa như núi vàng thì cũng chẳng còn mạng sống để tiêu xài, thì tiền tài còn có ý nghĩa gì nữa chứ? Cho nên 12 cung đều không thể bỏ qua, mỗi một cung vị đều rất trọng yếu, mà sự Lưu chuyển của "Hoá Khí" lại chính là biểu hiện những đặc trưng cát hung mạnh yếu của mối quan hệ giữa "Cung" với "Cung".

Khi đoán mệnh, 12 cung không thể bỏ qua, mỗi một cung vị đều rất trọng yếu.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#24 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 23/03/2019 - 21:01

CHƯƠNG 23: GÓC ĐỘ TẠO THÀNH MỆNH HẠN HÓA KỊ


Hóa Kị có thể nói là một ngôi sao quan trọng nhất trong Tứ Hóa, từ trên danh từ bắt đầu xem, Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa đều là Hóa tinh tốt, mà chỉ có mỗi một ngôi sao Hóa Kị là không tốt. Có vẻ như trong Tứ Hóa, phân phối thế lực tốt xấu cũng không được quân bình, các Hóa tinh cát lợi có 3 sao mà Hóa tinh xấu chỉ có 1 sao mà thôi, có đúng vậy hay không? Không đúng! Qua sự tác động thôi thúc biến hóa của 1 ngôi sao nào đó cũng sẽ thay đổi tính chất cát tường của Lộc Quyền Khoa, mà cái ngôi Hóa tinh then chốt này chính là Hóa Kị.

Ngẫm lại có rất nhiều chuyện trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, có phải là có rất nhiều hiện tượng kiểu này đúng không?
* Lúc mới gây dựng sự nghiệp thì công việc làm mãi không hết, làm ăn quá tốt, buôn bán có lời, nhưng cuối cùng lại thua lỗ, không một chút lời, lại quay về như cũ.
* Hoặc vừa mới bắt đầu thì công việc không ra làm sao, nhưng lần lượt thuận lợi vượt qua, sự nghiệp càng làm càng lớn.

Một cái là trước cát sau hung, một cái là trước hung sau cát. Rốt cuộc là thuộc về trạng thái nào từ cần phải phân tích từ trạng thái phân bố của Tứ Hóa. Trạng thái phân bố của Tứ Hóa cần phải suy xét vấn đề của Mệnh Gốc và Vận Hạn, cũng chính là phải quan sát trạng thái phân bố của Tứ Hóa phi xuất ở cung nào đó trên lá số Gốc với cung đồng nhất ở trên lá số Đại Hạn, xem là hiện ra khía cạnh nào nào của "Xung" "Hội" "Nhập" "Hợp" để phán đoán cát hung. Như trước đã đề cập, trong Tứ Hóa lại lấy Hóa Kị làm đầu mối then chốt nắm giữ biến hóa cát hung. Cho nên chương này dựa vào góc độ tạo thành Kị tinh hóa xuất ở cung vị của lá số Gốc và lá số Đại Hạn để mà phân tích ý nghĩa cát hung của nó.

Muốn bàn về sao Hóa Kị thì không được quên hiện tượng "Kị nhập" và "Kị xuất", những điều này đều là quy tắc cơ bản của sự vận dụng Hóa Kị. "Nhập" và "Xuất" là nội dung cơ bản ứng dụng Tứ Hóa, hiện tượng cát hung của cả hai hiện ra là hoàn toàn tương phản. Cho nên khi đụng tới "Tứ Hóa", việc trước hết phải làm ngay là phân biệt hiện tượng "Nhập" và "Xuất".
Đối với "Hóa Kị" mà nói:
“Kị Nhập” chính là có ý nghĩa thu liễm,
"Kị Xuất" chính là có ý nghĩa phát tán,

Chúng ta sử dụng [hình 1] để giải thích khác biệt về “Kị Xuất”, “Kị Nhập”, của Hóa Kị giữa cung vị của Mệnh Gốc và Đại Hạn. Nhưng ở ý nghĩa cát hung, nhất định phải nhằm vào sự khác biệt của sự vật mà phân biệt. Không thể một mực lấy hai cách phân chia đơn giản như "Kị Nhập" là cát, "Kị Xuất" là hung, để mà giải thích. Đây là nhận thức cơ bản cần thiết. Chẳng hạn như, nếu khi cung Phu Thê hiện ra mệnh cục Kị Nhập mà lại là hiện tượng đồng cư, thì loại tình huống này nên coi là "Hung" tượng hay là "Cát" tượng? Cho nên, chỉ có thể lấy ý nghĩa "Kị Nhập" là thu liễm, "Kị Xuất" là phát tán, để mà giải thích, rồi sau đó mượn sự khác biệt của cung vị, tính chất sao, để mà phân biệt ý nghĩa của cát hung.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Nếu là tình trạng một cung nào đó trên lá số Gốc có sự "Tự hóa Kị" [hình 2] cũng có thể nói là "Kị Xuất". Mệnh cục Gốc có tình huống Kị Xuất, mà Đại Hạn khiến "Kị Nhập" vào Mệnh Gốc, lúc này thì nên giải thích như thế nào về cái "Kị Nhập" này? Rốt cuộc là Thu Liễm hay là Phát Tán?

Loại tình huống này cũng chính là mang ý nghĩa phát tán, bởi vì người mà trong lá số Gốc có Tự Hóa Kị, thì mệnh vận trong đời tương đối bất lợi, thường không biết nắm bắt cơ hội, thậm chí cơ hội tới cũng còn mù mờ không hiểu rõ; cũng do ở tại người trong cuộc không tự cảm thấy, ngược lại có cái sự hào phóng kiểu như "Đã không được, thì lấy gì mà mất". Những lời này, được xem như có thể là điều giải thích "Tự hóa Kị" hoàn hảo.

Loại tình huống Kị Xuất này, sau khi Đại Hạn hóa Kị tiến đến Mệnh Gốc, liền sẽ đem loại bỏ cái ngôi sao mà hóa Kị tại mệnh cục Gốc. Bởi vì những nhân sự và vật tượng được sở chủ bởi cái sao ấy sẽ bị loại trừ, nên trong lúc giải thích thì phải chú ý loại hiện tượng này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Hóa Kị trên lá số Gốc còn có một loại tình huống cũng là thuộc về ý nghĩa Kị Xuất, cũng chính là tình huống từ Bản cung hóa Kị đến Đối cung, loại tình trạng gọi là ‘’Hóa xuất Kị’’. Một cung nào có tình trạng Hóa xuất Kị, thì chủ về ý nghĩa sự vật sự việc tại cung đó có sự hao tổn, bị cuốn đi mất. Khi lý giải mệnh bàn thì không thể bỏ qua tình huống này.

Hóa kị trên lá số Đại Hạn sẽ cùng với Tứ Hóa năm sinh và Tứ Hóa của các cung trên lá số Gốc sản sinh tác động mà gây ra biến hóa ít nhiều, khiến cho hiệu ứng tăng mạnh hoặc giảm nhẹ. Các góc độ hình thành như đồng cung, tam hợp, hội chiếu của [Hóa Kị của Mệnh Gốc] và [Hóa Kị của Đại Hạn] đều sẽ dựa vào mức độ lực lượng của Hóa Kị cường điệu hóa mà dẫn khởi hiệu ứng cát hung. Giả như không có sự hình thành các quan hệ đặc thù "Đồng cung, Tam hợp, hội chiếu" kể trên, cũng sẽ không sản sinh tác dụng cường điệu hóa lực lượng sao Hóa Kị để khiến cho sự kiện phát sinh.

Khi muốn ứng dụng Tứ Hóa để đoán mệnh thì đầu tiên phải có quan niệm về "Thời hiệu tính" của Tứ Hóa (QNB chú: tức là chính chất về 1 khoảng thời gian có hiệu lực). Tứ Hóa của Mệnh Gốc đều sẽ phát sinh tác dụng hiệu lực trong suốt cuộc đời. Tứ Hóa của Đại Hạn thì sẽ chỉ phát sinh lực tác dụng hiệu lực tại riêng Đại Hạn đó mà thôi, đến khi rời khỏi Đại Hạn đó sẽ mất đi lực tác dụng. Tương tự như vậy, Tứ Hóa của Lưu Niên cũng chỉ có hiệu lực trong vòng 1 năm Lưu Niên đó mà thôi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Như ví dụ trên, cung Phu Thê tọa can Kỷ: Vũ Khúc hóa Lộc, Tham Lang hóa Quyền, Văn Khúc hóa Kị cùng nhập cung Mệnh, cung Phu Thê phi Hóa Kị nhập cung Mệnh đại biểu cho người vợ/chồng gây bất lợi cho ta (ở đây trước hết không luận Hóa Lộc, Hóa Quyền). Hiệu lực của ngôi Kị Tinh này sẽ luôn luôn tồn tại, nhưng nó có thể khiến cho người trong cuộc sẽ cảm nhận được hay không? Chưa chắc là sẽ cảm nhận được, bởi vì tác dụng của nó chỉ lờ mờ ẩn hiện mà thôi. Nếu không có sát tinh phối hợp, chắc chắn là sẽ không cảm giác được, nó cần phối hợp Đại Hạn để khơi phát hung tính của nó.

Đại Hạn cần phối hợp như thế nào? Cái này thì sẽ phải quan sát [Hóa Kị của cung Phu Thê của Đại Hạn] và [Hóa Kị của cung Phu Thê của Mệnh Gốc] có tạo thành một số góc độ đặc thù với Kị tinh của cung Phu Thê gốc hóa đến cung Mệnh Gốc hay không? Nếu có, liền sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung. Nếu không tạo thành góc độ tác động qua lại đặc thù cũng sẽ không sản sinh phản ứng cát hung. Giả như lá số này làm ví dụ, có Đại Hạn là đi ngược chiều, khi cung Mệnh của Đại Hạn tiến vào cung Tử Tức, thì khi đó cung Tật Ách [Bính Thân] liền trở thành cung Phu Thê của Đại Hạn. Can cung là Bính khiến Liêm Trinh hóa Kị nhập cung Tài Bạch (gốc), cùng với sao Văn Khúc hóa Kị ở cung Mệnh (gốc) tạo thành góc độ tam hợp. Vừa đúng lúc cho Hóa Kị giữa [cung Phu Thê của Mệnh] và [cung Phu Thê của Đại Hạn] sẽ sản sinh hiệu ứng cát hung. Bởi vì là sao Hóa Kị gây hại, cho nên hiện ra phản ứng mang hung tính.

Quý vị có thể sẽ hỏi, cung Mệnh và cung Tài Bạch chẳng phải đều là Ngã cung sao?
Tại sao Tha cung Hóa nhập Ngã cung sẽ biểu hiện hung nhỉ? Muốn trả lời vấn đề này, trước hết mọi người phải hiểu có những nguyên nhân nào gây ra sự đổ vỡ hôn nhân. Thất nghiệp không có thu nhập tiền tài,ó thể sẽ khiến vợ chồng có tranh cãi ầm ĩ hoặc ly hôn hay không? Tiền tài do cung Tài Bạch chủ quản đúng không nào! Phu Thê hóa Kị nhập Tài Bạch, chính là ám chỉ nguyên nhân vợ chồng đối đãi không tốt là có liên quan đến Tài Bạch. Cho nên, mặc dù là Tha cung Hóa nhập Ngã cung thì cũng lý giải là không tốt. Nói đến đây, nhớ ra có người thường nói “Đẩu Số dễ học mà khó giỏi”. Mấu chốt của nó chính là ở chỗ có phân tách rõ ràng được cái đạo lý nhân tình cố sự hay không mà thôi. Thiết nghĩ việc rập khuôn một bộ quy tắc của Tử Vi Đẩu Số, mà không phân chia sự khác biệt giữa các cung lục thân hay các cung vật vật chất như Tài Bạch, Điền Trạch, thì thường sẽ phán đoán sai lầm. Cho nên, giải thích về cát và hung thì cần phải suy xét tính chất khác biệt của các cung vị mà trau chuốt cho hợp lý.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Còn như phải làm thế nào để suy luận ra việc một năm nào đó sẽ phát sinh ư. Lại cần phải đi tra xét Lưu Niên theo từng chỗ của từng năm. Khi tra xét, có một vài bí quyết cần phải nắm vững là:

Năm nào mà Hóa Kị của [cung Phu Thê của Lưu Niên] lại cùng với Hóa Kị của [cung Phu Thê Gốc] và [cung Phu Thê của Đại Hạn] tạo thành góc độ đặc thù,
Năm nào mà [cung Mệnh của Lưu Niên] có sát tinh hội tụ thành đàn,
Năm nào mà [cung Phu Thê của Lưu Niên] có sát tinh hội tụ thành đàn,
Năm nào mà Hóa Kị của Lưu Niên tiến vào [cung Phu Thê của Mệnh Gốc], [cung Phu Thê của Đại Hạn], tạo thành tam hợp. Lúc này thì lấy Hóa Kị tọa vào [cung Phu Thê của Mệnh Gốc] là nghiêm trọng nhất, bị xung đến [cung Phu Thê của Lưu Niên] là nghiêm trọng thứ hai. Lại xem tổ hợp tinh diệu tọa thủ tại [cung Phu Thê của Lưu Niên] là có sát tinh tụ tập hay không, có Khoa tinh đến hóa giải hay không. Liền có thể biết được năm nào sẽ xảy ra chuyện.

Giả như kiểm tra ra Lưu Niên đã thoát ra khỏi phạm vi quản lý của Đại Hạn đó, như vậy thì hiệu lực của sao Hóa Kị hình thành góc độ đặc thù cũng đã đi qua mất rồi, ở tại Lưu Niên này sẽ không sản sinh hung tính.

Căn cứ bí quyết nói trên chúng ta đi tới việc cân nhắc năm nào sẽ phát sinh, 35 tuổi vừa đúng lúc trùng điệp với cung Mệnh Gốc, mà lại là chỗ tọa của sao Văn Khúc hóa Kị của cung Phu Thê hóa đến. Tam phương hội tụ vào là Liêm Trinh hóa Kị của [cung Phu Thê của Đại Hạn], tạo thành góc độ tác động qua lại của tam hợp. Do đó, năm này sẽ có hung tính sản sinh, nhưng mà có nghiêm trọng không? Bởi vì cung Phu Thê cũng hóa Vũ Khúc thành Lộc, hóa Tham Lang thành Quyền nhập vào [cung Mệnh của Lưu Niên]. Quyền Lộc đều chủ tình duyên, đại biểu năm nay tuy có xung kích nhưng tình duyên vẫn còn (cho nên không đến nỗi quá nghiêm trọng).


Lại đến xem năm 36 tuổi: [cung Phu Thê của Lưu Niên] tuy rằng Thiên Đồng tự hóa Kị, nhưng là Thái Âm tự hóa Khoa, lực lượng hóa Kị và hóa Khoa tiêu trừ nhau, [cung Mệnh của Lưu Niên] tọa Lộc Quyền, lại không tạo thành góc độ tam hợp cùng Hóa Kị của [cung Phu Thê của Mệnh Gốc], [cung Phu Thê của Đại Hạn], cho nên sẽ không phát sinh sự kiện đáng kể.

Năm 37 tuổi ư?
[cung Mệnh của Lưu Niên] bị Liêm Trinh hóa Kị của [cung Phu Thê của Đại Hạn] xung đến, mà [cung Phu Thê của Lưu Niên] lại có Hóa Kị do Văn Khúc bị [cung Phu Thê Gốc] gây ra, đồng thời [cung Phu Thê của Lưu Niên] lại tự hóa Văn Xương thành Kị. Năm này sự tình ắt nghiêm trọng rồi, việc Tự hóa Kị có các ý nghĩa "Dứt khoát cho xong, cùng lắm thì mặc kệ". Năm này liền có một ý nghĩ kích động muốn triệt để giải quyết, bởi vậy đây là một năm rất nghiêm trọng.

Lại kiểm tra thêm từng năm tiếp theo, có thể phát hiện ra 2 năm 41 tuổi và 43 tuổi cũng rất khẩn cấp, vậy sẽ là năm nào đây? Sẽ phải đi cân nhắc để tìm ra đầu mối của năm có khả năng phát sinh sự kiện nhất, xem năm nào nghiêm trọng nhất thì lấy năm ấy là năm phát sinh. Như tại ví dụ này thì lấy 37 tuổi là nghiêm trọng nhất, cho nên năm đó phải cẩn thận quan hệ cư xử vợ chồng sinh ra biến cố.

Còn như Lưu Niên ở sau tuổi 45, vì năm ấy đã đi qua năm của Đại Hạn tiếp theo (45 - 54 tuổi) thì nhất định trước hết phải xem Hóa Kị của [cung Phu Thê của Đại Hạn] có hình thành góc độ cát hung với Hóa Kị của [cung Phu Thê Gốc] hay không. Sau đó lại cân nhắc cát hung của Lưu Niên, nếu không hình thành góc độ đặc thù, cát hung của Lưu Niên chỉ là thị phi nhỏ mà thôi.

Cho nên, Hóa Kị của Mệnh và Hạn ngoài việc phải hình thành góc độ vật lý đặc thù như "Đồng Cung, Tam Hợp, Hội Chiếu" sẽ sản sinh ảnh hưởng cường điệu hóa lực ảnh hưởng sao Hóa Kị để khiến cho sự kiện phát sinh ra, thì trong lúc luận giải còn phải cân nhắc mối quan hệ về ý nghĩa hình ảnh được chủ bởi các cung vị và nhân tình thế thái mà chau chuốt lời nói cát hung. Không được một mực lấy các khái niệm "Tha Cung hóa nhập Ngã Cung là cát" hoặc "Ngã Cung hóa nhập Tha cung là hung" để giải thích về cát hung của các cung chức sở hữu. Đây chính là quan niệm cơ bản mà người mới học nhất định phải hiểu rõ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 8 Members:

#25 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 24/03/2019 - 17:55

CHƯƠNG 24: BÀN LUẬN VỀ THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM SỰ KIỆN



Muốn tìm ra chỗ biểu hiện về thời gian ứng nghiệm sự kiện trong mệnh bàn, cần phải áp dụng trình tự 3 bước, dùng hết thảy để tìm ra manh mối có tính liên quan trong đó, mới có thể nhận định thời gian phát sinh. Bởi vậy quá trình của nó là phức tạp nhất, nhất định phải đối chiếu từng bước theo Mệnh bàn (lá số theo Mệnh Gốc) và Hạn bàn (lá số ở các Hạn), từ trong các mối quan hệ hội nhập xung chiếu của Tứ Hóa, kéo tơ bóc kén để tìm ra manh mối, xác định ra thời điểm phát sinh.

Trình tự 3 bước được nói ở đây, chính là 3 lá số Thiên Địa Nhân bàn trong Đẩu Số. Còn như việc Thiên Địa Nhân bàn rốt cuộc là ám chỉ chính là sự cấu thành từ các cục trong Lá số Gốc, La số Đại Hạn, Lá số Lưu Niên hay La số Lưu Nguyệt, La số Lưu Nhật? Nhất định phải dựa vào trình độ suy lý tinh tế, mà định ra Thiên Địa Nhân bàn tương ứng:

Thí dụ như muốn suy đoán sự kiện phát sinh trong Lưu Niên, thì lấy Lá số Gốc là Thiên bàn, Lá số Đại Hạn là Địa bàn, Lá số Lưu Niên làm Nhân bàn. Rồi lại thông qua việc xâu chuỗi các tầng Tứ Hóa của Thiên Địa Nhân bàn gia tăng tác dụng. Hoặc các cát tinh từng tầng tăng mạnh, hoặc các hung tinh từng tầng phá hoại, sẽ khiến cho sự kiện phát sinh ở trong Lưu Niên.

Tương tự, muốn suy đoán sự kiên phát sinh trong Lưu Nguyệt, thì lấy Lá số Đại Hạn là Thiên bàn, Lá số Lưu Niên là Địa bàn, Lá số Lưu Nguyệt là Nhân bàn. Dựa vào sự tăng cường trùng lặp của Tứ Hóa và sát tinh, tích lũy ảnh hưởng, khiến cho sự kiện lộ tượng thành hình.

Thời gian là từ Địa Chi để biểu thị như: Tháng Dần đại biểu tháng Giêng, tháng Mão đại biểu tháng Hai v.v… Từ trong mệnh bàn suy tính thời gian phát sinh sự kiện, chính là từ mối quan hệ xung chiếu hội hợp của Lá số theo Mệnh Gốc và Lá số của Đại Hạn, mà tìm ra hiệu ứng cát hung của sự kiện phát sinh. Cũng từ bên trong mối quan hệ của tính chất sao và cung vị trùng lặp mà định ra hình tượng sự kiện. Nhưng sẽ phát sinh tại một năm nào đó, yếu tố thời gian kiểu này chính là vô cùng trọng yếu, nhất định phải tìm ra mới được, bằng không thì 10 năm Đại Hạn đều phải đề phòng thì cũng quá mệt mỏi.

Thông thường chúng ta đều lấy khoảng thời gian từ mấy tuổi đến mấy tuổi là 10 năm Đại Hạn, hơn nữa còn là lấy tuổi mụ làm chuẩn. Có người sinh tháng 11 và sinh tháng 1 đều là cùng một tuổi, lẽ nào Số Tuổi và Số Năm của Lịch Pháp ở trong mệnh lý học là như nhau sao?

Trong môn Bát Tự học có phép tắc suy tính rất rõ ràng, quy định thời điểm năm đó tháng đó này đó là lúc chuyển giao Đại Vận. Còn môn Đẩu Số về mặt này có vẻ rất mông lung, không được đủ rõ ràng, theo như kinh nghiệm phán đoán và những gì người viết được học, tất cả hoàn toàn lấy thời gian Lịch Pháp làm thời điểm chuyển giao Đại Hạn, Lưu Niên, ví dụ như:

Người nào đó sinh ngày 20 tháng 5 năm 50 Dân Quốc theo âm lịch, Thổ Ngũ Cục, thì vào ngày mùng 1 tháng giêng năm thứ 74 Dân Quốc chính thức tiến vào Đại Hạn 25 đến 34 tuổi. Còn sự sự tiếp nối của Lưu Niên cũng là lấy mùng 1 đầu năm âm lịch hàng năm là điểm chuyển giao. Như với ví dụ trên, vận đồ Lưu Niên 30 tuổi bắt đầu tại ngày mùng 1 tháng Giêng năm 79 Dân Quốc. Nói cách khác, Lưu Nguyệt trên của mệnh bàn: bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng Giêng âm lịch. Chứ không phải là sau khi lấy thời điểm sinh nhật khởi tính rồi lại khởi tháng Giêng của Mệnh Cục. (cung sở tại của Lưu Nguyệt tháng Giêng gọi là Đẩu Quân. Dùng cung Mệnh của Lưu Niên làm chuẩn đếm nghịch đến tháng sinh rồi đếm thuận đến giờ sinh là sẽ ra vị trí của tháng Giêng, các tháng khác đếm thuận để điền vào)

Trước đây từng nhắc tới sự kiện chính là từ các mắt xích đan xen giữa Thiên Địa Nhân bàn mà định ra thời gian phát sinh ra sự kiện, hiệu ứng cát hung, hình tượng sự vật và mức độ nghiêm trọng. Như vậy rốt cuộc là cái cấu trúc nào gây ra ảnh hưởng của các mắt xích đan xen? Ở trong mệnh bàn thì lấy dấu hiệu gì sản sinh ảnh hưởng mắt xích đan xen?

Giản dị mà nói, ảnh hưởng mắt xích đan xen là do:
Tổ hợp sao tọa thủ của lá số Gốc, của lá số Đại Hạn và tác dụng liên kết Tứ Hóa của Thiên Địa Nhân bàn mà cấu tạo nên ảnh hưởng mắt xích đan xen kiểu này. Trong đó Tứ Hóa làm chất xúc tác, lớp lớp tăng cường, thúc giục biến hóa mà khiến phóng ra lực lượng cát hoặc hung, khiến cho sự kiện thành hình, phát sinh, đưa đến các ký hiệu tính toán ảnh hưởng mắt xích đan xen. Cũng chính là Can cung của các cung phi Tứ Hóa, lấy Tứ Hóa do Can cung biến thành làm lực lượng họa phúc cát hung, lấy Xung Chiếu Hội Nhập làm con toán giống như là các ký hiệu của phép toán cộng trừ nhân chia. Đem lực lượng của cát hung họa phúc cân nhắc mức độ tăng gấp bội, triệt tiêu hoặc giảm bớt, khiến cho sự kiện phát sinh.

Còn như việc vì yếu tố nào mà làm giảm bớt hoặc tăng gấp bội ư? Do có quan hệ cung vị của Thiên Bàn và Địa Bàn ở chỗ khởi phi và nhập vào khi phi Tứ Hóa, ví dụ như: cung Phu Thê hóa Khoa nhập vào cung Tử Tức, thì biểu thị người phối ngẫu là quý nhân của con cái. Rất quan tâm đối với việc giáo dục con cái, hơn nữa lại còn biến sự quan tâm thành các hành động. Đó là lấy lá số Gốc để giảng giải luận đoán. Nếu như cung Phu Thê của Đại Hạn lại hóa Khoa nhập vào cung Tử Tức của Đại Hạn, bởi vì có ảnh hưởng hóa Khoa hai tầng của lá số Gốc và Đại Hạn, nên sự giáo dưỡng của người phối ngẫu đối với con cái ắt có tính duy trì liên tục, sẽ không vì nguyên nhân gì mà có thể bị gián đoạn; Nếu như cung Phu Thê của Đại Hạn hóa Kị nhập vào cung Tử Tức thì sẽ giảm bớt lực ảnh hưởng của việc cung Phu Thê đã hóa Khoa nhập vào cung Tử Tức trên lá số Gốc, thành ra tuy rằng vốn có sự quan tâm giáo dưỡng con cái nhưng ở trong Đại Hạn ấy lại lực bất tòng tâm, hoặc do công việc bận rộn hoặc bởi vì hoàn cảnh gấp rút không thể tự mình chiếu cố nên lơ là chểnh mảng việc giáo dưỡng.

Như thế thì sự chuyển biến được sinh ra sau khi trải qua quá trình giảm bớt hoặc tăng cường này sẽ phơi bày hình tượng như thế nào, từ cái gì để mà hiển lộ ra? Chính là từ mối tương quan cung can phi Tứ Hóa của cung vị để xem quan hệ Xung Chiếu Hội Nhập của chúng mà xác định cát hung. Còn từ tổ hợp tinh tú tọa thủ ở cung chức liên đới để mà hiển hiện hình tượng của chúng. Lại nói về thời gian ứng nghiệm, từ mối quan hệ của cát tinh sát hung tinh hội nhập vào Tam Phương Tứ Chính hoặc sự Xung Chiếu Hội Nhập của Thiên Địa Nhân bàn, định nghĩa ra hình ảnh của sự kiện. Vậy thì đến năm nào sẽ phát sinh vậy? Đáp án của vấn đề này không phải chỉ có duy nhất 1 quy tắc mà thôi, căn cứ kinh nghiệm người viết thì chí ít có thể quy nạp như sau: (đương nhiên lúc ứng dụng thì nhất định phải suy xét ảnh hưởng của Tứ Hóa và Tam Hợp phương)

Thứ nhất, Đồng loại tương Xung: Bất kể là cung Đồng loại của Thiên Bàn hóa Kị xung Địa Bàn, hoặc Địa Bàn hóa Kị xung Thiên Bàn, đều thuộc dạng Xung cùng loại. Lấy thời điểm khi mà xung tới cung Đồng loại của Nhân Bàn là năm ứng nghiệm. Thí dụ như: cung Tài Bạch của Đại Hạn hóa Kị xung cung Tài Bạch gốc, chính là Đồng loại tương xung của Tài Bạch, lúc Lưu Niên đi tới cung Thiên Di gốc, Kị tinh của cung Tài Bạch Đại Hạn hóa tới, vừa khớp vào trong cung Tài Bạch của Lưu Niên, cho nên Lưu Niên ấy ứng nghiệm. Đương nhiên là nếu như kết cấu cung Tài Bạch của Lưu Niên khác không có được cát lợi thì cũng có thể phát sinh sự bất lợi về quản lý tài chính ở tại Lưu Niên đó.

Thứ hai, khi Xung cung Mệnh: cung Mệnh là chủ soái, bất luận là cung vị gì cũng không nên hóa Kị xung tới cung Mệnh. Nếu có sự xung đến thì có ý nghĩa của sự thất thoát, cởi bỏ. Tới lúc Lưu Niên đi qua đúng vị trí thụ nhận sự tương Xung thì phải cẩn thận, sẽ bị mất đi [Người / Sự Việc / Vật] được đại biểu bởi cái cung vị mà đến xung đó. Ví dụ như: cung Phụ Mẫu hóa Kị tới xung cung Mệnh, thì có thể mất đi cha mẹ, khi nghiêm trọng thì chính là điềm báo cha mẹ dễ bị tử vong.

Thứ ba, Hỗ xung Kị: cung nào đó trên lá số Gốc hóa Kị nhập cung A, mà cung nào đó trên lá số của Đại Hạn hóa Kị tại đối cung của cung A. Tức là cùng với chỗ sở hóa Kị trên lá số Gốc hiện ra trạng thái đối xung. Đây chính là Hỗ xung Kị. Tới lúc Lưu Niên đi tới trục Hỗ xung Kị thì sẽ phát sinh

Thứ tư, Trùng điệp Kị: cung nào đó trên lá số Gốc hóa Kị và cung nào đó trên lá số Đại Hạn hóa Kị đều tiến vào cùng một cung, ở trong cái cung vị này liền có lực ảnh hưởng của Hóa Kị kép, khi Lưu Niên đi vào đối cung hoặc trong cung Trùng điệp Kị, đều sẽ phát sinh sự cố.

Thứ năm, Tam hợp Kị: cung nào đó trên lá số Gốc và lá số Đại Hạn hóa Kị mà hình thành góc độ Tam hợp. Cái được gọi là Tam Hợp chính là [Hợi Mão Mùi], [Thân Tý Thìn], [Dần Ngọ Tuất], [Tị Dậu Sửu]. Ví dụ như: lá số Gốc hóa Kị tại Tý, lá số Đại Hạn hóa Kị ở Thân, liền cấu thành Tam hợp Kị của [Thân Tý Thìn], lúc Lưu Niên đi vào cung Thìn thì sẽ phát sinh tổn thất, tai họa.

Thứ sáu, Phản đạn Kị: lá số Gốc hóa Kị xung lá số Đại Hạn, rồi lá số Đại Hạn hóa Kị xung lá số Gốc. Cái kiểu hiện tượng của Ngươi xung Ta, Ta xung Ngươi, như thế này chính là Phản đạn Kị, bị xung tới chắc chắn có tai ương, là hiện tượng Kị xung rất hung ác.

Thử bảy, Kị nhập Đồng loại: có người nói Kị Nhập chủ thu liễm, có nghĩa là đạt được, không chủ hung hiểm. Câu này có chút phiến diện. Nó cần có một vài điều kiện tiên quyết, nếu như có một vài điều kiện này thì nó mới có thể như câu nói trên. Nếu không có sự phối hợp của các điều kiện tiên quyết thì cũng là bất lợi, đặc biệt là đi qua chỗ Kị xung sẽ rất không được thuận lợi, sau khi trải qua Lưu Niên ấy mới có thể khổ tận cam lai, chuyển nguy thành an.

Thứ tám, Đơn Kị: sao Hóa Kị của lá số Gốc và lá số Đại Hạn phi hóa nhưng không tạo thành các tổ hợp như trên, chính là Đơn Kị. Tình huống Đơn Kị mà cần phải đặc biệt chú ý là, lúc sao Hóa Kị của lá số Gốc và lá số Đại Hạn chia nhau ra chiếm cứ cung Mệnh của Lưu Niên và cung đồng loại của Lưu Niên, hung lực của những chỗ này sinh ra cũng không thua kém so với các trường hợp kể trên.

Các loại tổ hợp sao Hóa Kị kể trên đều chủ hung hiểm hoặc tổn thất.
Còn như nguyên nhân gây ra là gì? Hiện lên loại hung tượng nào?
Nhất định cần phải phối hợp cung vị và tinh tú để biến đổi hình tượng. Nói cách khác thì kết cấu của Tứ Hóa chủ cát hung, còn sự kết hợp của tinh tú và cung vị thì chủ nắm giữ hình tượng của sự kiện. Các vị có thể dùng những bản đã từng ghi lại đầu đuôi sự kiện liên quan đến lá số của bạn bè thân thích đem ra đối chiếu thêm xem thử, có thể lĩnh hội rõ ý nghĩa kể trên. Người viết cũng tổ chức câu lạc bộ nghiên cứu Đẩu Số mà cá nhân lại vừa đảm nhiệm công tác cố vấn trong xí nghiệp nhỏ, cũng nhân tiện công việc, bỏ ra thời gian hơn mười năm để ghi lại tỉ mỉ rất nhiều ví dụ số mệnh, mới có thể từ đó khám phá ra những chỗ áo diệu của Đẩu Số Tứ Hóa phi tinh.

Có cát hung và hình tượng rồi mới có thể xác định được sẽ phát sinh loại sự kiện nào.
Rốt cuộc thì lúc nào sẽ phát sinh?
Nhất định phải từ các loại tổ hợp sao Hóa Kị để cân nhắc thời gian ứng nghiệm của Nhân Bàn. Phần đầu đã có đề cập tới, Nhân Bàn chỉ là kết quả của sự tiếp thụ từ Thiên Bàn, Địa Bàn, giúp cho đúng thời điểm hiển hiện ra mà thôi. Cho nên suy tính thời gian ứng nghiệm của Nhân Bàn, nhất định phải bắt đầu điều tra từ Thiên Bàn và Địa Bàn, ở lưỡng tầng lá số Thiên Bàn Địa Bàn đều có dấu hiệu rồi, thì mới có thể biểu hiện ra rõ ràng hình ảnh cát hung của sự việc ở Nhân Bàn. Giả như chỉ có mỗi Thiên Bàn hoặc riêng Địa Bàn có gieo tượng, vì lực lượng khá nhỏ như thế nên hiển hiện ra hiệu ứng cát hung của sự vật tượng ở Nhân Bàn cũng khá nhẹ nhàng.

Phối hợp mối quan hệ của Địa Bàn phi Tứ Hóa với Thiên Bàn, Nhân Bàn, bổ chính cho sự xác định thời gian ứng nghiệm. Việc quyết định thời gian ứng nghiệm có quy tắc dưới đây có thể tự tham khảo:

Thứ nhất, lấy cung bị xung hung nhất, đem Địa Bàn chuyển động, lúc đi qua cung có Kị xung là sẽ xảy ra sự kiện.

Thứ hai, lúc tổ hợp tinh tú trong cung đồng loại của Địa Bàn cực kỳ tồi tệ, lại xem xét cân nhắc tổ hợp sao Hóa Kị của Thiên Bàn, Địa Bàn. Nếu như là lại còn bị Kị xung, ắt là ứng nghiệm ở Địa Bàn đó.

Thứ ba, lúc đi qua cung nhập vào của sao Hóa Kị ở Thiên Bàn, cũng có thể phát sinh sự kiện. Lúc này, trước hết cần phải từ bắt đầu điều tra theo năm của số tuổi Đại Hạn để tra. Nếu năm Lưu Niên đầu tiên ấy đi vào cung khởi phi của sao Hóa Kị trên Thiên Bàn nhưng chưa đi tới cung bị xung, thì phải chú ý đến năm Lưu Niên của cung khởi phi; nếu năm đầu tiên ấy đi đến cung bị xung thì phải chú ý đến năm Lưu Niên của cung bị xung, có thể sẽ là năm xảy ra ứng nghiệm.

Thứ tư, lúc sao Hóa Kị xung cung Quan Lộc của Nhân Bàn. Bởi vì sự nghiệp chủ về tình trạng vận đồ, nếu như sao Hóa Kị xung Quan Lộc thì sẽ không được thuận lợi, hiện tượng của sự cản trở. Lại phối hợp trạng thái tổ hợp sao Hóa Kị của Thiên Bàn, Địa Bàn, nếu mà không tốt thì ắt là lúc Nhân Bàn ứng nghiệm.

Thứ năm, nếu là tình huốngủa Đơn Kị thì cần phải chú ý lúc Nhân Bàn đi vào cung vị đối xung với cung vị nhập vào của Hóa Kị trên Thiên Bàn, biểu thị đã dẫm phải hung lực sao Hóa Kị (giống như dẫm phải quả mìn, dẫm ở trạng thái bất động thì không ảnh hưởng gì, nếu như lại có Kị tới xung, không thể không động, sẽ bị nổ tung), nếu cung đồng loại của Nhân Bàn lại có tổ hợp không cát, thì sẽ phát tác sự kiện không may mắn.

Các quy tắc kể trên quý vị độc giả có thể cầm mệnh bàn (tìm) cách ứng dụng vào xem có hợp hay không? Nhưng bởi vì liên quan tới tổ hợp Hóa Kị khác nhau, cho nên vừa mới bắt đầu sử dụng thì nhất định rất trúc trắc, can cung không ăn nhập, sau này vận dụng thành thạo thì tự nhiên quen tay hay việc.

Thanked by 6 Members:

#26 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 24/03/2019 - 20:53

CHƯƠNG 25: GIẢI VÍ DỤ VẬN DỤNG LINH HOẠT TỨ HÓA PHI TINH


"Tứ Hóa phi tinh" chính là sự kết hợp của 2 từ "Tứ Hóa" và "Phi Tinh", hai cái từ này có ý nghĩa khác biệt, không thể lẫn lộn. Có người cho rằng "Tinh thần rơi vào cung nào thì gọi là Phi Tinh" hoặc "Lưu Niên tinh rơi vào một cung nào thì gọi là Phi Tinh". Những cái đó đều không phải ý nghĩa gốc gác của "Phi Tinh", trước hết chúng ta xem người xưa giải thích về Tứ Hóa phi tinh:

"Cái Dụng ấy, chính là lấy Thể dựa vào làm thành chỗ dùng được; cái Thần ấy, Thần không có phương hướng, khí không có hình thể, sinh hóa biến thiên, cao thâm khó lường, chỉ có thể lấy cái tâm mà hiểu ý. Cho nên cái Tứ Hóa, [mượn Can an Sao, mượn Tượng, phối hợp với Địa Chi, ứng với Thời gian] hoá khí bay qua 12 cung, lấy tượng để hiểu rõ lý, lấy sao để hiểu rõ vật, tốt xấu theo lý, ứng Số thành Cục; điều hành bói toán vận mệnh, thông suốt cả giàu nghèo, thọ yểu, tươi héo, đều là xuất Khí hóa lấy làm Thần vậy, Số biến lấy làm Dụng vậy. "

Vốn là thông qua Thiên Can diễn biến Tứ Hóa, khiến cho bản thân tinh tú chia ra nhiều lần khiến cho phân thân phóng đến các cung vị tương quan. Rồi lại kết hợp cùng các sao tọa thủ ở các cung vị phi xuất đi và cung vị nhập vào để mà biểu lộ hình ảnh của sự vật. Đồng thời phối hợp cùng Địa Chi biểu thị thời gian ứng nghiệm. Cho nên thông qua Thiên Can Tứ Hóa có thể khiến cho tinh tú hóa Khí bay đi trong 12 cung, phối hợp Tượng mà cung vị đại biểu cùng với sự kết hợp tinh tú đưa ra biểu hiện hình ảnh của sự vật. Cho nên không thể chỉ dựa vào một tinh tú tại cung nào đó bị nhập vào để luận cát hung. Hiện tượng cát hoặc hung, nhất định phải lấy "Tứ Hóa" phi độn diễn biến "tính chất sao" khiến cho lộ tượng hiện hình.

Phối hợp hai cái "Tứ Hóa" và "Phi Tinh" mới có thể suy đoán được cát hung của vận trình. Cho nên không thể bỏ qua "Tứ Hóa" và "Phi Tinh", nếu không thì sẽ không có cách nào xem vận. Vì thế mới nói "Tứ Hóa chính là Dụng Thần của Đẩu Số". Phi tinh lấy lý số để dẫn đường, dùng Tứ Hóa liên kết thông suốt mà có quy luật nhất định. Cho nên có quy tắc mới có thể bám theo sợi dây để biết được tương lai, không cần phải dựa vào pháp thuật dùng vong linh quỷ hồn mật báo tin tức.

Đến bước này, chúng ta đã sáng tỏ công dụng của Tứ Hóa, chúng dựa vào Thiên can diễn Tứ Hóa dùng Phi tinh, lấy sự kết hợp của tính chất sao và cung vị để biểu thị "Hình tượng Sự Vật" và phối hợp Địa Chi để suy tính ra thời gian ứng nghiệm "Hình tượng Sự Vật" đó một khi nó tới. Mối quan hệ giữa "Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện" tạo thuận lợi xâu chuỗi dẫn đến có thể suy tính ở trong một Không Gian nào đó vào Thời Gian nào đó sẽ phát sinh chuyện gì. Như vậy, liền có 5 yếu tố "Người, Việc, Lúc, Nơi, Vật" có thể đem sự kiện định nghĩa được kỹ lưỡng hơn mà không phải là mập mờ như câu nói "Cả đời cẩn thận tai nạn xe cộ".

Chúng ta đều đã rõ các "Tinh Thần (Sao)" ở trong "Vũ Trụ", đều có sự vật đối ứng với nó. Những sự vật này ta có thể chia làm:

Thứ nhất, mặt vật lý: Vật chất thực thể, sự tình hoặc hoàn cảnh;
Thứ hai, mặt tâm lý: Không gian vô hình, trong tâm có thể cảm nhận được cảnh giới hư vô, hoặc có thể nói là về vấn đề trong cõi lòng;

Hai cái đó hỗ trợ lẫn nhau, ví dụ như:
Không phải là loại sao nào tọa ở cung Mệnh thì cũng đều đại biểu tâm tính cả đời, mà là phối hợp hoàn cảnh sinh trưởng và vận trình Đại Hạn biến đổi thì tâm tính cũng sẽ tùy theo đó mà thay đổi. Nếu hiểu rõ lý lẽ của tinh tú, ứng dụng vào mặt tâm lý thì có thể dùng cách dựa vào tính chất sao mà bổ túc sự biến hóa cá tính khí chất, khi chất biến đổi tác động đến cơ hội, sửa đổi vận trình, cho nên Tử Vi mệnh lý là một loại mệnh lý học của "Thuật - Đức kiêm tu" (QNB chú: gồm đủ cả về Phương pháp kỹ thuật & Đạo đức phẩm hạnh).

Trước khi bước vào chương này nói về việc vận dụng linh hoạt Tứ Hóa Phi Tinh, cần phải lý giải về: Mối quan hệ giữa Thiên Can Tứ Hóa, Địa Chi, bản tính các sao và Ý tượng, thì mới có thể giải thích vấn đề diễn biến hiển tượng của các sao trong mệnh bàn.

Thứ nhất, giải thích quy tắc lý lẽ Tứ Hóa tới cung:
Lá số bày ra có cả thảy 12 cung, có sự khác biệt về tính chất âm dương của các cung:
Cung Dương: Mệnh, Phu Thê, Tài Bạch, Thiên Di, Quan Lộc, Phúc Đức.
Cung Âm: Huynh Đệ, Tử Tức, Tật Ách, Nô Bộc, Điền Trạch, Phụ Mẫu.
6 cung Dương chủ Quý, 6 cung Âm chủ Phú, do đó 6 cung Dương mà có kết cấu cát lợi đều thuộc vào Quý cách, mà 6 cung Âm có kết cấu tốt thì ắt là mệnh giàu có.

1, Cung Mệnh: Đại biểu cho sự cao thấp về mệnh cách của 1 cá nhân.
Lấy Can cung Mệnh gốc phi Tứ Hóa, mà Lộc, Quyền, Khoa nhập vào Tam phương của cung Mệnh gốc thì là Quý cách, chủ tự lực cánh sinh. Nếu rơi vào đối cung của Tam phương (Phu Thê, Thiên Di, Phúc Đức) là chiếu Mệnh, cũng là Quý cách, có thể có được sự trợ giúp của người khác mà thành công.

Hóa Kị nhập Tam phương của cung Mệnh gốc, là tọa Kị, hung lực tương đối kém, thành công nhiều trở ngại, nhất định phải dựa vào sự chăm chỉ trong công tác, làm việc đến nơi đến chốn mà thành công, cũng tức là không có vận khí hoạnh phát của cải.

Nếu Hóa Kị xung Tam hợp, thì cuộc đời tương đối thất thế, trong tốt có xấu, thành bại bất định. Cho nên Kị xung Tam hợp thì nên đi làm, lĩnh lương hàng tháng. Nếu không cam phận, tự lập gây dựng sự nghiệp, hơn phân nửa là thần tài qua cửa, nếu có thành công quá trình tràn ngập gian khổ, gặp lúc vận đồ suy bại thì thất bại cũng cấp tốc mà mãnh liệt.

2, Cung Tài Bạch: Đại biểu cho năng lực kiếm tiền; hoặc kiếm được tiền qua nghề gì.
Phàm là cung Tài Bạch hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa nhập vào Tam phương của cung Mệnh gốc, biểu thị có năng lực đủ tự lập mưu sinh, sẵn có năng lực ưu tú về quản lý tài sản, cho nên tương đối dễ làm giàu.

Nếu chiếu Tam hợp của Mệnh gốc, cũng là cách tự lập, chẳng qua người có dạng chiếu Tam phương khéo ở chỗ vận dụng thành công sự trợ lực từ xung quanh; còn người có dạng nhập Tam hợp, là thông qua nỗ lực của bản thân mà thành công, hai dạng có chút khác nhau.

Hóa Kị không nên xung Tam hợp của Mệnh gốc, có xung thì hung, thích hợp đi làm, không thích hợp gây dựng sự nghiệp, rơi vào Tam hợp của Mệnh gốc thì cát lợi, đối với cách vận dụng tiền bạc hoặc đầu tư tương đối cẩn thận hoặc tiết kiệm.

3, Cung Quan Lộc: Đại biểu cho sự nghiệp, vận đồ, còn gọi là cung học nghiệp.
Lộc, Quyền, Khoa nhập Tam hợp của Mệnh gốc là cách độc lập tự chủ, lý tưởng cao xa, có cơ hội thành công. Cát lực của nhập Tam hợp trội hơn so với chiếu Tam hợp, chủ sự nghiệp thuận lợi, cũng có nhiều phương diện phát triển, thành tựu lớn.

Chiếu Tam hợp biểu thị hoàn cảnh bên ngoài tốt, thời cơ đối với ta có lợi nhưng mình có năng lực nắm bắt hay không, hoặc có ý nguyện tự mình tham dự hay không, thường thường bị quản chế bởi tại các nhân tố khác của bản thân. Ví dụ như: có người rất được thượng cấp trọng dụng, nhưng khi sắp xếp chức vụ thì tính chất công việc lại không được như anh ta mong muốn, mặc dù trong mắt người khác anh ta rất may mắn, nhưng tâm tình của đương sự có chỗ khổ khó nói, hoặc ý nguyện bản thân không như vậy.

Hóa Kị thích hợp nhập vào Tam hợp, biểu lộ trong lòng vô cùng quan tâm đến tiền tài, sự nghiệp. Nếu hành vận cát lợi thì có cơ hội thành công nhưng khá chật vật, trong quá trình khá nhiều trở ngại nhưng đều không ảnh hưởng tới thành tựu.

Nếu Hóa Kị xung Tam hợp, nhất định bất lợi ở trong sự nghiệp, công việc nhiều biến động, kẻ đi làm hay thay đổi đổi công việc, hoặc hoàn cảnh công tác tương đối kém, hoặc không hứng thú nhưng lại phải tiếp nhận cái công việc ấy. Cũng có dấu hiệu khó thăng chức, bởi vậy nên giữ thái độ thận trọng, khi vận đồ chuyển sang tốt thì mới thực hiện kế hoạch.

4, Cung Lục thân: Mệnh, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Nô, Phụ Mẫu là các cung lục thân.
Phàm cung lục thân hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa nhập hoặc chiếu Tam hợp của Mệnh gốc, chính là chủ có tình nghĩa, ăn ở hòa thuận.

Hóa Kị không nên tới Xung, nếu Hóa Kị tới xung thì vô duyên với lục thân (được chủ bởi cung đó), ngăn cách sâu rộng, ý kiến không hợp, tư tưởng bất đồng, thường sinh cãi vã.

Nếu phi hóa kỵ nhập Tam hợp của mệnh, thì hung lực tương đối kém, đại biểu quan tâm lục thân nhưng bởi vì nguyên nhân không có cách nào biểu thị tâm ý bằng vật chất, chỉ có quan tâm tinh thần mà thôi.

5, Cung Phúc Đức: Đại biểu cho năng lực hưởng thụ, có thể gọi là cung vận lúc về già, lại cũng có thể nói là cung tổ tiên ông bà. Bình thường khi luận mệnh thì dùng làm cung hưởng thụ của bản thân, có thể quan sát một cá nhân có thể hưởng phúc hay không. Có vài người rất nhiều tiền nhưng bận rộn công tác chẳng được hưởng thụ, lại cũng có người chẳng giàu có gì nhưng rất thỏa mãn mà sống vui vẻ hạnh phúc. Sự khác biệt giữa hai kiểu người ấy, chính là ở tại cung Phúc Đức.

Tam hóa cát tinh của (can) cung Phúc Đức nhập Tam hợp của Mệnh gốc, chủ vận về già tốt đẹp, có thể hưởng phúc, bản thân có thể được bề trên che chở, cũng tương đối có phúc để hưởng hoặc tương đối có thể hưởng phúc. Tam hợp chiếu cũng chủ người có thể hưởng phúc.

Hóa Kị (của can cung Phúc) nhập Tam phương của Mệnh gốc, không hề hung, chủ về muốn hưởng phúc nhất định phải nỗ lực làm việc, kiếm tiền để tiêu xài, là thuộc dạng người lao lực thân thể nhưng tinh thần tương đối đơn giản, không ôm đồm.

Nếu xung Tam phương, thì nhất định là không có phúc để hưởng, hoặc là người không có tiền để hưởng phúc. Cảnh già cô độc, phải tự chăm sóc chính mình, tốt nhất là dựa vào tôn giáo sớm một chút, cầu tâm linh siêu thoát khỏi ràng buộc của thế tục, để tránh gặp lại sát tinh xung kích, thấy cũng không phát động (sát tính).

6, Cung Điền Trạch: chủ nắm vận nhà, còn gọi là cung bất động sản.
Kiếm tiền đem về nhà cất giữ, cho nên còn gọi là Tài Khố (kho tiền). Nếu cung Điền Trạch bị phá thì kho của cải bị nứt thủng, chuột liền tới trộm mất của, dẫu cung Tài Bạch tốt cũng không cách nào cất giữ được, cái ông Thần Tài chỉ cho mượn tiền để ngắm chút mà thôi. Cho nên, cung Điền Trạch là cung vị vô cùng trọng yếu.

Cung Điền Trạch không nên có sao Hóa Kị tới xung, xung thì kho bị phá, rò rỉ mất tiền mãi không ngưng.

Tam hóa cát tinh của cung Điền Trạch nhập Tam hợp của Mệnh gốc, thì gia vận sẽ được cát tường, giữ được tiền tài.

Phi Kị của cung Điền Trạch hóa ra không được xung Tam hợp của Mệnh, nếu không sẽ dễ bất ngờ gặp phải chuyện ngoài ý muốn, hoặc điền trạch có biến động.

7, Cung Tật Ách: chính là cung thân thể, còn được gọi là cung tướng mạo, chủ về tình hình sức khỏe.
Tứ hóa tinh của cung Tật Ách nhập tam phương của Mệnh gốc thì khá cát tường.

Sao Hóa Kị không được xung Tam hợp của Mệnh gốc, có xung thì thân thể gặp nạn, dùng tiền để chữa bệnh hoặc bởi vì tật bệnh mà chểnh mảng về công việc sự nghiệp, khiến tình trạng kinh doanh không tốt.

Người già kiêng bị Lộc, Kị của cung Tật Ách xung cung Mệnh gốc hoặc xung cung Tật Ách gốc, nếu không thì sẽ hung hiểm, bởi vì Hóa Lộc có nghĩa là "Nhiều", dễ có các loại bệnh trạng như phát sinh các tổ chức dị thường hoặc chứng cao huyết áp. Cho nên cung Tật Ách người lớn tuổi không thích thấy hóa lộc hoặc bị hóa kị tới xung chiếu, phi hóa kỵ nhập Tật Ách cũng luận như vậy.

Thứ hai, hàm nghĩa của các Hóa tinh theo 10 Thiên can.
1, Can Giáp:
Liêm Trinh hóa Lộc: Thăng chức, tốt cho chuyện kinh doanh đồ điện khí, ở tại các nơi Tứ Mã địa, tốt cho buôn bán xuất khẩu, thích hợp nhân viên công vụ.
Phá Quân hóa Quyền: Vận xuất ngoại mạnh mẽ, có hiện tượng hoạnh phát, giữa vợ chồng bạn bè có nhiều tranh chấp, con cái không nghe lời, rất có chủ kiến, thành tựu cũng không kém, nhưng tính phản trắc lớn.
Vũ Khúc hóa Khoa: Đi làm công việc ổn định trong giới tài chính ngân hàng; thông thường tài vụ cũng không tệ lắm, không có cảm giác giật gấu vá vai.
Thái Dương hóa Kị: Bất lợi cho lục thân là nam giới, mắt, đầu dễ có tật đau nhức, mất ngủ, nôn nóng, cùng Thiên Hình đồng cung dễ có tai họa quan tụng, lao ngục. Người chưa lập gia đình thì dễ thất tình, dù là Dịch Mã động nhưng xuất ngoại không được thuận. Người sinh ban đêm càng bất lợi, bất kể đối với mình hoặc chồng, con trai, đều có khiếm khuyết ở trên người hoặc phát sinh tình huống bất lợi.

2, Can Ất:
Thiên Cơ hóa Lộc: Anh em giỏi, giỏi kỹ thuật, tiền bạc ổn định, đa phần không thuộc về dạng hoạnh tài, nhiều kế hoạch dễ thành công. Lấy trí tuệ để sinh tài. Sắm thêm đồ cơ khí.
Thiên Lương hóa Quyền: Khăng khăng cố chấp, thích hợp với Quan toà, luật sư, nhân viên điều tra, bác sĩ / thầy thuốc, nhân viên chính phủ làm quan thanh hiển, có thành tựu, có được nhân duyên.
Tử Vi hóa Khoa: trọng thể diện, có quý nhân bồi dưỡng, không hội cát tinh, một trong Tứ Sát đồng cung, thì dễ gặp khó khăn, mọi việc dây dưa mãi.
Thái Âm hóa Kị: Bất lợi cho lục thân là nữ giới, người chưa lập gia đình thì dễ thất tình, gia vận có biến, chú ý bị thương ở đầu và con mắt, đặc biệt người sinh vào đầu tháng, cuối tháng, ban ngày cực kỳ bất lợi, đối với vợ, con gái cũng sẽ có xảy ra sự tình bất lợi, nhưng không có cách nào để rõ ràng xem là bất lợi việc gì.

3, Can Bính:
Thiên Đồng hóa Lộc: Nghề phục vụ, nghề nhà hàng ăn uống tốt đẹp, không làm nhiều mà được thu hoạch, làm nhân viên công vụ cũng tốt đẹp.
Thiên Cơ hóa Quyền: Có biến động dễ lên chức, chủ động, cơ trí, sự nghiệp nhiều thay đổi, tăng cường lực thực hành.
Văn Xương hóa Khoa: Đi vào giới văn nghệ phát triển năng lực mà thành danh, văn chương lừng danh, có lợi trong việc đọc sách thi cử cho học tập.
Liêm Trinh hóa Kị: Quan tụng thị phi, bệnh hoa liễu, viêm nhiễm máu mủ, tranh chấp do chuyện đào hoa, cùng Thất Sát Kình Dương đồng cung ở cung Thiên Di xung cung Mệnh sẽ phát sinh tai nạn xe cộ, thêm sao Hóa Kị lại thêm ứng nghiệm.

4, Can Đinh:
Thái Âm hóa Lộc: Nữ giới tốt về tài lộc, vận điền trạch tốt đẹp, có lợi ở trong buôn bán bất động sản hoặc vật phẩm chuyên dụng cho phái nữ.
Thiên Đồng hóa Quyền: Đem sự lười nhác của Thiên Đồng chuyển hóa thành tích cực, thích hợp các nghề nghiệp phục vụ, ăn uống, quần áo trang sức, hùn vốn chung cũng hợp.
Thiên Cơ hóa Khoa: được tài chính bình ổn chứ không nhiều, quan hệ bạn bè không tệ, khó xảy ra chuyện tranh chấp tài chính với bạn bè.
Cự Môn hóa Kị: Nhiều khẩu thiệt thị phi, ngôn từ không thích đáng dẫn đến họa, biểu đạt không tốt, coi chừng âm miếu, bùa chú, mất trộm. Từng có bằng hữu đã nói một câu "Ngươi cẩn thận cho ta một chút!" kết quả chọc quan tòa, tội danh là đe dọa. Kỳ thực chỉ là nói gắt gỏng một chút mà thôi, trên mệnh bàn của anh ta thì có Cự Môn hóa Kị, mà lại đúng lúc vận đồ đi tới vị trí sao này. Bạn nào có sao này, tốt nhất là nên thận trọng mồm miệng.

5, Can Mậu:
Tham Lang hóa Lộc: Có nhậu nhẹt; kiếm tiền tốt từ nghệ thuật; cùng Vũ Khúc hội hợp thì hoạnh phát của cải; nhân duyên tốt, nữ tính rất thích cũng rất giỏi làm nũng.
Thái Âm hóa Quyền: Nữ giới có năng lực mạnh hơn đàn ông, nam nhân động tác phái nữ như nam giới cá tính lại mạnh, có lợi tại bất động sản hoặc gia vận.
Hữu Bật hóa Khoa: Nhiều quý nhân, chú ý tình cảm phức tạp, có lòng cầu tiến có được danh lợi.
Thiên Cơ hóa Kị: Bất lợi cho người thân ngang hàng thuộc phái nam, bị thương ở tay chân, để tâm vào chuyện vụn vặt luẩn quẩn trong lòng, xe cộ hoặc máy móc đè bị thương, có sao Hóa Kị loại này đại đa số sẽ bị tình trạng tay chân lưu lại dấu vết.

6, Can Kỷ:
Vũ Khúc hóa Lộc: gặp bộ Vũ Tham hội hợp thì giỏi buôn bán; chủ hoạnh phát, năng lực quản lý tài sản mạnh, giỏi tích lũy.
Tham Lang hóa Quyền: Lòng hiếu thắng mạnh, cá tính gấp gáp, thực dụng, tính ghen tuông mạnh, không giỏi lập kế hoạch, dũng cảm xung phong phá trận.
Thiên Lương hóa Khoa: Lợi cho thi cử, nghành y, công chức, bình ổn mà thăng tiến.
Văn Khúc hóa Kị: Tranh chấp giấy tờ, có đánh bạc ắt thua, bất lợi cho sự nghiệp, thần kinh có bệnh, tai nạn xe cộ, cẩn thận trong việc nhận khế ước, chi phiếu, công văn trao tay bởi vì thủ tục không được đầy đủ mà khơi dậy mầm mống tai vạ.

7, Can Canh:
Thái Dương hóa Lộc: Có tiền từ bôn ba bận rộn nhưng chưa chắc có thể giữ được bởi vì nguyên nhân phóng khoáng hào sảng; nữ mệnh có cốt cách rất nam nhi, chưa chắc lớn lên ngoại hình xinh đẹp, nhưng có thể tìm được người chồng tốt, so với nữ mệnh có Thái Dương hóa Kị thì tốt hơn rất nhiều, cung Tử Tức cũng luận như vậy.
Vũ Khúc hóa Quyền: sử dụng tiền tài linh hoạt, chủ nắm đại quyền về tài chính, nhưng không nhất thiết là tiền của chính mình, có thể là quản lý ngân hàng hoặc quản lý công ty tài chính. Cùng Văn Khúc đồng cung, văn võ toàn tài, nhưng cô độc, kết hôn tương đối muộn.
Thái Âm hóa Khoa: Nổi danh trong giới nghệ thuật, gia vận bình ổn hài hòa, chú ý bị thương bởi dao kéo, nếu dùng dao kéo thì dễ có dấu hiệu đổ máu.
Thiên Đồng hóa Kị: Giữ được tiền tài mà không tốn sức, có nốt ruồi kín, đau đầu, ngực có khí ứ đọng không tiêu tan, hậm hực bất đắc chí, có điều khó nói.

8, Can Tân:
Cự Môn hóa Lộc: Khéo miệng để kiếm tiền, nhiều tiền nhiều thị phi, khả năng ăn nói giỏi, phản ứng mạnh mẽ, có sức thuyết phục, ưa gặp Thái Dương vượng địa hoặc Lộc Tồn tới chế hóa tính thị phi, chủ phúc hậu, thích hợp lấy miệng làm chủ trong hành động.
Thái Dương hóa Quyền: sao chủ quan lộc hóa Quyền thì chủ vất vả cực nhọc càng tăng sự tài giỏi, bôn ba, lao lực, dịch mã động mạnh thì có cơ hội xuất ngoại du lịch, ở cung Ngọ bất lợi, dễ bảo thủ, tính chủ quan quá mạnh, có cát tinh giúp đỡ thì cát lợi.
Văn Khúc hóa khoa: Thích hợp hướng phát triển trong giới văn nghệ, nhưng thiên hướng ở tại Ngũ thuật (QNB chú: tức Mệnh, Tướng, Bốc, Y, Sơn), nghệ thuật thuộc loại bàng môn tà đạo, học sinh lợi cho thi cử, học tập chuyên tâm.
Văn Xương hóa Kị: phải cẩn thận kẻo Lôi thôi về giấy tờ, ký hợp đồng, thư xác nhận, thư bảo đảm, dễ nhận ngân phiếu khống, học sinh học tập không được chuyên tâm, việc học hành kém, gián đoạn; ở tại Tật ách, huyết quản có tật, Văn Khúc hóa kị cũng như vậy.

9, Can Nhâm:
Thiên Lương hóa Lộc: Thông minh, nhân duyên tốt, được sự che chở của bậc trưởng bối, ở tại Tài Bạch kiếm tiền từ việc đầu cơ, không làm mà có tiền, thu nhận tiền biếu tặng dễ sinh chuyện.
Tử Vi hóa Quyền: Chủ quan chức, tự cho mình là đúng, bảo thủ, ưa gặp cát tinh phụ tá, chủ đại phú đại quý, được người khác tôn sùng, nắm quyền thế, có uy.
Tả Phụ hóa Khoa: Chủ công danh, danh lợi song thu, có lòng cầu tiến, dễ có chuyện phức tạp trong tình cảm.
Vũ Khúc hóa Kị: Bất lợi cho tiền tài, quay vòng khó khăn, cùng Thiên Hình đồng cung, vì tiền tài mà phạm pháp; cùng Kình Dương đồng cung, vì tiền tài mà động đao kiếm, nếu cùng Thất Sát đồng cung lại thêm ứng nghiệm, cũng có thể ám chỉ thân thể gặp phải hình thương.

10, Can Quý:
Phá Quân hóa lộc: Tiền do cầm cố, vay mượn, không phải là tiền của mình, thịnh vượng trong buôn bán, ở cung phu thê chủ gương vỡ lại lành. Lợi cho người làm nghề vận tải, đi thuyền, buôn bán.
Cự Môn hóa Quyền: Ăn nói sắc bén, năng lực ngôn ngữ tốt, lời nói có uy, năng lực thuyết phục tốt, quan chức dễ lên chức nhưng phòng khẩu thiệt thị phi, tốt nhất cho: Nhân viên nghiệp vụ, hành chính, giáo viên.
Thái Âm hóa Khoa: Chủ đào hoa, bởi vì đào hoa mà sinh họa, loại đào hoa này là do khác giới chủ động, những cái khác cũng giống như can Canh Thái Âm hóa khoa.
Tham Lang hóa Kị: Bởi vì tình dục mà gây rủi ro, hoặc khiến cho dính dáng đến kiện tụng, chú ý: Sắc dục, ăn uống và các phương diện ham muốn khác, để tránh thân thể khỏi bị hao tổn hoặc rủi ro dẫn đến kiện tụng. Xuất hiện rất nhiều loại hiện tượng có tiên nhân múa hát, tắm giặt, tình dục, giết chóc,… nhưng đều là tình cảm bất chính, quan hệ không dứt ra được, thích hợp: buôn bán thiên môn, buôn bán tiền mặt.

Ở trên là những giải thích đơn giản về ý tượng 10 can Hóa tinh, nhất định phải cùng tham khảo cân nhắc cùng với những kị tinh, sát tinh khác ở trong cung để giải thích. Thế nhưng bởi vì hiệu lực của Hóa tinh tương đối mạnh, sao mà khi chưa hóa thì ảnh hưởng tương đối không rõ ràng. Còn như ứng dụng với Đại Hạn, Lưu Niên cũng có thể phỏng theo đó để mà giải thích.

Thứ ba, giải thích nguyên tắc sử dụng Tứ Hóa của Đại Hạn:
Căn cứ vào thuyết Thiên Địa Nhân: tại Thiên gieo tượng, tại Địa thành hình, tại Nhân thành sự. Đó là 3 bước trong quá trình luận mệnh, tại Thiên Bàn chỉ có thể thấy 1 hình ảnh mờ nhạt mà thôi, giống như trứng vừa mới thụ tinh, đã có bắt đầu sinh mệnh, qua quá trình mang thai của cơ thể mẹ mà từ từ thành hình (tại Địa thành hình), càng ngày càng có năng lực độc lập sinh tồn, qua kỳ mang thai, cất tiếng khóc chào đời, hiện nên một cơ thể, sinh mạng sống rõ ràng (tại Nhân thành sự).

Sự hình thành của một sự kiện, dùng Tử Vi Đẩu Số để suy tính cũng chọn dùng phương pháp suy luận 3 bước ấy. Nếu suy tính "Sự kiện" trong Lưu Niên thì lá số Gốc chính là "Thiên Bàn", lá số Đại Hạn chính là "Địa Bàn", lá số Lưu Niên chính là "Nhân Bàn".

Cũng tức là 1 sự kiện trong Lưu Niên, có gieo tượng ở trong lá số Gốc, thành hình ở trong lá số Đại Hạn và hiện thành sự kiện ở tại lá số Lưu Niên. Theo đó để thấy, suy tính lá số Lưu Niên, Đại Hạn là một khâu vô cùng trọng yếu, nó phụ trách sự thai nghén tượng của "Thiên Bàn", sau đó giáng sinh ở trên "Nhân Bàn".

Vì vậy, suy tính vận Lưu Niên, lá số Lưu Niên chỉ là tiếp nhận cái "Thai nhi" đã thai nghén thành hình ở lá số Đại Hạn mà thôi. Cho nên ứng vận Lưu Niên từ Thiên can Tứ Hóa của lá số Đại Hạn để suy luận, lại cùng phối hợp với tượng của lá số Gốc, xâu chuỗi mạch lạc 3 mắt xích với nhau mới có thể Gieo Tượng, Thành Hình, Thành Sự. Mới có thể trách khỏi việc suy lý không chính xác, thiếu điều kiện phối hợp của đại hạn, sự kiện liền không cách nào thành hình.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cho nên nói "Thiên Địa Nhân" ở trong Đẩu Số chính là một loại trình tự suy luận 3 bước, và trong quá trình suy luận này có liên quan tới nhân tố môi trường xung quanh, chứ chẳng phải là kể thần giảng quỷ về hiện tượng Thiên Địa Nhân thần bí cao siêu; Nếu như các vị có đọc qua các thư tịch cùng loại, tin rằng sẽ lý giải cách cổ nhân dùng từ, giấu diếm rất nhiều huyền cơ. Người không hiểu thì lấy trò "giả thần lộng quỷ" để giải thích, lừa dối phương hướng, đem mệnh lý học chính tông và tôn giáo hoặc hiện tượng pháp thuật thần quái kết hợp, dẫn đến nghiên cứu lạc lối.

Thanked by 6 Members:

#27 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 24/03/2019 - 21:07

Trước đây đã giới thiệu qua mối quan hệ của Thể - Dụng:
"Dụng" xung "Thể", tai họa to lớn, 10 năm Đại Hạn bất lợi
"Thể" xung "Dụng", tai hoạ khá nhẹ, 1 năm Lưu Niên bị xung bất lợi.

Thứ tư, giải thích cách sử dụng linh hoạt Tứ Hóa phi tinh: (hình 1)
Bây giờ cử ra một ví dụ nói rõ quan hệ của "Thể" và "Dụng", quan hệ suy lý của tam bàn (3 tầng lá số): Bản Mệnh (lá số Gốc), Đại Hạn, Lưu Niên.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hình 1: Lá số Gốc


Vị tiên sinh này từng là đại phú ông một thời oai phong, tại năm Giáp Tý bắt đầu đổ vỡ, xảy ra mà không thể cứu vãn. Kết quả ở năm Ất Sửu vì có viết chi phiếu khống, trong tháng Giêng vì làm trái pháp luật về ngân phiếu nên bị bắt bỏ tù, trong chớp mắt vinh hoa phú quý ngày xưa đã thành quá khứ, chúng ta đi xem xét mệnh bàn biểu hiện và suy lý như thế nào:

Lá số Gốc:
Từ trên cách cục, có thể nhìn thấy đó là cách "Tử Phủ triều viên", dựa vào mệnh cách để giải thích: Trong cuộc đời thường qua lại với những người có thành tựu trong giới chính trị, quân cảnh, thương nghiệp, đồng thời có được sự trợ giúp của bọn họ mà thành công, cung Nô Bộc có sao Hóa Quyền càng làm mạnh thêm khuynh hướng này.

Cung Quan Lộc gốc: Ở tại cung Quý Tị, khiến Tham Lang hóa Kị bị Hóa Kị năm sinh (Liêm Trinh kị) ở đối cung (cung Phu Thê) bắn về, chính là một kết cấu Nghịch Thủy Kị tiêu chuẩn, chẳng trách có thể trở thành một ông chủ đại xí nghiệp.

Cung Tài Bạch gốc: Ở tại Đinh Dậu, khiến Cự Môn hóa Kị tại cung Tý (cung Huynh Đệ).

Cung Tật Ách gốc: Ở tại Bính Thân, khiến Liêm Trinh hóa Kị ở cung Hợi (cung Phu Thê).

Khi mà Đại Hạn đi tới cung Nhâm Thìn, thì cung Tý trở thành cung Tài Bạch của Đại Hạn, cung Hợi biến thành cung Tật Ách của Đại Hạn, đã biểu hiện rằng ngoài chuyện tiền tài của Đại Hạn Nhâm Thìn có chuyển biến xấu, thì sức khỏe thân thể cũng sẽ suy bại.

Người mở công xưởng nhà máy chế tạo thì không được xem nhẹ cung Tật Ách, bởi vì cung Tật Ách chính là [cung Điền Trạch của cung Quan Lộc], cũng chính là cung nhà xưởng. Thật xui xẻo cho đương số này, cung nhà xưởng ở tại Bính Thân, khiến Liêm Trinh hóa Kị nhập cung Phu Thê xung cung Quan Lộc; ở trên lá số Gốc đã có gieo tượng biểu hiện, người này không thể làm nghề chế tạo, bằng không thì sự nghiệp tất bại.

Cung Phụ Mẫu gốc: Lại tới cung Phụ Mẫu tại Canh Dần, trong cung tọa thủ Thiên Đồng hóa Lộc, Thiên Lương, Văn Xương hóa Khoa, vừa khớp can Canh lại khiến cho Thiên Đồng hóa Kị, thành tình huống Lộc Kị đồng cung, chính là Song Kị, đối cung Tật Ách cũng sẽ phải chịu sự xung kích của Kị tinh. Vì vậy, ở trên Lá số Gốc đã biểu hiện mối quan hệ mật thiết giữa 2 cung Quan Lộc và cung Tật Ách, mà đó lại là triệu chứng không hề tốt.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lá số của Đại Hạn


Về lá số của Đại Hạn:
Đại Hạn Nhâm Thìn, cung Quan Lộc của Đại Hạn ở Bính Thân, cung Tài Bạch của Đại Hạn ở Canh Tý.

Cung Quan Lộc của Đại Hạn ở tại Bính Thân: khiến Thiên Đồng hóa Lộc nhập đối cung, mà đối cung vốn lại có Thiên Đồng tự hóa Kị, Song Kị Kị Xuất, tiền tài sẽ bị tổn thất rất lớn. Can Bính cũng khiến Liêm Trinh hóa Kị xung Quan Lộc gốc, là kiểu từ cung Quan Lộc của Đại Hạn gây ra sự xung Quan Lộc của Lá số Gốc, tức "Dụng" xung "Thể", tai hoạ tất nặng. Ở trong Đại Hạn này thì sự nghiệp tất có biến động lớn.

Cung Tài Bạch của Đại Hạn ở tại Canh Tý: khiến Thái Dương hóa Lộc nhập vào cung Mệnh của Đại Hạn (cung Điền Trạch gốc), tiền tài có sự nhập khố, nhưng Thái Dương không phải là tài tinh nên tiền tài không được vượng, đến đến đi đi. Vả lại, cung Tài Bạch của Đại Hạn lại ở chỗ cung Huynh Đệ gốc, dựa vào nhiều sự giúp đỡ của anh em, hơn nữa còn là "Sao thị phi" [Cự Môn, Văn Khúc] nên phần nhiều là phù phiếm, khoa trương, toàn là những thành phần không có thực lực.

Thiên Đồng hóa Kị lại nhập cung Dần, mà đã là cung Kị Xuất thì sợ nhất là gặp lại Kị Nhập. Hơn nữa sau khi Kị Nhập lại còn xung Quan Lộc của Đại Hạn, quá rõ ràng, Đại Hạn này nói lên sự nghiệp không kiếm được tiền, bởi vì cung Tài Bạch của Đại Hạn xung Quan Lộc của Đại Hạn vậy!

Tượng này dựa vào giải thích ở chương 11 là " Lộc nhập Ngã cung, Kị nhập Tha cung", là hung tượng của “Lộc tùy Kị tẩu” (Lộc theo Kị chạy). Lộc tuy nhập Ngã cung, nhưng bởi vì Kị nhập Tha cung, cho nên Lộc là Lộc hư ảo, tới rồi có thể mất đi, là điềm báo trước tổn thất lớn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lá số của Lưu Niên:

Chúng ta đều biết sự cấm kỵ của "Đồng loại tương xung", mối quan hệ 3 tầng lá số Thiên Địa Nhân bàn, hiểu rõ Nhân Bàn là tiếp nhận sự kiện của "Địa Bàn thành Hình". Sự kiện này sẽ được sinh ra ở năm Lưu Niên của Đồng loại tương xung. Cũng tức là :

Khi mà Quan Lộc của Đại Hạn hóa ra Kị xung cung Quan Lộc của Lưu Niên, Tài Bạch của Đại Hạn hóa ra Kị xung Tài Bạch của Lưu Niên, thì sự kiện dễ xảy ra.

Đương số có cung Tài Bạch của Đại Hạn hóa ra Kị ở cung Dần xung cung Thân, khi cung Thân trở thành cung Tài Bạch thì tài tiền tài thất thoát tựa như hồng thủy cuốn trôi. Tới năm Lưu Niên Giáp Tý, cung Thân biến thành cung Tài Bạch của Lưu Niên, cho nên năm Giáp Tý bạo phát vấn đề về tài vụ.

Mặt khác Quan Lộc của Đại Hạn hóa ra Kị ở cung Hợi xung cung Tị, đến khi cung Tị biến thành cung Quan Lộc thì sự nghiệp liền hỏng mất. Lưu Niên năm Ất Sửu, cung Tị biến thành cung Quan Lộc của Lưu Niên, lại vừa hợp với cấm kỵ là đồng loại tương xung, hơn nữa hóa tinh lại là Liêm Ttrinh, Liêm Trinh hóa Kị chủ quan tụng thị phi, cho nên năm Ất Sửu bị bắt bỏ tù.

Giả như mọi người biết được chân tướng sự kiện của mệnh lệ này mà nói, lại nhìn kỹ hiển tượng trên lá số sẽ cảm thấy có rất nhiều ý nghĩa, đi sâu thêm một chút vào vấn đề mà xin thứ lỗi cho người viết không thể tiết lộ, bất quá thì vị độc giả có lòng cầu tiến, không do dự sẽ từng bước đem thực tế và cung vị tương quan trên lá số, lựa chọn cân nhắc tới lui là có thể phát hiện được Sao, Cung, Tứ Hóa và Sự kiện có mối quan hệ tương hỗ đối ứng.

Quá trình phân tích Thiên Địa Nhân bàn, khiến gieo Tượng, thành Hình, thành Sự đều từng bước nhất nhất logic. Cuối cùng để biến thành "Sự kiện" thực sự, thì cần biết quan hệ của ba yếu tố "Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện". Ngay sau đó mới thật sự suy tính vận thế mới là bước hoàn thành phép tính toán. Chúng ta cũng đã lý giải đến phương pháp luận mệnh theo ba bước "Thiên Địa Nhân bàn", và giữa ba yếu tố Thời Gian, Không Gian, Sự Kiện là có sự quan hệ tương hỗ. Cho nên sử dụng Tử Vi Đẩu Số luận mệnh nhất định phải dựa vào trình tự "Thiên Địa Nhân bàn" để giải lá số.

Trong suy tính mệnh vận, nếu đã hiểu rõ quy trình 3 bước "gieo Tượng, thành Hình, thành Sự", nếu có thể trong giai đoạn gieo Tượng mà tránh được nhân tố bất lợi, cũng sẽ không đến nỗi phải có kết cục đi tù. Cho nên công dụng của luận mệnh không nằm ở việc ở nói cho ngươi biết nào một năm sẽ phát sinh chuyện gì, mà là để cảnh báo cho ngươi biết tránh làm chuyện gì hoặc tránh khỏi một không gian nào đó để không gặp những hậu quả bất lợi. Ở giai đoạn thành Hình, khuyên người ta không nên làm sự việc nào đó, nhưng thường thì do như mũi tên đã nằm tại dây cung mà không bắn không được nên hiệu quả cải thiện tương đối thấp.

Đến đây các vị đã có thể biết làm thế nào để từ trên lá số, dựa vào thứ tự của Thiên Địa Nhân bàn mà suy lý, và trong quá trình suy lý thì vận dụng Tứ Hóa và cung vị trùng điệp có liên quan, ứng dụng quan niệm cơ bản về hiển tượng của các tinh tú.

Còn như ở tại vận đồ sau này thì như thế nào?
Trong giới mệnh lý, đã có rất nhiều đại sư suy đoán ra rằng sau khi ông ta ra tù sẽ được năng lực gia tộc che đỡ, Đông Sơn tái khởi, vào Đại Hạn Giáp Ngọ thì còn có thể lại lần thứ hai sáng lập nên sự nghiệp rạng rỡ.

Thế nhưng nhận định của tôi rất khác với bọn họ, con người ta nhất định phải có mạng sống thì mới có vận đồ. Bằng không đưa ra mệnh bàn của một người chết, lại mạnh tay vỗ ngực, đảm bảo rằng người ta đại phú đại quý, là có ý gì vậy? Có nhiều đại sư sẽ suy tính ra kết quả như thế, có thể là thấy gia tộc của anh ta là tập đoàn tài chính lớn nhất nhì ở Đài Loan, mà cứ tưởng là đương nhiên sẽ như thế!

Tiền tài có thể cấp cho người khác, Sự nghiệp có thể dùng đập đi xây lại, vợ chồng có thể dùng tiền mua được. Thế nhưng, thân thể khỏe mạnh có sử dụng tiền cũng không thể mua được, người khác cũng không thể cho bạn, mà cái gốc tạo ra nguyên nhân như vậy là xuất hiện ở vị trí cung Tật Ách trên lá số, là cung vị mà người khác không thể giúp đỡ gì được.

Các vị có thể đã biết là vấn đề của Tật Ách, Đúng! Chính là ở cung Tật Ách có xuất hiện vấn đề.

Cung Tật Ách của Đại hạn Quý Tị, đã làm Kị phi ra (Thiên Đồng Kị) xung tới cung Tật Ách của lá số Gốc, chính là loại điều kiện cấm kỵ "Đồng loại tương xung", loại tình hình như thế này thì liệu còn có sự nghiệp trong Đại Hạn Giáp Ngọ nữa sao?

Nào năm bệnh phát? Nào năm nghiêm trọng nhất? Bệnh gì?
Toàn bộ những cái này ta đều có thể suy tính được, nhưng người viết chỉ có thể điểm đến là dừng, các vị có thể phỏng theo những giảng giải trong chương này, tự mình thực hành suy lý xem thế nào.

Tôi chỉ có thể nói chú ý năm Ất Hợi (ở năm Nhâm Thân đã bắt đầu có hiện tượng biểu lộ), nếu các vị có đọc qua các sách Y dược Trung Hoa có liên quan, sẽ biết được nguyên nhân gây bệnh bởi đâu. Các vị sẽ nói: "Liệu có thể phòng bị được hay không? " thì xin thứ lỗi cho người viết được giấu dốt.

Sau quá trình phân tích ví dụ luận mệnh trên, mọi người đã có thể nắm được cách vận dụng Tứ Hóa, mối quan hệ của Thiên Địa Nhân bàn rồi đó!

Đương nhiên, mỗi hiện tượng ở trong vũ trụ đều có một cái tiền đề, khi đã có cái tiên đề này thì mới có thể sản sinh hiện tượng nào đó. Ví dụ như: Chuyển động rơi tự do, nhất định phải ở trạng thái có trọng lực Trái Đất mới có thể xảy ra. Giả như ở trạng thái vũ trụ không có trọng lực thì không có hiện tượng rơi tự do. Cho nên, hiện tượng một vật rơi tự do này chính là có tiền đề là trạng thái trọng lực mới có thể phát sinh.

Vận trình cuộc đời con người cũng giống như vậy, ví dụ luận mệnh trong chương này đã biểu hiện không thể sáng lập công xưởng, nếu không tuân theo tiền đề này, ngang nhiên chống lại thì liền phải nhận lấy hiện tượng như trong lá số biểu hiện.

Trích dẫn thuật ngữ Toán học "Nếu P thì Q" chính là như vậy. Có người nói là "Phương pháp thu thập Điều kiện đầu vào" cũng chính là cái này ý nghĩa này. Suy tính sự kiện phải có một số điều kiện tiên quyết trước khi muốn định nghĩa ra, hoặc bỏ sức người để thu thập các điều kiện tiên quyết tất yếu thì mới có thể suy đoán cát hung!

Lúc suy lý, không thể quên loại quan hệ tiền đề này, nếu đối tượng đi làm việc hoặc lựa chọn phương hướng phát triển chính xác, thì cái tượng tạo ra này nếu mà có thể làm công ăn lương cũng chưa chắc sẽ đến nỗi thất bại đến sạch trơn.

Cùng lý lẽ với lúc suy đoán vận thế tương lai, cũng cần phải chú ý xe có phải là khí số sắp hết, một người mắc trọng bệnh thì liệu còn có thể sáng lập đại nghiệp gì đây? Cho nên lúc luận giải mệnh lý, nhất định phải nghiên cứu Cách Cục trước tiên. Sau đó lại xem xét chỗ ngưng tụ khí của Tứ Hóa, liền có thể lý giải được khái quát, rồi tới phân tích vận trình mới không đến nỗi vô lý.

Cho nên lúc phân tích lá số, nhất định phải có quan niệm phân tích thứ tự tầng lớp "Thiên Địa Nhân". Các vị đừng tưởng rằng trong phân tích ví dụ trước, việc sử dụng quan niệm "Thiên Địa Nhân" bàn là có chỉ có như vậy. Việc vận dụng nó ở trong mỗi một tầng lớp suy lý, không chỉ có mỗi mình quá trình suy luận mệnh lý mà thôi, xin mời xem thêm chương quan niệm Thiên Địa Nhân. (hình 2)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 4 Members:

#28 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 24/03/2019 - 21:26

Dưới đây tôi viết thêm vào năm Dân Quốc thứ 86 (1997), giải thích những thứ liên quan tới việc đương số bị bệnh chết trong ngục.

Nhớ lại: Thí dụ luận mệnh này vào năm Dân Quốc thứ 76 bởi vì bệnh ung thư ở trong ngục giam thổ huyết mà chết, sau này mới được báo chí thông báo.

Liền có thật nhiều bằng hữu tới thăm hoặc gọi điện tới khen tôi có thể đoán được chính xác như thần. Cái khả năng này chính là lúc xem lá số thì tôi đã có được sự xem xét cẩn thận tỉ mỉ, có chú ý tới chỗ khiếm khuyết của lá số này.

Nói thật, phải làm thế nào để có cái nhìn toàn cục, nắm được quan hệ tương hỗ giữa các cung vị, hoàn toàn không phải là công phu chỉ luyện một sớm một chiều! Phải từng trải rất nhiều và có kinh nghiệm mới có thể nắm bắt được yếu lĩnh. Độc giả có quyết tâm nghiên cứu nhất định phải kết hợp người cùng sở thích, sưu tập các lá số của các tầng lớp nhân sĩ trong xã hội, tập hợp thành bộ sưu tập mệnh lệ. Mỗi người sử dụng những góc độ khác nhau để phân tích mệnh lệ, mới có thể nhanh chóng có được tích lũy tâm đắc, kiện toàn quy tắc luận mệnh. Còn nếu chỉ là cái kiểu con hát mẹ khen hay, vì phương thức nghiên cứu bị khép kín sẽ thường thường không có cách nào đột phá khỏi cái chỗ thắt cổ chai của việc học tập.

Công trình có các loại tập san cho công trình sư hoặc các nhà khoa học đem tâm đắc chia sẻ, Y học có các tập san Y học cho các các vị Y sư đem các án lệ mới hoặc liệu pháp mới chia sẻ cho đồng nghiệp tham khảo. Đương nhiên trong chuyện này sẽ có nhiều vấn đề tranh luận, bất quá trải qua quá trình mọi người nghiệm chứng và sàng lọc, sẽ giữ lại được các kiến thức hoặc các kỹ thuật đúng đắn có thể ứng dụng thực tiễn. Bởi vậy đều khiến cho các công trình hoặc y thuật có thể ngày càng tiến bộ. Vậy thì hà cớ gì mà mệnh lý lại không làm được như thế.

Trong thư gửi đến có người hỏi: Làm sao nhìn ra việc sẽ chết ở tại trong ngục? Kỳ thực rất đơn giản, có thể chia làm hai bước để giải lá số:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thứ nhất, cung Phụ Mẫu gốc quá vượng vừa được tọa thủ bởi Hóa Lộc, Hóa Khoa, lại gặp phải Can cung là Canh khiến cho Thiên Đồng tự hóa Kị, kết hợp Kị sau khi tự hóa với Hóa Lộc gốc thì liền có hung lực của hai tầng Kị. Cho nên đối cung là cung Tật Ách liền phải chịu áp bức đè xuống đầu, vốn chính là có hiện tượng bất lợi cho thân thể.

Thứ hai, lúc Đại Hạn Nhâm Thìn, [cung Quan Lộc của Đại Hạn] và [cung Tật Ách gốc] trùng điệp. Thiên Can của [cung Tật Ách gốc] là Bính khiến Liêm Trinh hóa Kị nhập vào [cung Tật Ách của Đại Hạn], mà vốn dĩ trong [cung Tật Ách của Đại Hạn] đã có Kị năm sinh và kết hợp với phi hóa Kị của Liêm Trinh bay đến tức là có hai tầng hung lực của Kị. Đồng thời [cung Quan Lộc của Đại Hạn] và [cung Tật Ách của Mệnh gốc] trùng điệp, mà lại hóa Kị tới xung [cung Quan Lộc của Mệnh gốc]. Sự bất lợi của sự nghiệp và bạo phát bệnh tật này có mối liên quan.
Một trong số các lực lượng xung tới đó, tinh tú có địa vị then chốt chính là Liêm Trinh. Liêm Trinh là chủ về máu huyết, vừa làm chủ quan lộc, Liêm Trinh hóa Kị diễn biến thành do quan tụng thị phi mà chịu giam cầm. Vì vậy, tổng hợp lại: Sẽ vì sự nghiệp bất lợi dẫn đến quan tòa, các vị hẳn cũng hiểu rõ cái ý tứ của câu [Liêm Trinh hóa Kị, gọi là Tù] rồi mà.

Đương nhiên là mệnh này có hiện tượng Tam phương cung Mệnh gốc và Tam phương Đại hạn đều có xung phá, cho nên vận đồ cực kém. Đại Hạn ấy nếu có thể ẩn thân hàm dưỡng thì có thể vượt qua cửa ải khó khăn. Nhưng đương số không ngờ được điều này, mà ngược lại còn dựa vào đặc quyền lớn mà khua chiêng gõ trống gây sự nghiệp, thực thi thủ đoạn đem của công để cho mình sử dụng, càng làm thì thua lỗ lại càng lớn. Còn đang trong thời kỳ đảm nhiệm chức vụ lớn mà mưu lợi cuối cùng phạm pháp. Kết quả là do cung Phụ Mẫu tự hóa Kị mà bị phá, khó tránh khỏi đắc tội người đương quyền, bị hạ lệnh điều tra, sự nghiệp một buổi mà thành tro bụi chôn vùi. Quý vị từ trong mệnh bàn phải chăng đến đây đã phát hiện một đầu mối?!

Đây là một ví dụ luận mệnh rất có giá trị nghiên cứu, quý vị nếu có sưu tập những ghi chép lai lịch của vị tiên sinh này, từ đó mở lá số này ra còn có thể khai thác thêm được ra các quy tắc Đẩu Số khác rất có giá trị.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Phụ chú:
Liên quan tới mệnh bàn của một danh nhân và vị tiên sinh này vốn có sự tương đồng về tình huống [cung Tật Ách của Đại Hạn hóa Kị xung cung Tật Ách của Mệnh gốc] mà danh nhân kia qua đời. Còn có một ví dụ thực tế về nữ minh tinh điện ảnh nào đó (có tên gọi là Phu nhân chợ đen) say rượu chết trên ghế salon trong nhà bạn bè. Do đó có thể chứng minh lý luận nói trong sách, là nghiệm chứng lặp đi lặp lại.

Dựa vào mệnh bàn của một tiểu thư minh tinh điện ảnh nào đó ở chương sau (hình 3), độc giả có thể căn cứ theo quy tắc được nói ở chương này để tự thực hành suy lý mà xem. (Ví dụ luận Mệnh đã thu nhận sử dụng ở trong tuyển tập khác).

Quy tắc này là từ người thầy đã khuất để lại, tôi chỉ ứng dụng nó để luận đoán mà thôi. Vì sao sẽ ứng nghiệm, thực sự là khiến người ta hậm hực. Vì sao có thể thông qua một quy tắc này, suy luận được người nào đó tương lai phát sinh chuyện như vậy?

Tiên hiền làm thế nào quy nạp, suy luận ra quy tắc này vậy? Cơ sở lý luận ẩn giấu ở phía sau là cái gì? Rất hy vọng có người có thể khám phá ra!

Cho đến bây giờ chúng ta mới chỉ là "Dụng" Tử Vi Đẩu Số mà thôi, còn chưa khai mở được nguồn gốc hình thành Tử Vi Đẩu Số. Giả như một ngày kia có thể giải ra được bí ẩn này, nếu muốn lại phát triển tinh xác hơn học thuật dự đoán tương lai thì cũng không phải là việc khó.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 7 Members:

#29 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 25/03/2019 - 21:15

CHƯƠNG 26: XEM SỰ NGHIỆP PHÙ HỢP THEO TÍNH CHẤT CÁC SAO


Các tinh diệu chủ yếu trong Đẩu Số có 28 ngôi, thế nhưng nghề nghiệp cũng không những có 360 loại, mà còn có rất nhiều chuyên ngành mới ở lại diễn sinh ra trong số đó. Đó là lý do mà các tinh diệu thực khó có thể đại biểu tất cả các nghề nghiệp, chỉ có thể nói một vài tính chất sao thích hợp với một số loại nghề nghiệp.

Cho nên, muốn quyết định thực sự thích hợp với loại nghề nghiệp nào, vẫn cần xem xét cân nhắc sở trường hoặc hứng thú của bản thân. Rồi lại phối hợp tính chất sao đại biểu nghề nghiệp, mới có thể phát huy tiềm năng cá nhân. Sử dụng Đẩu Số để xem các nghề nghiệp tương thích, ngoài Cách Cục ra thì cung Tài Bạch và cung Quan Lộc đều rất quan trọng. Rốt cuộc là sử dụng cung Tài Bạch hay là cung Quan Lộc để phân tích nghề nghiệp thích hợp hơn? Có nhiều phép xem khác nhau. Đầu tiên, phải hiểu ý nghĩa của cung vị. Cung Tài Bạch chủ tiền tài lưu động, năng lực kiếm tiền hoặc phương hướng kiếm tiền; còn cung Quan Lộc vừa được gọi là cung hành vi, chính là các hành động, đặc tính của một cá nhân.

Từ sự khác biệt cung vị có thể thấy: Cung Tài Bạch khá tốt đẹp so với cung Quan Lộc, thì có thể làm nghề tự buôn bán kinh doanh, lúc này lấy cung tinh tú của Tài Bạch để luận ngành nghề kinh doanh thích hợp; Còn nếu như cung Quan Lộc khá tốt đẹp hơn so với cung Tài Bạch, thì thích hợp nhậm chức, chức nghiệp thích hợp lúc này lấy theo tính tốt đẹp của tinh tú tọa trong cung Quan Lộc. Cho nên, xem làm nghề nghiệp nào thích hợp, trước hết lấy cách cục làm trọng, lại xem kỹ cát hung cung Quan Lộc, cung Tài Bạch, xác định có phù hợp tự sáng lập sự nghiệp hay không? Cuối cùng, lấy tính chất cát hung của sao tọa thủ trong cung vị, lựa chọn xác định nghề nghiệp phù hợp.

Đương nhiên, qua tính chất sao cung Quan Lộc hoặc cung Tài Bạch có thể tổng hợp chỉnh lý như sau:

Sao Tử Vi: Là đứng đầu các sao, thích lên tiếng ra lệnh mà không thích bị người quản lý, cho nên phù hợp làm quản lý, công việc về phương diện chỉ đạo, như giáo sư, kế toán viên cao cấp, công trình sư, chính giới, quản lý xí nghiệp công hoặc tự doanh.

Sao Thiên Cơ: là sao chủ tâm tư tinh tế, suy nghĩ linh hoạt, tiếc là không đủ mạnh mẽ, có thể đảm nhiệm các loại nghề nghiệp lập kế hoạch dự án, nghệ thuật, tôn giáo, xuất bản, đồ gỗ. Nếu như gặp sát tinh kích phát, có thể phát tài nhờ kỹ thuật, sao này không chủ về hoạnh phát tiền tài mà là sao chủ về sự chắc chắn ổn định để có được thành công chung cuộc.

Sao Thái Dương: Tràn ngậpn lòng bác ái, hiếu động, không chịu quản thúc, cho nên thích hợp giới chính trị, tự lập nghiệp, thương mại. Nếu như lạc hãm, thì nên theo các loại nghề nghiệp vận tải, làm thuê, có liên quan tới sự đi lại ở bên ngoài, còn nếu vượng địa có thể làm nghề nghiệp điện khí. Lâm vào cung Nô bộc càng tốt đẹp, có thể đi vào diễn đàn chính trị làm dân biểu.

Sao Vũ khúc: Là tài tinh, vừa là sao cô độc, cá tính cương cường, cho nên có thể nhậm chức trong nghề tài chính, quân cảnh, bảo hiểm, tài chính và kinh tế, nghề nghiệp liên quan đến kim khí. Nếu như lạc hãm thì nên làm thuê trong nghề liên quan đến kim khí cũng như gia công.

Sao Thiên Đồng: Là biểu trưng của sự hòa hợp t*o nhã, cho nên nên phù hợp chính trị, công chức, nghề phục vụ, tôn giáo, từ thiện, quần áo trang sức. Nếu mà hãm địa gia thêm sát tinh, tương đối lười, thành tựu không cao, nên làm nghề lao động thủ công.

Sao Liêm Trinh: Là chủ quan lộc, tính dễ nổi giận, giỏi tranh chấp, cho nên thích hợp giới quân cảnh, nhân viên tư pháp; vừa hóa khí là đào hoa, cho nên loại nghề chăm sóc sắc đẹp, mỹ nghệ cũng hợp, cái khác như nghề điện khí, xí nghiệp cũng có thể phát huy sở trường.

Sao Thiên Phủ: Sao Thiên Phủ cá tính cương cường và không cúi đầu trước người khác nhiều, cho nên đa số tự lập nghiệp, các loại nghề thích hợp như buôn bán nhà đất, cửa hàng bạc, bách hóa, hiệu cầm đồ. Thiên Phủ vừa là nông sản phẩm, cho nên nông nghiệp, các nghề chăn nuôi, trồng trọt đều phù hợp.

Sao Thái Âm: Là chủ điền trạch, vừa là nữ nhân, cho nên thích hợp làm các nghề bất động sản, kiến trúc, thiết kế nội thất, thiết kế sân vườn, nghề làm vườn, trang trí, nữ trang quần áo trang sức, đồ trang điểm, đồ làm bếp. Lạc hãm thì nên đi làm, cũng tương đối tốt nếu làm nghề thiết kế, trang trí. Người mà Thái Âm có thêm Văn Xương hoặc sao Văn Khúc, thích hợp học Tử Vi Đẩu Số.

Sao Tham Lang: Là sao tài nghệ, vừa sẵn có nghị lực kiên nhẫn, cho nên tính thích nghi của nó khá rộng, nhưng không rời xa phạm vi các nghề nghiệp "Rượu, sắc, tài, khí", như: Ăn uống, thực phẩm, rượu chè, vui chơi, trang hoàng nội thất, trang trí, thiết kế quần áo trang sức, thương nghiệp. Trong đó chữ "Sắc" là chỉ cả hai phương diện về tài hoa tạo hình mỹ thuật và tình dục. Cho nên nếu mà Tham Lang lạc hãm thì phần nhiều sẽ lưu lạc trong chốn phong trần, nhưng Hóa Kị hoặc Không, Kiếp đến chế hóa thì ngược lại sẽ có thể nết na đoan chính.

Sao Cự Môn: Trên cơ thể người chính là cái cửa miệng rất bự, cho nên thích hợp nghề nghiệp dùng miệng lưỡi để kiếm tiền, lại vừa có sẵn bản tính nghi hoặc, đặc tính tìm tòi nghiên cứu, cho nên cũng có thể làm tốt các công việc nghiên cứu chỉnh lý như Luật sư, Giáo sư, Xuất bản, Nnghiệp vụ, Marketing, Mục sư, Nghiên cứu lý luận.

Sao Thiên Tướng: Chính là ngôi sao "Gà mái mẹ", nhiệt tình phục vụ, giỏi việc cơm áo, thích nói chuyện phiếm, cho nên thích nghi với các nghề nghiệp Chính trị, Luật sư, Nghiệp vụ, Ngoại giao, Bán hàng, Ăn uống, Y dược (là sao Thuốc), thời trang. Nếu lạc hãm thì nên chú ý, dễ rơi vào nơi chốn bất chính, nếu thêm Kình Dương, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Đà La lại càng ứng nghiệm, bởi vì dễ bị bạn bè xấu xui khiến.

Sao Thiên Lương: Đẩu Số Toàn Thư có nói: Lương kể cả khi không lạc hãm cũng không hề tỏ vẻ là người đôn hậu, có thể thấy sao Thiên Lương vốn bản chất có mang đặc tính khoe khoang khoác lác cho nên làm các công việc thuộc giới xào xáo cổ phiếu, Xuất bản, Truyền bá, Marketing. Nhưng lại do có bản tính ngay thẳng có tài biện bác cho nên làm các nghề Công giáo, Quan toà, Viết thuê, Nhân viên kiểm toán cũng thích hợp. Và cũng có thể làm nhà bào chế dược liệu, thầy thuốc đông y.

Sao Thất Sát: Ý nghĩa như tên gọi, có mang theo sát khí đặc biệt, không nên có quan hệ với những nghề kim khí như Gia công ngũ kim, Tinh luyện kim loại, Chế tạo máy móc. Lại bởi vì sát khí cho nên cũng có thể xếp các nghề nghiệp nên làm có liên quan tới Quân nhân, Cảnh sát, Bác sĩ, Đồ tể. Nếu gia thêm Văn Xương, Văn Khúc phần nhiều là người huấn huấn luyện viên kiểu các loại Quân nhân văn chức, thêm Tứ Sát tinh thì đa số làm đồ tể. Các nghề chăn nuôi trồng trọt đánh bắt cũng có thể được.

Sao Phá Quân: Là hiện tượng tiêu hao, phá bại, tình hình hỗn loạn ở chợ thực phẩm như thế nào thì tính chất của sao này cũng tương tự như vậy. Cho nên thuộc dạng buôn bán thực phẩm, đương nhiên, buôn bán tiệm tạp hóa thương phẩm hay thu mua sắt vụn hoặc nghề nghiệp xử lý các loại vật tư này cái cũng là phù hợp. Mặt khác, các nghề như Bán buôn bách hóa, Hóa học, Dược phẩm đều có thể thích ứng.

Sao Văn Xương, sao Văn Khúc: Vừa nhìn biết là mang theo tính chất hào hoa phong nhã, cho nên nên hợp văn không thích hợp võ, hợp nhất làm các nghề Thiết kế, Nghệ thuật, Văn học, Ký giả, Xuất bản văn hóa phẩm, Quảng cáo, Dạy học. Lại vừa do có tài ăn nói không tồi cho nên các công tác chuyên nghiệp cũng có thể làm tốt. Sao Văn Khúc phần nhiều thep nghề làm Thầy bói, Nghệ thuật.

Hỏa Tinh, Linh Tinh: Có lửa, có âm thanh leng keng, sẽ liên tưởng ngay đến các công việc chế tạo, rèn gang, luyện thép, đóng thuyền, công nghiệp xử lý nhiệt. Phái nữ thì làm nghề Biểu diễn, Âm nhạc, Công việc về âm thanh, cũng có thể làm các công tác kỹ thuật khác liên quan đến kim khí.

Kình Dương, Đà La: Kình Dương là Dao giải phẫu, Vũ khí, cho nên rất có liên quan tới bác sĩ Ngoại khoa, Quân cảnh, các nghề nghiệp khác mang tính chất liên quan tới "Kim" như Gia công kim loại, Chế tạo kim khí đều phù hợp.

Ở trên chính là phân giải hình tượng riêng lẻ của các sao, giả như có hai sao đồng thời xâm nhập, thì phải xem thêm quan hệ ngũ hành sinh khắc, lấy so sánh ngũ hành vượng, để tham khảo sự lựa chọn sự nghiệp.

Học Tử Vi Đẩu Số, các bạn hẳn là có nghe qua một danh từ "Lập Thái Cực", trong đó ý nghĩa của "Mọi cung có thể lập Thái Cực" chính là việc lấy các cung làm cung Mệnh. Ví dụ như: Bạn muốn xem bạn bè như thế nào? Thì lấy cung Nô Bộc lập Thái Cực, dùng nó làm cung Mệnh, thì khi đó [cung Thiên Di trên lá số gốc] biến thành [cung Phụ Mẫu của Nô Bộc], còn [cung Quan Lộc trên lá số gốc] biến thành [cung Huynh Đệ của Nô Bộc].

Các cung vị khác có thể lần lượt biến hóa là thành cung vị tương ứng của Nô Bộc. Đây chính là ý nghĩa gốc của việc Lập Thái Cực, thế nhưng rất nhiều người lãng quên, lúc này bạn ở địa phương nào? Thời đại nào? Cũng là một trong ý nghĩa của Lập Thái Cực. Giả như không có sự thâm nhập lý giải về các đặc tính của điều kiện Thời gian và Không gian, lấy đó để phối hợp cùng với vận mệnh, chứ nếu chỉ suy tính riêng một mệnh bàn chết thì chẳng có ích lợi gì cả.

Trước tiên nghĩ một chút xem có những nhân tố nào sẽ ảnh hưởng số phận con người. Chính trị, kinh tế, mức độ giáo dục, phong tục tập quán, văn hóa, huyết thống, ngôn ngữ đều sẽ sản sinh lực ảnh hưởng. Bởi vì lực tác động lẫn nhau của những yếu tố này là tùy Thời tùy Nơi mà thay đổi, quỹ tích số mạng của con người chịu ảnh hưởng tuyệt đối của chúng. Dùng con sóng để hình dung đi! Người ta giống như là con thuyền nhỏ bồng bềnh trên ngọn sóng, con sóng này bị ảnh hưởng của con sóng trước mà có khác biệt về mức độ cao thấp. Vì bản thân con người cũng cũng có con sóng của vận mệnh, nhưng do ảnh hưởng lớn nhỏ của các loại sóng bên ngoài (mời xem hình 1) mà ở trong thời gian xấu thì số phận tốt cũng sẽ chịu ảnh hưởng. Khi ở môi trường kinh tế phồn vinh, người có số phận kém thì cũng có thể có cuộc sống tốt một chút.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Muốn làm nên sự nghiệp, muốn bằng hữu kiếm tiền, nhất định phải có cái nhận thức cơ bản ấy. Đừng tưởng rằng từ trên góc độ mệnh lý suy luận được vận rất tốt là sẽ tốt, nếu mà hoàn cảnh nền kinh tế đang suy thoái thì nó cũng sao có thể thể khiến cho bạn kiếm số tiền lớn được. Từ xưa đến nay, có rất ít anh hùng tạo ra thời thế, mà đa số đều là thời thế tạo anh hùng. Cho nên phải phân biệt lúc nào thời thế có lợi cho ta hay là quay lưng với ta, để tìm thời cơ tốt nhất mới thực sự là người biết kiếm tiền. Nếu như một mực mê tín mệnh lý mà quên đi ảnh hưởng của thời thế thì tốt nhất là đừng gây dựng sự nghiệp.

Bây giờ chúng ta cùng đi phân tích một ví dụ luận mệnh: (xin mời tham khảo mệnh bàn 16). Vị nữ sĩ này là bác sĩ ở trong những năm Dân Quốc thứ 54 đến 63 (1965 – 1974) kiếm được tới năm sáu ngôi nhà.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Lá số của cô ấy, cung Tài Bạch có [Tử Vi, Thất Sát ] tọa thủ, cung Quan Lộc có [Vũ Khúc, Tham Lang, Kình Dương ], tam hợp là cách cục [Sát Phá Lang], khả năng thích ứng được nhiều nghề nghiệp, cho nên rõ ràng chẳng e dè loại nghề nghiệp nào. Riêng cung Quan Lộc có sao Kình Dương, còn cung Tài Bạch có tổ hợp sao [Tử Vi, Thất Sát], vì vậy nghề nghiệp bác sĩ, bà đỡ là hích hợp.

Đại vận đi tới thời hạn trên cung Tý ( 33~ 42 tuổi):
[Cung Tài Bạch của Đại hạn] ở Canh Thân khiến Thiên Đồng hóa Kị nhập vào [cung Mệnh của Đại hạn]; [cung Quan Lộc của Đại hạn] ở Bính Thìn khiến Thiên Đồng hóa Lộc cũng vừa khéo nhập [cung Mệnh của Đại hạn].

[Cung Mệnh của Đại hạn] ở Giáp Tý khiến Liêm Trinh hóa Lộc, Phá Quân hóa Quyền nhập vào cung Mệnh gốc, ở đại hạn này thì sự nghiệp sẽ có thành tựu.

Bởi vì [cung Mệnh của Đại hạn] và [cung Điền Trạch gốc] trùng điệp, cho nên liên quan tới việc nhà đất sẽ được tăng thêm (đương nhiên đương số có những điều kiện khác phối hợp, như [cung Mệnh của Đại hạn] ở Giáp Tý khiến Liêm Trinh hóa lộc, Phá Quân hóa Quyền nhập vào cung Mệnh gốc).

Can cung Tài Bạch gốc làm hóa Lộc và hóa Quyền đều nhập vào [cung Mệnh của Đại hạn], biểu thị sẽ bận rộn việc kiếm tiền mà ở trong nhà có được cũng không thể chi tiêu. Bởi vì Lộc Quyền đồng cung, cho nên việc kiếm tiền hẳn là rất thoải mái tự nhiên chứ không phải trong tình huống gồng hết sức cưỡng cầu mà sự nghiệp thành tựu.

[Cung Tài Bạch của Đại hạn] chính là cung Huynh Đệ gốc, đây chính là nguồn tiền đến, anh em bạn bè rất cổ vũ, [cung Quan Lộc của Đại hạn] lại là cung Tật Ách gốc, nó ngầm biểu thị sự nghiệp và sức khỏe thân thể sẽ có mối quan hệ. Quan trọng nhất là cả hai cung đều có các Hóa Lộc, Quyền, Khoa, Kị tiến đến nhập vào [cung Mệnh của Đại hạn] mới có thể kiếm được tiền, còn nếu như [cung Tài Bạch của Đại hạn] hóa Kị nhập vào cung Phúc Đức gốc thì ý nghĩa hoàn toàn ngược lại.

Cho nên cô ta ở trong Đại hạn Giáp Tý, từ nghề nghiệp mật y mà kiếm được rất nhiều tiền.

Bây giờ cung cấp cho các vị một ví dụ để phân tích xem (tham khảo mệnh bàn 17), anh ta vào năm Giáp Tý (năm Dân Quốc thứ 73, tức 1984) có thể làm công việc khung nhôm cửa kính hay không? (ở chương sau phân tích).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mỗi người đều có một cái phẩm chất đặc biệt, cái tính chất đặc biệt này cho biết có thích hợp với việc buôn bán hay không? Cùng là gây dựng sự nghiệp, trước hết cần các yếu tố khảo sát, căn cứ nhiều loại marketing, tạp chí quản lý số liệu thống kê công bố. Trước đây nếu nói người thành thật rất không thích hợp buôn bán, bởi vì là thiếu khuyết tâm cơ nên dễ bị xảy chân trong thương trường đầy biến hóa quỷ quyệt, thiếu năng lực tính toán những âm mưu sâu xa vì tâm địa quá thẳng thắn.

Sử dụng Tử Vi Đẩu Số để xem, phàm là người mà ở các cung Mệnh, Thiên Di, Phụ Mẫu có Hóa Kị năm sinh tọa thủ, đều khá thành thật trung hậu, không giỏi trong tính toán, cho nên tương đối không thích hợp nghề nghiệp có tính cạnh tranh, nên đi làm. Nếu phải tự lập nghiệp cũng lấy buôn bán nhỏ, buôn bán cửa hàng bán lẻ (buôn bán bằng tiền mặt) là tốt đẹp.

Có rất nhiều bằng hữu hỏi, Hóa Kị ở cung Thiên Di xung cung Mệnh hoặc [cung Mệnh của Lưu Niên] tọa sao Hóa kỵ sẽ phát sinh chuyện gì? Mới vừa nhìn thấy sao Hóa Kị là liền rất sợ... Những vấn đề kiểu như vậy, thoáng thấy sao Hóa Kị vừa xuất hiện, mọi thứ dường như đã xong xuôi rồi, kỳ thực không cần quá lo lắng. Các vị từng tỉ mỉ nghiên cứu chữ "Kị" (忌) này là do cái gì tạo thành chưa? Chính là cái "Tâm” (心) của “Bản thân ta” (Kỷ 己) kết hợp lại, ám chỉ rằng trong lòng mình chính là nguồn gốc làm cho mình cảm thấy không thuận lợi, mệt mỏi.

Cổ thánh tiên hiền không cần lấy tên gọi "Hung" hay "Sát" mà lại sử dụng chữ "Kị" để đại biểu tai họa bất lợi là hàm chứa rất nhiều thâm ý ở bên trong. Người thời nay không phân biện rõ ràng ý nghĩa, mà ngược lại cho rằng thấy Kị tức là thấy tai họa, nhưng không tự bỏ công sức trong lòng mình, không biết nhường nhịn, không biết đủ, không tu thân, không tu tâm, thì đương nhiên việc cảm thấy khốn đốn không thuận cũng theo đó mà kéo đến.

Thanked by 7 Members:

#30 Quách Ngọc Bội

 

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4517 Bài viết:
  • 29120 thanks
  • LocationThảo Nguyên

 

Gửi vào 25/03/2019 - 21:32

CHƯƠNG 27: TỪ MỆNH BÀN XEM VẬN GÂY DỰNG SỰ NGHIỆP


Có bạn gọi điện tới hỏi "Làm nghề nào thì tốt?", vấn đề này thực sự là khiến cho người ta khó trả lời. Bởi vì cùng một loại nghề nghiệp có người kinh doanh rất xuất sắc, nhưng một số người khác làm thì lại thua lỗ, thậm chí lại gây hậu quả về sau không thể khởi sắc lại được. Cho nên, chẳng phải cứ được mọi người công nhận là cái nghề ấy tốt nhất thì bất kỳ ai tới làm cũng đều sẽ thành công. Bởi vì, mỗi người có một đặc tính khác nhau, những tính chất đặc biệt này sẽ ảnh hưởng đến tính chất công việc thích hợp và lý lẽ quan niệm kinh doanh. Tìm việc làm hoặc gây dựng sự nghiệp, đều cần dựa vào tính chất đặc biệt của cá nhân ấy phối hợp với tính chất ngành nghề sẽ là tốt nhất. Thế nhưng thói thường ở đời, chủ nghĩa vụ lợi sẽ phá hỏng mọi thứ. Tất cả mọi người ép buộc con cái phải lao vào khe cửa hẹp của những ngành nghề đang nóng, hoàn toàn quên đi sự ảnh hưởng của đặc chất cá nhân đối với sự nghiệp tương lai. Bởi vậy gây ra rất nhiều hiện tượng có học mà không có chỗ dùng. Nếu như tất cả mọi người có năng lực duy trì sự hứng thú, lấy công việc làm niềm vui, thì trong đời này sẽ có khả năng đạt được thành tựu cao hơn hẳn là so với làm công việc không hứng thú.

Cũng có bạn hỏi "cung Tài Bạch có các loại sát tinh như Hỏa Tinh, Linh Tinh, thì có phải là có ý báo trước bất lợi về tiền tài hay không?" Cách nói này hoàn toàn là lấy tổ hợp tinh tú tọa trong cung để luận cát hung, trước đây đã có biện giải qua rồi. Để nhấn mạnh ấn tượng, tôi lại đặc biệt đưa ra một thí dụ để nói rõ: Khi còn bé, tôi có một người bạn, lúc 8 tuổi thì mắc bệnh bại liệt trẻ em, toàn thân bất toại, hoàn toàn không thể cử động, chỉ nằm một chỗ, đi lại phải dựa vào người nhà bế lên xe lăn. Cậu ấy đối với vận mệnh thì về cơ bản tương đối không có Sự nghiệp, không có Tiền tài, không có Thê, không có Bạn bè, không có Thiên di. Chỉ có Phụ mẫu, Huynh đệ, Điền trạch, Tật ách, Phúc đức mà thôi. Cho nên suy tính về các vấn đề Tài Bạch, Quan Lộc của cậu ấy là không hề có cát hung. Bởi vì những thứ đó đối với cậu ấy đều là trạng thái tĩnh. Trạng thái tĩnh của cung vị thì sẽ không có cát hung. Nhưng về Phụ mẫu, Huynh đệ,... mỗi ngày đều cùng cuộc sống của cậu ấy sinh ra mối quan hệ hỗ trợ trạng thái động, cho nên mới có biểu hiện về các hiện tượng cát hung.

Cùng cái lý ấy, tiền tài cất ở trong két sắt, ngoại trừ bị trộm hay bị đốt, chắc chắn là sẽ không có cát hung. Nếu như là tiền vay mượn của người khác, do có quan hệ qua lại, cho nên mới có hiện tượng cát hung cát hung như mượn mà không trả, bị lừa,… Cho nên các vị nhất định phải nhớ kỹ, có biến động, có tác động lẫn nhau mới có cát hung, bất động thì vô cát vô hung.

Đã từng có người bàn tới việc suy tính vận mệnh của rất nhiều người trong tôn giáo, người tu đạo, thấy đa phần không chính xác. Nhẽ ra phải là vận mệnh rất xấu, thế mà lại được rất tốt. Vì vậy mà kết luận rằng tôn giáo có thể sửa vận. Cái này là một thuyết pháp mà tôi tán thành. Bởi vì người ở trong tôn giáo đã thoát li khỏi một số ảnh hưởng của Tiền tài, Sự nghiệp, Vợ con,… Cuộc sống của họ ở trong một loại trạng thái Tĩnh. Vì vậy vấn đề sản sinh cát hung chỉ có mỗi Tật Ách mà thôi. Trên thực tế tín ngưỡng tôn giáo là một trong những cách sửa vận, năng lực có đủ sự thăng hoa tâm linh, ổn định được dục vọng trong lòng, chính là sửa vận.

Tử Vi Đẩu Số sử dụng sao "Kị" để đại biểu cho sự khốn đốn không thuận, chính là đã nhắm thẳng vào sự thực kiếp nạn chỉ là do tự tâm mình chiêu chuốc. Cho nên sự ám chỉ kiếp nạn của sao Hóa Kị là sẽ không có tác dụng đối với những thứ mà không cầu không mong, hoặc với không gian sinh hoạt hầu như chưa từng có (như ở trên khi nói người bạn toàn thân bị liệt). Bởi vì trong lòng họ không có nhu cầu, hoàn cảnh cố định, chính là vận ở trạng thái tĩnh. Cho nên chỉ có trạng thái sức khỏe cơ thể mới sẽ hiển thị ra các hiện tượng cát hung mà thôi. Do đó, đối với bạn bè có vận Tài bạch không tốt, vận Quan lộc không tốt, thường nên khuyên anh ta bỏ đi ý đồ vọng động, duy trì nguyên trạng tương thì khá tốt đẹp. Cũng là bởi vì một khi có biến động sẽ nổi lên duyên cớ của hung tượng, những hung tượng này có Thất nghiệp, phá sản, đầu tư sai gây tổn thất.

Mệnh lý học bàn đến "Lý", "Khí", “Tượng", "Số", 4 chữ này có ý chỉ bản thân môn Mệnh lý học còn cần phải có rất nhiều yếu tố bên ngoài phối hợp lẫn nhau mới được lập thành. Nếu như bỏ qua các yếu tố bên ngoài, thuần túy chỉ có mệnh lý là chiêm bốc, thường thường sẽ tính sai. Thảo luận về đề tài của mối quan hệ Thời thế bên ngoài với Mệnh lý học, sử dụng học thuyết "Thiên - Địa - Nhân" bàn của Tử Vi Đẩu Số. Có người cho rằng mối quan hệ của 3 cái tầng lá số [Gốc – Đại Hạn – Lưu Niên] mà trong đó lá số của Lưu Niên là Nhân bàn, lá số của Đại Hạn là Địa bàn, lá số Gốc là Thiên bàn, được gọi là Thiên Địa Nhân bàn, thực ra đây chỉ là một trong số những quan niệm mà thôi. Có người cho rằng lá số của Lưu Niên là Nhân bàn, lá số của Đại Hạn là Địa bàn, lá số Gốc là Thiên bàn, tuyệt đối không nên quên "Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa", cũng là Thiên Địa Nhân.

Lá số chỉ đại biểu cho vận mệnh cá nhân, tức là "Nhân hòa", nhưng Thời thế có phù trợ hay không? Cái thời thế này chính là "Thiên thời". Làm kinh doanh, có Thiên thời, Nhân hòa, nhưng lại chọn một vùng đất không có lấy một bóng người để mở tiệm thì làm sao để có thể buôn bán thịnh vượng đây? Cho nên, ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, thiếu 1 thứ cũng không được. Có được Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, lại phối hợp với Thiên Địa Nhân bàn của Mệnh lý, kết hợp mối quan hệ giữa Con Người với Thiên Nhiên, tìm kiếm được địa điểm có điều kiện tốt nhất, mới có thể gọi là vận dụng hoàn chỉnh quan niệm Thiên Địa Nhân.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Từ mệnh bàn trên, xin mọi người phân tích xem, anh ta trong năm Giáp Tý gây dựng sự nghiệp kinh doanh cửa nhôm có được không? (tham khảo lá số 1).

Đầu tiên, chúng ta phải hiểu bối cảnh thời đại năm Giáp Tý, năm ấy tình hình kinh tế rất kém, cuối năm lại bạo phát nhiều sự kiện liên tiếp, nghề bất động sản rơi xuống đáy, lựa chọn lúc này bước vào giới kinh doanh, về "Thiên thời" mà nói là thời cơ xấu. Lại xem lá số của vị tiên sinh này, năm Giáp Tý được 33 tuổi, vừa nhập vào Đại hạn ở trên cung Mão (33 - 42 tuổi), trong đó Cự Cơ tọa thủ, can cung là Quý.

[Cung Tài Bạch của Đại Hạn]: Ở cung Hợi, can cung là Tân, khiến Cự Môn hóa Lộc nhập vào [cung Mệnh của Đại Hạn], và khiến Văn Xương hóa Kị nhập vào [cung Quan Lộc của Đại Hạn], thể hiện ý tứ cầm tiền đi đầu tư.
[Cung Quan Lộc của Đại Hạn]: Ở cung Mùi, can cung là Đinh, khiến Cự Môn hóa Kị nhập vào [cung Mệnh của Đại hạn]. Tình huống này biểu hiện sẽ có dự định làm ăn.

Nhưng mà, người này có thích hợp với việc gây dựng sự nghiệp hay không? Chúng ta có thể từ Lá số Gốc để bắt đầu phân tích.

Cung Mệnh:
Hai sao Vũ Khúc, Thiên Phủ đều là tài tinh tọa ở cung Mệnh. Người này tâm tính coi trọng tiền tài, đã được chỉ ra rất rõ ràng. Đáng tiếc là Hóa Kị năm sinh tọa thủ, lại gặp cung Mệnh có can là Nhâm khiến Vũ Khúc tự hóa Kị.

Hóa Kị năm sinh ở Mệnh lại gặp Chính Tinh thủ Mệnh tự hóa Kị, chính là tượng của người cố chấp, khó thông hiểu được sự linh hoạt quyền biến là cách đối nhân xử thế ở trong thương trường.

Bản tính của anh ta thực sự không thích hợp với việc tự kinh doanh, bởi vì rất dễ phát sinh xung đột cùng với khách hàng, đối tác hoặc đồng nghiệp. Nếu như áp dụng phương thức hùn vốn, làm các công tác về mặt phụ trách kỹ thuật, công trình, mà nghiệp vụ giao dịch thì để cho người chung vốn thực hiện thì có thể lấy mạnh bù yếu mới có được thành công. Ở đây, chúng ta mới chỉ phân tích mệnh cách mà thôi. Mệnh tốt cũng cần phải có Vận phù trợ mới có thể thành công. Bây giờ lại phân tích xem anh ta ở vận thế trên cung Mão như thế nào:

[Cung Tài Bạch của Đại Hạn]: Ở cung Tân Hợi, khiến Cự Môn hóa Lộc nhập vào [cung Mệnh của Đại Hạn].
[Cung Quan Lộc của Đại Hạn]: Ở cung Đinh Mùi, khiến Cự Môn hóa Kị nhập vào [cung Mệnh của Đại Hạn].

Bề ngoài của tình huống này xem ra có vẻ như là vận trình kiếm được nhiều tiền. Kỳ thực thì không phải, bởi vì ở cung Mệnh gốc của anh ta có Hóa Kị năm sinh tọa thủ, lại còn cả Vũ Khúc tự hóa Kị. Vũ Khúc là tượng trưng tài phú, khi hóa Kị thì biểu thị vận trình kiếm tiền của anh ta khá vất vả. Lại còn thêm nữa:
Thứ nhất, [cung Quan Lộc của Đại Hạn] hóa Kị nhập [cung Mệnh của Đại hạn], đã có triệu chứng số phận mang sự nghiệp bất lợi;
Thứ hai, [cung Mệnh của Đại Hạn]: ở cung Quý Mão, lại khiến cho Tham Lang hóa Kị xung vào [cung Tài Bạch gốc], càng biểu hiện rõ ràng hơn kết quả thua lỗ tiền bạc.
Hơn nữa cung Mệnh của người này có Can cung lại là Nhâm khiến Vũ Khúc lại tự hóa kị. Căn cứ ý tứ của định nghĩa "Tự hóa Kị chính là tiết ra", tài tinh tự hóa Kị lại càng tăng cường tính nghiêm trọng của tiền tài bị mất mát.

Mới gây dựng sự nghiệp thì thường là làm nhiều mà hưởng ít, nếu không chỗ dựa vững chắc thì xem như là "trả học phí cho sự thất bại", thường sẽ oanh liệt khai trương rồi thê thảm dẹp tiệm.

Đương số chọn năm Giáp Tý để khai trương, Lưu Niên vừa khéo tới Mệnh gốc, ở góc độ Mệnh lý mà nói thì đây chính là thời khắc kém nhất. Hơn nữa, bối cảnh nền kinh tế trì trệ, hai việc đồng thời như thế thì dù có bản lĩnh của Tề Thiên Đại Thánh cũng nhất định thất bại. Quả nhiên, không ngoài dự liệu, những ngày cuối năm đã dẹp quầy, thua lỗ mấy chục vạn Nhân dân tệ.

Do lúc đầu người vợ cố gắng khuyên không nên gây dựng sự nghiệp, hôm nay rơi vào cảnh mất tiền, đương nhiên quan hệ vợ chồng trở nên xấu đi. Đặc biệt trong cung Phu Thê gốc tọa Đà La, Thiên Hình, Phá Quân là các sao mạnh bạo thì khác nào trong cuộc sống hôn nhânvốn đã tiềm ẩn các yếu tố không tốt, chỉ cần thời cơ vừa đến, liền hiện ra quấy rối. Ở trên đã nói qua, cung Tài Bạch là cung vị đối đãi của vợ chồng. Người ta nói “nghèo hèn phu thê bách sự ai” (vợ chồng trăm sự bi thương), thua lỗ mất tiền, lực phá hoại của các sát tinh đối với hôn nhân liền bộc phát ra. Hơn nữa, sao Phá Quân cũng không phải dạng hiền lành gì, kết quả tranh cãi xung đột, cuối cùng đồng ý ly hôn. Nếu như sử dụng quy tắc "Đồng loại tương xung" của [cung Phu Thê của Đại Hạn] xung [cung Phu Thê gốc] để đi tìm nguyên nhân của việc ly hôn, thì ở trên lá số này là sẽ không tìm được, cái nguyên nhân tạo nên sự ly dị ở đây là do cung Tài Bạch (cung vị đối đãi).

Vấn đề của con người, nếu chỉ lấy bản thân sự kiện mà nói thì đơn giản, nhưng cái nguyên nhân phía sau nó thì lại là sự liên đới rất phức tạp của nhiều yếu tố mới nảy sinh. Mối quan hệ của nguyên nhân và kết quả ở trong việc học tập Tử Vi Đẩu Số chính là manh mối vô cùng trọng yếu ở trong lá số.

Có thể rõ ràng truy tìm ra mối quan hệ nhân quả của sự kiện, là một cảnh giới mà các môn mệnh lý học khác không cách nào đạt tới, cho nên Tử Vi Đẩu Số trở thành môn mệnh lý học được hoan nghênh nhất, nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ này.






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |