Jump to content

Advertisements




TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 3


47 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/07/2012 - 21:45

MỤC LỤC

1. Chuyện con ngỗng trời vàng

2. Ô Sào thiền sư

3. Năm con lừa

4. Cụ già tu mướn

5. Lạy Phật cầu chồng

6. Khang Hy tìm Phổ Hiền

7. Phật ở đâu?

8. Ðức Phật và Chiến Già

9. Chàng nhạc sĩ và ông vua trời

10. Phật tích chùa Hương

11. Hai thằng đệ tử

12. Không ham sắc được quyền cao

13. Người yêu muôn thuở

14. Ánh mắt từ bi

15. La Hán mù

16. Bảy nàng công chúa

17. Một đạo sĩ chí hiếu

18. Bất diệt trong sanh diệt

19. Bảy bước thăng trầm

20. Chim cú mèo

21. Phất Già Sa Vương với pháp vô thượng

22. Oán thù vay trả

23. Ðáng mặt cao tăng

24. Sư đệ

25. Lòng từ bi còn kém

26. Thiền trong mọi phút

27. Kiếp luân hồi

28. Phá táo đoạ

29. Một lễ trai tăng lạ thường

30. Vậy sao?

31. Vết thương nặng nhất

32. Pháp sư đậu hủ

33. Phục hổ thu đồ đệ

34. Tìm thánh tăng

35. Gần Phật và xa Phật

36. Của tuy đất cát lòng con kính thành

37. Hy sinh.

Thích Minh Chiếu

Sửa bởi hiendde: 11/08/2012 - 09:01


Thanked by 1 Member:

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/07/2012 - 22:26

PHẦN MỘT

1. Chuyện Con Ngỗng Trời Vàng

Thuở xưa, tại khu rừng Ða Li Kô bên bờ sông Ðại Hằng, có cây Bồ Đề Đại Thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xoè tán rộng, che phủ cả một vùng. Ðây là ngôi làng, là cố hương, là tổ ấm cho muôn chim đủ loại, đủ sắc màu làm nơi tụ hội, hát ca, reo vui… Chủ nhân của cây đại thọ là vị thần có râu trắng, hỷ xả, nhiều từ tâm. Ngài đón nhận muôn chim như cháu ngoại, như con cưng hoặc như bằng hữu.

Lâu lâu vị Thọ Thần lại xuất hiện, như tiên ông trong truyện cổ tích, với nụ cười và chiếc gậy mây nói chuyện vui với chúng hoặc vài lời dạy khôn ngoan của bậc già cả. Lâu lâu, vị Thọ Thần râu trắng rớm nước mắt, vì bùi ngùi thương tiếc con chim hoàng oanh kia bị sa lưới mất rồi. Con sáu sậu nọ bị lú bùa mê nên thường đau xót hơn là chết vì bệnh tật hay già yếu. Sau mỗi lần như thế, vị Thọ Thần lại khuyên muôn chim nên sống đời yếm ly đô thị, làng mạc, nơi có loài người. Ôi! Cái loài người kia tâm địa thật khó lường. Sự độc ác, gian xảo và quỷ quyệt của chúng còn ngàn lần ghê gớm hơn cọp beo hay chồn cáo.

Tuy thế, cũng chỉ có chừng mực nào thôi. Ðã nhiều lần, vị Thọ Thần đành phải xuôi tay, trả về chi định luật lạnh lùng của nhân quả nghiệp báo nó vận hành. Ðã ngàn năm rồi, vị Thọ Thần cùng cây đại thọ chứng kiến sự thạnh suy, còn mất, thời gian, sự già lụn, tử vong, đến rồi đi, đi rồi đến. Cảm thán, vị Thọ Thần bước lên đầu cây, thốt một bài ca chưa từng được nghe:

Ôi vĩ đại thay là sự vô thường của con người

Ôi! Kinh khiếp thay là sự rỗng không của con người

Ôi! Khó kham nhẫn thay là trò ảo hóa, ma mị, lá vàng, lá xanh. Cùng tử vong bên trong mầm sự sống

Ta đưa cao ngọn cừ Mumja! Ta sẽ chiến thắng ngươi với trò chơi yếm ly trần thế

Ðời sống của ta, không thỏa hiệp

Vinh quang của ta, trăng gió giữa bầu khuya

Niềm vui của ta là sự tĩnh an, ngơi nghỉ của linh hồn

Ta vẫn còn đây, niềm yêu thương vô biên và sự sống đang trôi chảy đến muôn cùng

Ta không biết nhận về, chỉ biết cho đi

Thịnh, suy, còn, mất, ta chưa hề sợ hãi

Chỉ xót xa xin chúng nhỏ nhoi này

Chỉ xót xa mật ngọt thấm đầy môi.

Hôm kia, vào mùa xuân, một con ngỗng trời vàng xuất hiện. Chưa bao giờ vị Thọ Thần thấy được một con chim đẹp đến thế. Những chiếc lông vàng óng ả như được dát bằng một loại vàng ròng tinh chất. Lại long lánh phản chiếu những hạt sương mai, túa ra những tia hồng rực rỡ. Vị Thọ Thần chiêm ngưỡng một hồi rồi bước ra với chiếc gậy mây, nụ cười hỷ xả làm rung rinh hàm râu tuyết bạch:

- Chào bạn Ngỗng trời thân mến! Ta là Thọ Thần tại vương quốc này. Bạn xuất hiện như phép lạ. Chiếc y vàng nơi thân bạn rực rỡ và tuyệt diệu biết bao. Chẳng hay, bạn từ quê hương nào mà đến đây?

Con Ngỗng trời vàng vươn cao chiếc cổ tua vàng vương giả, thò cái mỏ dát son lấm tấm những hạt ngọc nâu tươi, cất giọng như pha lê reo giữa trời mưa:

- Kính chào vị tiên ông Thọ Thần khả kính! Tôi từ dãy Tuyết Sơn hùng vĩ giáng lâm, sau ngôi rừng của những ẩn giả bện tóc hiền thiện. Chẳng hay ngài có điều gì cần dạy bảo vãn sinh?

- Không dám! Ta chỉ hiếu kỳ, ngạc nhiên và thích thú thôi! Thấy được bộ lông vàng óng trên thân bạn, ta hoan hỷ vô cùng. Bộ lông vàng óng hy hữu kia, không phải không có nhân duyên, chắc hẳn nó phải được sinh ra từ lòng phước báu nào trong quá khứ? Bạn có nhớ là do nhân gì, duyên gì mà bạn thưởng được phước tướng mỹ miều, sang cả như vậy không?

Ngỗng trời vàng hốt nhiên trầm tư như nhập định, như cúi nhìn vào vùng mịt mù dày sâu của ký ức tiền kiếp.

- Thưa ngài! Thưa tiên sinh! Ngỗng trời vàng mở choàng mắt ra, vãn sinh đã thấy, vãn sinh đã biết. Ngỗng trời vàng sửa soạn lại dáng đứng để bắt đầu cuộc nói chuyện lâu. Trước đây, một kiếp rất gần thôi, như mới ngày hôm qua, như mới một cái chớp mắt, tôi sinh ra trong một gia đình tiện dân nghèo khổ. Ðến tuổi trưởng thành, tôi lấy vợ rồi sinh ba đứa con, chúng đều là gái. Khi có vợ, có con, tôi tần tảo làm ăn, mong cho chúng có được manh áo lành, bữa cơm no bụng. Nhưng mà khổ thay! Suốt đời cứ phải ăn gạo có trấu, ăn tấm có mùi chua.

Áo quần thì vá đùm, vá chụp chẳng có cái nào là lành lặn. Sự đòi hỏi cấp thiết về đời sống, nên đôi khi tôi phải bán rẻ một chút ít linh hồn. Tôi sinh ra nhỏ mọn, giật dành. Bị chi phối bởi sân nhuế và gian tham, tôi làm một vài việc bất thiện. Tuy vậy, tự sâu xa tâm hồn, tôi vẫn là con người hiền lương và vô hại. Cái đó lên án tôi, và bắt tôi quay về với lẽ phải, với đạo đức chung chung giữa người đời với nhau.

Ngỗng trời vàng ngước nhìn vị Thọ Thần với tia mắt như thoáng có bóng tối.

- Thưa ngài! Ðời tôi như vậy đó, chẳng có công đức nào, chẳng có phước sự gì. Tâm trí ù lì, đần độn mãi bởi cái mặc, cái ăn, ít khi tâm hồn được quang minh sáng sủa, như nhật nguyệt, như trời cao, như bầu hư không to lớn. Tâm hồn tôi cho đến lúc lâm chung là cái trì trệ, nặng nề, tối đen, hôn ám. Ngỗng trời vàng lại lắc đầu, có sáng sủa nào đâu, có công đức nào đâu! Thế là si mê kéo tôi đi. Sinh ra cái thân súc vật chẳng tốt đẹp gì?

Ngỗng trời vàng nói xong, thở ra, đôi mắt lờ đờ như sương ướt. Vị Thọ Thần yên lặng thông cảm hoàn cảnh của Ngỗng trời vàng, lát sau mới nói:

- Nhân quả là vậy, bạn ạ! Ta không thể trách được. Phải thấy rõ nhân quả để sống an lạc, hạnh phúc hơn. Nhân quả là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa cho đời mình. Nhưng trong cái nghiệp chung, vẫn có cái nghiệp riêng. Cũng là thân chim, nhưng thân chim như bạn cũng thảnh thơi và an lạc như kiếp Thọ Thần, như tôi chẳng khác. Cái quả ấy là do nhờ bạn đã chu toàn nghĩa vụ gia đình, lo cho vợ, cho con, hy sinh bản thân mình cho ấm no của kẻ khác. Bạn có thấy cái riêng đó không? Ngoài ra, bạn lại có cái riêng khác nữa, cái riêng trội vượt. Cái riêng này chắc hẳn phải do một việc làm hy hữu, một công đức hy hữu tạo thành. Chiếc y vàng vương giả diễm lệ nơi thân bạn không phải là không có nhân duyên vậy.

Ngỗng trời vàng sực nhớ lại:

- Cái đó thì có, tôi nhớ rồi. Ngày kia, tôi lên rừng kiếm củi độ nhật. Trên đường về, qua suối, tôi gặp một người. Ôi! Sao trên đời lại có kẻ khổ sở đến thế? Tôi đã khổ, đã ốm o gầy mòn, da lòi xương mà kẻ kia còn hơn. Tôi còn được chiếc áo rách, vị kia lại mặc bằng lá, bằng vỏ cây. Tôi bèn dừng lại và hỏi:

- Này người ơi! Sao người khổ đến thế? Ðừng nói đến cơm trấu và tấm chua, ngay đến nước vo gạo để uống cầm hơi, người cũng không có, đừng nói chuyện áo rách, áo lành, cái vỏ cây kia cũng đã tơi tả. Người chẳng có họ hàng, bà con quyến thuộc gì cả hay sao?

Khi nghe tôi nói thế, vị kia ngước lên nhìn tôi với đôi mắt hiền từ và nụ cười hỷ xả, y nói:

- Này người tiều phu tốt bụng! Nghèo đói, cơ hàn là bạn của bậc ẩn sĩ. Chiếc áo vỏ cây là áo giáp thiện hạnh ngăn che sự xâm phạm độc hại của ác uế ngũ trần. Bà con quyến thuộc của ta là vô tham, vô sân, tàm quý và từ bi hỷ xả. Như vậy, đời sống của ta đã quá đầy đủ, đã quá an lạc. Sao ngươi với gánh củi trên vai, với gánh vợ con trên lưng, lại thương xót ta là người đã buông hết mọi gánh nặng? Là người đang sống đời nhàn lạc của bậc Ðại Thiên?

Ngỗng trời vàng yên lặng rồi tiếp:

- Lời nói của vị kia chắc hẳn là hay lắm nhưng tôi không hiểu hết ý nghĩa. Trên đường về nhà, thấy có gió lạnh, tôi biết mùa Ðông sẽ đến, nghĩ rằng vị kia sẽ lạnh lẽo không có một tấm vải nào, tôi động mối từ tâm. Về nhà, giấu vợ, giấu con, tôi mở rương lấy một tấm vải vàng. Ðây là tấm vải bó tử thi mà tôi đã lượm được nơi nghĩa địa đã giặt sạch sẽ. Tấm vải không quý với ai nhưng quý với gia đình tôi. Thế là tôi chạy lên rừng, tìm kiếm vị ẩn sĩ rồi dâng cúng tấm vải đến con người đó với tất cả sự thương xót của mình. Sau này tôi mới biết, đó là một nhà tu khổ hạnh, một Ðại Sa Môn hoặc là một vị Ðộc Giác Phật.

Vị Thọ Thần gật đầu:

- Như vậy, chính đó là nhân, là duyên cho bộ lông hoàng kim nơi thân bạn. Cái quả trổ sanh của nó còn vạn lần vi hiệu hơn nữa kia. Rồi bạn sẽ được nương tựa dài lâu. Ta thành thật vui mừng cho bạn vậy.

Vị Thọ Thần chợt nhìn Ngỗng trời vàng rồi thiết tha nói:

- Như là bổn phận của một lão niên. Như là kinh nghiệm của người đã sống quá nhiều, quá lâu, đã chứng kiến không biết cơ man nào là chuyện trong đời sống bất trắc và bấp bênh này. Ta có một vài lời khuyên, hỡi bạn ngỗng vàng thân mến.

- Ngài cứ nói.

Ngỗng trời vàng cúi đầu tỏ vẻ kính trọng chắc hẳn là những lời dạy bảo đầy khôn ngoan và sáng suốt.

- Không dám, ta chỉ nói lên những sự thực thôi. Là bộ lông hoàng kim của bạn, vì nó quá đẹp nên cũng dễ đưa đến tai họa. Vậy thì bắt đầu từ ngày hôm nay, bạn chớ có khinh suất mà đi đến đô thị, làng mạc, ruộng đồng, nghĩa là nơi có loài người. Thấy được bộ lông hoàng kim của bạn, họ sẽ sanh tâm tham muốn, họ sẽ bắt, sẽ bắn, sẽ đặt bẫy. Dẫu bạn có biết, có khôn ngoan cách mấy cũng không qua được sự khôn ngoan của loài người. Và như vậy, tính mạng của bạn sẽ bị đe dọa thường xuyên. Bạn hãy suy nghiệm kỹ về điều đó.

Ngỗng trời vàng thở dài:

- Chí lý thay là những lời khuyên tốt. Nhưng biết làm thế nào? Ở chốn loài người, tôi còn vợ và ba con. Có tôi chúng sẽ đỡ khổ một phần. Không có tôi, chắc chúng phải đi ở thuê, ở mướn, làm việc cực nhọc với nước mắt và đòn vọt. Biết là hiểm họa sẽ đến, nhưng tôi không thể từ bỏ ý định về thăm chúng được.

Vị Thọ Thần lại nói:

- Thương vợ, thương con là những tình cảm tốt đẹp. Những ái niệm thái quá lại sanh phiền não, đau khổ cho mình. Bạn đã trút bỏ hết bổn phận nơi cõi người cùng với hơi thở của bạn. Bây giờ là nghiệp khác, đời sống khác, bổn phận khác. Hãy nghe lời khuyên của ta mà trở lại rừng sâu, nơi chỗ các ẩn sĩ bện tóc hiền thiện ở Tuyết Sơn. Ở đó bạn sẽ yên lành như trong ngôi nhà của mẹ.

Ngỗng trời vàng vẫn lắc đầu:

- Biết là lời khuyên chí tình, chí thiết nhưng tôi cũng không thể nghe theo. Tôi an tâm mà sống đời ẩn sĩ sao được, khi vợ con tôi đang nai lưng làm trâu ngựa cho người, sống đời cơ cực. Tôi phải đến để tìm cách giúp đỡ cho họ.

Vị Thọ Thần với tâm mình, biết tâm của chúng sanh. Biết nghiệp sẽ đến như thế nào cho con Ngỗng trời vàng này. Nhưng mọi lời khuyên đã trở nên vô ích. Ngài chợt đứng cao mười tầm thốt nốt giữa hư không, cất lời ca hòa lẫn với mây ngàn cũng gió núi:

Hỡi đàn chim bay về phương Nam

Ngươi đã biết phương kia trời nắng ấm

Hỡi đàn chim bay về phương Bắc

Ngươi biết rằng nơi ấy tuyết lạnh đã ra đi

Thế nhưng vẫn có kẻ ra đi trong vô vọng

Chẳng thấy hướng đến là đâu

Chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra

Trái chín phải đợi tiết, hoa nở phải đợi thời

Vậy này bạn vàng yêu quý

Hãy thôi đi sự cứu độ vô ích

Cát bụi quá nhiều làm sao thấy được tấm lòng tốt đẹp của nhau

Ðêm đen quá sâu, làm sao chỉ lối, dò đường bằng ngọn đèn quá mọn

Ðôi tay của chút ít phước báu chẳng thể ngăn nổi dòng sông nghiệp lực

Cõi lòng người tội lỗi kia sẽ vặt trụi lông cánh của bạn mất thôi.

Ngỗng trời vàng cúi đầu lắng tai nghe với nước mắt, nhưng tâm ái luyến vợ con quá nặng đành phải lắc đầu từ chối. Vị Thọ Thần bùi ngùi nói lời cuối cùng:

- Nơi khu rừng Ða Li Ko, bên bờ sông Ðại Hằng yên tĩnh, nơi vương quốc hòa bình này, có ta luôn luôn mong ngóng sự trở về của bạn. Không những bạn trở về với đôi cánh trần trụi, cho chí những vết thương đau cả thể xác lẫn tâm hồn, gốc Ðại Thọ Bồ Ðề này vẫn là tổ ấm muôn đời của chúng ta.

Vị Thọ Thần nhìn theo bóng chim mất hút cuối phương trời xa, nhòa lệ… Ngỗng trời vàng sau khi chia tay với vị Thọ Thần, đêm đi ngày nghỉ với đôi cánh vàng rực rỡ lướt qua hư không, sợ sự nhòm ngó của loài người, nên chim đi rất chậm vào ban đêm, ngày tìm ẩn trong những bụi cây rậm rạp. Lâu ngày chầy tháng cũng về đến thành phố Ba La Nại. Ðúng như dự đoán của Ngỗng trời vàng, sau khi nó mất, vợ và ba con phải đi ở thuê cho một hào phú cay nghiệt, ăn cơm với gạo tấm chua, mặc áo quần thô như da vỏ cây. Lại còn phải chịu sự chửi mắng đánh đập thường xuyên. Dẫu có thương vợ, thương con cũng chỉ còn biết sa nước mắt. Chim tìm ẩn kín đáo vào một lùm cây đại thọ đầu làng, tìm cơ hội để giúp đỡ họ.

Trong sương mờ đầu xuân, trên quan lộ, dưới tầm mắt của chim chợt xuất hiện những chiếc xe ngựa sang trọng. Con trai, con gái trang sức những chiếc lông ngỗng trên áo, trên mũi, rải rác là một vài đoá hoa. Ngỗng trời vàng thầm nghĩ.

- Ôi! Những vật trang sức xấu xí kia thì có gì đáng để hãnh diện? Nếu như chúng mà có được những chiếc lông hoàng kim của ta, thì chúng sẽ còn đẹp hơn, trẻ trung hơn. Sao ta không giúp cho vợ con ta mỗi ngày một chiếc lông, để chúng bán cho người làm vật trang sức tối thượng?

Trời cũng dễ chiều lòng người, chỉ một lát sau là vợ con nó cùng xuất hiện với cày với cuốc trên vai. Ðợi họ đến gần, Ngỗng trời vàng bèn nói vào tai họ bằng âm thanh của một vị thần khuất mặt:

- Hỡi những kẻ đau khổ đáng thương! Ta không nỡ để cho các ngươi sống đời nô lệ. Vậy mỗi buổi sáng, hãy đến đây, đứng xa dưới cội cây, ta sẽ ban cho các ngươi cái bổng lộc của cõi trời.

Người nữ tiện dân già cùng ba con nghe tiếng nói chứ không thấy người, bỏ cuốc bỏ cày, chắp tay hướng đến gốc cây vái lia lịa:

- Vị Thọ Thần, ngài ở đâu? Ðây là lời hứa thật cho kẻ tội nghiệp chúng con?

Không có tiếng đáp lại. Bỗng, một vật vàng chóe vọt ra từ lùm cây, rơi xuống trước mặt họ. Cả bốn người đồng sửng sốt. Ðấy là một chiếc lông to bằng vàng mười láng mịn, đang lóng lánh dưới mặt trời. Chẳng phải là giấc mơ, chẳng phải mắt họ quáng mờ. Sự thực đang ở trong tầm tay họ đây.

- Không biết nặng bao nhiêu MaSaRa?

- Có lẽ hơn trăm MaSaRa!

Người nữ tiện dân già nói với ba con rằng:

- Nếu bán làm vật trang sức cho hạng dân giả, nó chỉ là chiếc lông vàng đẹp, không hơn không kém. Nếu bán tại tiệm kim hoàn thì giá trị là phân là lạng. Muốn được giá cao nhất, hãy bán cho các vị tiểu thư, các bà mệnh phụ. Khi mà chiếc lông đã tôn sắc đẹp của họ lên, và chắc hẳn như vậy, thì họ sẽ quẳng cho ta cả nắm vàng không thương tiếc. Tiền bạc đối với họ có nghĩa gì?

Thế là bỏ cầy, bỏ cuốc, với chiếc lông vàng, họ đi vào thành phố, quay lưng với Thọ Thần, không một lời cảm ơn. Ngỗng trời vàng hân hoan nhìn theo họ, nghĩ rằng vì vui mừng quá, khi đi họ quên chào hỏi, cũng là sự thường! Ngày hôm sau tiếng con Ngỗng trời vàng văng vẳng đến tai họ:

- Các người đã khôn ngoan nên bán được giá mà không bị các ông chủ tiệm vàng lường gạt, gian lận. Không bị bọn trọc phú dè bỉu, ỉ ối. Hãy nhận thêm một chiếc lông nữa, bán cho bà công chúa giàu sang với chiếc xe bốn ngựa sắp đi qua đây. Cộng với số tiền hôm qua, các người hãy mua cho mình những bộ áo quần lành lặn. Và ăn những bụm cơm trắng, có thịt, có rau.

Thêm một chiếc lông vàng chóe vọt ra từ lùm cây. Chốc sau, quả nhiên có chiếc xe bốn ngựa với bà công chúa sang trọng đi qua. Sau khi nhìn ngắm kỹ chiếc lông vàng trân quí và đẹp đẽ, bà công chúa sai thị nữ quẳng cho họ một nắm tiền vàng, lại còn dặn:

- Ðây là vật trang sức của giai cấp quý tộc. Hỡi bọn tiện dân nghèo khổ! Ta là công chúa con vua sứ Ma Kiệt Ðà, ta không tiếc tiền đâu. Có bao nhiêu chiếc lông vàng, đem bán hết cho ta!

Cả gia đình, vợ con Ngỗng trời vàng, thế là thoát kiếp bần cùng nghèo khổ từ ăn no mặc ấm, họ đã ăn ngon mặc đẹp. Từ màn trời chiếu đất, họ đã có một ngôi nhà, một mảnh vườn. Từ vô sản, họ đã có của nổi, của chìm. Tuy thế người nữ tiện dân già không bằng lòng như vậy, bà ước mơ một đời sống sang trọng hơn, quý phái hơn, với tôi trai, với tớ gái, với thóc đụn đầy kho, với lên xe xuống ngựa, với lầu vàng, cửa bạc. Người nữ tiện dân già đã mấy lần để ý, kia chẳng phải vị Thọ Thần nào cả, mà con Ngỗng trời vàng đã tự ý nhổ từng chiếc lông của mình mà cho họ. Người nữ tiện dân già thầm nghĩ:

- Giá mà có được cả bộ lông vàng ấy nhỉ!

Hôm kia, sau khi cho chiếc lông thứ mười tám, con Ngỗng vàng xuất hiện, và nói với cả bốn người:

- Này vợ, này con! Ta là chồng và cha của các ngươi đây! Vì kiếp vừa rồi ta sống tối tăm, không tạo được một chút gì công đức, phải mang thân điểu. May nhờ ta có cúng một tấm vải vàng đến vị ẩn sĩ thanh tịnh, ta mới có một bộ lông hoàng kim đẹp đẽ như ngày hôm nay. Nhân quả thật rành rành. Vì lòng thương vợ, thương con mà ta trở lại chốn loài người để giúp đỡ các ngươi. Nay các ngươi đã no đủ, đã có thể có đủ vốn liếng để tự mưu sinh. Vậy hãy sống đời hiền lành, làm các công đức để lấy nơi nương tựa lâu dài về sau!

Nữ tiện dân già đã sớm bàn với các con rằng:

- Phàm sống ở đời là phải biết ơn đền oán trả. Ân nhân của ta giúp ta thoát kiếp tôi đòi nô lệ. Ðã cho ta những tấm vải lụa Kasi mịn màng tươi đẹp, đã cho ta những bữa cơm ngọt với thịt và cá. Vậy chúng ta phải tìm cách thỉnh mời ân nhân về nhà để cung phụng, hầu hạ như đối với một vị Pham Thiên!

Nay nghe Ngỗng trời vàng tiết lộ như vậy, một phần vì xúc động, một phần thì sợ Ngỗng trời vàng sẽ bỏ đi, bèn khóc lóc mà rằng:

- Ông ơi! Thế ra là tình xưa, nghĩa cũ. Ông đã có tâm nghĩ đến vợ con như thế, thì ra trời đất cũng có kẻ thủy chung. Cái lòng tôi đối với ông há lại không được như mảnh trăng tròn vành vạnh hay sao?

Rồi chỉ ba con và kể lể:

- Nay chúng đã nở da nở thịt. Lại được phấn son trang điểm, nhàn hạ, thảnh thơi. Thấy chúng được như vậy chắc ông cũng hởi lòng hởi dạ. Cõi người, cõi chim dẫu hai ngả nhưng tấm lòng nào dễ rẽ phân? Vậy sao ông không trở lại với gia đình, đoàn viên sum họp một nhà, cùng chung ấm lạnh ngọt bùi cho bõ tháng ngày xa cách vì sinh ly tử biệt?

Ngỗng trời vàng nhìn vợ, nhìn con, tâm tình xúc động. Biết đã bao tháng bao ngày cô đơn, Ngỗng càng thèm cái ấm cúng của hạnh phúc, thèm ngôi nhà và bếp lửa.

- Cha ơi cha! Cha nỡ nào lìa bỏ chúng con? Ba cô con gái đồng lòng nức nở. Khi cha còn sống chúng con còn thơ dại. Bây giờ dẫu có thác rồi, thân chim vàng lại chính là thân cha. Sao cha không cho chúng con được đáp trả một phần nào chữ hiếu? Chúng con nào đã có tội tình gì?

Không cầm lòng được nữa, Ngỗng trời vàng bay theo họ về nhà. Người nữ tiện dân già dọn một chỗ cao ráo, trang trọng nhất ở trần thượng cho Ngỗng và hằng ngày lo cái ăn cái uống thật tươm tất, chu đáo. Ba cô con gái lúc này có tiền có bạc nên xênh xang xe ngựa, điểm trang diêm dúa, rong chơi thị tứ, đô phường nên vắng nhà luôn. Dẫu thế, họ cũng chưa đến nỗi quên bẵng người cha tội nghiệp. Ngỗng trời vàng cứ theo thường lệ mỗi buổi sáng khi mặt trời vừa lên niệm Ba La Mật, với tâm bố thí, bắn ra một chiếc lông vàng. Nhìn vợ và ba con có đời sống sung sướng. Ngỗng được an ủi rất nhiều. Tuy thế, đây không phải là nơi ở đời ở kiếp. Ngỗng còn có đồng loại và bằng hữu ở rừng sâu, trước sau gì cũng phải từ giã.

Nhưng người nữ tiện dân già đã có manh tâm, chẳng nghĩ đến ân nhân, chẳng nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, bởi lòng tham đã làm cho quáng mắt. Hôm nọ, vào lúc bất ngờ nhất, bà rình chụp Ngỗng cả hai tay ham hố của mình. Rồi vặt cả bộ lông vàng óng ả. Khi Ngỗng biết ra thì đã muộn rồi. Từng sợi lông bị bứt lìa khỏi thân là nhưng cơn đau xé trời và lẫn với máu và nước mắt. Ngỗng không còn đủ sức để rên la nữa, mà cảm nghe mình như bị tước ra từng mảnh, rồi ngất lịm đi.

Ngỗng tỉnh lại trong đống rác tối đen và hôi hám, nó thử xòe đôi cánh ra, như chỉ còn sự run rẩy lẫn cơn đau ngất trời. Nó lại gục xuống trong đống bầy nhầy, tanh tưởi. Kiến bắt đầu tìm tới, bò lên những vết thương lở loét mà cắn mà rứt không thương tiếc. Ruồi nhặng nghe mùi, bám đầy như đám đỗ đen. Ngỗng đau đớn và khó chịu thái quá, nhưng ngàn lần đau đớn hơn là vết thương ở trong tâm hồn. Vết thương nơi thân, dẫu kinh khủng nhưng có lúc sẽ lành. Còn vết thương bên trong thì không bao giờ lành được. Vĩnh viễn! Vĩnh viễn vết thương này sẽ mang theo suốt cả cuộc đời còn lại.

- Ôi vợ! Ôi con! Ôi nhân tình thế thái.

Ngỗng rên than âm thầm, nức nở, nhưng ai có nghe cho. Còn về phần người nữ tiện dân già, sau khi vặt trụi lông Ngỗng, chuyện gì sẽ xảy ra? Người đàn bà ngạc nhiên quá! Ôi còn đâu những sợi lông hoàng kim óng ả, bằng vàng ròng tinh chất và túa ra ánh sáng, chúng đã nhạt màu và hiện nguyên hình là những chiếc lông ngỗng tầm thường. Người đàn bà đâu biết rằng những chiếc lông sỡ dĩ biến thành vàng ròng tinh chất, đẹp đẽ là nhờ vào nguyện lực của Ngỗng trời, nhờ vào từ tâm, hoan hỷ cùng sự xả ly bố thí.

Nếu dùng sức mạnh ngoài ý muốn của Ngỗng thì phước báu kia sẽ không còn tồn tại! Ôi, ai là người có thể hiểu được: “Tham chính là lửa, sân chính là lửa. Nó sẽ thiêu rụi, đốt cháy ngay tức khắc những đoá hoa diễm lệ thanh tân vốn được sanh ra từ lòng phước báu, từ khí hậu mát mẽ, thanh hương của từ tâm và hoan hỷ?”.

Người nữ tiện dân già với tất cả tâm bực bội và sân hận, quẳng con Ngỗng trời vào một cái thùng rác rồi bỏ đi. Bà vô cùng sầu muộn và tiếc rẻ. Những người con gái đi chơi về, thấy cha chúng như vậy, không nỡ giết bỏ, cố gắng săn sóc vết thương cho Ngỗng. Chúng không thèm hỏi nguyên nhân tại sao. Chúng không đổ một giọt nước mắt. Chút từ tâm cuối cùng này, nếu có, cũng đã hóa đá mất rồi Ngỗng trời nằm trong cái thùng, làm bạn với lũ kiến ruồi, nước mắt rỉ máu. Cho đến lúc này Ngỗng mới thấy thấm thía lời khuyên bảo khôn ngoan của vị Thọ Thần nơi khu rừng ÐaLiKo:

- Này bạn vàng yêu quí! Hãy thôi đi sự cứu độ vô vọng! Cát bụi quá nhiều làm sao thấy được tấm lòng tốt đẹp của nhau? Ðêm đen quá sâu, làm sao chỉ lối, dò đường bằng ngọn đèn quá mọn? Ðôi tay của chút ít phước báu làm sao ngăn nổi dòng sông nghiệp lực? Cõi loài người tội lỗi kia sẽ vặt trụi lông cánh của bạn mất thôi!

Và đây chính là niềm an ủi cuối cùng của Ngỗng trời?

- Không những người bạn trở về với lông cánh trần trụi, cho chí những vết thương đau cả thể xác lẫn tâm hồn của chúng ta.

Thời gian sau, nhờ Tâm xả, các vểt thương của Ngỗng đều lành. Rồi lú nhú những lông khác bắt đầu mọc ra. Người nữ tiện dân già lòng mừng khấp khởi, sai người đóng một cái thùng để cho Ngỗng có chỗ nghỉ ngơi sạch sẽ. Bà tính rằng lần này ta không còn ham hố nữa. Mỗi ngày chầy tháng cũng đếm được cả trăm, cả ngàn. Vả, các bận khôn ngoan từ ngàn xưa cũng đã từng dạy rằng ăn ít ắt no lâu, ăn nhiều tức bụng! Cái lý nó vậy mà ta không hiểu ư?

Thế là người nữ tiện dân già dành nhiều thì giờ cho việc chăm sóc tẩm bổ Ngỗng. Bà không tiếc tiền mua những thức ngon vật lạ, với hy vọng Ngỗng nở da nở thịt, thì lông cũng sẽ mau dài. Và quả như thế thật, những chiếc lông dài rất nhanh. Bà đếm tới đếm lui và theo dõi hàng ngày. Nhưng than ôi! Hy vọng quá nhiều thành ra thất vọng quá lớn. Lông của Ngỗng không còn là màu hoàng kim nữa, mà là màu trắng bạc: màu trắng bạc như vôi! Cái lông mà cũng muốn chế giễu nhân tình thế thái đó chăng?

Khi lông cánh đã đủ đầy, nghĩ rằng mình đã đủ sức bay đi, Ngỗng bắt đầu tìm cách thoát thân. Lợi dụng lúc mọi người vắng nhà, Ngỗng xổ lồng, nhắm hướng Hy Mã Lạp Sơn trực chỉ. Bây giờ thì Ngỗng không còn sợ hiểm họa bởi bộ lông hoàng kim nữa nên tung cánh suốt ngày. Không bao lâu, rừng cũ hiện ra, lòng Ngỗng bồi hồi, mừng mừng, tủi tủi. Ðến gốc cây Bồ Ðề Ðại Thọ, Ngỗng bay ngang ba vòng, nhớ lại lời nói hôm xưa của vị Thọ Thần:

- Nơi đây, muôn đời vẫn là tổ ấm của chúng ta.

Ngỗng rơi nước mắt. Nó đã trở về cố quận.

Minh Ðức




Thanked by 1 Member:

#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 05/07/2012 - 22:32

2. Ðường Lầy

Truyện cổ Phật giáo Nhật Bản

Có hai nhà sư cùng thong dong bước xuống một con đường lầy. Cơn mưa nặng hạt vẫn còn rơi. Ðến khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh xắn trong chiếc áo Kimônô và chiếc khăn quàng cổ bằng lụa, đang đứng bên lề đường vì không thể băng qua đường lầy được.

Lập tức một nhà sư bảo:

- Ði nào, cô bé.

Tức khắc đưa tay nhấc bổng cô gái lên và đưa qua quãng đường lầy. Nhà sư bạn của anh ta, từ đó không buồn nói một tiếng nào, cho đến khi cả hai dừng lại trong một ngôi đền. Rồi không chịu được nữa, nhà sư bạn lên tiếng nói với anh ta:

- Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là những người đàn bà trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại làm vậy?

Nhà sư mỉm cười:

- Tôi đã bỏ nàng từ chỗ đó rồi! Anh còn mang nàng theo đấy sao?

Thiền sư Nhật Muju

"Ðộ sanh mà không thấy mình độ sanh mới thật là độ sanh".



Thanked by 1 Member:

#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 11:28

3. Ô Sào Thiền sư

Ô Sào là một cao Tăng Trung Hoa vào đời Ðường, khi bà mẹ hạ sinh sư, bà không ưng ý lắm nên đem bỏ con vào một chiếc tổ quạ trên cội đại thọ trước hiên chùa rồi lẩn mất. Sư xuất gia từ đó… và người ta gọi sư là thầy Ô Sào (ô: quạ, sào: tổ).

Tuổi ấu thơ và tráng niên của sư trôi qua bình thản trong bóng mát của các tòng lâm cổ kính… sư thường hành thiền trên quê hương của mình, tức là nơi cháng ba có đặt tổ quạ ngày xưa mà theo năm tháng, cội cây đã to và rộng đầy đủ cành nhánh có thể cho sư đặt một chiếc tọa cụ trên ấy. Cho đến khi ngộ đạo và hành đạo, thiền sư vẫn không rời “quê mẹ”.

Một hôm quan Thị lang Bạch Cư Dị, một thi hào lừng danh đương thời, đi dạo ngang cổng chùa trông thấy nhà sư đang ngồi vắt vẻo trên tàng cây, vốn không ưa hạng người “lánh nợ đời” như thế, ông cau mày hỏi:

- Bộ hết chỗ ngồi rồi hay sao mà thầy lựa chỗ hiểm nghèo như thế để ngồi?

Thiền sư bình thản đáp:

- Chỗ của tôi xem ra còn vững vàng hơn chỗ của quan lớn đang an tọa nhiều…

Quan thị Lang nhìn lại chiếc kiệu của mình đang ngồi, ngạc nhiên:

- Chỗ tôi đang ngồi có gì đáng ngại đâu?

- Thưa, chỗ của đại quan là dưới vua trên các quan và trăm họ, vua thương thì quần thần ghét, được lòng dân thì mất lòng vua… Tính mạng của đại quan cùng thân quyến đều lệ thuộc vào lòng yêu ghét của vua, sự tật đố tỵ hiềm của bạn bè. Một chiếc ghế được kê trên đầu lưỡi của thiên hạ thì làm sao bì được với sự vững chắc của cội cây này được…Có phải thế không?

Bạch Cư Dị nghe nhà sư nói, chỉ im lặng cúi đầu. Giây lâu, vị quan lão mới cất tiếng hỏi:

- Thầy có thể cho tôi biết thế nào là đại ý của Phật pháp chăng?

Thiền sư đáp liền:

- Không gì dễ bằng câu hỏi này. Ðại quan hãy nghe tôi trả lời đây, đó là:

Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ý

Thị chư Phật giáo.

Nghĩa là:

Các điều ác chớ làm

Các điều lành vâng giữ

Tự thanh lọc ý mình

Ðó là lời Phật dạy.

Bạch Cư Dị nghe xong bảo:

- Những bài thầy vừa đáp con nít lên ba cũng nói được.

Thiền sư mỉm cười:

- Thưa đại quan, con nít lên ba nói được, nhưng ông lão sáu mươi chưa chắc làm xong… Ngài có thấy như thế không?

Bạch Cư Dị lại im lặng cúi đầu. Ông bắt đầu học đạo với thiền sư Ô Sào từ đó. Người ta kể rằng, dưới sự dẫn dắt của thiền sư “Tổ quạ” không bao lâu vị đại quan này “hoát nhiên đại ngộ”. Chuyện kể chỉ có thế, còn việc ông đại ngộ cái gì chúng ta đành chịu vậy.

Như Thủy

Cảnh tỉnh Ta Bà danh lợi khách

Hoán hồi khổ hải mộng mê nhơn.





Thanked by 2 Members:

#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 11:32

4. Năm Con Lừa

Xưa có một anh chàng nọ thuộc hàng danh gia vọng tộc, con nhà giàu có, đẹp trai hẳn hoi nhưng lại ngu ơi là ngu! Vì thế thời nhân gọi anh ta là chàng Ngốc. Một hôm, Ngốc đi chợ phiên mua được năm con lừa với một giá phải chăng. Lòng mừng khấp khởi, anh thót lên lưng một con lừa và dắt bốn con kia về. Dọc đường, Ngốc chợt nẩy ra ý định phải kiểm lại số lừa của mình.

- Một, hai, ba, bốn! Chết cha! Mất đâu một con rồi!

Hốt hoảng, Ngốc tụt xuống lưng lừa, đếm lại cẩn thận.

- Một, hai, ba, bốn, năm. A! Ðủ rồi!

Yên tâm, Ngốc leo lên lưng lừa. Ði một đỗi, anh bắt đầu đếm lại:

- Một, hai, ba, bốn. Lại thiếu một con rồi!

Chàng Ngốc lại nhảy xuống đất đếm:

- Một, hai, ba, bốn, năm. May quá! Ðủ rồi!

Sự tình cứ thế mà diễn tiến, hễ chàng Ngốc cưỡi lừa thì cả bầy chỉ còn lại bốn con, nhưng nếu chàng đi bộ thì bầy lừa đủ cả năm con. Cuối cùng, Ngốc ta đành tụt xuống đi bộ. Khách qua đường thấy anh mồ hôi nhễ nhại, chạy lúp xúp theo bầy lừa, ngạc nhiên hỏi:

- Sao anh không cưỡi một con đi cho đỡ mệt?

Ngốc ta đáp một cách quả quyết:

- Cứ mỗi lần tôi leo lên lưng lừa là mất một con. Vì vậy, thà rằng tôi đi bộ để còn nguyên cả năm con. Cực khổ một chút mà không phải mất mát, mỗi con đến hàng trăm quan đấy, bác ạ.

Như Thủy

Khi đã tỏ ngộ chân lý thì vứt bỏ pháp môn tu tập

Khi đã qua sông thì không còn tiếc nuối thuyền bè

Pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp.

***

Ra đi tức thị trở về

Biển phiền não đó, Bồ Ðề khác chi.







Thanked by 1 Member:

#6 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 11:53

PHẦN HAI

5. Cụ già tu mướn

Truyện cổ Phật Giáo Nhật Bản

Thiền sư Bạch Ẩn Huệ ở Nhật Bản có một tục gia đệ tử. Ông đệ tử này thường đến than phiền rằng cha già của y, dù tuổi đã cao, vẫn cứ mải mê làm việc kiếm tiền chứ không chịu tu hành gì ráo. Mỗi lần y nhắc nhở thì ông cụ quả quyết khẳng định:

- Nếu chuyện tu hành mà té tiền té bạc thì hãy nói với ta, bằng không đừng hòng!

Hôm nọ nghe xong nỗi băn khoăn của người đệ tử, thiền sư bảo:

- Chiều nay con hãy về bảo với cha con rằng: Hòa Thượng Bạch Ẩn bận bịu công việc quá đỗi nên không thể tu hành như ý muốn được. Ngài nhờ con tìm một người tu mướn. Cứ mười chuỗi niệm Phật là một quan tiền. Cần chọn người trung. Người làm mướn có thể lãnh tiền mỗi ngày hoặc hàng tuần cũng được.

Ông đệ tử y lời, trở về thưa với cha mình. Nhận thấy rằng đây quả là một công chuyện làm ăn té tiền té bạc hẳn hoi, ông lão sốt sắng nhận lời. Thêm vào đó, ngoài mười chuỗi niệm Phật ăn tiền, ông còn hoan hỷ biếu không cho Hòa Thượng hai xâu nữa.

Giao kèo đã ký kết, ông cụ cứ đến chùa lãnh tiền hàng ngày. Về sau để khỏi mất thì giờ, cụ để dồn hàng tuần mới lãnh.

Bẵng đi một thời gian không thấy ông cụ đến lãnh tiền. Người con theo lời dạy của Hoà Thượng, cứ để cha già làm theo ý muốn. Ngoài ba bữa ăn ông cụ ngồi ngay ngắn trước điện Phật… mà làm mướn. Cho đến một hôm, thấy cha mình cơ đồ đã ngưng lần chuỗi, mắt khép nhẹ, hơi thở đều hoà, nhẹ nhàng. Người con liền đến báo tin Hòa Thượng hay.

Thiền sư Bạch Ẩn đến tận nơi quan sát. Thấy cụ già dáng ngồi có hơi nghiêng, do tuổi tác chất chồng, nhưng mặt mũi hồng hào. Gương mặt ông phảng phất một niềm bình thản khinh an.

Hòa Thượng nói khẽ với người con, nhẹ như một hơi gió thoảng:

- Cha con đã nhập định.

Thiền sư đã dạy thiền cho ông cụ bằng cách ấy.

Như Thủy

Dùng phương tiện để đạt cứu cánh.





Thanked by 2 Members:

#7 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 12:36

6. Lạy Phật Cầu Chồng

Ðời Ðường, tại tỉnh Sơn Tây, xứ Bắc Kỳ, có một người con gái tên là Như Ý, lúc lên mười tuổi thì cha mẹ đã qua đời, nhờ có phú hộ họ Lương thấy nàng còn nhỏ mà đẹp đẽ, nên đem về nhà nuôi. Bước qua mười lăm tuổi, thấy nàng đã biết lễ phép, nên vợ chồng Lương công lần lần dạy nàng các việc nữ công trong gia đình và mỗi ngày giao cho nàng đi chợ mua đồ ăn.

Nhưng nàng có tánh lạ đời: Một là háo thắng, muốn mình hơn cả mọi người và hai là cương quyết, một lòng một dạ chẳng chịu đổi thay. Gần chợ ấy, có một cảnh chùa thờ Phật Quan Âm rất linh hiển, tuy không có thầy trú trì, nhưng thập phương thiện nam tín nữ đến dâng hương cầu nguyện rất đông. Hằng ngày khói hương nghi ngút, đèn đuốc sáng ngời, cho đến việc vái nắng cầu mưa cũng rất linh nghiệm.

Thường nhật, nàng Như Ý đi chợ mua đồ ăn cho chủ xong, cũng nhín ít tiền để mua một thẻ nhang, và lúc về thì ghé vào chùa để dâng hương, lạy Phật và van vái với Phật Quan Âm rằng:

- Thân con nghèo hèn, côi cút, lâu nay đem thân mình làm thân trâu ngựa cho người sai khiến, để sống qua ngày. Nay con đã lớn khôn, ước mong được gặp một người chồng quyền cao chức trọng như kẻ đế vương, mới chịu gá duyên cầm sắc. Mãn sợ ông tơ không biết ý, cầm chỉ xe quàng; bà nguyệt chẳng dò lòng, đem dây bưộc bướng; nên con tìm đến đây lạy cầu Phật giúp vận xây thời, nếu thân con còn hạnh phúc về sau, hưởng đặng thú chồng con viên miễn, thì nhờ ơn trên chọn Hoàng gia định trước, cho làm người quốc hậu trang nghiêm; bằng hạnh không đáng kẻ mẫu nghi, thà con cam chịu mãn đời cô quả, một lòng thành kính, khóc lạy dưới thềm. Nam mô Ðại Từ Ðại bi, cứu khổ cứu nạn, linh cảm ứng Quan Thế Âm Bồ Tát.

Mỗi ngày nàng Như Ý đi chợ, thì làm sao cũng mua cho được hương hoa rồi về ghé chùa Quán Âm lễ Phật và cứ van vái có một lời như trên đó thôi. Thật lòng thành, đá cũng phải rung. Huống chi linh địa đổi cùng phước nhơn. Tại xứ ấy, có tên Dương Văn Hoài mới mười tám tuổi, nhà nghèo mà lại mồ côi cha, chỉ còn một mẹ già được bảy mươi tư tuổi. Chàng ở với mẹ thật chí hiếu, sanh nhai có một nghề làm nhang để bán mà độ nhựt. Thường ngày, chàng gánh nhang đến chợ, bán mãn buổi rồi, mua gạo trắng cá ngon, đem về lo nấu cho mẹ ăn; còn mình thì dùng mắm rau cho qua ngày tháng mà thôi.

Nguyên mỗi ngày bán tại chợ, Dương Văn Hoài thường thấy nàng Như Ý đến mua nhang của chàng, thì rất lấy làm lạ mà tự nghĩ rằng: “Nàng này mỗi bữa mua nhang mà mua có một thẻ, chớ không mua nhiều, thì chắc thường cầu nguyện việc riêng chi đây! Vả lại ta xem ý nàng, thấy bề công dung ngôn hạnh trội hơn người khác, thật đáng cho ta sánh đôi, nhưng phải rình xem mục đích nàng cầu khẩn việc gì, mới liệu định được”.

Hôm sau, khi thấy nàng Như Ý đi chợ và mua nhang vừa xong thì Dương Văn Hoài mượn người ngồi bán thế cho mình, chàng nom đi theo phía sau, thấy nàng vào chùa Quán Âm, lấy thẻ nhang ra đốt vái và lạy, mà không hiểu vái về việc gì! Ba bốn ngày sau, Dương Văn Hoài cũng mượn người bán nhang giùm, chàng theo rình nàng Như Ý nữa cũng thấy nàng vào chùa ấy khấn vái như vậy. Một bữa nọ, muốn biết nàng cầu khẩn việc gì, chàng bèn đến chùa Quan Âm trước, ngồi núp sau bàn Phật mà chờ nàng Như Ý, đặng lóng tai nghe cho biết.

Một lát sau, thì nàng đi chợ về ghé chùa ấy, lấy nhang ra đốt và cũng vái lạy y như cũ, rồi trở ra về. Còn Dương Văn Hoài núp sau bàn Phật nghe tỏ rõ mấy lời khẩn cầu của nàng, rồi cũng trở lại chợ bán nhang cho mãn buổi. Khi về đến nhà, thì chàng cũng lo cơm nước cho mẹ xong rồi ngồi một mình suy tính phương kế để cho nàng Như Ý cảm phục. Qua ngày sau, chàng cũng đến chùa Quán Âm trước, ẩn núp mà chờ nàng Như Ý. Khi nàng đến đốt hương cúng vái vừa xong, thì chàng đứng sau bàn Phật, lên tiếng nói rằng:

- Này nàng kia! Ta thấy nàng có lòng thành bền bỉ, mỗi ngày đến cầu vái khẩn xin, nên ta thương tình mà cho nàng biết rằng, người mà ngày sau sẽ làm vua chúa, sáng mai đây lối tám giờ sáng, sẽ đi tới ngã ba đường, gần đám rừng phía Tây. Người ấy có gánh hai cái thùng bằng cây, mặc áo cụt đen, quần vải trắng, trai tráng mạnh khoẻ, mới được mười tám tuổi. Tuy ngày nay lam lũ, vì thời vận chưa thông, chớ sau khi cá nước gặp duyên rồng mây vừa hội, thì người ấy sẽ là một vị đế vương.

Nàng Như Ý lắng nghe đầy đủ, bèn cúi lạy mà tỏ lòng vâng lời Phật dạy, rồi quay lưng trở về. Còn Dương Văn Hoài thấy vậy cười thầm, chắc mình đắc kế, nên rất thích chí. Ngày sau, nàng Như Ý đi chợ về sớm, bèn thưa với chủ nhà xin phép cho nghỉ một buổi, để đi thăm chị em bạn. Khi được phép rồi nàng thay đổi y phục, đi tới ngã ba đường gần đám rừng kia, quả nhiên thấy một người gánh hai cái thùng vuông bằng cây từ phía Tây đi tới. Xét xem gánh, người và áo quần, đều y như lời mách bảo tại chùa Quán Âm; nhưng tưởng ai đâu lạ, té ra anh bán nhang. Khi ấy hai đàng gặp nhau, vui mừng chào hỏi.

Dương Văn Hoài mở đầu:

- Nay sao cô không đi chợ, lại đến đây sớm, chắc có việc gì?

- Thiếp vâng lời Phật dạy đến đây chờ anh!

Chàng nghe nói mấy lời biết trúng kế rồi, bèn chúm chím cười mà hỏi rằng:

- Vậy cô có chuyện gì cần tôi, xin cho tôi biết?

Nàng liền mắc cỡ, cúi mặt làm thinh, không thốt được một tiếng. Chàng tiếp:

- Tôi cũng có chuyện lạ lắm, cô ơi! Hồi hôm tôi nằm chiêm bao thấy Phật Quan Âm mách bảo cho tôi như vầy: “Sáng mai con đi tới đám rừng phía Tây, sẽ gặp một người con gái, nàng là lương duyên túc đế của con; con nên cùng nàng kết nghĩa Tần Tấn cho trọn niềm thuỷ chung. Nàng là Nữ tinh giáng thế, ngày sau sẽ làm Chánh hậu; còn con là Tử Vi lâm phàm, rồi đây sẽ mở mang nghiệp đế. Khi tỉnh giấc thì tôi nửa tin nửa nghi, chẳng ngờ lại là sự thật, nay quả gặp cô tại đây!

Nàng nghe chàng trình bày như thế, thì bỡ ngỡ đáp:

- Phật Quán Âm cũng dạy bảo thiếp như thế, nay đôi ta gặp nhau đây, anh tính liệu làm sao?

Chàng đáp:

- Hai ta cùng thấy y như nhau, ấy là quả có duyên lành, vậy nàng về nhà ở với mẹ tôi vài hôm, rồi tôi sẽ chọn ngày tốt, sắm đủ lễ vật để bái cáo Phật, trời, ông Tơ, bà Nguyệt và ông bà hai phía.

Nàng nghe chàng nói chẳng biết tính liệu làm sao, cứ làm thinh đứng đó một hồi, nghĩ rằng đi chung với chàng thì sợ thiên hạ thấy. Chàng biết ý, bèn tiếp:

- Không hề chi! Cái thùng này rộng lớn, để tôi dồn nhang qua bên thùng kia và dằn thêm đá cho nặng. Còn nàng thì vào ngồi trong thùng này và đậy nắp lại, rồi tôi gánh đi, không ai ngó thấy.

Dương Văn Hoài nói như vậy rồi làm y theo. Ðương khi một đầu gánh thùng nhang, một đầu gánh nàng Như Ý chạy lóc thóc trong rừng mà về nhà, thình lình chàng thấy cờ xí đỏ rực, tiếng hét rền trời, trống kèn dậy đất, tai nghe mắt thấy, hồn vía lên mây. Chàng quáng chẳng biết làm sao, bèn bỏ gánh giữa rừng mà chạy trốn mất.

Nguyên vua nhà Trần có một vị Ðông cung Thái tử được mười tám tuổi, kén vợ đã nhiều nơi mà Thái tử không ưng đâu hết. Một ngày kia, Thái tử buồn ý, tâu với cha mẹ xin phép đi săn bắn để giải khuây. Hoàng hậu nghe con xin như vậy, bèn tâu với vua:

- Ðông cung chưa từng ra khỏi kinh thành mà nay lại đòi vào rừng săn bắn, vậy bệ hạ nên truyền cho quan Khâm Thiên Giám chiếu một quẻ Dịch coi thế nào, như được quẻ tốt, thì sẽ cho đi; bằng nhằm quẻ xấu, thì cầm luôn trong cung hay hơn.

Vua nghe Hoàng Hậu tâu có lý, liền truyền chiếm quẻ Dịch tức thời. Khâm Thiên Giám vâng mạng, đặt bàn hương án xủ quẻ vừa xong, bèn nói rằng:

- Muôn tâu bệ hạ! Ðông cung đi săn sẽ bắt được ác thú và đổi đặng lương nhơn; thật là Phật trời sắp xếp, định trước lứa đôi xứng đáng. Quẻ này tốt đúng bực nhứt.

Khâm Thiên Giám lại tâu tiếp:

- Quẻ này có thần ứng, nếu có sai lầm thì ngu thần xin dâng thủ cấp trước bệ hạ.

Lúc này vua hết nghi, bèn hạ chiếu cho quan Ðiện tiền Ðại tướng dẫn quân lính theo bảo hộ Thái tử đi săn. Sáng bữa sau, tôi chúa kéo thẳng đến Tây Sơn lưới giăng ba mặt, mới đuổi sơ qua có một lần, thì lưới đã sập, hùm kia vào rọ, quân hầu đều nổi trống hiệu, chúa tôi tựu lại lấy dây xích trói chặt khóa kỹ, rồi khi mở lưới khiêng ra, ai nấy xem tường là một con cọp mun, có một hàng chữ trắng trên lưng “Hượt tróc mãnh hổ, địch đắc lương nhơn” (bắt sống cọp này, đổi đặng vợ hiền).

Thái tử thấy việc đó rất kỳ lạ, liền truyền quân nhổ lưới và khiêng cọp về triều cho kịp giờ. Quân đương rầm rộ kéo đến khúc rừng kia, bỗng đâu thấy gánh thùng để giữa đường mà không thấy người. Thái tử bèn truyền lệnh mở ra xem, thì thấy một thùng đựng đầy những nhang và đá; còn thùng kia thì có một người con gái ngồi ở trong. Ngài lấy làm lạ bèn bảo nàng ra cho Ngài hỏi thăm. Nàng Như Ý ra khỏi thùng rồi đến gần quì lạy. Thái tử thấy nàng mặt hoa mày liễu, da tuyết môi son, cốt cách phương phi. Thái tử bèn hỏi:

- Nàng là người ở đâu, tên họ gì, bao nhiêu tuổi, cha mẹ làm nghề gì, có chồng con hay chưa, nói rõ cho ta biết?

Nàng Như Ý đem tên tuổi, xứ sở của mình và việc mồ côi ở mướn, đi chợ mua nhang, cúng vái tại chùa Quán Âm, lời Phật dạy bảo thế nào, và cớ sao lại ngồi trong thùng, từ đầu chí cuối, nàng thuật lại không sót một mảy. Thái tử chưa kịp nói gì, liền thấy quan Ðại tướng quỳ xuống tâu rằng:

- Muôn tâu Ðiện hạ! Nàng nói những lời của Phật bảo trong chùa Quán Âm đó, thì chắc là thằng bán nhang lập kế mạo xưng. Tội ấy chẳng nói làm chi; chí như nó nói ngày sau nó sẽ làm vua, thì lời ấy là tội tiếm nghịch. Ngu thần tưởng nó còn trốn nội trong đám rừng này, cúi xin điện hạ truyền quân lục bắt nó mà trị tội.

Thái tử cười và nói rằng:

- Khanh hãy đứng dậy, đặng ta nói cho mà nghe! Ðã biết lời ấy là của thằng bán nhang giả Phật mà thốt ra; nhưng khi nó đã rình nghe lời vái của nàng, mà nếu không nói rằng nó sẽ làm vua, thì làm sao nó phục được lòng của nàng, nên nó phải quyền biến như vậy. Và lại những điều khẩu khuyết vô bằng chẳng nên câu chấp làm gì. Huống chi nó không làm cách đó, thì ngày nay ta đâu gặp đặng nàng; nên xét cho kỹ, nó tuy có tội mà cũng có công; nội công này cũng đủ trừ tội kia rồi. Còn có một sự này rất lạ! Ta đã săn bắn được một con cọp mà trên lưng nó lại đề mấy chữ bảo ta đem nó đổi với một người vợ hiền lương. Nhưng người ấy đâu không thấy mà nay thấy nàng này, thì ta tính đổi con cọp đó, rồi đem nàng này về triều tâu với Phụ vương và Quốc mẫu, xin cho ta kết duyên Tần Tấn, vậy các khanh liệu sao?

Các quan đều tâu rằng:

- Ðiện hạ thiệt là lòng trời lượng biển, xét đoán công minh, triều thần hết dạ kính phục, vậy xin Ðiện hạ cứ y kế mà làm!

Sau đó, Thái tử truyền quân đem cọp bỏ vào thùng đậy nắp lại y như cũ; lại biểu đốn cây làm kiệu, đặng khiêng nàng Như Ý về trào. Khi đến kinh thành, Thái tử truyền đem nàng vào Dịch đình an nghỉ và cấp hai người cung nữ theo nàng hầu hạ, đợi ngày vào triều phục chỉ. Vua nhà Trần nghe con tâu chuyện nàng Như Ý mồ côi và ở mướn, thì không bằng lòng, nên xuống lời chỉ ý, dạy sáng mai dẫn nàng vào yết kiến, rồi sẽ định liệu. Hôm sau, vua ngự trên ngai, hai bên văn võ triều bái tung hô vừa xong, kế Thái tử quỳ xuống tâu rằng:

- Muôn tâu lịnh Phụ vương! Con đã vâng mạng đem nàng Như Ý vào, đương đứng ngoài ngọ môn mà chờ lệnh.

Vua nhớ lại chuyện ấy không vui, nên làm thinh một giây lát, rồi vị tình con mà phán rằng:

- Con dẫn nàng vào đây cho ta xem!

Thái tử vâng mạng ra đem nàng vào dưới bệ mà bái yết. Lạ thay! Máy trời sắp đặt, dầu sang hèn cách mấy cũng vui mừng; tơ đỏ vấn vương, dẫu trái ngược bao nhiêu cũng xuôi thuận. Khi vua chưa thấy Như Ý thì đã đem dạ bất bình, nay xem thấy mặt nàng, lại liền phát động lòng thương, hỏi han vài lời rồi truyền đem nàng vào cung, đặng bái yết Hoàng hậu. Vua lại truyền quan Khâm Thiên Giám chọn ngày tốt mà làm lễ thành hôn cho Thái tử, và thưởng người về sự chiếm quẻ lúc trước. Cách ít năm sau, vua nhà Trần băng hà, Thái tử nói ngôi, bèn tôn nàng Như Ý làm Hoàng hậu, đổi thân hạ tiện thành bực chí tôn. Ðó cũng vì một dạ chí thành mà cảm động đến trời Phật.

Ðây nhắc lại Dương Văn Hoài chạy trốn trong rừng đến lúc quan quân đi hết, thì chàng mới dám ló ra, thấy gánh của mình còn y nguyên, rất vui mừng, cứ việc kê vai gánh thẳng về nhà. Ðến trước cửa nhà, thì chàng để gánh xuống rồi hăm hở chạy vào thưa với mẹ rằng:

- Nay con đã kiếm được cho mẹ một con dâu hiền thục, đã đem về đây rồi, nên con thưa cho mẹ mừng.

Khi bà mẹ bảo đem con dâu vào cho bà xem, thì Dương Văn Hoài lật đật chạy ra mở gánh giở cái nắp thùng, bỗng nghe con hùm ở trong rống lên một tiếng như sấm và lăn ra khỏi thùng. Chàng thấy vậy hoảng hốt liền té bật ngửa xuống đất chết giấc; còn trong nhà bà mẹ nghe tiếng hùm rống cũng thất kinh, liền đóng cửa lại, thân hình run lập cập. Một lát, Dương Văn Hoài tỉnh dậy, nhìn thấy con cọp bị trói bằng dây xích, nên trong lòng cũng bớt sợ, bèn tức giận chạy vào nhà xách cây búa lớn, quyết ra bửa đầu cọp mới lại gan. Nhưng bà mẹ can:

- Con đừng nóng nảy, phải nói cho mẹ rõ tại sao cọp đã bị trói, lại ở trong gánh của con mà con không biết, để đến bây giờ mới hay?

Chàng đem việc giả Phật Quán Âm mà gạt gẫm nàng Như Ý, cho đến khi bỏ nàng vào thùng mà gánh, vừa gặp quan quân đi săng giữa rừng, nên phải bỏ gánh mà trốn, đầu đuôi tự sự chàng kể hết cho mẹ nghe. Bà gục gặc đầu mà nói rằng:

- Phải rồi! Phải rồi! Tại con làm lếu, dám giả dối lời Phật truyền, mới khiến gặp quả báo, bọn đi săn đem cọp đã bắt được mà đổi người con gái đó. Nay cọp này đang bị trói bằng dây xích, dẫu già yếu như mẹ đây, hay là đàn con nít đi nữa, đánh chết nó cũng được, huống chi là con. Vả lại người ta đang mắc nạn, mà mình nhẫn tâm sát hại, là người bất nhân; vậy con nên nghe lời mẹ, bẻ khóa mà thả nó ra, thì mẹ rất vui lòng.

Dương Văn Hoài là con chí hiếu, nên khi nghe mẹ giải thích như vậy không dám trái ý mẹ; chàng liền lấy kềm sắt ra mà nói với cọp rằng:

- Ðáng lẽ ta phải giết mi, nhưng vì mẹ ta can gián, nên ta tha mi. Vậy mi có tánh linh, thì nằm yên một chỗ đặng ta lấy cái thùng úp mi lại, ta sẽ bẻ khóa dây xích giùm cho mi; nhưng chừng nào ta bảo mi đứng dậy, mới được đứng dậy.

Quả nhiên con cọp vâng lời nằm yên thiêm thiếp chẳng dám cựa quậy. Chàng bèn lấy cái thùng úp trên mình cọp, để ló bốn cái chân có cột dây xích ra ngoài, rồi chàng lấy cái kềm sắt cố ráng sức bình sinh bẻ khóa gãy lìa. Chàng liền chạy vào nhà đóng cửa lại, kêu cọp bảo dậy, cọp liền vùng vẫy một hồi, thì cái thùng đã văng ra xa và dây xích cũng xổ tháo ra, cọp vội vàng chạy vào rừng. Vì Dương Văn Hoài biết nghe lời mẹ làm việc phóng sanh, và cọp nhờ chàng tha khỏi chết, nên từ đó về sau, mỗi tháng ba kỳ, cọp bắt một con thịt rừng lớn đem bỏ trước sân để chàng bán mà nuôi mẹ, để đền ơn cứu tử.

Thú cám ơn người, người biết ơn thú, càng nghĩ càng hay.

Phật học Tạp chí Từ Bi Âm.

Non Phổ Ðà Quan Âm thường nhập định

Tùy cơ duyên ứng hiện khắp nơi nơi

Tìm tiếng kêu cứu khổ độ người đời

Quán Tự Tại đấng mẹ hiền muôn thuở.





Thanked by 2 Members:

#8 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 12:54

7. Khang Hy Tìm Phổ Hiền

Khang Hy hoàng đế đời nhà Thanh tự xưng là Lão Phật gia, đi khắp núi rừng lễ Phật để cầu lấy thuốc trường sinh bất lão. Người nghe nói Phổ Hiền Bồ Tát ở trên núi Nga My rất linh nghiệm, liền muốn tới núi Nga My để tìm Phổ Hiền cầu lấy phương thuốc tiên trường thọ.

Trong lòng Khang Hy phát sinh điều nghi kỵ, sợ trên đường đi có kẻ ám hại mình, người liền cử ba trăm quân ngự lâm tinh nhanh khỏe mạnh để bảo giá, lại chọn tám người có mặt mũi hình dạng giống mình, cho ăn mặc hóa trang giống hệt mình, cùng lên núi, định làm trò “người mù vờ ngủ gật” để khó phân thật giả.

Trong chùa Phổ Hiền trên núi Nga My có một vị Hòa Thượng tên gọi là Chiếu Ngọc. Tối hôm đó, Chiếu Ngọc Hòa Thượng đang tọa thiền ở trong phòng Thiền, bỗng nhiên có một ông lão râu bạc từ ngoài cửa bước vào, Chiếu Ngọc liền hỏi:

- Xin hỏi lão cư sĩ đêm hôm khuya khoắt tới đây có điều gì dạy bảo?

Ông lão nói:

- Ta là Thổ Ðịa của bản sơn, ngày mai Khang Hy hoàng đế của lão quan tới chùa ngài đây tìm Phổ Hiền. Ngài phải chuẩn bị nghinh tiếp.

Nhà sư Chiếu Ngọc nói:

- Tôi không biết Khang Hy.

Thổ Ðịa nói:

- Việc này không khó. Ngày mai có chín người mặt mũi quần áo hình dạng tương tự như nhau lên núi. Tuy họ mặc long bào, đội miện vàng như nhau, nhưng trong đó chỉ một người trên mặt có nốt rỗ hoa, đó mới là Khang Hy thật!

Nói xong, Thổ Ðịa liền biến mất.

Ngày hôm sau sư Chiếu Ngọc thức chờ, trời vừa sáng liền gọi tất cả các sư trong chùa dậy, lau chùi quét dọn rất sạch sẽ tất cả các tượng Phật, đài Thần, điện trên điện dưới, chùa ngoài chùa trong. Các nhà sư ai nấy đều khoác áo cà sa, tay gõ pháp khí, miệng niệm Nam mô A Di Ðà Phật, quỳ ở bên đường để nghênh hầu thánh giá. Chẳng bao lâu, đã nhìn thấy ở dưới chân núi có một đoàn người ngựa kéo đến; đi đầu là ngự lâm quân tay cầm đao, kiếm, súng, kích; sau quân ngự lâm là quan thái giám và các tên thị vệ vây xung quanh chín lọng vàng, dưới mỗi cái lọng vàng có một người mặc áo bào, đầu đội mũ “Khang Hy Hoàng Ðế” vàng tía, các cung nữ tả lôi hữu kéo chầm chậm bước vào trước cửa chùa. Chiếu Ngọc Hòa Thượng đưa mắt lén nhìn trộm, nhận đúng người trên mặt có nốt rỗ hoa, mấy bước vượt chạy qua, quỳ xuống nói:

- Phương trượng Chiếu Ngọc chùa Phổ Hiền núi Nga My cầu kiến kính chúc Ngô Hoàng vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Khang Hy vừa nghe đã giật mình kinh sợ, liền gọi tả hữu:

- Cho ta xuống! Bắt hắn cho ta!

Các thị vệ liền bắt Hòa Thượng trói lại, làm cho Chiếu Ngọc Hòa Thượng trương nhị Kim Cương không hiểu đầu đuôi ra sao nữa!

Khang Hy quát giọng hỏi:

- Tên yêu tăng đáng chết! Cớ sao ngươi lại nhận ra ta? Lẽ nào ngươi là Phổ Hiền sống hay sao?

Lão Hòa Thượng sợ hãi tới mức mặt xanh mặt vàng, vội vàng lắp bắp trả lời:

- Bẩm vạn tuế! Ðó là Thổ Ðịa của bản núi tối hôm qua nói cho nhà sư biết rằng hôm nay thánh thượng sẽ tới chùa nhỏ này để tìm Phổ Hiền Bồ Tát.

Khang Hy nghe xong, chuyển giận thành vui. Trong lòng nghĩ chính trong dịp này nên hỏi thăm tung tích của Phổ Hiền. Tức thì vội hỏi:

- Phổ Hiền ở đâu? Hòa Thượng có biết không?

Chiếu Ngọc nói:

- Bồ Tát không thích sự rối ren ồn ào của thế tục, nên người đã tới chùa Chiêu Giác ở Thành Ðô rồi.

Khang Hy vừa nghe nói Phổ Hiền không ở trên núi, liền thất vọng, chùa cũng chẳng vào, quay mình xuống núi, vội tới chùa Chiêu Giác. Khang Hy sợ Phổ Hiền không muốn gặp mình, liền hóa trang thành một cư sĩ già: mặc một chiếc áo cánh màu xanh không dài không ngắn, đội một chiếc mũ chỏm dát đá mã não, thân mũ bằng đoạn xanh bước vào chùa Chiêu Giác. Lúc này Phổ Hiền đã biến thành một Hòa Thượng trong chùa bước ra. Khang Hy bước lên khoanh tay thi lễ hỏi:

- Xin hỏi sư phụ, Phổ Hiền có sống ở đây không?

Hòa Thượng giơ tay, chỉ nói:

- Ở trong đại điện kia kià!

Khang Hy mừng lắm, bước vào trong đại điện. Trong đại điện không có một bóng người, đang định đi tìm người để hỏi, vừa hay vị Hòa Thượng kia lại bước vào. Khanh Hy vội hỏi:

- Trong đại điện này làm gì có Phổ Hiền sống?

Hòa Thượng chỉ Bồ Tát trên tọa thiền nói:

- Kia chẳng phải à?

- Ðó là tượng thần đắp đất, khắc gỗ đấy chứ?

Hòa Thượng nói:

- Không phải là Phổ Hiền sống, nhiều người kính vái ngài như vậy để làm gì?

Khang Hy bị nhà sư hỏi tắt miệng không nói được câu nào, cũng không dám tranh cãi, đành tự mình hối hận. Khang Hy từ đại điện bước ra, đi theo phía hậu điện. Phổ Hiền lại biến thành một lão cư sĩ từ hậu điện bước ra. Khang Hy bước tới trước hỏi:

- Này lão cư sĩ! Các người ở đây có nhìn thấy Phổ Hiền sống không?

Lão cư sĩ chỉ vào hậu điện nói:

- Ðang chữa bệnh cho người ở hậu điện kia thôi!

Khang Hy nghe thấy thế lòng càng sung sướng, cho rằng lần này nhất định sẽ được gặp Phổ Hiền sống. Vái chào cư sĩ xong, liền bước tới hậu điện. Ðến hậu điện nhìn: một vị lão Hòa Thượng cả râu lẫn tóc bạc phơ, đang chữa đùi cho một cư sĩ bị nhọt ác tính đã lâu. Khang Hy ngắm nhìn lão Hòa Thượng hết bên trái sang bên phải, nữa tin nữa ngờ hỏi:

- Thưa lão Sư phụ! Người chính là Phổ Hiền sống?

Vị Hòa Thượng đó đã già, mắt kèm nhèm, tai nghễnh ngãng, nhìn thấy có người nói với mình, liền ghé tai nghe một lúc, rồi buồn bã nói:

- Hừ! Ngài hỏi tôi sống được mấy năm nữa à? Tôi sắp đầy tám mươi rồi, làm sao lại có thể sống được mấy năm nữa!

Khang Hy vừa nghe, thì ra đó là một nhà sư điếc, biết rằng mình tìm sai rồi. Khang Hy từ hậu điện bước ra, đi về hướng nhà bếp, Phổ Hiền lại biến thành một nhà sư nấu ăn, đang ngồi nấu cơm ở trước cửa lò lửa. Khang Hy bước vào trong bếp, nhìn bên đông ngó bên tây.

Nhà sư hỏi:

- Thưa lão cư sĩ, người đến tìm ai?

Khang Hy nói:

- Tôi tìm Phổ Hiền sống.

Vị Hòa Thượng kia nói:

- Tìm Phổ Hiền sống để làm gì?

Khang Hy nói đại:

- Ðể cầu lấy phương thuốc trường sinh, trị bệnh cứu đời!

Hòa Thượng nói:

- Tôi khuyên ngài không nên tìm người đó nữa. Phương thuốc của người ấy không linh nghiệm gì đâu!

Khang Hy vội hỏi:

- Tại sao không linh nghiệm?

Hòa Thượng nói:

- Ðầu năm nay bọn tham quan ô lại, khắp noi tìm kiếm cướp bóc, làm cho nhân dân không sao sống nổi, còn có ai cần đến phương thuốc trường sinh của ngài nữa? Tôi nghĩ chỉ có bọn quan lại đó mới cần đến. Thế nhưng bọn chúng uống thuốc trường sinh vào cũng không sống được lâu đâu.

Khang Hy mơ hồ hỏi:

- Vì sao?

Hòa Thượng nói:

- Bọn quan chức đó đã làm hết nhiều việc ác, người người đều chửi bới nguyền rủa. Nguyền rủa sẽ đưa chúng đến chỗ phải chết, còn sống được bao lâu nữa?

Khang Hy bị một trận chửi rủa cay độc, lại sợ để lộ chân tướng, liền thừa lúc lão Hòa Thượng mải bày cơm chay không chú ý, nên đã lủi trốn. Sau khi Khang Hy đi khỏi, trong lòng Phổ Hiền rất áy náy. Tại sao Khang Hy lại biết mình đang ở chùa Chiêu Giác? Người lập tức trở lại núi Nga My tra hỏi, mới biết Thổ Ðịa ở trên núi đã tiết lộ ra. Trong lòng Phổ Hiền rất tức giận liền đuổi hết Thổ Ðịa ở núi này xuống không cho một ông nào ở trên núi nữa.

Có một Thổ Ðịa trốn ở trên núi không muốn đi, bị Phổ Hiền tìm thấy, dùng tay phất vẫy một cái, liền lẳng Thổ Ðịa xuống một gò đất ở chân núi Nga My. Bởi không thể trở về núi Nga My được nữa, vị Thổ Ðịa ấy suốt ngày canh giữ miếng đất mà khóc. Nước mắt đã chảy thành hai dòng sông: một gọi là sông Long Trì, một gọi là sông Nhị Ðạo, còn mảnh đất đó người ta gọi là “Thổ Ðịa quan” nhốt Thổ Ðịa.

Truyện Bồ Tát.

Xin tạ ơn phố thị khách trần

Cho tôi thời khắc quán duyên thân

Cho tôi giác ngộ vô thường huyễn

Tâm giải thoát hồng…dưới nắng xuân.



Thanked by 1 Member:

#9 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 12:57

8. Phật Ở Đâu?

Thưở xưa, có hai chàng đọc kinh, nghe nói về Phật thích lắm, nhất định đi tìm cho gặp Ngài mới nghe. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, hầm hố, gian nguy hiểm trở… chàng vẫn chưa được gặp Phật giống như hình dáng trong kinh đã diễn tả: “Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp hào quang sáng chói”.

Hôm nọ tại một triền non, chàng trai tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ cốt cách siêu phàm. Mừng quá chàng khẩn khoản:

- Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không? Xin chỉ giùm con với:

Ông lão mỉm cười:

- Ồ, chỗ nào mà không có Phật? Trên quãng đường vừa qua chả lẽ con không gặp được Ngài?

- Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng người phàm phu tục tử cả… con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

- Chú mày ngốc nghếch thật! Chú không biết rằng cái thân đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp đó, dân Ấn đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cùng cả rồi ư?

- Thưa thế thì Phật chết rồi sao?

- Hiện giờ đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tồi và xấu như chúng sanh vậy. Con còn có muốn gặp Ngài nữa không?

- Thưa dù với bất cứ hình dung nào, nếu đích thực là Ngài thì con vẫn vô cùng khát ngưỡng.

- Vậy thì để ta mách nước cho con nhé… con hãy quay về… trên đường về nếu gặp được một người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái thì chính người đó là một hóa thân của Phật. Hãy thừa sự và cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy…

Chàng trai hối hả quay về, suốt quãng đường dài chàng trai không gặp đức Phật nào mang hình dáng như cụ già diễn tả. Chán nản chàng quay về nhà. Trời về khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa bà mừng quá, tụt xuống phản quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa. Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân mặt, guốc mặt sang chân trái. Chàng ôm lấy chầm lấy mẹ nghẹn ngào:

- Ôi! Ðức Phật yêu quý của con!

Như Thủy

Cha mẹ còn sống là Phật còn tại thế ở trong nhà.





Thanked by 1 Member:

#10 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 13:04

9. Ðức Phật Và Chiến Già

Một thời đức Phật và đồ chúng của Ngài an trú tại Kỳ Viên. Thấy nếp sống phạm hạnh của các thầy Tỳ kheo và đạo tâm kiên cố của Phật tử mỗi ngày mỗi thêm rực rỡ, bọn ẩn sĩ Bà La Môn sanh tâm đố kỵ, ghen tức. Chúng lập kế xây dựng một cơ sở gần Kỳ Viên, ngày đêm ra sức theo dõi các hoạt động của Phật và đồ chúng của Ngài. Nhưng tất cả đều vô ích, chúng không tìm đâu ra một kẽ hở tầm thường nhất để bôi nhọ Giáo Hội. Cuối cùng, một ẩn sĩ nói với đồng bọn hắn:

- Chúng ta đã từ lâu quan sát hành vi của các Sa môn này. Ðạo hạnh của họ không thể phủ nhận được. Tuy nhiên chúng ta phải xúi giục quần chúng chống lại họ, ta đã có cách. Ta quen biết Chiến Già (Sinca), một thiếu nữ hấp dẫn lắm. Nàng rất có tài thực hiện quỷ kế. Nàng sẽ không từ chối giúp ta, uy danh Thích Ca nay mai sẽ bị tan biến. Bọn ẩn sĩ cho mời Chiến Già đến.

Nàng nói:

- Các thầy gọi con có việc chi?

- Con biết tên Sa Môn ở Ca Tỳ La Vệ chứ? Người mà quần chúng tôn thờ là Phật đó!

- Chưa biết, nhưng con nghe tiếng tăm của Ngài lừng lẫy lắm. Người ta bảo Ngài làm được vô số phép mầu huyền diệu.

- Chiến Già, hắn là kẻ thù cay nghiệt nhất của các thầy. Hắn hạ nhục các thầy, hắn muốn tiêu diệt quyền năng của các thầy. Cô nào hàng phục được người chinh phục, cô ấy sẽ được vô vàn hãnh diện, cô ấy sẽ được vang danh trong giới nữ nhi, cô ấy sẽ được cả thế giới lên tiếng ca ngợi.

Chiến Già bị lời lẽ đường mật của bọn ẩn sĩ lôi cuốn. Nàng tin chắc là mai đây đức Phật sẽ bị ô nhục, tên tuổi của Ngài sẽ bị nguyền rủa khắp mặt địa cầu.

Bấy giờ, ngày ngày nàng đến Kỳ Viên, mỗi khi thấy tín đồ nghe đức Thế Tôn thuyết pháp sắp ra về, nàng diện một bộ đồ màu hồng rực rỡ, hai tay ôm một bó hoa. Và nếu như có ai tình cờ hỏi nàng:

- Cô đi đâu đó?

Nàng đáp:

- Việc gì đến người mà người hỏi?

Khi đến Kỳ Viên, nàng chờ tới lúc vắng vẻ, chỉ còn một mình nàng, rồi thay vì trú xứ của Phật, nàng lại thẳng đến nơi cư ngụ của bọn ẩn sĩ gian ác. Nàng ngủ đêm tại đó, nhưng tảng sáng là nàng quay lại cổng Kỳ Viên đến khi gặp mặt tín đồ dậy sớm đi lễ Phật cúng dường thì nàng mới đủng đỉnh quay về. Và có ai hỏi:

- Cô đi đâu về sớm thế?

Nàng đáp:

- Việc gì đến người mà người hỏi.

Cuối tháng, nàng đổi cách trả lời. Chiều đến, nàng nói:

- Tôi đến Kỳ Viên nơi đức Thế Tôn đang chờ tôi.

Sáng ra, nàng nói:

- Tôi vừa từ Kỳ Viện về, nơi tôi đã ngủ đêm với đức Thế Tôn.

Thế là một số người khờ khạo, nhẹ dạ tin nàng, nghi ngờ đức Thế Tôn bất tịnh. Sáu tháng sau, nàng lấy một khổ vải quấn quanh bụng. Người ta nghĩ Nàng có mang và bọn người nông cạn đần độn kia khăng khăng cho rằng đạo hạnh của đức Thế Tôn chỉ là sự giả vờ. Chín tháng trôi qua, nàng nịt một trái banh gỗ ngay trước bụng, nàng đi đứng ra vẻ uể oải nặng nề. Cuối cùng, một hôm nọ nàng vào thẳng giảng đường đức Thế Tôn đang thuyết pháp. Nàng bạo dạn đối diện và cất tiếng sang sảng cắt ngang lời Ngài:

- Ngài thuyết giảng giáo pháp cho quần chúng lời lẽ ngọt ngào như đường mật. Còn em, mang thai với Ngài, sắp làm mẹ trong nay mai, thì không có đến một nơi nằm chỗ! Ngay cả dầu mỡ em cần Ngài cũng lờ luôn. Nếu Ngài sợ xấu hổ không lo cho em thì ít ra Ngài cũng có thể gởi em cho một đệ tử nào của Ngài chứ: quốc vương Ba Tư Nặc hay trưởng giả Cấp Cô Ðộc chẳng hạn. Nhưng không! Ngài chẳng đếm xỉa gì đến em, và cũng chẳng lo lắng gì cho đứa con sắp ra đời! Ngài chỉ biết vui hưởng ái tình mà cóc cần cưu mang trách nhiệm!

Ðức Thế Tôn thản nhiên hỏi:

- Này Chiến Già, người nói thật hay vu khống đó? Chỉ có ta và người biết thôi.

Chiến Già gào lên:

- Ngài biết rõ quá mà, em đâu có nói láo!

Ðức Thế Tôn vẫn bình tĩnh, tiếp tục thuyết pháp. Chiến Già nổi điên khùng đứng phắt dậy định xông đến làm nhục đức Thế Tôn, nhưng vì thở mạnh, sợ dây nịt đứt ra, trái banh gỗ rơi đạch xuống đất. Thính chúng nhao nhao đứng dậy. Nàng hoảng hốt cắm đầu chạy, hay chân quýnh quáng va vào nhau nên phải té nhào. Các Phật tử Ưu Bà Di ùa đến định vạch mặt Chiến Già, nhưng hai Tỳ Kheo Ni nhanh nhẹn bước tới, nhẹ nhàng đỡ Chiến Già đứng dậy và dìu nàng vào phòng kế bên. Ðức Phật giơ tay ra hiệu thính chúng ngồi xuống. Ngài tiếp tục bài thuyết pháp với lời kết luận:

Từ bi thắng sân hận

Hiền thiện thắng hung tàn

Bố thí thắng xan tham

Chân thật thắng hư ngụy.

Tịnh Minh Dịch

Bồ Tát bị mắng nhiếc lâu trăm ngàn kiếp chẳng sanh lòng giận dữ, hay khen ngợi trăm ngàn đời cũng chẳng sanh vui mừng. Ấy là vì liểu đạt lời nói người đời là lẽ sanh diệt của tiếng tăm như chiêm bao, như tiếng vang.



Thanked by 1 Member:

#11 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 13:21

PHẦN BA

10.Chàng Nhạc Sĩ Và Ông Vua Trời

Khi chàng nhạc sĩ ôm cây đàn VìNà đến khu rừng MiMăng thì chim không còn dám cất tiếng hót.

Chàng gảy khúc đàn đầu tiên, gió ngưng thổi, bao nhiêu hoa rừng đều nghiêng cánh lắng nghe.

Chàng gảy khúc đàn thứ hai, sương mù lặng giữa ngàn lá xanh đang bốc hương.

Chàng gảy khúc đàn thứ ba, chim muôn phương tụ về phô rực rỡ ngàn hồng vạn tía.

Chàng gảy khúc đàn thứ tư, hoa lá chim đong đưa nhịp nhàng trong một điệu múa tuyệt vời.

Chàng gảy khúc đàn thứ năm, hằng sa vị tiên lấp ló chòm mây trắng.

Chàng gảy khúc đàn thứ sáu, thiên nữ đứng đầy đặc cả không gian.

Chàng gảy khúc đàn thứ bảy, Ðế Thích Thiên Vương ngồi đứng không yên, vén mây nhìn hạ giới:

- Kỳ diệu thay là những khúc đàn của chàng thanh niên Khúc Chi La! Tiếng đàn có mãnh lực làm cho cung điện chí tôn của ta trở nên trống không và buồn bã.

Ðế Thích Thiên Vương bước xuống trên đám mây ngũ sắc, với tầm cao hai mươi cây thốt nốt, hỏi người nhạc sĩ:

- Này chàng trẻ tuổi tài hoa, vị vua của âm nhạc! Người dụ dỗ chúng Chư Thiên của ta. Ngươi đã làm cho mười muôn triệu Thiên nữ chợt trống không ở Thiên đình. Người làm cho ta buồn bã, ngươi biết đấy!

Thanh niên Khúc Chi La ngưng đàn, trái đất không còn linh hồn, ngước mắt lên, chàng nói:

- Này ông vua Trời, ta không có ý ấy, xin Ngài hoan hỷ xá tội.

Thiên Vương Ðế Thích với những sợi râu xanh long lanh màu ngọc bích, dựng ngược lên làm cho chấn động địa cầu bằng tiếng hét của thần sấm:

- Ta không có hoan hỷ xá tội. Thiên nữ trống không ở thiên đình không phải là điều dễ dàng hoan hỷ xá tội!

- Vậy ngài muốn gì?

- Muốn ngươi đập bể cái đàn ma quái ấy đi. Nó không những quyến rũ hoa lá chim, thiện nam thiện nữ mà còn quyến rũ cả ta nữa.

- Không thể được, vua Trời ạ!

- Sao vậy? Ngươi biết ta có thể biến ngươi thành cây đàn, cây đàn thành ngươi. Khi ấy thì đàn sẽ gảy ngươi hay ngươi sẽ gảy đàn? Hãy biết lấy!

- Vậy thì ghê gớm quá, đàn thành ta và ta thành đàn! Vậy thì ghê gớm quá. Nhưng không thể được, vua Trời ạ!

- Sao vậy! Ra là ngươi không sợ oai lực của ta đấy!

- Sợ chứ! Nhưng thưa vua Trời chiếc đàn này đã cho tôi cơm áo. Và chiếc đàn này cũng giúp tôi phụng dưỡng cha mẹ mù lòa.

- Thật thế à?

- Áo cơm và cha mẹ mù lòa? Lành thay! Vậy thì không có gì chân chánh hơn thế nữa! Này người nhạc sĩ hiền lương và chí hiếu, ngươi làm ta cảm động, ngươi làm ta khó xử.

Từ trời cao, vừng mây như úa màu, không còn trong sáng long lanh màu ngũ sắc nữa. Một làn gió màu xám, màu đen thổi qua, dường như có sương hay nước mắt rơi xuống từ hư không.

Thanh niên Khúc Chi La giọng xúc động:

- Này vua Trời, này vì Thiên Tử đáng kính trọng. Vĩnh viễn tôi sẽ không đàn những khúc nhạc ấy nữa vì tấm lòng của Thiên Tử đối với tôi. Vì tấm lòng ấy, tôi sẵn sàng hủy bỏ khúc nhạc dẫu cho có thiếu cơm thiếu áo!

- Lành thay! Bạn thân mến! Bạn đã giúp ta thoát khỏi sự khó xử. Ðổi lại, ta sẽ dạy bạn một khúc nhạc của cõi trời.

Thanh niên Khúc Chi La im lặng giây lát.

- Thôi, thưa Thiên Chủ, cảm ơn Thiên Chủ lắm. Nhưng tôi là gì mà dám học tiếng đàn của cõi trời? Do nghiệp quá khứ làm người keo kiệt, bỏn xẻn, không chịu xả tâm bố thí nên kiếp này phải chịu nghèo hèn. Do đam mê đàn địch hát xướng nên tôi phải bị sanh ra trong gia đình Càn Thát Bà hạ liệt. Do sự phỉ báng kinh pháp và các bậc trí tuệ nên kiếp này tôi ngu si, không được học hành đến nơi đến chốn. Thân phận này không xứng là hạt bụi dính trên gót chân của các bậc Ðạo Sư, các vị ẩn sĩ thanh tịnh. Tôi là dòng dõi thấp kém, nghiệp dày phước mỏng thì làm sao tấu khúc nhạc Chư Thiên, các bậc xán lán được sinh ra do phần phước đã tạo ra trong quá khứ của mình.

Không gian chợt như lặng ngắt. Ðế Thích yên lặng rất lâu rồi nói:

- Cả 33 tầng trời sẽ không trụ vững nếu không được nghe lời nói chí thiện này. Hỡi thanh niên Khúc Chi La! Ngươi là Thầy của ta. Này chàng thanh niên trẻ tuổi! Ngươi là Thầy của ta.

Thốt thế xong, đám mây sa xuống thấp, Ðế Thích đến bên thanh niên Khúc Chi La nghiêng vai cung kính. Thanh niên Khúc Chi La cũng nghiêng vai cung kính.

Chàng nhạc sĩ nói:

- Thôi! Ngài có việc của Ngài, tôi có việc của tôi! Thiên đình thiếu Ngài như nóc nhà thiếu cột chống. Cha mẹ tôi thiếu tôi, như chiều khói sẽ không tỏa ra từ bếp. Chúng ta hãy quay lưng lại với nhau, rồi đi!

Ðế Thích Vương bịn rịn. Thanh niên Khúc Chi La lầm lũi ôm đàn đi men theo lối nhỏ về xóm.

- Này người thanh niên chí thiện!

Ðế Thích gọi giật lại.

- Ðừng gọi như thế! Thanh niên nhạc sĩ quay lại. Tôi không xứng đáng để Ngài gọi là chí thiện đâu. Ngài còn muốn chỉ dạy tôi điều gì?

- Không dám vậy đâu. Ta chỉ muốn hỏi một điều, là từ trước đến nay ngươi sống như thế nào?

- Với tiếng đàn bảy khúc, từ trước đến nay tôi là nhạc sĩ trưởng của đức Vua. Nhưng vì hứa hủy bỏ khúc nhạc đã làm tôi nổi danh, nên bắt đầu từ nay tôi sẽ đi hát dạo.

- Tài hoa như ngươi quả là số một châu Diêm Phù Ðề?

- Tôi nghe các nhạc sư trong thiên hạ có nói như thế! Nhưng trong xứ mù, kẻ chột làm vua thì chẳng có gì để hãnh diện.

Ðế Thích ngạc nhiên:

- Thế có kẻ mắt sáng ư? Có kẻ có tiếng đàn tối thượng hơn tiếng đàn của ngươi ư? Họ ở đâu? Họ là ai?

- Phải! Thanh niên gật đầu, vì ham muốn danh vọng, ham muốn lợi dưỡng nên tâm tôi bị chi phối. Vì tâm bị chi phối nên tâm không chuyên nhất. Do không chuyên nhất, tiếng đàn của tôi còn thô tháo và tục lụy không đạt được chỗ cuối cùng này là chỗ cao vời của hào quang, chí thiện, khinh khoái, vô phiền và an lạc. Vậy thì thưa Thiên Chủ! Có những nhạc sĩ tài hoa thật sự, họ đã ngồi trên đỉnh vinh quang vô danh ấy, họ đã bước ra khỏi cõi đời này, họ đã giải thoát danh vọng và lợi dưỡng nên chẳng ai biết, chẳng ai hay, ví như huynh trưởng của tôi và thầy tôi. Còn tôi chỉ là tên học trò đầy bụi bẩn và phàm phu.

Ðế Thích Thiên Vương thở ra. Ngài bối rối và ngơ ngác như bước vào một thế giới nào. Hy hữu thay là những điều chưa từng được nghe. Hy hữu thay là buổi gặp gỡ đầy lợi ích. Lâu lắm Thiên Vương lại hỏi:

- Bây giờ, nếu ngươi từ bỏ khúc đàn nổi danh thì tiếng tăm và lợi dưỡng của ngươi phải bị tổn giảm?

- Phải rồi! Nhưng ấy là cơ hội tốt cho tôi, tôi và cha mẹ tôi có thể tập sống đời vô danh với áo cơm vừa phải.

- Thật lòng quá thiệt thòi cho ngươi. Này người thanh niên! Ta là Thiên Chủ của 33 cõi trời và bốn châu thiên hạ, ngươi biết chứ?

- Dạ biết!

- Ta có thể biến đất thành vàng ròng óng ả. Ta có thể, trong cái nhấc tay, xây cho ngươi một cung điện cao sang gấp bảy lần cung điện của đức vua Diêm Phù Ðề, ngươi biết chứ?

- Dạ biết!

Thiên Vương Ðế Thích chợt tức giận:

- Vậy thì sao ngươi không đòi hỏi ta điều gì? Tại sao ngươi không yêu cầu để ta được đền đáp?

Thanh niên Khúc Chi La nín lặng, rồi hỏi:

- Mà tôi có công đức gì?

- Tại sao không công đức? Ðấy là những công đức tối thượng. Ngươi đã nói cho ta nghe nhân và quả, phước và tội. Ngươi lại dẫn cho ta đến chỗ phàm phu và ô uế. Lại nữa, ngươi là kẻ không màng danh vọng và lợi ích nhỏ mọn của ta! Ta không biết ai là nhạc sĩ hiền trí, ta chỉ biết ngươi là nhạc sĩ hiền triết. Ta không dám biết đến huynh trưởng và Thầy của ngươi đều là bậc ẩn sĩ thanh tịnh. Tại sao ngươi không tạo cơ hội cho ta cúng dường bậc đại ẩn sĩ thanh tịnh? Ngươi đã cắt đứt con đường bố thí xán lạn của ta!

Thanh niên suy nghĩ: Cắt đứt của người chính là tự cắt đứt chính mình. Ta không gợi ý mà do y tự nguyện. Vậy hãy xem thử y muốn làm gì, bèn nói:

- Thôi được rồi! Vậy thì Ngài muốn làm gì thì làm. Nhưng thưa Thiên Chủ! Tôi xin nói trước, tôi chỉ nhận những gì mà tôi dùng được.

- Nói vậy nghe được! Thiên Vương hãy chấp hành Thiên lệnh! Hôm nay ta cúng dường đến bậc hiền trí, đến bậc đại ẩn sĩ thanh tịnh. Ta cúng dường toàn cõi Diêm Phù Ðề này cho chàng thanh niên nhạc sĩ tài hoa. Ba chục ngàn quốc độ sẽ ở dưới quyền cai quản của người. Khúc Chi La đại vương! Ngài sẽ là bậc đại vương tối thắng nhất trong thiên hạ mà danh thơm của Ngài sẽ làm cho ta được thơm lây. Ôi! Huy hoàng thay là triều đại này, triều đại của đức vua chí hiếu, hiền triết và hiền thiện!

Thanh niên Khúc Chi La hét tướng lên:

- Vậy là ngài hại ta! Than ôi! Vậy là ngài hại ta!

- Sao vậy? Ðế Thích ngạc nhiên, thất vọng hỏi.

- Trông coi toàn cõi châu Diêm Phù Ðề, đem hạnh phúc, thanh bình cho 30.000 quốc độ không phải là việc dễ làm. Thưa Thiên Chủ! Chỉ có bậc hiền triết mới làm nổi. Tôi là kẻ thiếu trí, tôi chịu thôi.

Ðế Thích Thiên Vương tự nghĩ: Y là kẻ yêu chuộng hòa bình, nhưng dễ gì làm cho 30.000 quốc độ được hòa bình? Thế gian này chúng lấy việc đánh nhau làm lẽ sống. Chúng nó đầy tham vọng tối tăm và cứng đầu, chàng thanh niên này không thích là phải. Nghĩ vậy, Ðế Thích nói:

- Vậy thì để ta chọn cho nhà ngươi một quốc độ thanh bình và giàu mạnh nhất, là đức vua thành Ba La Nại, được chăng? Ở đây có bốn vị Sư Trưởng hộ pháp cũng là người tài đức.

- Không được đâu, vua Trời ạ! Ðức vua thành Ba La Nại là người ân của tôi. Lại nữa, Ngài cai trị quốc độ theo mười phương pháp. Tôi là ai, phước đức gì, trí tuệ gì mà dám thế vào chỗ người ấy?

- Ðành rằng có thể như vậy. Ðế Thích phân trần, nhưng tuổi thọ của đức vua sẽ không còn bao lâu nữa!

- Thế Thái tử con vua? Khúc Chi La đáp. Ðấy là bậc trí tuệ, Thái tử bỏ ba tập Phệ Ðà ở trong ruột và nắm nơi cánh tay trái mười tám môn học uy hệ. Còn tôi dầu mười lần hoa Mạn Ðà nở vẫn không thuộc được ba câu chú Mạn Ðà!

Ðức vua Trời cau mặt thở ra:

- Vậy thì hãy làm một ông triệu phú, đại đại triệu phú, ở trong tòa lâu đài bằng vàng ròng thành quách bằng pha lê, lối đi bằng các loại ngọc của vua Rồng, đồ dùng tiện nghi bằng bạc, hổ phách, xa cừ, mã não…

Khúc Chi La giẫy nẫy:

- Vậy là Ngài giết tôi. Tôi là con nhà nghèo hèn, bỗng dưng ở lâu đài vàng, thành quách pha lê, lối đi bằng các loại ngọc vua Rồng, tiện nghi xa cừ, hổ phách… Dẫu một vị vua nhân từ và sáng suốt nhất cũng bắt tôi bỏ tù vì tội quỷ ma! Xin Ngài hãy thương cho, tôi còn cha mẹ mù lòa cần phải phụng dưỡng!

Ðế Thích cũng hét ngược:

- Cái gì ngươi cũng la lên! Là không được đâu! Là Ngài hại tôi! Là Ngài giết tôi! Bây giờ không được chối từ nữa. Ngươi phải làm một tiểu triệu phú, ở lâu đài bảy tầng, tài sản một trăm kho, gia nô ba ngàn đứa, tỳ thiếp một ngàn cô con gái cực đẹp. Phải như vậy!

- Chết rồi! Thanh niên Khúc Chi La không nóng mà toát mồ hôi hột. Tài sản một trăm kho sẽ làm cho óc tôi rối loạn. Ba ngàn đứa gia nô lui tới sẽ làm cho tôi chóng mặt. Còn một ngàn mỹ nhân! Ối trời! Ngài muốn giết tôi không một lưỡi dao vấy máu, không một lưỡi kiếm xuyên tim đấy mà! Trời đất ôi! Cha mẹ ôi!

Thanh niên nói thế xong, đứng vò tai, bứt đầu.

- Vậy thì sao đây? Vậy thì sao đây? Thiên Vương Ðế Thích cũng đứng vò tai bứt đầu, đi tới đi lui. Một hồi, Ngài nói:

- Thôi, bây giờ một lời tối hậu, ngươi muốn gì ta cho nấy. Thôi, nói đi, ngươi muốn gì nào?

Khúc Chi La thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Vậy là thoát nạn, chàng tự nghĩ. Muốn gì? Ừ, ta muốn gì nhỉ? Thế là chàng tự nghĩ. Muốn gì? Ừ, ta muốn gì nhỉ? Thế là chàng suy nghĩ miên man. Nơi vừng trán phẳng lặng dường như toát ra một làn sương mờ. Một triệu kiếp tư duy như đọng lại, Chàng cất giọng chậm rãi:

- Xin Thiên Vương cho tôi thấy rõ con đường vĩnh viễn chấm dứt phiền não, hoặc là giúp tôi có ánh sáng trí tuệ chân thực để đi theo chân lý đạo mà không lầm lẫn?

- Chết tôi rồi! Ðức vua Trời thất thanh hoảng hốt. Chư Thiên 33 cõi Trời có nghe không? Ðấy, chấm dứt phiền não và con đường trí tuệ? Chư Thiên 33 cõi trời có nghe không? Ðầu óc ta đã vỡ chưa? Lâu đài của ta đã bốc cháy chưa? Các người còn ngồi yên trong lúc tam thiên thế giới đang rung động?

Thiên Vương Ðế Thích thở hổn hển. Mặt trời như mờ đi ở phía bên sau. Khu rừng không mùa thu mà lá vàng rơi lả tả. Ðế Thích cất giọng buồn buồn:

- Ngươi bảo ta giết ngươi không kiếm không đao. Còn ngươi thì giết ta bằng những lời những chữ hóc búa! Những lời những chữ ấy vạch trần cho ta thấy rõ sự bất lực, sự ngu si lẫn quyền năng giới hạn của ta mà từ lâu ta muốn che giấu. Từ lâu, tất cả sự an lạc của ta đều được ngụy trang. Từ lâu, tất cả sự vinh quang của ta đều được bao bọc bởi thứ ánh sáng phù du huyễn hoặc. Nay thì ngươi đã bóc trần tất cả các lớp vỏ. Ôi! Còn đâu hạnh phúc và bất tử của một Ðức Thiên Vương Chí Tôn?

Nói xong, vị vua Trời tư lự, vừng trán cau một lớp bụi xám. Dung sắc thù thắng của Ngài phút chốc như một đóa hoa tàn úa, một đóa hoa ố sắc và rữa hương.

Cơ hội đã đến, chàng nhạc sĩ trẻ tuổi đẹp trai, nghĩ thầm: hãy tấu một khúc nhạc, khúc nhạc thứ tám, khúc nhạc không phải ai cũng nghe được, khúc nhạc sẽ nâng y dậy, đặt y vào đường bay của ánh sáng, dẫu thế nào, ánh sáng ẩy vẫn cứ xuyên qua, vút thẳng đến mặt trời của chân lý!

- Này Ðức vua Trời khả kính! Chớ có buồn bã, chớ có tư lự. Ðừng làm một đóa hoa ô sắc tàn hương! Ðừng làm một cánh chim tuyệt vọng giữa biển sương mù đầy đặc. Hãy lắng nghe ta nói đây!

Ðức Thiên Vương phấn chấn trở lại:

- Ta đang hồi hộp lắng nghe ngươi nói đây.

- Con đường ấy, ánh sáng ấy chưa có một chúng hữu tình nào tìm được ngoài các bậc thượng trí. Con đường ấy, ánh sáng ấy luôn luôn vi vút xuyên thẳng qua không gian thời gian, không chờ đợi người, không vị tình ai. Hãy bước vào lộ trình. Hãy tự nâng bổng mình lên. Lộ trình ấy là gì? Sự nâng bổng ấy là gì? Hãy nghe đây!

Nói thế xong, thanh niên Khúc Chi La nâng cây đàn Vì Nà, khu rừng, Mi Măng vút phút chốc im bặt.

- Ðây là khúc đàn thứ tám, chàng nói, Khúc đàn uyển chuyển tiếp từ tục nên thanh, từ bờ này qua bờ kia. Thiên Vương đã có tai thì chắc chắn sẽ lĩnh ý!

Và rồi, chàng gảy. Và rồi, vua Trời đã nghe được những lời nhắn nhủ sau đây:

“Ta là ánh sáng vĩnh cửu, có mặt muôn đời nơi quả đất tối tăm. Ta làm cho thế gian xấu xa thành đẹp đẽ. Ta làm cho thanh âm dâm ô tục lụy thành cái cao vời. Ta làm cho xú khí muôn nơi thành hương thơm thanh khiết. Ta làm cho vật chất vô tri thành cơm bánh ngon lành. Ta làm cho ý tưởng tối tăm thành tri thức trong sáng. Hãy nghe, hãy bắt chước mà làm với trọn vẹn thiên ý. Ðổi cái ác ý thành cái thiên lương, thành tâm hồn pha lê rỗng suốt tinh anh, thì ngươi sẽ là ánh sáng, biến thành ánh sáng. Rồi ta và ngươi sẽ làm một cuộc du hành an lạc từ vô thỉ đến vô chung!”.

Gảy xong khúc đàn, chàng Nhạc sĩ ôm cây đàn VÌNÀ, từ giã vị vua Trời rồi đi về trú xứ của mình.

Minh Ðức

Tự do là ung dung trong ràng buộc.

Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau.





Thanked by 1 Member:

#12 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 20:46

11. Phật Tích Chùa Hương

Ðời xửa đời xưa, có một nước tên gọi là Hưng Lâm hiệu là Diệu Trang, Hoàng đế là Bà Già, tất cả mọi người đều gọi ông là Diệu Trang Vương.

Diệu Trang Vương có ba người con gái: Công chúa lớn là Diệu Thủ, công chúa thứ hai là Diệu Âm, Công chúa thứ ba là Diệu Thiện. Hai người chị thì điểm trang xanh đỏ lòe loẹt, ăn uống chơi bời, suốt ngày nói cười hỉ hả. Diệu Thiện thì ngược lại, chẳng giống hai chị chút nào, suốt ngày nàng chỉ biết mải mê đọc sách.

Diệu Trang Vương tuổi tác ngày một cao, lại thấy mình chẳng có con trai, trong tương lai ngôi vua biết truyền cho ai? Người đã cùng các quan đại thần thương nghị là phải tìm phò mã. Tức thì liền gọi ba công chúa bước lên cung điện.

Công chúa cả nói:

- Nữ nhi con sẽ tìm người văn tài, bụng đầy kinh luận, trong tương lai nhất định sẽ phò tá phụ vương trị vì thiên hạ.

- Còn nữ nhi con sẽ tìm người có tài võ nghệ, đánh nam dẹp bắc, an bang định quốc, làm cánh tay trợ thủ đắc lực giúp phụ vương.

Diệu Trang gật đầu lòng tràn đầy niềm sung sướng. Người cảm thấy hai con gái rất hiếu thuận, rất có lòng tốt. Người lại hỏi con gái thứ ba là Diệu Thiện:

- Thế còn tam Công chúa! Con sẽ chọn một người như thế nào để làm phò mã?

Diệu Thiện lắc đầu nói:

- Hài nhi nguyện thờ phụng phụ vương suốt đời chứ không đi lấy chồng.

Trên mặt Diệu Trang tức thời như có đám mây đen che khuất, người nói như sắt đóng đinh:

- Không được! Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng, đó là chuyện thiên kinh địa nghĩa, làm sao có thể đi ngược lại được? Con hãy nói đi, cuối cùng con sẽ ưng lấy một người như thế nào?

- Thưa phụ vương, con sẽ tìm một danh y có thể chữa bệnh cho đời, cho đất, cho người, làm cho khắp bàn dân thiên hạ đâu đâu cũng được sung sướng. Nếu phụ vương có thể tìm được một người như vậy, thì con sẽ lấy làm chồng.

Úi chà chà! Ðây chẳng phải là sư tử mở rộng miệng đó ư? Trên thế gian này tìm đâu được một vị thần y có vạn năng như thế được? Diệu Trang Vương càng nghĩ càng buồn. Nên biết trong ba nàng con gái thì Diệu Thiện là người thông minh nhất, hiền từ nhất, Diệu Trang Vương vẫn có lòng muốn truyền vương vị cho nàng. Bây giờ đã bị nàng cự tuyệt như vậy, hoàn toàn bị đảo lộn, Diệu Trang Vương lập tức đập bàn, lệnh cho tay chân đem Diệu Thiện nhốt chặt vào vườn hoa sau, để nàng được thưởng thức mùi vị của cái đói và cái rét.

Nào ngờ Diệu Thiện là người chí khí quật cường. Ðến vườn hoa sau, hàng ngày nàng vẫn đọc sách của mình. Nàng mặc quần áo vải thô, nàng ăn cơm nguội rau thừa, bữa được ăn bửa chẳng được ăn. Nàng chẳng tỏ ra chán nản, mà vẫn coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Vương hậu, công chúa cả, công chúa hai và các phi tử cung nga ở trong cung đều lần lượt đến khuyên nàng hồi tâm chuyển ý, nhưng nàng vẫn kiên trì chủ trương của mình.

Một buổi tối nàng dứt khoát trốn khỏi vườn hoa sau đến chùa Bạch Tước, huyện Long Thụ xuất gia làm ni cô.

Diệu Trang Vương được tin, bí mật cử người tới cho sư trụ trì Bạch Tước một đạo mật chỉ, ra lệnh phải làm cho Diệu Thiện nghe lời khuyên giải mà hồi tâm chuyển ý không đi tu nữa. Nếu không thành thì nhà chùa sẽ bị lính đến đốt cháy, rồi cho tất cả năm trăm Tăng Ni chùa Bạch Tước lên Tây Thiên.

Phương trương tới khuyên Diệu Thiện, cũng chẳng có ích gì, đành phải bắt nàng vào nhà bếp làm việc nặng nhọc như gánh nước, bổ củi để cho nàng biết được làm người xuất gia cũng chẳng dễ gì.

Ai ngờ Diệu Thiện vẫn không một lời oán giận, nàng xắn quần vén áo lên rồi đi làm việc. Mọi cư dân ở trong núi đều yêu mến nàng, bách thú đem đến cho nàng rất nhiều củi, ngàn chim cắp đến rất nhiều rau, làm cho tất cả các Tăng Ni trong chùa Bạch Tước đều kinh ngạc, đành phải tới bẩm báo cho Diệu Trang Vương biết.

Diệu Trang Vương càng giận dữ, lập tức phái một đội binh mã, tới bao vây chùa Bạch Tước, phóng một mồi lửa to, muốn thiêu chết hết cả Diệu Thiện và năm trăm Tăng Ni. Lại chính lúc đó trời đổ một trận mưa như trút nước xuống, nước chảy lênh láng khắp nơi, dập tắt ngọn lửa đang cháy rừng rực. Họ đành phải lấy dây thông trói chặt Diệu Thiện lại, áp giải về kinh thành. Trên đường về có một con hổ xông tới. Bọn chúng phải vứt Diệu Thiện lại, rồi mạnh ai người ấy chạy thoát thân.

Diệu Thiện đã từ trong cõi chết được cứu sống. Nàng phải đi ăn xin ở trên đường. Về sau nàng ở lại trên một ngọn núi hoang, dựng lều cỏ, làm bạn cùng chim thú, rồi lại tiếp tục đọc kinh tu hành. Ngọn núi này tên là Hương Sơn.

Lại nói tới Diêu Trang Vương, vì việc của con gái thứ ba là Diệu Thiện, suốt ngày bực tức giãn dữ, tất cả mọi việc đều không bằng lòng, lâu dần Người đã mắc một quái bệnh, khắp thân thể trên dưới mọc rất nhiều mụn nhọt. Người đi khắp nơi tìm thầy chạy thuốc mà chẳng có cách nào chửa khỏi. Về sau, mụn nhọt vỡ loét rồi da thịt sinh ra mùi hôi. Lúc này có một cụ già bước tới, bốc cho Diệu Trang Vương một thang thuốc, nói rằng cần phải tìm một người tâm bình khí hòa, không biết cáu giận, dùng tay và mắt của người ấy cho vào thang thuốc thì mới có thể chửa khỏi được bệnh này.

- Tìm người này ở đâu? Diệu Trang Vương hỏi.

- Bệ hạ hãy cử người tới Hưong Sơn tìm xem. Cụ già trả lời.

Sự việc đã đến nước này, cũng chẳng còn cách khác, đành nhắm mắt liều chữa ngựa chết thành ngựa sống vậy. Diệu Trang Vương đã cử một tên khâm sai đại thần tới Hương Sơn. Lên tới đỉnh núi, quả nhiên nhìn thấy một cô gái tâm bình khí hòa, thân mặc áo trắng, ngồi yên tịnh đọc sách ở đó. Khâm sai đại thần đem chuyện Diệu Trang Vương mắc bệnh, trước sau kể hết một lượt, đã thấy nước mắt chảy tràn trên mặt cô gái.

Cô gái đó chính là công chúa thứ ba Diệu Thiện! Chỉ tại vì xa cách đã lâu năm nên khâm sai đại thần đã không nhận ra nàng nữa.

Diệu Thiện nghĩ. Phụ Vương sinh bệnh, ta là con gái của người, theo lý là phải nên cứu ngay. Giả dụ có thể chửa được khỏe bệnh của phụ vương, ta có hiến đôi mắt đôi tay cũng là điều nên làm. Nghĩ tới đây nàng trẫm tĩnh nói với viên khâm sai:

- Những thứ ngài cần, xin ngài cứ lấy đi!

Tức thì khâm sai khoét đôi mắt của nàng, chặt đứt đôi bàn tay của nàng đem về làm thang dẫn thuốc, để cho Diệu Trang Vương uống. Quả nhiên bệnh của Trang Vương khỏi hẳn.

Việc Diệu Thiện xả thân cứu cha đã làm cảm động đến Thiên đế. Chính lúc đó ở trên thân nàng đã mọc ra vô số những cánh tay. Ở giữa lòng mỗi bàn tay đều có một con mắt. Ðó chính là lai lịch của Quan Âm ngàn tay ngàn mắt.

Lại nói đến Diệu Trang Vương sau khi khỏi bệnh liền trèo lên Hương Sơn để cảm tạ. Ðến nơi vừa nhìn người đã biết đó vốn là con gái thứ ba của mình. Người vô cùng cảm động, từ đó cũng bắt đầu tu hành. Không biết đã trải qua bao nhiêu năm, Diêu Trang Vương cũng đã tu hành đắc quả. Tây Phương Phật Tổ muốn chiêu gọi người, đã bày một tòa thứ ở trong đội ngủ Bồ Tát. Diệu Trang Vương tới Tây Thiên, tự nhiên trong tâm nảy ra một ý nghĩ: nhớ tới cửa lớn của kho vàng ở trong vương cung đã từ lâu không được tu sửa có lẽ ta cũng nên tu sửa mới phải! Ý nghĩ này tuy chỉ thoáng qua, nhưng Tây Thiên Phật Tổ đã hiểu rõ, liền nói:

- Ngươi đã tham tài như thế, hãy nên đi tìm một nơi an thân ở bên đường cạnh Lãnh Ðình núi Phổ Ðà, để xin bố thí của các hương khách.

Từ đó về sau, bên cạnh núi Phổ Ðà có một am Phật nhỏ, bên trong thờ một vị “Bồ Tát xin ăn”. Truyền thuyết nói rằng ấy là Diệu Trang Vương năm xưa.

Truyện Bồ Tát

Quan Thế Âm mẹ hiền muôn thuở

Là sao Mai rạng rỡ lúc bình minh

Cho con xin được đắm mình

Trong Phật Pháp cao minh huyền diệu.



Thanked by 1 Member:

#13 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 20:50

12. Hai Thằng Đệ Tử

Xưa, có một thầy đồ già không có con cái thân quyến, chỉ có hai chú đệ tử nhỏ mà ông thương yêu như ruột thịt.

Hai chú bé chưa được dạy dỗ nên người thì cụ đồ lâm bệnh nặng, phải nằm liệt giường. Hai chú đệ tử tuy xung khắc, chẳng ưa nhau nhưng đều kính yêu thầy, lúc nào cũng túc trực bên giường bệnh.

Bệnh cụ đồ ngày càng một nặng, đôi chân cứng đờ, nhức nhối khôn tả, cụ phải nhờ hai chú nhỏ đấm bóp suốt ngày đêm. Trò Tý săn sóc chân mặt, còn trò Tèo thì săn sóc chân trái của thầy.

Kề cận bên nhau cùng lo một việc nhưng hai chú bé lúc nào cũng hiềm khích, ghét bỏ nhau. Một hôm Tý được cụ đồ sai đi chợ, Tèo ở nhà hầu thầy. Thừa dịp Tý đi vắng, Tèo ở nhà dùng búa đập gãy chiếc chân mặt nghĩ bụng rằng: “Để cho thằng Tý về thấy cái chân mặt của nó săn sóc bị gãy sẽ tức bể bụng cho mà coi!”.

Tèo đoán không lầm, Tý về thấy cớ sự giận vô kể. Có lẽ sợ để cơn giận sục sôi làm bể bụng, Tý dùng búa nện gãy luôn chiếc chân cái của cụ đồ. Kết cuộc là cả hai Tý lẫn Tèo đều hả dạ, duy có cụ đồ là gãy hết hai chân.

Như Thủy

Chú thích: Đây là câu chuyện ví dụ trong kinh Bách Dụ.

Cụ Đồ: Đức Phật,

Tý, Tèo: các đệ tử của Phật.

Mỗi đứa săn sóc một chân: mỗi giáo phái tu theo một pháp môn của Phật.

Lấy búa đập chân cụ đồ: bài xích chê bai lẫn nhau.

Cụ đồ bị gãy cả hai chân: Kết cuộc chỉ đem lại tai hại cho Đức Phật, cho Đạo Phật

Từ Phương Đông lạy đến phương Tây

Nghìn dặm xa xôi vẫn miệt mài

Bắc phương quỳ lạy đến phương Nam

Đầu đường, xó chợ, bến đò ghe

Hội trường, nhà giảng nơi nào có

Bồ Tát thuyết thiền…quỳ lạy nghe.





Thanked by 1 Member:

#14 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 22:08

13. Không Ham Sắc, Được Quyền Cao

Hồi đời vua Vạn Lịch, triều nhà Minh thuộc về nước Tàu, tại trường Quốc Tử Giám, có hai người học trò mới lớp nhứt đều là trang mạo khôi ngô hình dung tuấn nhã, lại sanh đồng niên đều được mười bảy tuổi. Một người tên là Phan Tái An con của quan Thượng Thơ Lại Bộ, tánh tình quái xảo lẹ miệng lanh lợi; hễ thấy gái xinh thì như ruồi thấy mật.

Còn một người nữa tên là Lưu Đức Tú, con của một người đàn bà góa ở trong thành, tánh tình chất phát ít ăn ít nói, dầu gặp gái đẹp thì như nước dội tường không hề xao động. Hai người học trò này tuy bề trong, tánh ý vẫn không giống nhau mà bề ngoài, cách ăn vận và sự liên lạc nhau chẳng khác nào một cặp bài trùng vậy. Lưu Đức Tú hiềm nỗi ở nhà rộn rực, nên ra ngoài thành tìm nhà người mẹ vú nuôi chàng lúc còn nhỏ, mà xin ngụ tại một cái nhà mái lợp tranh ở phía sau, đặng nhờ sự thanh tịnh mà đọc sách. Còn việc ăn uống tắm giặt thì do người mẹ vú sắm sửa, chàng cứ đến tháng trả tiền mà thôi; vì vậy nên chàng không dùng tiểu đồng.

Từ khi Đức Tú ở riêng ngoài thành, thì Tái An có hơi hiu quạnh, thường tìm đến nhà mát ấy mà viếng thăm chàng như vậy trọn tháng sáu tháng trường. Mẹ vú của chàng Đức Tú, tên là Vương Mạ Mạ, có một người con gái nuôi tên Xuân Thơ tánh nết khôn lanh, hình dung đẹp đẽ mới mười sáu tuổi mà nổi tiếng tài hoa. Lúc đó chàng Đức Tú đến ngụ thì nàng hằng liếc xem diện mạo. Tuy lòng của chàng Đức Tú chỉ chăm trên mặt quyển sách, mà lòng của nàng Xuân Thơ thì chăm chỗ Đức Tú ở, dầu bà Vương Mạ Mạ không sai biểu mà nàng cũng cứ lệ lo làm. Bà thấy vậy tưởng con biết thay nhọc cho già, nên không để ý tới.

Một ngày kia, chàng Đức Tú về nhà thăm mẹ ruột, bèn thuật lại hết các việc mẹ vú nuôi dưỡng ân cần và nàng Xuân Thơ hầu hạ sốt sắng. Bà mẹ ruột của chàng bèn nói rằng:

- Người ta đã có lòng như thế, thì mình phải cho chi chút đỉnh, đặng tỏ tình mến. Vậy mẹ có một gói trà này rất ngon, con đem dâng cho mẹ vú uống chơi. Còn cái khăn này cũng tốt, vậy con đem thưởng cho Xuân Thơ.

Chàng Đức Tú vâng lời đem hai vật ấy dâng cho bà Vương Mạ Mạ, thì bà tỏ lời cảm tạ rồi lấy cái khăn trao lại cho người con gái nuôi của bà. Việc ấy là lễ thù tạc thành thật, mà nàng Xuân Thơ lại tưởng là tình cảm nên đến buổi chiều nàng qua phòng học của chàng Đức Tú mà tạ ơn.

Chàng Đức Tú đáp lại rằng:

- Ấy là của mẹ ta cho, chớ không phải của ta đâu mà tạ.

Nàng Xuân Thơ nói:

- Nếu quý nhơn không khoe việc phải của tôi, thì thái thái biết đâu mà thưởng; như vậy lại càng quý nhơn hơn nữa.

Đêm đó chàng Đức Tú thức mà học đến mười một giờ khuya. Còn nàng Xuân Thơ, cũng không ngủ, một lát đem trà mời uống, một chập đem bánh mời ăn, hoặc đến lau bàn ghế. Chàng Đức Tú thấy vậy cũng cho là thường chớ không hề nghi ngại cho nàng có tình ý chi cả. Học hành đến khuya chàng bèn đóng cửa và tắt đèn đi ngủ. Khi chàng mới vừa thiu thiu lại nghe có người ở ngoài gõ cửa, chàng liền lên tiếng hỏi ai khua, thì nghe nàng Xuân Thơ đáp lại rằng là:

- Tôi đem trà tới cho quý nhơn uống.

Chàng Đức Tú nói:

- Tới giờ ta đi ngủ, nên ta không uống trà nữa.

Nàng nói:

- Tôi có một ít lời muốn thưa với quý nhơn, xin chớ phụ lòng kẻ thành thật.

Chàng đáp lại:

- Đêm khuya tăm tối, mà nàng là gái không chồng, còn ta là trai chưa vợ, nếu chuyện vãn thì sợ thiên hạ nghi nan.

Nàng nói:

- Xin quý nhơn hãy mở cửa có ai đâu mà sợ nghi.

Chàng đáp lại:

- Tuy người phàm không trông thấy chớ Phật Trời thấy! Quỷ Thần thấy! Ta không dám đâu!

Chàng nói đến đó lại giả vờ ngủ mà nín luôn, nàng hỏi việc gì thì chàng không trả lời lại nữa. Sáng ngày, chàng Đức Tú dậy, không thấy nàng Xuân Thơ đem nước như mọi khi, nên chàng phải xuống nhà dưới kiếm nước rửa mặt và uống, rồi thưa với bà Vương Mạ Mạ rằng:

- Bữa nay trong mình tôi không an, nên tôi tính về nhà nghỉ ít tháng; như chiều có người nhà của tôi đến nhờ vú giao đồ đạc của tôi cho nó đem về.

Bà Vương Mạ Mạ nói:

- Đó là vì công tử gắng công học nên mới sanh yếu trong mình, vậy cũng nên về nghỉ mà dưỡng sức lại.

Đây nói qua Tái An, từ khi đến lui thăm viếng Đức Tú, thấy bộ nàng Xuân Thơ đẹp đẽ thì chàng đã mơ ước. Còn nàng Xuân Thơ lúc đó nặng tình với chàng Đức Tú nên thấy Tái An cũng như không thấy. Ngày nay Tái An đến viếng không gặp Đức Tú, bèn hỏi thăm bà Vương Mạ Mạ, thì mới biết Đức Tú đã về nghỉ không còn ở nơi nhà mát nữa. Chàng rất đỗi mừng liền nói với bà Vương Mạ Mạ rằng:

- Đức Tú đã về rồi, thì cái nhà mát bỏ không; vậy bà cho tôi ở đó đặng đọc sách, vì tôi ưa nhà ấy thanh tịnh và khoảng khoát. Xin bà cũng sửa soạn cho tôi ăn dùng như Đức Tú vậy, tiền bạc tôi xin trả gấp hai cho bà.

Bà Vương Mạ Mạ có tính tham, nghe nói trả tiền bằng hai, thì chịu liền. Tái An bèn thưa với cha mẹ, chỉ nói tìm chốn thanh tịnh đặng đọc sách chung với chàng Đức Tú mà thôi, rồi dọn quần áo sách vở và rương tráp đến ở. Đây nói đến nàng Xuân Thơ từ khi có chàng Đức Tú ở nhà mát ấy thì nàng không để ý đến chàng chàng Tái An. Bây giờ nàng xem Tái An kỹ lưỡng rồi tự nghĩ rằng Đức Tú bất quá là con của một người bà góa, mà tánh lại chần chờ phách lối, không biết ơn nghĩa là gì! Còn Tái An này là con của quan lớn đương triều, học giỏi có danh!

Nàng bèn gá nghĩa với Tài An. Lúc ấy nhằm tiết tháng tám khí thu đã mát nắng hạ vừa qua. Trăng chiếu hai trăng thỏ ác, hai đàng nghĩa nặng nên chàng Tái An đâu còn kể tới sự đọc sách chi nữa. Đến tháng mười gặp khoa Đại Thi, cha của chàng là quan Thượng thơ kêu chàng về đặng sửa soạn vào thi, vì ngài biết tài học của con chắc thế nào cũng chiếm đặng bảng vàng. Gần ngày thi, nữa đêm quan Thượng thơ nằm chiêm bao thấy một vị thần, cân đai tề chỉnh, đến mách bảo rằng:

- Con của ngài vì làm nhiều chuyện khuy tâm, tổn hao âm đức nên kỳ thi này không thế gì đậu được.

Quan Thượng thơ giựt mình thức dậy, ngồi nghĩ rằng. Con mình còn nhỏ, có làm chi đến nỗi thất đức, nên ngài chẳng đem lòng tin niềm mộng ấy. Đây nói đến kỳ thi, tuy chàng Tái An học hành giỏi hơn chàng Đức Tú bội phần, nhưng vì chàng bỏ sách đã lâu, lại tinh thần dã dượi nhớ trước quên sau, nên vào đủ bốn trường mà văn lý của chàng tầm thường không có chi xuất sắc. Còn chàng Đức Tú cũng vào thi, mà văn lý thật như phun châu nhả ngọc, gấm trải thêu giăng, ai xem cũng đều khen ngợi, nên đến kỳ yết bảng, thấy đề tên chàng đậu Cử nhân thứ nhì, còn tên Tái An không thấy ở nơi khoản nào cả.

Chừng ấy, quan Thượng thơ mới biết rằng điềm chiêm bao rất linh và kêu Tái An đến hỏi cho biết chàng có làm điều chi thất đức hay không, thì chàng cứ cãi chối hoài. Quan Thượng thơ nổi giận, liền bắt chàng nhốt trong một cái phòng kín, không cho ra ngoài thành. Đây nói đến chàng Đức Tú khi thi đậu Cử nhân, rồi trở về nhà lạy yết ông bà cha mẹ và yến đãi bà con bậu bạn trót chín mười ngày, thì có kẻ kêu đưa cháu, người mời gả con, nhưng chàng chỉ đợi nơi nào vừa ý mẹ mới vâng lời. Qua tháng hai năm sau, nhằm kỳ thi Hội, Đức Tú thưa với mẹ xin phép đến ngụ tại chùa Từ Quang ở trong thành mà lo việc sách đèn cho yên lặng, đặng chờ ngày giựt bảng dành cờ.

Khi chàng đến, thì thấy có một vị cử nhân, tên là Phùng Nhựt Thăng hai mươi tuổi, đại danh lừng lẫy, hình tướng tốt tươi, đã ngụ trước tại đó mà chờ kỳ thi Hội. Hòa thượng chùa này bèn dọn một cái phòng cho Đức Tú ở khít bên phòng Nhựt Thăng, nên hai người được gần gũi mà tương đắc nhau lắm. Ngày nọ, có một ông đạo sĩ đến chùa, tay cầm tấm chiêu bài có đề bốn chữ lớn rằng: “Chiếm nhơn danh phận”.

Nhựt Thăng xem thấy, bèn nói với Đức Tú rằng:

- Sẵn có thầy bói đến đây, hai đứa ta cũng nên coi một người một quẻ, cho biết kỳ thi Hội này ra sao và cậy người xem tướng nữa, đừng bỏ qua rất uổng.

Đức Tú đáp lại rằng:

- Không phải em sợ tốn tiền, duy em tự nghĩ ở đời ta sao mình vậy, mà kỳ thiệt công danh, phú quý, học vấn, chánh sự, triều đình, gia đường, cả thảy các việc trong thế gian, kể luôn đến cái thân người nữa, đều là vật giả dối hết, chỉ có cái tâm là thật thôi. Nên kinh Phật có câu rằng: “Nhứt thiết duy tâm đạo” (Nghĩa là việc gì cũng bởi tại nơi tâm sanh ra). Vậy làm người chỉ nên giữ gìn cái tâm cho được chánh là đủ rồi, cần gì phải bỏ cái thật mà hỏi thăm cái giả làm gì.

Đức Tú nói mấy lời ấy tuy là chánh lý, mà mới nghe qua như châm chích người bạn ở kế cận, nên chi Nhựt Thăng tuy ngoài miệng ngợi khen mà trong lòng hờn giận, rồi đi coi quẻ một mình. Ông đạo sĩ gieo quẻ vừa xong, bèn nói với Phùng Nhựt Thăng rằng:

- Quẻ này hào văn chương của cậu vượng lắm, không có ai sánh bằng; nhưng bị hào tài phát động, khắc hào thê. Tài là thê, thê là mình, mình bị thê khắc, lại hóa hồi đầu khắc, mà hai bên đều lâm chơn không. Cứ y trong quẻ mà đoán ngay, thì qua cuối mùa xuân cậu và hào thê đều phải phòng lo về tánh mạng. Còn cái tướng của cậu, tại cung Ly là nơi quan lộc, hiện đương hưng vượng, đáng lẽ khoa này cậu đậu đầu. Tướng ấy cũng hiệp với quẻ kia, văn chương vượng tướng đó! Còn tại cung Đoài là nơi thê thiếp, nó phát một cái gân sát khí mà đâm thẳng vào cung Khảm, là nơi tổ nghiệp và bổn thân của mình. Tướng ấy cũng hiệp với quẻ kia, nghĩa là tài động khắc thê.

Phùng Nhựt Thăng nghe ông đạo sĩ đoán rằng thê hào phát động, thì tưởng vợ ở nhà có điều chi, cứ năm bảy ngày sai tiểu đồng về thăm một lần, nhưng vẫn nghe nói bình an luôn luôn, nên chàng cho ông đạo sĩ nói quàng.

Thuở đó, quan thừa tướng trào Minh có một người con gái, tên là Lan Hương, mới mười bảy tuổi, sắc nước hương trời, cầm kỳ thi họa đều giỏi, mà trót năm Mậu Tý nàng cứ đau ốm hoài, hết bệnh này sang bệnh khác, thuốc thang không hiệu, bùa chú không linh. Qua tháng chạp, vợ chồng quan thừa tướng bàn rằng:

- Mình có một đứa con, cưng như trứng mỏng, nhưng nó đau ốm mãi, chạy thuốc đủ phương mà không bớt; vậy phải đem nó vào chùa Từ Quang ngụ đỡ ít tháng, đặng cầu kinh kệ tụng trì, họa may nhờ ân đức của Phật mà nó mạng đặng chăng?

Bà Đổng Nương là mẹ vú của nàng Lan Hương nghe hai vợ chồng quan Thừa tướng tính như thế, bà thưa rằng:

- Bẩm quan lớn! Chùa Từ Quang linh lắm; hễ ai có bệnh hoạn đến đó cầu khẩn thì chắc mạnh; nhưng có một điều gay gắt là người bệnh nếu có tà niệm, thì phải thác ngay. Vì đã thấy có nhiều người bị như vậy rồi, nên phải cho cẩn thận.

Quan Thừa tướng đáp lại rằng:

- Con ta tuy gái mà văn tài không kém trai và tự biết trọng về danh giá; huống lại con nhà đài các ai dám xâm khuy! Người chớ lo xa mà nhọc trí!

Quả nhiên nàng Lan Hương đến chùa Từ Quang ở cầu kinh mới được vài ngày, thì thấy bệnh đã bớt nhiều. Nàng thường khi ra vào thấy chàng Nhựt Thăng cũng ở đó thì trai tài gái sắc, xướng họa phú thi, ban đầu nét chữ câu văn, sau lại thả ong quyến bướm. Nàng Lan Hương hỏi thăm mới biết Nhựt Thăng đã có vợ nên nàng nói rằng:

- Khoa hội này cha của thiếp làm chánh chủ khảo, nếu chàng bằng lòng bỏ vợ mà kết duyên cùng thiếp thì, lo chi chức Trạng nguyên về tay người khác.

Nhựt Thăng thấy nhan sắc của Lan Hương xinh đẹp và nghe nàng nói như thế rất vui mừng, bèn thề rằng. Như chàng thi đậu, thì sẽ về đuổi vợ mà cưới nàng. Nàng Lan Hương thật là một người con gái rất lãng mạn. Bởi thế nên khi thấy chàng Lưu Đức Tú cũng đến ngụ tại chùa đặng chờ khoa thi, và biết chàng là Cử nhân tân khoa, lại thêm trai tơ chưa vợ, thì nàng lừa lúc thanh vắng đến thả đủ lời hoa tiếng nguyệt. Nhưng trăm lần như một, mỗi khi nàng buông lời trêu ghẹo, thì chàng Đức Tú chỉ đáp lại hai chữ “Mô Phật” mà thôi.

Đây nói đến khoa thi Hội nơi trường thứ năm đã tới, mà trong bốn trường thi trước đã lựa chọn mười hai người được vào thi trước mặt vua. Khi thi và khảo duyệt rồi, thì thấy Phùng Nhựt Thăng đậu Trạng nguyên và Lưu Đức Tú cùng bốn người khác đậu Tấn sĩ, bảng đính đã xong, chỉ đợi sang ngày mai yết. Đêm ấy lối canh ba, vua Vạn Lịch nằm chiêm bao thấy một vị Hòa Thượng y bát trang nghiêm, đến trước bệ rồng mà yết kiến. Vua phán hỏi:

- Hòa Thượng ở đâu mà đến đây viếng quả nhơn.

Hòa Thượng đáp:

- Bần tăng ở chùa Từ Quang, có việc cần kíp, nên đến hỏi thăm bệ hạ một điều. Vậy khoa thi Hội này, Bệ hạ muốn chọn nhân tài mà kinh ban tế thế chăng?

Vua đáp:

- Chính như thế đó.

Hoà Thượng nói:

- Nếu vậy sao Bệ hạ cho quỷ đậu Trạng nguyên, còn Phật thì không cho đậu chức ấy? Sách có chữ rằng. Phật năng cứu thế, quỷ đa nhiễu nhơn (Phật hằng cứu đời, quỷ thường quấy chúng), vậy Bệ hạ nên đổi lại cho Phật đậu Trạng nguyên, thì tốt hơn là để cho quỷ.

Vua hỏi:

- Cứ như lời ngài nói, thì Phùng Nhựt Thăng là quỷ hay sao?

Hòa Thượng tâu:

- Sách có chữ rằng, nhơn tử vi quỷ (người thác hóa ma). Nó đã thác rồi. Vậy không phải là ma hay sao?

Vua lại hỏi:

- Còn ngài bảo quả nhơn đổi lại để cho Phật đậu Trạng Nguyên, thì biết ai là Phật mà đổi?

Hòa Thượng lại tâu:

- Người ấy đức vang rất lớn, mỗi khi niệm câu: “Mô Phật” thì đều động đến thiên đình; người ấy ngày sau giúp nước phò vua, công nghiệp ngày thêm to tát. Xin bệ hạ xem lại những quyển thi của cái vị Tấn sĩ mà thấy quyển nào có ửng lộ chữ “Phật”, thì quyển của người ấy.

Hòa Thượng nói rồi, liền cưỡi mây lành bay mất. Vua Vạn Lịch giật mình tỉnh giấc, thì mồ hôi đã ướt dầm, bèn ngồi dậy suy nghĩ điềm mộng rất nên kinh tâm, rồi sang ngày truyền quan cận thị soạn những quyển thi của các vị Tấn sĩ đem đến long án, đặng kiểm duyệt lại. Nguyên khoa Hội này đậu đặng Trạng nguyên và bốn vị Tấn sĩ, cộng lại là năm người. Vua xem mấy quyển thi của bốn vị Tấn sĩ, thấy quyển của Lưu Đức Tú mỗi chương đều có ửng hai chữ “Mô Phật”, nét vàng rất lớn, và xem lại bài vở quả là hàng gấm trải, chữ chữ ngọc đeo, thì muốn đổi bỏ tên Phùng Nhựt Thăng mà lấy tên Lưu Đức Tú cho đậu Trạng nguyên liền khi đó.

Nhưng vua suy nghĩ thầm rằng. Trong điềm mộng thấy Hòa Thượng nói Phùng Nhựt Thăng đã thác rồi, nên đợi hỏi lại như quả thiệt, thì sẽ đổi tên cũng chẳng muộn chi. Vua tự nghĩ vậy, bèn xuống chiếu dạy đòi Phùng Nhựt Thăng và yết kiến. Quan Hoàng Môn lãnh chiếu ra đi rồi trở về tâu rằng:

- Muôn tâu bệ hạ! Phùng Nhựt Thăng mới thác tại chùa Từ Quang ở trong thành, lại có con gái của quan Thừa tướng cũng mới thác tại chùa đó nữa. Hai người phát bệnh một lượt, giây lát đều từ trần cả.

Vua nghe tâu rất kinh hãi, liền phê vào quyển thi của Lưu Đức Tú bốn chữ: “Trạng nguyên cập đệ” rồi truyền đem bản ra yết tại ngọ môn. Thuở ấy vua Vạn Lịch có một nàng công chúa, tên là Nguyệt Chiếu, đã được mười sáu tuổi, hình dung yểu điệu diện mạo đoan trang, cá lặn chim sa, hoa nhường nguyệt thẹn. Vua thấy quan Trạng tài cao tuổi trẻ, bèn đòi vào bệ rồng mà hứa gả công chúa và hỏi rằng:

- Quan Trạng có tu hay không?

- Muôn tâu bệ hạ! Tôi không có tu.

- Quan trạng không tu mà có niệm Phật hay không?

- Muôn tâu Bệ hạ! Tôi cũng không có niệm Phật.

- Muôn tâu Bệ hạ! Tôi có ở tạm ở nơi chùa Từ Quang.

Vua Vạn Lịch nghe Đức Tú trả lời rằng có ở tại chùa Từ Quang, thì gật đầu luôn đôi ba lần và hỏi tiếp rằng:

- Quan trạng nói rằng không tu mà ở chùa làm gì?

Lưu Đức Tú đáp:

- Muôn tâu Bệ hạ! Trước khi thi Hội, tôi có đến chùa ấy tìm nơi thanh tịnh mà đọc sách.

Vua bèn hỏi tiếp:

- Trong khi ở chùa, quan trạng có lúc nào niệm hai chữ “Mô Phật” hay không?

Khi nghe vua hỏi đến điều đó, thì Lưu Đức Tú mới nhớ lại lúc ở chùa Từ Quang, mỗi lần nàng Lan Hương trêu ghẹo nguyệt, thì Ngài đáp lại hai tiếng “Mô Phật”, nên ngài bèn đem việc ấy tỏ hết đầu đuôi tự sự, thì vua nghe rất khen ngợi. Ngày thứ, Lưu Đức Tú vào triều lạy dưới bệ rồng mà lãnh chức Phò mã, vua truyền cho quan Khâm Thiên Giám coi ngày tốt đặng cho Trạng nguyên và Công chúa. Vua lại đem việc chiêm bao thấy Phật và sự đổi Trạng thay tên mà thuật hết cho các quan trong lục viện, quốc thích, hoàng thân, bách liêu, văn võ, mọi người đều đem lễ vật chúc mừng. Vua phong chức Tham Tri trong viện Cơ Mật cho Phò mã, lại phong hàm tứ phẩm cho ông bà cha mẹ của ngài.

Gương Nhân Quả

Người say mê ái dục cũng như người cầm đuốc đi ngược gió, không làm sao tránh khỏi cái nạn cháy tay.



Thanked by 1 Member:

#15 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/07/2012 - 22:13

14. Người Yêu Muôn Thuở

Ba Tư Nặc là đức vua trị vì vương quốc Kosala một quốc gia hùng cường ở Ấn Độ, trong thời Phật còn tại thế. Đức vua có một vị Hoàng phi xinh đẹp tên là Mạt Lợi, mỹ nhân này là một Công chúa của dòng họ Thích Ca, được vua Ba Tư Nặc đặc biệt sủng ái. Một hôm nhà vua hỏi nàng Mạt Lợi:

- Trên đời này ái khanh yêu ai nhất?

- Muôn tâu…dĩ nhiên là thiếp quý Bệ hạ nhất.

- Trẫm cũng đoán là khanh sẽ trả lời như vậy.

Mạt Lợi mỉm cười:

- Muôn tâu, nếu Thánh thượng cho phép thần thiếp sẽ nói khác đi một tí, nhưng xác thật hơn.

- Ái khanh cứ nói!

- Muôn tâu, người mà thần thiếp yêu quý nhất chính là thần thiếp.

- Sao? Mình lại yêu mình? Trẫm không hiểu ái khanh muốn nói gì?

- Tâu Bệ hạ! Vì có ái trong tự ngã của mình nên thần thiếp mới yêu thương Bệ hạ…Vì Bệ hạ là người đem lại hạnh phúc cho cái tự ngã này.

- Trẫm đồng ý điều đó, nhưng vẫn chưa hiểu rõ ý của ái khanh.

- Muôn tâu, thần thiếp xin mạn phép nêu ra một câu hỏi: “Trên đời này Bệ hạ yêu quý ai nhất?

- Ái khanh chứ còn ai nữa!

- Nhưng giã sử như thần thiếp lại đi yêu thương một người đàn ông khác thì Bệ hạ sẽ tính sao… Muôn tâu, thần thiếp chỉ giả dụ vậy thôi!

- À… À… Trẫm sẽ, trẫm sẽ…

- Nghĩa là Bệ hạ sẽ nổi trận lôi đình và chém đầu thần thiếp ngay lập tức?

- Ái khanh rắc rối thật!

- Muôn tâu, có đúng thế không ạ?

- À…À…

- Đúng… phải không Bệ hạ!

- Ờ…Ờ…Có lẽ đúng như vậy.

- Thế thì…Bệ hạ đã hiểu rõ câu đáp của thần thiếp rồi chứ?

Nhà vua im lặng giây lâu rồi lặng lẽ gật đầu:

- Có lẽ, khanh nói đúng, mình chỉ yêu thương có mình mà thôi.

Hôm sau, đức vua xa giá đến Kỳ Viên thăm Phật và trình bày tự sự câu chuyện đối đáp giữa vua và Hoàng phi Mạt Lợi. Đức Phật đã xác nhận ý kiến của Hoàng phi Mạt Lợi kệ trong kinh Phật tự thuyết:

Tâm ta đi cùng khắp

Tất cả mọi phương trời

Cũng không tìm thấy được

Ai thân hơn tự ngã.

Và Đức Thế Tôn cũng nhắn nhủ luôn đức vua Ba Tư Nặc cùng số thính chúng đang hiện diện:

Tự ngã đối mọi người

Quá tham ái như vậy

Vậy ai yêu tự ngã

Chớ hại tự ngã người.

Như Thủy

Vô ngã tức Niết bàn





Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |