Jump to content

Advertisements




TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 5


60 replies to this topic

#46 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 23/08/2012 - 22:17

46. Khi Công Tử Chê Tiền

Kàla là con trai của nhà cự phú Cấp Cô Ðộc, một vị trưởng giả giàu lòng kính tin, đã từng xuất cả kho vàng ra để mua vườn cây của thái tử Kỳ Ðà để xây Tịnh xá cúng dường Phật. Vậy mà công tử Kàla lại không có cảm tình với Phật cùng Tăng chúng tí nào.

Vốn được sinh trưởng trong một gia đình thế phiệt, lại thông minh tài giỏi nên Kàla được vào làm quan cận thần dưới triều vua Ba Tư Nặc ngay khi còn rất trẻ.

Một hôm nhà Vua cùng Hoàng hậu Mạt Lợi thiết trai cúng dường Phật và Chúng Tăng tại Hoàng cung. Toàn thể triều thần cùng hoàng tộc đều hoan hỷ, duy có công tử Kàla là nhún vai bình phẩm lén với các vệ sĩ của chàng:

- Hoàng thượng tiêu xài thật vô lối, chẳng khác gì ông bố của ta. Mấy lão trọc áo vàng kia ăn no nê xong, đi về tịnh xá đánh một giấc tới chiều. Thật là vô tích sự.

Ðức Thế Tôn đoán biết được ý niệm của Kàla nên sau buổi lễ Ngài đọc một bài kệ:

- Người xan tham không thể sanh lên cõi trời. Kẻ ngu si không ưa việc bố thí. Nhưng người thiện trí thấy việc bố thí lại sanh lòng tùy hỷ và đó cũng được dự phần an lạc.

Chuyện đến tai vua Ba Tư Nặc, Kàla liền bị đuổi ra khỏi Hoàng cung chàng công tử này nhân chuyện đó, càng tăng thêm ác cảm với Phật và Tăng đoàn.

Kàla thường tìm cách lánh mặt Phật mỗi khi cha chàng thiết trai cúng dường. Trước thái độ của cậu con trai cưng. Trưởng giả Cấp Cô Ðộc rất lấy làm khổ tâm. Sau nhiều phen rầy la vô hiệu, ông nghĩ ra một diệu kế nên gọi con trai đến, dịu dàng bảo:

- Này Kàla! Mai này cha bận việc nên không thể đến Kỳ viên thọ bát quan trai giới được. Nếu con đi giúp, cha sẽ thưởng cho 100 đồng vàng.

Vừa nghe nhắc đến Tịnh xá, Kàla đã cau mày, nhưng số tiền quá hấp dẫn khiến chàng phân vân:

- Mấy cái giới đó có... khó giữ lắm không thưa cha?

- Dễ ợt! Tụi con nít trong nhà này còn làm được, huống chi là thanh niên trai tráng như con.

- Ðâu cha nói sơ qua con nghe thử!

- Có gì đâu. Con chỉ phải giữ vỏn vẹn tám điều răn sau đây, chỉ trong vòng có 24 giờ thôi. Ðây này:

1. Không giết

2. Không trộm cắp

3. Không dâm dục

4. Không nói dối

5. Không uống rượu

6. Không trang điểm

7. Không nằm giường cao chiếu rộng

8. Không ăn quá ngọ

- Ðó dễ quá phải không con?

Kàla chắt lưỡi thầm tính:

- Thôi kệ mình chịu ép xác trong một ngày một đêm để lãnh 100 đồng vàng... Ngày mốt ta ăn bù lại cũng được.

Và Kàla bằng lòng, không quên mặc cả:

- Nhưng cha phải giữ đúng lời hứa một trăm đồng vàng hẳn hoi nhé.

- Ðược rồi, con yên tâm.

Hai cha con đều vui mừng. Sáng hôm sau công tử Kàla cởi hết đồ trang sức, khoác một manh áo thô, ăn một bữa điểm tâm thịnh soạn đến căng bụng và gọi gia nhân thắng kiệu đến thẳng Tịnh xá Kỳ Viên. Ðến nơi chàng cho kiệu về, tảng lờ như không nhìn thấy ai hết, kiếm một chỗ mát mẻ trải rơm nằm đánh một giấc cho qua tai nạn.

Tờ mờ sáng hôm sau, Kàla đã về đến nhà khua cổng ầm ĩ và quát tháo, hối thúc gia nhân dọn điểm tâm. Ăn uống và phục sức đỏm dáng xong Kàla đến gặp cha đòi tiền công.

- Con đã hoàn tất nhiệm vụ mà cha giao phó, xin cha cho con số tiền đã hứa.

Tất cả hành động của cậu con không lọt khỏi cặp mắt của người cha tốt bụng, ông Trưởng giả vẫn không nản lòng, trao tiền cho con và điềm tĩnh bảo:

- Này Kàla tốt lắm! Con đã làm một việc rất đẹp lòng cha và ngày mai này cha muốn đi nghe Ðức Ðạo Sư thuyết pháp nhưng lại không rỗi rảnh. Nếu con đi nghe giúp cha, cha sẽ thưởng cho 200 đồng tiền vàng. Con nghĩ sao?

Kà la nghe nói đến tiền là sáng mắt, chàng vội vã nhận lời và nghĩ bụng:

- Cha mình ngó bộ mê mấy lão đầu trọc đó dữ dội rồi! Thây kệ, cờ tới tay ai nấy phất. Ðây quả là một cách kiếm tiền lương thiện và khỏe khoắn nhất.

Thế là hệt như bữa trước, công tử Kàla lại đến Kỳ Viên, len vào giữa đám thính giả chen chúc trước pháp tòa, dự thời pháp của đấng Ðạo Sư. Chàng hết ngoáy mũi đến gãi tai, rung đùi... Không một pháp âm nào lọt được vào đôi tai hờ hững của chàng. Và Kàla được lãnh 200 đồng vàng sau những thủ tục như bữa truớc.

Vài hôm sau Trưởng giả Cấp Cô Ðộc lại gọi Kàla đến bảo:

- Này con! Ðộ rầy chuyện nhà quá bề bộn khiến cha không thể đến hầu thăm Ðức Ðạo Sư và nghe Ngài thuyết pháp được. Nếu con có thể đi nghe và về nói cho cha biết, dù chỉ một bài kệ ngắn thôi, cha cũng sẽ thưởng cho con 500 đồng vàng.

Ðã có kinh nghiệm qua lần trước Kàla lập tức bằng lòng ngay, vì chàng nhận thấy rằng không có công việc làm ăn nào mau phát tài bằng việc đi thăm khu vườn của mấy ông sư đầu trọc.

Sáng hôm ấy, Kàla đến Kỳ Viên thật sớm định bụng sẽ chỉ nghe và nhớ một bài kệ thôi rồi sẽ trở về đi xem hát.

Với trí thông minh sẵn có, Kàla thuộc lòng ngay một bài kệ mà Ðức Ðạo Sư vừa đọc, chàng vội vã quay về. Ði được một quãng, Kàla sực nhớ là mình chưa hiểu rõ ý thú của bài kệ. Không muốn ấp úng trước mặt cha Kàla đành quay lại ngồi chăm chú nghe Ðức Ðạo Sư thuyết giảng. Như một trái cây vừa chín tới, gặp phải cơn gió giao mùa liền rụng, nhờ những cơ duyên lành đời trước, sau thời thuyết pháp của Ðức Ðạo Sư, Kàla chứng ngay sơ quả Tu Ðà Hoàn. Lần đầu tiên công tử Kàla đến quỳ gối trước Ðức Ðạo Sư, đặt vầng trán thông minh chưa có một vết nhăn của chàng lên đôi chân trần của Ðức Ðạo Sư, bầy tỏ lòng tri ân vô bờ bến.

Ðức Thế Tôn bình thản bảo chàng:

- Này Kàla, hôm nay cha con có mời Như Lai đến nhà thọ trai... đã sắp đến giờ rồi chúng ta đi thôi.

Kàla cung kính đón lấy chiếc bát của Phật và khép nép đi sau Ngài như một chú thị giả thuần thục chính hiệu.

Cử chỉ của Kàla hôm ấy đã khiến Trưởng giả Cấp Cô Ðộc đẹp lòng. Ông hoan hỷ mang tiền ra thưởng con trước mặt quan khách:

- Này con trai cưng! Thái độ của con làm cho cha vui mừng vô hạn, dù con chưa thuyết giảng lại cha nghe một lời pháp nào của Ðấng Ðạo Sư cha vẫn sẵn sàng trao cho con 1000 đồng vàng thay vì 500 như cha đã hứa.

Công tử Kàla thẹn đỏ mặt, cúi đầu nói nhỏ:

- Thưa cha! Con không cần tiền.

- Hãy cầm lấy! Tiền thưởng của cha cho con kia mà!

Kàla vẫn khăng khăng từ chối. Người cha ngạc nhiên, sững sờ nhìn con rồi quay sang bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lần đầu tiên, cháu nó mới chê tiền.

Ðức Phật mỉm cười:

- Kàla đã chứng Sơ quả Tu Ðà Hoàn. Và kể từ giờ phút ấy, không một của cải trên trần gian này có thể làm lung lạc tâm của chàng ta được.

Ngài đọc bài kệ:

- Dù là vua cõi đất. Hay là chúa cõi trời. Cũng không so sánh được quả vị Tu Ðà Hoàn.

“Muôn kiếp sinh linh giật mình tỉnh mộng

Lời Nam Mô sám hối ngút ngàn sao

Tiếng chuông ngân như sóng bể dạt dào

Với bất diệt vỗ lên bờ bến giác”.





Thanked by 2 Members:

#47 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 23/08/2012 - 22:21

47. Sợi Dây Bền Nhất

Một thuở nọ Phật ngụ tại Tịnh xá Kỳ Hoàn. Có ba mươi vị Tỳ kheo lên kinh thành để đảnh lễ Ðức Thế Tôn. Sau một đêm ngơi nghỉ, sáng tinh sương các thầy đã rủ nhau vào thành khất thực và xem cho biết đó đây. Ðối với các thầy thành phố đầy dẫy những cảnh tượng lạ lùng, nhưng các thầy vẫn không dám sơ thất oai nghi, nghiêm trang theo thứ lớp khất thực.

Khi về đến tịnh xá, các thầy vào bạch Phật, hỏi:

- Bạch Thế Tôn, sáng nay khi vào thành khất thực, ngang qua một khám đường, chúng con thấy có nhiều phạm nhân bị trói tay chân nằm co ro vô cùng khổ sở, họ xoay trở còn khó khăn nói gì đến việc tháo cùm chạy trốn. Chúng con tự hỏi không biết trên đời này còn có thứ xiềng xích nào bền chắc hơn loại dây lòi tói sắt đó không?

Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo! Những loại dây trói buộc mà các ông cho là chắc đó nào có thấm vào đâu so với sự trói buộc ái dục. Những gông xiềng làm bằng tài sản, mùa màng, vợ con còn bền chắc gấp trăm nghìn lần. Nhưng dù chúng có bền chắc, có khó chặt đứt đến đâu, người thiện chí đều bẻ gãy xa lìa dục nhiễm, tìm nơi thanh vắng để tự giải thoát lấy mình.

Nhân đó, Ðức Thế Tôn kể lại một tiền thân của Ngài:

- Vào một thuở xa xưa, cũng tại thành Benares, có một chàng trai nghèo khổ nhưng rất hiếu thảo. Ðến tuổi trưởng thành, bà mẹ cưới cho chàng một cô vợ trẻ. Chẳng bao lâu bà mẹ mất, chàng bảo vợ:

- Này em, em hãy tự tìm phương sinh sống, anh muốn xuất gia tìm đạo giải thoát.

- Em đang có mang, xin mình hãy ráng đợi lúc em sinh nở xong xuôi, thấy mặt con rồi mình đi tu cũng chưa muộn.

Người chồng nán đợi, ít lâu sau đứa bé chào đời, chàng bảo vợ:

- Nay em đã sinh nở cứng cáp, mẹ tròn con vuông, thôi để anh đi.

- Mình ơi! Em tay yếu chân mềm con lại còn thơ dại, xin mình hãy nán đợi đến lúc con dứt sữa rồi hãy đi.

Chàng bèn chờ đợi, ba năm sau cậu bé vừa dứt sữa thì vợ chàng có mang. Người chồng thầm nghĩ: “Nếu cứ theo lời của vợ ta thì có lẽ không bao giờ dứt áo ra đi được”.

Vào nửa khuya hôm đó, chàng vén màn nhìn vợ hôn con, rồi ra đi vào núi Tuyết sống đời ẩn sĩ. Sau khi ngộ đạo, nhà ẩn sĩ đọc lên một bài kệ, mà bất cứ người xuất gia nào cũng nên học nằm lòng:

“Ta đã gan dạ bẻ gãy cái gông cùm bền chắc nhất: gông cùm dục nhiễm, Ta đã chặt đứt sợi dây ràng buộc vững nhất: lòng luyến ái vợ con”.

Kể xong Ðức Thế Tôn bèn dạy:

- Dây làm bằng sắt, gai hay gỗ, vẫn chưa phải là bền chắc. Sợi dây bền nhất là dây trói buộc vào ái luyến vàng bạc vợ con.

Sự trói buộc ấy thật là bền bỉ: nó trì xuống mềm mại, nhưng rất khó gỡ ra, nhưng người thiện chí cắt lìa nó, từ bỏ thế gian và bỏ lại sau lưng mọi ràng buộc ái luyến.

Ngàn vạn sợi dây đồng không thể buộc chân người dũng sĩ, mà chỉ một sợi tóc của mỹ nhân cũng đủ buộc chặt ý chí phiêu lưu của kẻ anh hùng.



Thanked by 2 Members:

#48 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 23/08/2012 - 22:31

48. Chỉ Tụng Ðề Kinh Pháp Hoa mà mình và người thoát khổ

Quận Phùng Dực, ông Lý Sơn Long làm chức tả giám môn hiệu úy trong niên hiệu Võ Ðức bị chết, mà trên ngực khoảng bằng bàn tay không lạnh, người nhà chưa nỡ tẩn liệm. Ðến ngày thứ bảy sống lại thuật rằng:

- Ðương lúc chết bị người bắt dẫn đến một dinh quan rất hùng tráng rộng lớn. Trong sân có bọn tù vài nghìn người, hoặc mang gông, hoặc xiềng xích đều đứng xây mặt về hướng Bắc, chật cả sân.

Quân hầu dắt Sơn Long đến dưới dinh. Có một vị Thiên Quan ngồi giường cao kẻ hầu hạ nghi vệ như hàng vua chúa. Sơn Long hỏi quân hầu:

- Quan nào đó?
==

Quân hầu đáp:

- Vua đấy.

Sơn Long đến dưới thềm vua hỏi:

- Ngươi thuở bình sanh làm phước nghiệp gì?

Sơn Long thưa:

- Mỗi lần trong làng thiết lập trai đàn giảng kinh tôi thường thí của vật đồng như người.

Vua lại hỏi:

- Còn tự thân ngươi làm phước nghiệp gì?

Sơn Long thưa:

- Tôi tụng thuộc kinh Pháp Hoa hai quyển.

Vua nói:

- Rất hay! Ðược lên thềm.

Ông Long đã lên trên nhà thấy phía Ðông Bắc có một tòa cao giống như tòa diễn giảng. Vua chỉ tòa nói với Sơn Long rằng:

- Nên lên tòa này tụng kinh.

Sơn Long vâng lệnh đến bên tòa. Vua liền đứng dậy nói:

- Thỉnh ngài pháp sư lên tòa.

Sơn Long lên tòa xong. Vua liền xây về phía tòa mà ngồi. Sơn Long khai kinh tụng rằng:

- Diệu Pháp Liên Hoa kinh, tự phẩm đệ nhất.

Vua nói:

- Thỉnh pháp sư thôi.

Sơn Long liền thôi xuống tòa lại đứng dưới thềm đoái xem trong sân, bọn tù nhân vừa rồi không còn một người. Vua bảo Sơn Long rằng:

- Phước đức tụng kinh của ông chẳng những là tự lợi, nhẫn đến làm cho bọn tù trong sân nhơn nghe đề kinh Pháp Hoa mà đều đặng thoát khổ, há chẳng hay lắm sao! Nay tha ngươi trở về.

Sơn Long lạy từ. Ði đặng vài mươi bước, vua kêu trở lại rồi bảo quân hầu:

- Nên dắt người này đi xem các ngục.

Quân hầu liền dắt Sơn Long đi qua phía đông hơn trăm bước, thấy một thành bằng sắt rất rộng lớn, trên có mái trùm kín. Quanh thành có nhiều lỗ nhỏ, thấy các nam nữ từ dưới đất bay vào trong lỗ liền chẳng trở ra. Sơn Long lấy làm lạ hỏi quân hầu.

Ðáp:

- Ðây là đại địa ngục, trong đó nhiều lớp phân cách theo tội riêng khác. Các người đó theo nghiệp riêng dữ của mình đã tạo, vào ngục chịu khổ.

Sơn Long nghe xong buồn rầu sợ xưng:

- Nam Mô Phật.

Xin quân hầu dắt ra. Ðến cửa viện thấy một vạc lớn lửa mạnh nước sôi, bên vạc có hai người ngồi ngủ. Sơn Long hỏi dò. Hai người đáp:

- Tôi bị báo vào vạc nước sôi này. Nhờ hiền giả xưng Nam Mô Phật cho nên các người tội trong ngục đều đặng một ngày nghỉ mệt nên chúng tôi ngủ.

Sơn Long lại xưng:

- Nam Mô Phật.

Quân hầu đưa Sơn Long về nhà, thấy hàng thân thuộc đang khóc, sắm sửa những đồ tẩn liệm, Sơn Long vào đến bên thây thời liền sống lại...

“Nhiệm mầu thay kinh Pháp Hoa! Người tụng trì được công đức, ngoài Phật ra không ai có thể nghĩ lường được. Ðọa địa ngục, vì tội nghiệp nặng lên tòa vừa khai tụng đề kinh mà cả mấy ngàn tù nhân dưới sân đều thoát khổ. Thoát khổ là bởi tội nghiệp tiêu. Tội nghiệp nặng mà tức khắc tiêu tan, nếu không phải công đức rộng lớn quyết không thể đặng. Nghe đề kinh Pháp Hoa mà công đức còn lớn dường ấy, huống là người trì tụng đề kinh, huống là người trì tụng một phẩm, một quyển đến toàn bộ, nhẫn đến người giải nói, biên chép, ấn tống. Ông Sơn Long được thoát ngục, được vua trọng, được quân hầu kính, phải chăng là do oai lực của kinh Pháp Hoa. Ta đối với kinh Pháp Hoa, thật nên chí thành đảnh đới, thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống, nếu ta có chí tự thoát khổ và thoát khổ cho người”.

“Chánh pháp sâu xa rất nhiệm mầu

Trăm nghìn ức kiếp dễ tìm đâu

Phước duyên nay gặp xin trì tụng

Nguyện rõ Như Lai nghĩa lý sâu”.



Thanked by 2 Members:

#49 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 23/08/2012 - 22:37

49. Giữ ý như giữ thành

Khi Phật ở nước Xá Vệ, trong chúng Tỳ kheo tại tịnh xá Cấp Cô Ðộc có một vị Tôn giả tên là Soreyya, đã chứng quả A La Hán. Câu chuyện sau đây được truyền tụng về cuộc đời của vị Tôn giả trước khi đắc quả.

Trong lúc Tôn giả Soreyya còn ở tại gia ngài là con một vi phú hộ ở thị trấn Soreyya. Một hôm Soreyya cùng ngồi trên xe đi tắm với một người bạn thân của chàng có gia nhân đông đảo đi theo. Khi ra khỏi thành bỗng chàng thấy Tôn giả Ca Chiên Diên, đệ tử của Phật đang ôm bát đi vào khất thực. Tôn giả Ca Chiên Diên có một màu da sáng đẹp như vàng ròng, sắc diện uy nghiêm khả kính đến nỗi đoàn người đi tắm chú mục nhìn ngài không biết chán.

Thanh niên Soreyya, là người hiếu sắc, thấy Tôn giả bèn nghĩ thầm trong bụng: “Ồ, ước gì vị Tôn giả ấy là vợ ta! Ước gì màu da cũng đẹp đẽ như vị Tôn giả ấy. Ngay khi tư tưởng ấy vừa khởi thanh niên Soreyya biến thành phụ nữ. Chàng vô cùng bối rối, vội nhảy ra khỏi xe lẩn vào đám đông trốn biệt. Phụ nữ Soreyya không dám về nhà, đi mãi đi mãi, theo đoàn người tiến ra thành phố cho đến khi gặp một đoàn xe đi về phía đô thị Tắc Ca, Nàng bạo dạn đến gần một xe xin quá giang đến thành Tắc Ca, trông thấy thiếu nữ Soreyya xinh đẹp họ bằng lòng ngay. Họ bảo nhau:

- Con trai của chủ chúng ta chưa có vợ, chúng ta hãy đưa nàng này về, thế nào cũng được trọng thưởng.

Quả nhiên, khi xe về đến thành Tắc Ca, phú ông Tắc Ca rất vui mừng được cô dâu xinh đẹp, làm lễ cưới ngay cho con trai mình. Thế là thanh niên Soreyya trở thành vợ của thanh niên Tắc Ca, con trai của phú ông ở đô thị Tắc Ca. Ðám cưới không bao lâu, nàng mang thai, sau mười tháng sinh ra một thằng con trai bụ bẫm. Ðứa con này vừa mới biết đi tập tễnh, nàng lại cho ra đời một thằng con khác. Soreyya trước là nam nhi ở thành Soreyya đã có vợ hai con, bây giờ biến thành phụ nữ lại sinh ra hai đứa con là bốn. Soreyya làm cha hai đứa và làm mẹ hai đứa vậy.

Một hôm thành Tắc Ca có hội chợ, tình cờ Soreyya trông thấy một thanh niên trong đám đông, và nhận ngay ra là người bạn rất thân đã cùng ngồi xe đi tắm với mình ngày trước, khi chưa biến thành phụ nữ. Bà Soreyya bảo gia nhân ấy đến mời thanh niên ấy về nhà mình. Thanh niên ngạc nhiên, nhưng được người đẹp mời cũng khoái, thấy không có gì hại thì liền theo gót gia nhân về nhà bà Soreyya. Ngồi vào ghế thanh niên mới đánh bạo lên tiếng:

- Thưa bà, có lẽ bà lầm chăng? Tôi chưa hề trông thấy bà từ trước đến nay, vì đây là lần đầu tiên đến thành phố này.

- Thưa ông tôi không lầm đâu, có phải ông là người thành Soreyya.

- Thưa bà chính vậy. Thế ra bà biết.

Soreyya bèn hỏi chàng thanh niên về sức khỏe của ông bà phú hộ cha mẹ mình và hỏi thăm tin tức vợ và hai con đang ở Soreyya. Thanh niên hỏi:

- Thưa bà họ đều khỏe mạnh, tại sao bà biết họ?

- Thưa ông, tôi biết lắm chớ. Thế còn người con trai của họ, thanh niên Soreyya ở đâu?

- Ồ, thưa bà đừng nhắc chuyện thương tâm ấy nữa. Bao nhiêu năm nay việc ấy đã thành một vết thương lòng cho những người thân. Số là chúng tôi cùng ngồi xe đi tắm, nhưng khi ra khỏi thành, không biết chàng biến mất tự bao giờ, người thì đoán chàng xuống tắm bị nước cuốn trôi người thì cho có lẽ bị cá nuốt. Tìm khắp nơi không thấy nên gia đình đã làm chay cho chàng.

- Thưa ông, chàng không chết đi đâu cả, chính tôi là Soreyya ngày trước.

- Thưa bà, bà nói cái gì thế? Soreyya là bạn rất thân của tôi, tôi biết rõ y là đàn ông.

- Thưa ông vậy mà tôi là Soreyya.

- Sao lại có chuyện kỳ quái như thế?

- Ông có nhớ lúc ta đi xe ra khỏi thành đã gặp một vị Tôn giả ôm bát vào thành hay không?

- Vâng, tôi nhớ có gặp vị Tôn giả Ca Chiên Diên ngày hôm ấy.

- Ðấy khi tôi trông thấy Tôn giả, tôi nghĩ mong Tôn giả là vợ mình có được làn da mịn đẹp như Tôn giả. Ngay sau khi tôi vừa có ý nghĩ đó, tôi liền hóa thành phụ nữ. Ồ, thưa ông tôi bối rối quá, không thể nói cùng ai tôi nhảy đại ra khỏi xe chạy trốn, và đến thành phố này.

- Ồ bạn ơi, bạn đã làm một việc quá điên rồ. Sao bạn không bảo tôi. Thế bạn có sám hối cùng vị Tôn giả ấy không?

- Không bạn ạ, tôi chưa từng sám hối Ngài. Nhưng bạn có biết hiện giờ Ngài ở đâu không?

- Ngài ở quanh quẩn gần thành phố này.

- Ước chi Ngài đến đây, tôi sẽ cúng dường thực phẩm cho Ngài.

- Tốt lắm, vậy bạn hãy sửa soạn, ngày mai tôi sẽ thỉnh Ngài đến đây để bạn sám hối cùng Ngài.

Rồi người bạn của Soreyya vốn là một người Phật tử thuần thành đi đến chỗ Tôn giả Ca Chiên Diên ở, để thỉnh Ngài về nhà cư sĩ thọ trai.

Tôn giả hỏi:

- Này thanh niên con đâu có nhà ở đây? Không phải con là du khách ở thành phố này sao?

- Bạch Tôn giả việc ấy không quan hệ, xin Tôn giả nhận lời cho ngày mai được cúng dường Tôn giả tại nhà.

Tôn giả im lặng nhận lời. Ðến giờ thọ thực hôm sau, Ngài cùng thanh niên đến nhà Soreyya. Sau khi bà Soreyya bày biện các thức ăn thượng vị lên cúng dường, thanh niên bảo bà Soreyya quỳ xuống dưới chân Tôn giả và thay lời nàng tác bạch:

- Bạch Tôn giả, xin Tôn giả tha thứ cho bạn con.

Tôn giả chẳng hiểu ất giáp gì trước sự tình ấy bèn hỏi:

- Có chuyện gì thế?

- Bạch Tôn giả, người đàn bà này trước kia là đàn ông và là bạn rất thân của con. Một hôm y nhìn Tôn giả và có ý nghĩ quấy, nên bị biến thành đàn bà tức khắc, xin Tôn giả hãy tha thứ cho y.

- Ðược ta tha thứ cho ngươi. Hãy đứng lên.

Vừa khi Tôn giả thốt ra những lời ấy Soreyya đứng lên và trở lại thân hình nam nhi như trước. Con trai Tắc Ca, chồng của Soreyya, thấy vợ mình mới đó đã hóa thành đàn ông liền bảo:

- Này bạn ơi, vì bạn đã là mẹ của hai đứa con, tôi là cha của chúng thì quả thật chúng là con chung của chúng ta. Bạn hãy ở lại đây với tôi đừng có đi đâu, chúng ta hãy đem tình cầm sắc đổi ra cầm kỳ (vợ chồng đổi thành bè bạn).

Soreyya nói:

- Hỡi bạn, tôi đã hai lần hóa thân ngay trong một đời người. Ban đầu làm đàn ông, sau biến thành đàn bà và bây giờ hóa thành đàn ông trở lại. Ban đầu tôi làm cha hai đứa bé, sau lại làm mẹ hai đứa khác. Tôi còn sống ở đời làm gì nữa! Tôi muốn xuất gia. Bây giờ bạn hãy săn sóc hai đứa bé này.

Nói xong, Soreyya hôn hai đứa bé, từ giã chúng rồi xin theo Tôn giả Ca Chiên Diên. Tôn giả nhận chàng về trong Tăng đoàn. Sau khi truyền giới cụ túc cho Soreyya Ngài đưa Soreyya Tỳ kheo về tịnh xá Cấp Cô Ðộc nước Xá Vệ.

Câu chuyện đời tư về Soreyya truyền đi rất nhanh khắp thành Xá Vệ. Dân chúng tò mò đến tận nơi để biết rõ thật hư. Suốt ngày Tỳ kheo Soreyya phải bận rộn về những người này. Câu hỏi bất di dịch là:

- Bạch Ðại Ðức, có phải tin đồn Ngài hóa thân hai lần là đúng không?

- Ðúng.

- Bạch Ðại Ðức, Ngài đã từng làm cha hai đứa trẻ và làm mẹ hai đứa khác, Ngài thương cặp nào hơn.

- Tôi thương cặp con do tôi làm mẹ nhiều hơn.

Cuộc phỏng vấn cứ tái diễn như vậy không biết lúc nào ngưng làm cho Tỳ kheo Soreyya không rảnh phút nào để tham thiền nhập định. Do đó, Ðại Ðức quyết định rút vào rừng sâu, độc cư thiền định. Sau một thời gian ngắn, nhờ nỗ lực tu tập, Ðại Ðức chứng quả A La Hán và trở lại nếp sống bình thường trong Tăng đoàn ở tu viện.

Những người đến thăm lại được dịp phỏng vấn Tôn giả trở lại:

- Bạch Tôn giả, tin đồn rằng Ngài đã làm cha hai đứa trẻ và làm mẹ hai đứa khác, có đúng không?

- Ðúng.

- Ngài thương cặp con nào hơn?

- Không thương cặp nào cả.

Các Tỳ kheo nghe Tôn giả trả lời như vậy, liền đến bạch Phật.

- Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo Soreyya phạm tội nói dối. Trước kia vị ấy thường bảo: “Tôi thương hai đứa do tôi làm mẹ hơn là hai đứa do tôi làm cha”. Thế mà bây giờ khi người ta hỏi, vị ấy đáp là không thương đứa nào. Bạch Thế Tôn, như vậy là nói dối.

- Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo Soreyya không nói dối đâu. Trước kia ông ấy chưa chứng quả, bây giờ ông ấy đã chứng quả và biết rõ rằng: “Chẳng phải cha hay mẹ, mà chính là cái tâm khéo điều phục mới đem lại lợi ích cho chúng sanh”.

Câu nói ấy trở thành pháp cú thứ 46 được lưu truyền.

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

“Việc qua rồi chẳng nhớ

Việc chưa đến chẳng lo

Hiện tại đừng đem lòng vọng tưởng”.





Thanked by 2 Members:

#50 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:03

50. Ðịnh nghiệp khó tránh

Thuở Phật tại thế, có một vị Tỳ kheo số phận xui xẻo mặc dầu thầy tu hành rất tinh tấn, giới hạnh trang nghiêm mà không bao giờ được no đủ. Số “con rệp” ấy đeo đuổi thầy mãi cho tới khi mãn phần, sau khi đã đắc quả A La Hán. Ðến ngày lâm chung, nhờ thần lực của Tôn giả Xá Lợi Phất, vị Tôn sư của thầy, thầy mới ăn được một bữa no lòng trước khi lìa đời.

Thầy xui xẻo từ khi còn trong bụng mẹ. Chẳng những riêng thầy xui xẻo, mà thầy còn mang sự bất hạnh đến cho tập thể trong đó có hiện diện của mình. Thầy là con của một gia đình đánh cá ở một làng ven biển có 1000 hộ khẩu. Từ khi nhập thai mẹ, cả làng đi biển không đánh được một con cá nào suốt cả tháng, mọi người phải ăn rong biển cho đỡ đói lòng. Họ bắt đầu nghi ngờ có một gia đình hắc ám trong làng đã đem đến tai họa cho tất cả. Do đó họ cố tìm cho kỳ được cái gia đình xui xẻo ấy để loại ra khỏi tập thể.

Phương pháp họ làm là họ chia hai số hộ khẩu trong làng thành hai nhóm, mỗi nhóm 500 gia đình để làm ăn riêng, sinh hoạt riêng. Kết quả là một nhóm bắt đầu khá giả trở lại, một tiếp tục xui xẻo. Nhóm này lại chia hai để biết cái gia đình xui xẻo ấy nằm ở đâu. Khi chia thành hai nhóm nhỏ thì cũng như trước, 250 gia đình bắt đầu khá giả, còn 250 gia đình vẫn còn xui. Lại chia hai lần lượt như vậy để biết gia đình xui xẻo nằm ở đâu, thì cuối cùng họ khám phá ra gia đình của vị Tỳ kheo nọ.

Cả gia đình thầy bị loại ra khỏi làng, đi lang thang như những người du mục. Bà mẹ khám phá ra từ ngày mang thai thầy, tai họa mới đến cho cả một làng và cho gia đình, nên muốn thầy chết đi. Tuy nhiên, một người chỉ còn một đời cuối cùng này là giải thoát (chứng quả A La Hán, không còn trở lại cõi đời) thì không ai có thể giết chết được trừ khi chính nghiệp lực của người ấy. Do vậy, cuối cùng mẹ thầy cũng sinh ra thầy và nuôi cho đến biết đi ăn xin. Trong thời gian bà nuôi đứa con mang sự xui xẻo ấy, bà rất vất vả và khốn đốn trong việc kiếm ăn. Cho đến một ngày không chịu đựng được nữa, sau khi đẩy thầy vào xin ăn tại một nhà nọ, bà mẹ tẩu thoát.

Ðứa trẻ, vị A La Hán tương lai nọ ngơ ngác khi bước ra không trông thấy mẹ, cũng không có cái gì ăn, bèn đi lang thang đầu đường xó chợ lượm những mẩu bánh người ta vứt bên đường để ăn cho đỡ đói. Trong “cuộc lử” đó đứa trẻ tình cờ gặp Tôn giả Xá Lợi Phất. Ðộng lòng thương, Ngài hỏi:

- Con cái nhà ai? Sao gầy sọp thế?

- Bạch Tôn giả, con là một đứa con mang lại sự xui xẻo cho mọi người, nên không ai chịu nuôi con, con phải ốm đói.

- Con có muốn xuất gia trở thành một tu sĩ không?

- Bạch Tôn giả con muốn lắm chứ, nhưng ai chịu chứa chấp con?

- Lại đây, ta sẽ độ cho con.

Ðứa trẻ vui mừng đi theo Tôn giả. Tôn giả Xá Lợi Phất dắt về vườn Cấp Cô Ðộc, tắm rửa sạch sẽ, cho ăn cơm và thế phát quy y cho cậu bé làm Sa môn đuổi quạ. Lớn lên đến tuổi thành niên, Tôn giả cho thầy thọ giới cụ túc thành một vị Tỳ kheo.

Số phần xui xẻo vẫn theo mãi vị Tỳ kheo suốt cả đời. Mỗi khi đi khất thực, người ta vừa để vào bát thầy một muỗng cơm thì thấy bát đã đầy tràn, làm cho không ai có thể bỏ gì thêm vào nữa. Khi thầy về đến chùa, thì trong bát chỉ có độc một muỗng cơm để cầm hơi cho thầy khỏi chết đói. Cứ như vậy cho đến ngày mạng chung đã chứng quả A La Hán, thầy cũng chưa bao giờ được một bữa no lòng.

Biết thầy sắp mãn phần ở dương gian, Tôn giả Xá Lợi Phất động lòng thương xót nghĩ: “Losaka” (tên của thầy Tỳ kheo xui xẻo) hôm nay sẽ mạng chung. Ta sẽ làm đủ mọi cách giúp cho vị ấy ăn một bữa cho no trước khi chết.

Với ý định ấy, Tôn giả dẫn vị Tỳ kheo đi vào làng khất thực. Nhưng vì có Losaka, Tôn giả không xin được món gì, Ngài đành phải bảo vị ấy trở về, và đi một mình để xin ăn. Sau khi khất thực đầy bát, Tôn giả đem về cho vị Tỳ kheo Ngài đứng ôm bát trước mặt đệ tử bảo:

- Con hãy ăn đi.

Vị Tỳ kheo ngần ngại không dám ăn trước mặt Tôn sư, và nhất là để Ngài cầm bát, mặc dù thầy rất đói. Tôn giả giục:

- Con đừng ngại, ta phải đứng cầm bát để chờ con dùng bữa cho xong mới được. Vì nếu không có ta ôm bát, tất cả thức ăn này biến mất, và con sẽ tiếp tục đói.

Vị Tỳ kheo vâng lời thọ thực. Nhờ thần lực của Tôn giả Xá Lợi Phất vị ấy ăn được một bữa no lòng trước khi xả báo thân chót của một vị A La Hán.

Sau khi thầy Tỳ kheo xui xẻo quá vãng, các Tỳ kheo khác nhóm họp tại diệu pháp đường trong vườn Cấp Cô Ðộc hỏi Ðức Thế Tôn nguyên nhân vì sao một đời giới hạnh thanh tịnh, tu hành tinh tấn, vị Tỳ kheo bạc phước kia vẫn phải gánh chịu sự rủi ro suốt đời như vậy. Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, những hành động của chính vị ấy trong tiền kiếp là nguyên nhân sự xui xẻo hiện tại của y. Trong tiền kiếp y cũng là một vị Tỳ kheo, do lòng ganh tỵ, y đã cản trở cư sĩ cúng dường một vị Tỳ kheo khác trong khi vị này đã chứng quả A La Hán. Vì ác nghiệp ấy cho nên dù có tu hành thanh tịnh, y cũng phải thọ quả báo thiếu thốn, xui xẻo trong nhiều đời kiếp cho đến khi chứng quả.

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

“Luật nhân quả không kiếp sau hay kiếp trước, giữa kiếp này vay lại trả rồi vay. Vay oán nhiều nên nợ đời thêm nặng, biết nhắn gởi cùng ai mau tỉnh giấc mê say”.





Thanked by 2 Members:

#51 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:09

51. Sự tích cây nêu ngày tết

Ngày ấy không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ đất của Quỷ. Quỷ đối với Người ngày càng quá tay. Chúng nó dần dần tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng chúng nó bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt do chúng nó nghĩ ra là “Ăn ngọn cho gốc” Người không chịu, chúng nó lấy áp lực, bắt Người phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ ra những rạ là rạ. Cảnh tượng da bọc xương thê thảm diễn ra khắp mọi nơi. Bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý. Người cơ hồ muốn chết tuyệt.

Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp Người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng lời Phật dặn. Quỷ không ngờ Người đã bắt đầu có mưu kế mới chống lại mình nên cứ nêu đúng trong thể lệ như trước “Ăn ngọn cho gốc”. Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực nhìn thấy gánh khoai núc nỉu chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhai nổi, thể lệ đã qui định, chúng nó đành cứng họng không thể chối cãi vào đâu được.

Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là “Ăn gốc cho ngọn”. Phật bảo Người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo Người về nhà, còn rạ phó mặc cho bọn Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng nó tuyên bố :

- Ăn cả gốc lẫn ngọn. Lần này Quỷ nghĩ : “Cho chúng mày muốn trồng gì thì trồng, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao”.

Nhưng Phật đã bàn với Người thay đổi giống mới, Phật trao cho Người hạt giống cây ngô để gieo khắp nơi mọi chỗ. Năm ấy lại một lần nữa Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Về phần Quỷ lại bị một vố cay chua tức uất hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng nó nghĩ: “Thà không được cái gì cả còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình”.

Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo cà sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre trên có mắc chiếc áo cà sa, hễ bóng che bao nhiêu diện tích ở mặt đất là đất sở hữu của Người ở đó. Ban đầu Quỷ không thuận, nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu thì ít mà giá rất hời bèn nhận lời:

- Ồ! Bằng một chiếc áo cà sa có là bao nhiêu. Chúng nó nghĩ thế, hai bên làm tờ giao ước: ngoài bóng che đất là của Quỷ, trong bóng che là của Người.

Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn tung áo cà sa bay tỏa ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên trời đất trở nên âm u, bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế, mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa phải chạy ra biển Ðông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Ðông.

Tiếc vì đất đai hoa màu đều thuộc về tay Người, Quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó, ngao, bạch xà, hắc hổ... rất hung dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người làm cho quân của Quỷ không tiến lên được.

Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi dò xem Phật sợ gì, Phật cho chúng biết là sợ hoa quả, oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Ðối với Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ : máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột. Lần giáp chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật, Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vấy khắp mọi nơi. Quân của Quỷ thấy máu chó sợ hoảng hồn bỏ chạy.

Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn giã tỏi phun vào quân địch. Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.

Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha hồ ăn và theo lời Phật dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại lấy lá dứa quất vào chúng. Quỷ chạy không kịp, lại bị Phật bắt đầy ra biển Ðông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu xuống đất cố xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước, Phật thấy chúng khóc vang cả lên mới thương hại, hứa cho.

Vì thế, hàng năm cứ đến ngày Tết nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục cũ, trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở. Trên nêu có bánh đất mỗi khi gió rung thì tiếng động phát ra để luôn luôn nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hài để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Ðông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ. Có câu tục ngữ :

Cành đa lá dứa treo cao

Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà

Qủy vào thì Quỷ lại ra

Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm.

Ngày xưa người ta còn tin rằng những lúc cần đuổi Quỷ như khi có dịch tễ chẳng hạn, thì treo một nắm lá dứa ở trước ngõ hay vẩy máu chó khắp mọi nơi cho Quỷ khỏi quấy. Ðàn bà thường buộc tỏi vào dải yếm là cũng có một mục đích gần như vậy.

NGUYỄN ÐỔNG CHI

“Việt Nam là suối

Phật giáo là ngưồn

Nguồn làm suối đẹp, nước tuôn hoài hoài.

Từ nguồn ra đến biển khơi

Việt Nam, Phật giáo đời đời bên nhau !”

Thanked by 2 Members:

#52 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:15

52. Một cách cho

Tại thành Xá Vệ, nơi có Tịnh xá Kỳ Hoàn nổi tiếng với Ðức Thế Tôn và chúng Tỳ Kheo Tăng thường trú ngụ.

Ngày ngày ánh thái dương chiếu trên những tấm cà sa vàng rực của các vị Tỳ kheo Tăng đi khất thực khắp các nẻo đường, tạo nên cảnh tượng hiền hòa tươi mát đến mọi thôn xóm, mọi gia đình, như đám mưa lành rưới khắp cỏ cây.

Tuy vậy, rải rác cũng có những gia đình thiếu thiện duyên, phước báo, nên hạt mưa pháp chưa thấm đến được, chẳng hạn, gia đình một phú hộ ở cuối thành. Ông chủ nhà này thừa hưởng một gia tài giàu có của tổ tiên để lại, đồng thời cũng thừa hưởng luôn cả cái tánh keo kiệt, hung dữ di truyền. Ông và vợ con ông đã quen nếp sống đó, nên tưởng là đương nhiên chẳng có gì trái đạo. Vì vậy, không ai dám khuyên hóa hay bày vẽ điều hay lẽ phải gì được nếu có thì ông cũng gạt phăng đi hết.

Trong nhà ít khi đầm ấm, chồng không cãi với vợ, thì cha cũng gây gỗ, mắng nhiếc con. Những câu nói thô tục, trái tai thường xuyên thốt ra, vì vậy mà bà con xóm giềng đã tránh xa không ai thèm đặt bước tới nhà, ngoại trừ mấy người bạn bè cùng tính nết và mấy thầy Tỳ kheo đi khất thực.

Theo phép bình đẳng thứ lớp khất thực, thầy Tỳ kheo không lựa chọn nhà sang hèn giàu nghèo. Trên bước đường đi cứ hết nhà này đến nhà khác. Tới trước nhà nào cũng đứng lại năm ba phút im lặng chúc phúc cho nhà đó, rồi lui gót đi sang nhà khác, dù nhận được gì hay không cũng vậy. Khi đến trước nhà ông phú hộ, thầy Tỳ kheo cũng dừng lại ít phút, nhưng thay vì nhận được phẩm vật cúng dường như các nhà kia, thì ở đây các Thầy chỉ nhận toàn những lời nguyền rủa, xua đuổi.

Ngày nào cũng như ngày nào, hễ thấy bóng mấy thầy Tỳ kheo dừng bước trước nhà, thì vợ chồng ra mắng nhiếc xua đuổi.

Thấy vậy, có thầy Tỳ kheo đề nghị chớ đến khất thực nơi nhà ấy nữa. Nhưng thầy khác lại khuyên nên thực hành lời Phật dạy, thầy dẫn ra một đoạn kinh cho các Tỳ kheo nghe về hạnh khất thực:

- Nầy các Tỳ kheo, đây là nghề sinh sống hèn hạ nhất, tức là nghề khất thực. Như lời nguyền rủa trong đời, khi người đời nói: “Các ngươi, kẻ khất thực với bình bát trên tay, các ngươi đi chỗ này đến chỗ kia”. Nhưng đây là nghề sinh sống mà các thiện gia nam tử chấp nhận, những vị sống vì lý tưởng mục đích, duyên với lý tưởng mục đích, không phải vì ma cưỡng ép, không phải vì thiếu nợ, không phải vì sợ hãi, cũng không phải vì không có nguồn sinh sống như với ý nghĩ: Ta bị chìm đắm trong sanh già chết sầu bi khổ ưu não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị đoanh vây bởi đau khổ, nên ta tìm con đường tu hành giải thoát và hóa độ chúng sanh.

Thế là các Tỳ kheo vẫn tiếp tục đi khất thực không bỏ qua nhà đó.

Một hôm, thầy Tỳ kheo vừa đến cửa, thì bà phú hộ cũng vừa đi ra, bà vụt miệng nói một câu nhẹ nhàng hơn bao nhiêu lần trước:

- Thưa ông, ông hãy đi nơi khác để xin, ở đây tôi không sẵn lòng cho ông đâu, xin đừng đứng lâu mất thì giờ của ông đó.

Nhưng thầy Tỳ kheo vẫn thản nhiên đứng đủ vài phút rồi tiếp tục đi. Giữa đường chợt gặp ông phú hộ đi ngược chiều trở về nhà. Thấy thầy Tỳ kheo quá quen thuộc ngày nào cũng vào xin nơi nhà mình, ông chận lại hỏi:

- Này, ông mới vào xin nhà tôi ra phải không?

Thầy Tỳ kheo trả lời:

- Phải!

- Có cho chi không?

- Có cho.

Vừa nghe hai tiếng “có cho” ông nổi cơn lôi đình chạy tốc về nhà hỏi vợ:

- Bà kia, ai bảo bà mang đồ cho Sa môn?

Bà vợ nghe chồng hạch sách đột ngột lấy làm dửng dưng:

- Ai nói ông đấy?

- Ông Sa môn hồi nãy chứ ai!

- Ồ, tôi nào có cho ông ấy thứ chi đâu!

- Không cho sao ông ấy nói có cho?

- Nếu không tin ông chạy theo mà tra soát.

Ông phú hộ lại đuổi theo vị Tỳ kheo đang đi trong dáng khoan thai đếm từng bước, đến nơi ông chẳng nói chẳng rằng liền giựt lấy bình bát thầy Tỳ kheo ra xem, nhưng chẳng thấy chi cả, ông liền ném bình bát xuống đất và mắng:

- Tu hành mà nói dối! Ai cho gì đâu mà nói có cho?

Thầy Tỳ kheo ôn tồn đáp:

- Ông hãy bình tĩnh, tôi sẽ nói ông nghe, bao nhiêu lần đến khất thực nhà ông chúng tôi đều được nhận toàn những lời nguyền rủa thô tục, nhưng sáng nay tôi vừa đến trước ngõ thì bà chủ nhà đã cho tôi một câu nói nhẹ nhàng rằng: “Thưa ông, ông hãy đi nơi khác để xin, ở đây tôi không sẵn lòng cho ông đâu, xin đừng đứng lâu mất thì giờ của ông đó”. Và tôi đã nhận lời nói đó như một phẩm vật đặc biệt. Nghe vị Tỳ kheo nhã nhặn trình bày, ông phú hộ thẹ thẹ cúi xuống lượm bình bát đặt lại trên tay Tỳ kheo rồi lẳng lặng trở về, trong lòng suy nghĩ miên man. Ðến nhà ông gọi vợ:

- Này bà, từ trước tới nay, nhà ta có cho những gì các vị Sa môn không?

- Ông chẳng nhớ sao, các ông đến là mình mắng nhiếc, xua đuổi đi chứ có cho vật gì.

- Thôi, kể từ đây tôi đề nghị với bà rằng, mình đã không cho đồ đạc của cải thì thôi, cũng đừng dùng lời lẽ chua cay mà mắng nhiếc các vị Sa môn ấy nữa. Họ có tội tình gì mà phải nghe lấy những điều sỉ nhục mạt sát của mình. Họ cũng đâu bắt buộc mình cho cơm áo họ đâu, họ chỉ làm công việc của một kẻ tu hành, của một người khất sĩ xin ăn, làm ruộng phước cho bao nhiêu người gieo trồng căn lành, giống tốt, ai có gieo giống thì họ được gặt quả, còn mình, mình không làm thì thôi cớ sao lại mạ nhục họ. Bà thấy không mình phi lý đấy chứ.

Nghe chồng nói một thôi dài, bà vợ im lặng suy nghĩ. Kể từ khi gặp vị Tỳ kheo hôm nọ, đời sống gia đình ông phú hộ, người ta không còn nghe những lời to tiếng, những trận cãi vợ con, đánh đập tôi tớ, một đời sống thuận hòa trên dưới nhường nhau đã tạo ra một không khí đầm ấm hạnh phúc. Và cũng kể từ đây, gia đình ông biết ăn ở đối xử với mọi người chung quanh. Nhờ vậy, bà con láng giềng thường hay lui tới bắt mặt làm quen, mối tình lân cận càng thêm thắm thiết.

GIỚI ÐỨC
“Lời nói không mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.





Thanked by 2 Members:

#53 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:18

53. Công Ðức thọ Bát quan trai

Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn và đại chúng Tỳ kheo ngự tại Kỳ Viên Tịnh xá của Ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc, vườn cây thái tử Kỳ Ðà, tại thành Xá Vệ.

Thuở ấy có một thiếu nữ tên Sa Ta, là con gái của một vị thiện tín rất nổi danh tại Xá Vệ. Nàng Sa Ta, tuy tuổi vừa đôi tám, nhưng tư chất rất thông minh, thường đến chùa nghe pháp, nên rất thấm nhuần Phật Pháp.

Năm ấy Sa Ta đến tuổi trưởng thành, song thân chọn nơi môn đăng hộ đối, gia phong lễ giáo của một gia đình danh giá để gả nàng. Một tiệc cưới linh đình dọn ra, hai họ đều lả Phật tử thuần thành nên tất cả đều cung thỉnh Ðức Phật và chư Tăng đến cúng dường trai tăng trong sự hoan hỷ tột cùng của mọi người.

Sau tiệc cưới, Sa Ta về chung sống bên gia đình cha mẹ chồng. Vốn là người khéo léo, siêng năng và tế nhị nên chẳng bao lâu nàng chiếm cảm tình của mọi người trong gia đình bên chồng, nàng tận tâm phụng dưỡng cha mẹ chồng, hầu hạ chồng, săn sóc mọi người chung quanh. Sa Ta rất giàu lòng từ bi, thường bố thí thức ăn quần áo cho kẻ ăn người ở và những kẻ khốn cùng.

Ðến ngày Bát quan trai, nàng tinh tấn thọ giới, giữ gìn giới hạnh hết sức trong sạch, không hề giải đải.

Cha mẹ chồng của nàng đều là những người có đức tin Tam Bảo, trước những đức hạnh tuyệt vời của Sa Ta nên cha mẹ chồng càng yêu thương quý mến nàng dâu nhiều hơn nữa.

Thời gian thấm thoắt trôi nhanh, đến khi tuổi thọ đã mãn, do nghiệp thiện đã tạo ở nhân gian nàng Sa Ta được thọ sanh về cõi Tứ Ðại Thiên Vương làm ái nữ Ðức Thiên Vương, cũng mang tên Sa Ta như lúc ở cõi Ta Bà.

Ðức Thiên Vương có năm cô con gái xinh đẹp tuyệt trần: Nàng Sa Ta, nàng Sa Ja, nàng Ba Va Ra, nàng A Chi Mu Ta và nàng Su Tra.

Ðến khi các cô tiên trưởng thành, đúng tuổi trăng tròn, Ðức Thiên Vương Ðế Thích chọn năm nàng về cung trời Ðao Lợi để sung vào đoàn ca nhi trong thiên đình của Ngài. Năm cô tiên xinh đẹp ấy, hằng ngày chỉ ca múa để dâng lên Ðế Thích thưởng ngoạn.

Một hôm, năm nàng có sự tranh luận với nhau, một trong năm nàng hỏi rằng:

- Trong chúng ta, ai là kẻ có giọng tốt và vũ đẹp hơn cả?

Ai cũng tự nhận mình hát hay và vũ đẹp hơn cả, cuộc tranh luận gay cấn, càng lúc càng gia tăng, năm nàng không thể tự giải quyết được, liền đem vấn đề ấy trình lên phụ vương để phân giải giùm.

Năm cô tiên cùng tâu rằng:

- Muôn tâu phụ vương, trong năm chúng con ai là kẻ hát hay và vũ đẹp hơn cả? Kính xin phụ vương hãy phân giải giùm cho công bằng.

Thiên Vương ít khi trực tiếp nghe con mình hát, sau một chút suy nghĩ mới phán rằng:

- Này các con yêu quý của cha, nếu các con muốn biết ai hát hay và vũ đẹp hơn cả thì con nên đến ca vũ ngay trước sự chứng kiến của chư thiên trên bờ hồ A Nô Tát Ta, nơi rừng Tuyết Sơn biên quốc thì các con sẽ biết sự thật.

Tuân lời phán dạy của phụ vương, năm nàng tiên bèn tổ chức một buổi trình diễn để trổ tài ca vũ cho chư thiên thưởng ngoạn và chấm điểm.

Rừng Tuyết Sơn, vùng đất âm u vắng vẻ, bỗng chốc trở thành ca vũ trường vĩ đại nhất trong lịch sử.

Lúc ấy chư thiên từ bốn phương đồng nhau đến rừng Tuyết Sơn đông đảo chưa từng thấy, để thưởng ngoạn tài nghệ của năm cô tiên xinh đẹp ấy.

Năm cô lần lượt trổ tài trước sự diện kiến của chư thiên. Nàng Sa Ja khởi đầu bằng những bài hát tuyệt vời và những vũ điệu tuyệt kỹ. Tiếp đến cô Ba Va Ra cất tiếng oanh vàng lảnh lót, cùng những vũ khúc vô cùng công phu. Ðến lượt A Chi Mu Ta và Su Tra lần lượt biểu diễn tài nghệ trước chư thiên thì chư thiên vẫn yên lặng không chê mà cũng không tán thưởng. Cuối cùng đến Sa Ta cất tiếng bổng trầm, đây mới thật là cung đàn muôn điệu thật lảnh lót du dương, hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già.

Nàng Sa Ta lại xoay qua những điệu vũ thật như những cánh bướm lượn trong nắng xuân, như đàn thiên nga bơi lội trên mặt hồ, như tất cả tinh hoa vũ trụ đều tập trung nơi đây.

Từng tràng pháo tay rộn rã cả khung trời, tán thưởng tài nghệ vô cùng điêu luyện, vô cùng xuất sắc của Sa Ta, những lời hoan hô và chúc lành vang rền cả rừng Tuyết Sơn.

Su Tra, cô tiên út vô cùng thán phục Sa Ta bèn đến hỏi rằng:

- Thưa chị, hồi tiền kiếp chị làm được những công đức gì mà bây giờ có nhan sắc tuyệt đẹp và có giọng hát trong thanh như tiếng chim Ca Lăng Tần Già và được thông minh như thế?

Nàng Sa Ta dịu dàng đáp:

- Chị có sắc đẹp, giọng hát hay, thông minh như thế này vì kiếp trước chị đã giữ giới Bát quan trai từ tấm bé cho đến tuổi già không bị phạm giới lần nào cả.

GIỚI ÐỨC

“Phật tử muốn kiến lập Phật Pháp duy trì Chánh Giáo ở thế gian, cần phải tự mình thọ trì giới luật trước”.



Thanked by 2 Members:

#54 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:21

54. Thế nào là Thượng Tọa?

Thuở ấy, Ðức Ðạo Sư đang ngự ở Tịnh xá Kỳ Viên, có mười vị Tỳ kheo từ Câu Thi Na đến yết kiến Ngài. Lúc mới vào Tịnh xá nhóm Sa Môn này gặp một chú Tiểu ra vái chào. Sau khi đảnh lễ Ðức Ðạo Sư xong, đoàn Sa Môn lui ngồi một bên. Phật hỏi họ:

- Sáng giờ các Thầy có gặp một vị Thượng Tọa vừa rời khỏi nơi đây không?

Các Thầy Sa Môn đồng thưa:

- Bạch Thế Tôn không ạ!

- Các Thầy không gặp ai cả sao?

- Thưa, chúng con có gặp một chú Tiểu chưa đến hai mươi...

- Này các Tỳ kheo! Vị ấy không phải là một chú Tiểu... Ðó chính là bậc Thượng Tọa mà ta muốn nói.

- Nhưng... Chú ấy còn trẻ quá. Bạch Thế Tôn.

- Này các Tỳ kheo! Ta không gọi ai là Thượng Tọa vì tuổi tác, vì họ được ăn trên ngồi trước hay đã xuất thân từ dòng danh giá vọng tộc. Chỉ có người nào thấu đạt Chánh Pháp, cư xử tốt với mọi người, Ta mới gọi vị ấy là Thượng Tọa.

Dù tuổi cao mày bạc

Không tịnh hạnh tu trì

Tôn xưng là Hòa Thượng

Danh xuông chớ ích chi.

*

Những ai thấy Chánh Pháp

Tự điều phục thân tâm

Thanh tịnh không não hại

Mới đáng gọi là Thượng Nhơn.





Thanked by 1 Member:

#55 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:23

55. Người được ca ngợi

Thời Phật còn tại thế, có một vị Lão Tăng ẩn cư trong rừng sâu, người ta gọi Ngài là Hòa thượng Nhất Cú, vì Ngài chỉ biết độc nhất có mỗi cậu kệ, đó là:

- Sa môn nào với tư tưởng thanh cao, tinh tấn luyện mình trong sự im lặng thì vị ấy sẽ được an tịnh, thông suốt và không còn phiền não.

Vào những ngày Bồ Tát, vị lão Tăng chỉ đọc có bài kệ ấy và được Chư Thiên trong vùng tán thưởng bằng những tràng pháo tay vang rền.

Một hôm cũng vào ngày Bồ Tát có hai vị Tỳ kheo thông suốt Tam Tạng cùng đi với một hội chúng đông đảo đến khu rừng ẩn cư. Thượng tọa Nhất Cú vui vẻ đón tiếp họ và cầu thỉnh:

- Các hiền giả đến đây thật quý hóa, xin quý vị đọc luật cho tôi và chư vị nơi đây cùng nghe.

Ðoàn khách Tăng ngạc nhiên:

- Nhưng... Ngoài Thầy ra, khu rừng này còn ai nữa đâu?

- Có chứ! Vào những ngày tuyên giới, khu rừng này vang dội tiếng vỗ tay của Chư Thiên.

Sau khi phân tọa, một vị Tỳ kheo bắt đầu đọc luật và vị kia giảng rộng ra... Nhưng chẳng có ông trời nào vỗ tay cả. Ðoàn khách Tăng ngạc nhiên:

- Thế này là thế nào?

Vị lão Tăng cũng thắc mắc không kém:

- Mấy bữa trước họ đều vỗ tay sao hôm nay lạ vậy cà? Ðược rồi, thưa các Tôn giả, để tôi đọc thử coi...

Thượng tọa Nhất Cú bèn đọc câu kinh thường nhật và Chư thiên lại vỗ tay vang rền.

Thấy vậy nhiều người bất bình:

- Chư thiên ở vùng này quả là có lòng thiên vị, khi người ta giảng thông suốt về giáo pháp thì họ im lặng, không một tiếng tán dương, còn khi lão Tăng này chỉ đọc có một câu thì họ lại hoan hô ầm ĩ.

Các Tỳ kheo trở về bạch Phật tự sự. Nghe xong Ðức Ðạo sư dạy:

- Này các Tỳ kheo, ta không gọi ai là người thông suốt giáo pháp chỉ vì họ biết hoặc đọc nhiều kinh điển. Nhưng kẻ nào, dù chỉ biết một câu, hiểu rõ như thật, theo đó hành trì, ta mới gọi là người thông suốt kinh điển.

- Nói nhiều lời hư vọng thêm huyễn hoặc cuồng si.

- Học ít nhưng tâm đắc, mới là bậc hộ trì.

“Dù tụng nhiều kinh mà buông lung không thật hành theo, thì chẳng hưởng được phần ích lợi của Sa Môn, khác nào kẻ chăn bò, chỉ lo đếm bò cho người khác.

Tuy tụng ít kinh mà thường y giáo hành trì, hiểu biết chân chánh, trừ diệt tham, sân, si, tâm hiền lành, thanh tịnh, giải thoát, xa bỏ thế dục, thì dù ở cõi này, hay cõi khác, người kia vẫn hưởng phần ích lợi của Sa môn”.





Thanked by 1 Member:

#56 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:46

56. Lại Tra Hòa La

Khi Ðức Phật du hóa tại xứ Kuru đến thị trấn Thu La, dân chúng đồn đãi kéo đến bái yết Ngài để nghe thuyết pháp. Bấy giờ trong đại chúng có thanh niên tên Lại Tra Hòa La, con trai của một gia đình thượng tộc giàu có nhất vùng, sau khi nghe pháp, suy nghĩ:

- Như ta hiểu lời Thế Tôn dạy, thì ở nhà thật khó thực hành đời sống phạm hạnh một cách viên mãn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Nghĩ vậy xong, sau thời thuyết pháp của Phật. Sau khi hội chúng đã lễ Phật mà lui về, thanh niên ấy đến bên Ðức Thế Tôn, xin Ngài xuất gia tu học.

- Bạch Thế Tôn, như con được hiểu lời Thế Tôn dạy, thì tại gia thật không dễ gì sống đời phạm hạnh một cách viên mãn, hoàn toàn trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy cho con xuất gia dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn.

- Nhưng này thanh niên, con có được cha mẹ bằng lòng cho xuất gia chưa?

- Bạch Thế Tôn. con chưa được cha mẹ bằng lòng.

- Này thanh niên, Như Lai không cho xuất gia nếu cha mẹ không bằng lòng.

- Bạch Thế Tôn, vậy con phải làm những gì cần thiết để cha mẹ bằng lòng cho con xuất gia.

Lại Tra Hòa La đảnh lễ Phật ra về, xin cha mẹ:

- Thưa ba má, con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình. Xin ba má hãy bằng lòng cho con được xuất gia.

Khi nghe nói vậy ông bà phú hộ bảo:

- Này con, đừng ăn nói dại dột. Con là đứa con duy nhất của ba má được nâng niu như vàng ngọc từ tấm bé, lẽ nào ba má để cho con được xuất gia? Huống chi nhà ta vàng nén, hột xoàn kim cương chất đống, bao nhiêu của chìm của nổi, tài sản mấy đời tổ tiên để lại, tất cả đều dành cho con. Con hãy ăn chơi thỏa thích, rồi muốn tu thì bố thí, làm phước là được rồi. Con chưa biết gì đến sự gian khổ, làm sao ba má để con sống đời khổ hạnh được? Ba má không bao giờ cho con xuất gia.

Sau ba lần năn nỉ không được chấp nhận, Lại Tra bèn nằm lăn ra giữa nhà, tuyệt thực với ý định: “Ta sẽ chết ở đây, nếu không được xuất gia”.

Hai ông bà đưa cơm cháo gì đến, Lại Tra vẫn nằm bất động. Một ngày, hai ngày, ba ngày, rồi bảy ngày trôi qua, chàng nhất định không ăn uống, không cục cựa, mặc cho cha mẹ khuyên lơn. Thân thể chàng đã yếu lả, mắt lờ đờ như người hôn mê sắp chết. Ông bà phú hộ đâm hoảng, đến cầu cứu những người bạn trẻ của con:

- Này các cháu, Lại Tra Hòa La đòi đi tu, hai bác không cho, nên nó tuyệt thực nằm vạ cả tuần lễ nay chẳng chịu nhúc nhích nói năng gì cả. Các cháu hãy đến năn nỉ nó ăn uống lại giùm. Hãy khuyên nó bỏ ý định xuất gia.

Các thanh niên làm theo lời, đến bên Lại Tra để khuyên nhủ. Nhưng sau năm bảy lần thuyết phục, chàng vẫn bất động. Thấy thế nguy, họ đề nghị với ông bà phú hộ:

- Thưa hai bác, chúng cháu thấy rõ Lại Tra đã nhất quyết theo ý định mình, không thì chết. Vậy hai bác nên bằng lòng cho anh ta xuất gia, họa may thỉnh thoảng hai bác còn gặp lại được. Nếu không hai bác đành vĩnh viễn mất người con.

Hai ông bà đành phải chấp thuận, đến nói với Lại Tra:

- Thôi, con đã nhất quyết thì ba má cũng chiều lòng. Nhưng đi tu xong phải thỉnh thoảng về nhà thăm ba má và mấy người vợ mới cưới của con, kẻo chúng nhớ tội nghiệp.

Lại Tra mở bừng mắt ngồi nhỏm dậy, trở lại ăn uống. Sau khi lấy lại sức, chàng từ giã cha mẹ ra đi, đến chỗ Phật trú.

- Bạch Thế Tôn, con đã được cha mẹ cho phép xuất gia. xin Thế Tôn hãy cho con xuất gia tu phạm hạnh.

Ðức Phật nhận lời cho thanh niên cạo tóc đắp áo cà sa, thọ đại giới, theo Ngài về ở Tịnh xá Kỳ Viên nước Xá Vệ. Tôn giả Lại Tra tinh tiến tu hành, ưa thích đời sống độc cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, chẳng bao lâu đã đạt đến cứu cánh cao tột của đời phạm hạnh, vì cứu cánh này mà những thiện gia nam tử đã từ bỏ gia đình, ấy là quả vị A La Hán. Vị ấy biết sanh tử đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm xong, không còn phải trở lại cuộc đời này nữa.

Một hôm, Tôn giả đến đảnh lễ Phật:

- Bạch Thế Tôn, nếu Ngài cho phép, con sẽ xin trở về ngôi làng cũ.

Ðức Phật quán xét biết Tôn giả bây giờ đã có thể trở về, không có gì nguy hiểm cho phạm hạnh, nên Ngài dạy:

- Lại Tra, ngươi có thể làm những gì ngươi nghĩ là phải thời.

Sau khi đảnh lễ đấng Ðạo Sư, Tôn giả Lại Tra thu xếp lên đường. Ðến thị trấn Thu La, Tôn giả tuần tự khất thực. Khi đến nhà cha mẹ, Tôn giả ôm bát đứng ngoài cổng. Thoáng thấy bóng chiếc áo cà sa, ông phú hộ chưa kịp nhìn kỹ, đã nổi trận lôi đình, nghĩ: “Kìa là một Sa môn trọc đầu tới xin ăn. Vì những người đó mà đứa con yêu dấu độc nhất của ta đã bỏ nhà ra đi biền biệt. Nay còn tới đây báo hại cái gì?” Rồi không thèm nhìn ra, ông quát tháo:

- Này Sa môn trọc đầu kia hãy đi đi! Ta không muốn nhìn cái mặt mo ấy. Ði cho mau, đi cho khuất con mắt của ta!

Tôn giả lặng lẽ ôm bát tiếp tục đi. Chợt từ ngõ sau nhà, người nữ tỳ bưng nồi cháo đi đổ. Tôn giả nói:

- Này chị, chị bưng cái gì thế?

- Tôi đem nồi cháo ăn còn thừa từ bữa qua đi đổ vào thùng rác ngoài lộ.

- Xin chị hãy đổ vào bát của bần tăng cũng được, khỏi phải đi xa cho nhọc lòng.

- Càng tốt.

Khi người nữ tỳ đến gần để trút cháo vào bát Tôn giả, cô ta nhận ra đôi chân quen thuộc. Ðánh bạo nhìn lên tay, mặt, thì rõ ràng là vị tiểu chủ ngày xưa, không còn lầm gì nữa. Nữ tỳ chạy vào nhà:

- Thưa ông bà chủ, tiểu chủ đã về tới ngoài kia!

Bà phú hộ mừng rỡ:

- Ðâu, đâu? Nếu thật như mày nói, thì mày sẽ được phần thưởng xứng đáng, con ạ.

Ông phú hộ cũng chạy ra:

- Con ta đâu nào?

- Thưa, tiểu chủ đang ngồi ăn cháo thừa đằng kia.

Lúc ấy Tôn giả đang tựa lưng vào một bức tường mà dùng cháo vừa xin được. Bà phú hộ nhìn kỹ là con mình, liền chạy lại khóc:

- Con ơi là con! Sao con về nhà mà con không vào nhà của con lại ngồi dọc đường dọc sá thế này? Lại đi ăn cháo vữa cháo thiu! Hãy vào nhà, đi con.

- Thưa gia chủ, bần tăng không có nhà. Bần tăng có đến nhà của gia chủ, nhưng không nhận được bố thí, chỉ nhận được lời sỉ nhục và xua đuổi.

Ông phú hộ cũng đã nhận ra, bèn tới năn nỉ:

- Này con, con hãy vào nhà. Ba má sẽ dọn đồ ăn ngon lành cho con. Ðừng ăn cháo thiu mà đau bụng.

- Thưa gia chủ, hôm nay việc ăn uống đã xong.

- Vậy thì trưa mai, con hãy nhận lời ba má.

Tôn giả im lặng chấp thuận. Ông bà phú hộ trở vào nhà, bàn mưu tính kế. Ông nói:

- Con ta đã về tới đây, phải làm sao để giữ chân nó lại, đừng cho nó ra đi. Ngày mai, bà với tôi phải hiệp sức mà thuyết phục nó. Trước hết, bà hãy dọn cho nó một bữa ăn ngon lành, có gà nướng, có rượu hảo hạng, đừng thiếu món gì. Rồi còn nữa? À, hãy đem tất cả vàng bạc, kim cương ngọc ngà châu báu trong kho ra, chất một đống giữa nhà cho thật cao, ngập mặt ngập mày, mà chỉ cho nó nhìn, cho nó biết tài sản của mình là nhiều như vậy. Kế đó là phần việc của mấy đứa con dâu. Chúng nó đâu rồi, bà hãy gọi chúng nó ra đây, để chúng ta cắt công cắt việc.

Khi các con dâu đến, ông phú hộ bảo:

- Này các con dâu! Ngày mai chồng của các con trở về ăn cơm tại nhà đấy. Các con phải tận lực hợp sức cùng ba má để kéo nó ở lại, đừng cho nó đi. Các con phải trang điểm cho thật lộng lẫy huy hoàng. Hãy đeo vào đầu, vào cổ, vào tay, vào chân những đồ trang sức mà ngày xưa chồng các con nó ưa nhìn thấy các con đeo. Hãy sức nước hoa, tưới dầu thơm cho thật nhiều vào, trét phấn, thoa son, bôi mi mắt, kẻ lông mày, uốn tóc cho dợn sóng lên, chống lỗ mũi, lỗ tai lên.

Những cô dâu khúc khích che miệng cười:

- Thưa ba, không có chống lỗ tai đâu ạ!

- Vậy thì, các con hãy làm cái gì các con nghĩ là hợp thời để quyến rũ chồng của các con cho bằng được.

Rồi ông bà phú hộ cắt đặt cho gia nhân trưng dọn, trang hoàng nhà cửa, ngọc ngà châu báu được đem ra chất giữa nhà một đống, lấy màn che lại. Các cô vợ trẻ trang sức lộng lẫy như đào hát đứng thành một tốp, cũng lấy màn che lại. Phú ông ngắm nghía nhà cửa, vàng ngọc, và người, tỏ vẻ đắc chí, hài lòng:

- Thế là được. Ngày mai cứ như vậy mà thi hành.

Hôm sau, đến giờ thọ trai, Tôn giả ôm bát từ từ tiến vào cổng. Ông bà đon đả ra mời. Khi Tôn giả vào nhà, ông chỉ:

- Này con, hãy nhìn đây, (ông kéo màn) vàng bạc châu báu cả đống đấy, tất cả đều là của con. Con hãy ở lại mà thọ hưởng, muốn chi cũng được.

- Thưa gia chủ, nếu gia chủ dành cái đống đó cho tôi, thì xin gia chủ cho xin thêm ít cái bao bố may sẵn, dộng nó vào, và mướn một, hay hai, ba chiếc xe chở ra ngoài sông lớn mà đổ ngay giữa dòng, cho nó chìm sâu xuống đáy nước. Vì sao? Vì nó là nguồn gốc của tất cả khổ não đến với gia đình.

Ông phú hộ lại kéo mấy cái màn che mấy bà vợ cũ ra. Các nàng chạy đến ôm chầm lấy Tôn giả, khóc ròng kể lể:

- Ối chàng ôi! Bộ chàng muốn mấy cô tiên nào trên trời nên đi tu để được lên trên ấy phải không? Chàng đã bỏ bê chúng thiếp để mơ tưởng lên trên trời với mấy cô tiên. Hù hu, hù hu. Nói đi, có phải vì mấy cô tiên nữ mà chàng xuất gia tu phạm hạnh hay không? Hù hu.

- Các chị, các chị, không phải vì mục đích được sanh lên cõi trời mà bần tăng xuất gia tu phạm hạnh.

Khi ấy các bà vợ cũ đấm ngực, khóc than thảm thiết:

- Ối, cha mẹ làng nước ơi, chồng chúng ta bây giờ lại gọi chúng ta bằng chị! Ối trời đất quỷ thần ơi!

Rồi họ ngã lăn ra giữa nhà, bất tỉnh nhân sự, Tôn giả nói với ông bà phú hộ:

- Thưa gia chủ, gia chủ muốn thí đồ ăn thì bố thí đi, chớ có phiền nhiễu bần tăng.

- Hãy ăn đi, con yêu dấu. Ðồ ăn đã dọn sẵn.

Thọ thực xong, Tôn giả đứng lên nói bài kệ:

- Mày ngài mắt phượng mà chi

Tốt tươi rồi cũng một bì xương khô

Tâm: rừng tham ái sầu lo

Thân: nhà chứa bệnh, nấm mồ chờ ai

Nào đâu mắt phượng mày ngài

Khi thây quăng bỏ ra ngoài đồng hoang

Mưa sa gió cuốn phũ phàng

Ðống xương vô chủ võ vàng trăng soi

Ðãy da chứa đủ tanh hôi

Lại toan sơn phết ra mòi bảnh bao

Kẻ ngu mê lại lăn vào

Như nai sa bẫy, người nào khác chi

Ai đà giải thoát sầu bi

Tránh xa lưới ái, tình si đâu còn

Bẫy nào bắt được nai khôn

Lúa ăn vừa đủ, tẩu bôn vô rừng

Thợ săn ngơ ngác hết mừng

Thì đành đấm ngực vẫy vùng khóc la.

Ðọc xong bài kệ, Tôn giả cáo từ đi đến vườn Lộc Uyển ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Khi ấy, vua xứ Kuru bảo người hầu cận sửa soạn cho vua dạo rừng. Người hầu thấy Tôn giả liền trở vế tâu:

- Tâu Ðại vương, ngoài rừng Lộc Uyển, có vị Sa môn đang ngồi, chính là con trai của gia đình thượng tộc ở thị trấn này, tên là Lại Tra Hòa La.

- Vậy, thay vì đi dạo rừng, ta hãy đến thăm vị Tôn giả ấy.

Vua cùng người hầu đi đến rừng Lộc Uyển, chỗ Tôn giả đang ngồi. Vua cung kính đưa tấm nệm gấm ra mời:

- Xin Tôn giả hãy ngồi trên tấm này cho êm.

- Ðại vương, tôi đã có tọa cụ. Ðại vương hãy ngồi trên chỗ của Ðại vương.

- Bạch Tôn giả, người đời thường xuất gia vì bốn sự suy vong: một là lão suy, hai là bệnh suy, ba là tài suy, bốn là thân suy. Như những người lúc trẻ thụ hưởng dục lạc đã đầy đủ chán chê, đến khi già không còn ham muốn gì nữa, và cũng đã hết sức lực mới vô chùa nghỉ. Ðó là lão suy.

Lại như người mắc bệnh kinh niên không thể lao động sản xuất được, ở ngoài đời không lợi chi cho ai, lại thêm gánh nặng cho gia quyến, nên xin vô ở chùa. Ðó là bệnh suy. Rồi có những người làm ăn thất bại, hoặc bị mất mát về tiền bạc, hoặc đánh bài bạc bị phá sản, đổ nợ đổ nần, không thể gầy dựng lại được, bèn chán nản vô chùa xin gởi tấm thân tàn, sống nốt quãng đời còn lại. Ðó là tài suy. Cũng có những người xuất gia vì lẽ không còn ai thân thích để nương tựa. Ðó là thân suy.

Thông thường vì bốn sự suy vong này mà xuất gia. Nhưng xét Tôn giả, tuổi còn thanh xuân, tóc đen nhánh, thì không phải lão suy. Da dẻ hồng hào tươi nhuận chứng tỏ sức khỏe không đến nỗi nào, thì đâu phải bệnh suy. Tôn giả xuất thân từ một gia đình thượng tộc giàu nhất vùng thì đâu phải tài suy. Song thân còn đủ, các bà vợ đang mong chờ, thì cũng không thể gọi là thân suy. Vậy Tôn giả xuất gia vì nguyên nhân nào?

- Ðại vương, tôi xuất gia vì bốn điểm thuyết giáo của Ðấng Ðạo Sư mà tôi thấy đúng như thật. Thứ nhất là, Ngài dạy mọi sự ở thế gian là vô thường.

- Nghĩa là sao, xin Tôn giả giải thích.

- Ðại vương, như thân thể của Ðại vương đó, lúc nào cũng như lúc nào hay mỗi lúc một khác?

- Như vậy là trẫm đã hiểu. Quả thật, thân thể là vô thường, đổi khác luôn luôn, nhất là ở tuổi già như trẫm. Năm nay đã khác năm ngoái, nói gì đến tuổi trẻ với lúc già, thật khác nhau trời vực. Còn điểm thứ hai là gì, thưa Tôn giả?

- Thứ hai là vô hộ, vô chủ: không ai giúp đỡ mình được, không có chủ tể.

- Sao lại không? Như trẫm đây, biết bao nhiêu người phò tá, trẫm là chủ cả nước, muốn chi được nấy, làm sao Tôn giả lại nói vậy?

- Ðại vương, Ðại vương có thể đem cả tài sản, ngai vàng để thuê mướn kẻ khác đau thay, già thay, chết thay cho Ðại vương, không?

- Cái đó thì không được.

- Ví như Ðại vương tạo nghiệp ác, phải đọa địa ngục, thì Ðại vương có thể đem tài sản ấy đút lót cho Diêm vương để khỏi đọa, hay chính mình phải chịu?

- Ðúng như vậy, mình làm mình chịu, không ai thay được. Thế là trẫm đã hiểu vô hộ. Còn vô chủ thì sao?

- Ðại vương có thể làm chủ cái thân xác Ðại vương được chăng? Bảo nó không được bệnh, không được già, không được chết, nó chịu nghe chăng? Bảo cái tay đừng run, cái chân đừng quỵ, mắt đừng lờ, tai đừng lãng, được không? Ðại vương có thể bảo cái thân của Ðại vương khi nó đang đau rằng: “Hãy khỏe mạnh trở lại không? và Ðại vương có biết khi nào thì nó đau, khi nào nó chết không?

- Ðúng thế, quả thật trẫm không thể làm chủ được cái thân này, dù trẫm đang làm chủ cả quốc gia. Còn điểm thứ ba là gì thưa Tôn giả?

- Thứ ba là trên thế gian không có cái gì của mình.

- Ủa, sao Tôn giả nói vậy? Trẫm có biết bao nhiêu là kho tàng châu báu, giang sơn gấm vóc này thuộc về trẫm. Nói gì đến vật, ngay cả đến người, trẫm cũng sở hữu từ quan đại thần lớn nhất trở xuống, trẫm sai đâu chạy đó, sao lại không sở hữu?

- Ðại vương, khi Ðại vương nằm xuống, ngài có thể đem theo tất cả kho báu, giang sơn xuống âm phủ để tiếp tục sử dụng, hay phải giao lại cho kẻ khác, còn mình chết tay không? Ðại vương có thể bắt tất cả đình thần, quyến thuộc dân chúng cùng chết theo qua bên kia thế giới để Ðại vương tiếp tục làm chủ, hay Ðại vương phải ra đi một mình, để người khác thay Ðại vương trị vì thiên hạ?

- Thưa hiền giả, đúng thế. Trẫm không thể đem theo cái gì khi chết và phải chết một mình trơ trọi, để lại giang sơn này cho người khác. Thảm thương thay! Còn điểm thứ tư là gì, xin Tôn giả hãy giảng?

- Thứ tư là thế gian này thật thiếu thốn, thèm khát, nô lệ cho dục vọng, tham lam không bao giờ vơi.

- Nói vậy trẫm nghĩ e chỉ đúng với những người thường, chứ trẫm đây mà còn thiếu thốn thèm khát cái gì. Vì trẫm muốn gì chẳng có, đâu còn thèm gì nữa.

- Ðại vương, giả như Ðại vương bây giờ được tin phi báo của các đội quân tuần tiễu rằng: phía đông có mỏ vàng, phương nam có mỏ bạc, phương tây có mỏ kim cương, còn ở phương bắc hiện có một xứ giàu có, đất đai phì nhiêu mà gặp ông vua trụy lạc bê bối, cai trị mất lòng dân, nên sự nghiệp phòng vệ rất lỏng lẻo, thì Ðại vương nghĩ thế nào?

- Thưa Tôn giả, trẫm sẽ hội họp đình thần, cắt công tác cho vị này phụ trách khai thác mỏ vàng, mỏ bạc, vị kia đào mỏ kim cương. Còn cái xứ giàu có phì nhiêu dễ chiếm ấy, thì trẫm sẽ sai võ quan cử binh tới chiếm để mở mang bờ cõi.

- Ðại vương, đó chính là sự thèm khát, túi tham không đáy nơi Ðại vương. Người đã có một nước thì thèm chiếm thêm nước khác, cho đến kẻ vô sản thì thèm bắt con vịt, con gà của hàng xóm về làm của mình. Ðại vương kết tội kẻ trộm vặt, bỏ tù nó, mà quên rằng mình là kẻ trộm lớn khi mưu tính như vậy. Do đó mà Phật dạy: thế gian luôn luôn thiếu thốn, thèm khát, nô lệ cho lòng tham và dục vọng.

- Hay thay, bạch Tôn giả, quả như lời Tôn giả, bốn điểm thuyết giáo của Ðức Ðạo Sư thật vi diệu. Lành thay Ðức Thế Tôn! Trẫm xin quy y bậc A La Hán, Chánh đẳng giác và xin cáo từ Tôn giả.

- Ðại vương, xin từ biệt.

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

“Tôi đã tạo hạnh phúc cho tôi bằng cách hạn chế sự ham muốn hơn là làm thỏa mãn nó”.



Thanked by 1 Member:

#57 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 25/08/2012 - 23:58

57. Sự tích Cái mõ

Ngày xưa, có một vị Hòa Thượng trụ trì một cảnh chùa ở gần bờ sông trong một thôn quê. Mỗi khi có việc ra tỉnh, Ngài quá giang bằng chiếc đò ngang.

Hôm ấy nhằm ngày 13 tháng bảy, Ngài quá giang ra tỉnh để chủ lễ một đàn kỳ siêu. Khi đò ra tới giữa dòng sông cái thì thấy sóng nổi lên ầm ầm làm cho thuyền tròng trành muốn đắm. Ai nấy ở trên đò cũng đều hoảng hốt kinh khủng, thì ngay lúc ấy, bỗng nhiên thấy nổi lên trên mặt nước, một con cá Kình rất lớn, giương hai mắt đỏ ngầu mà nhìn chăm chăm vào vị Hòa thượng kia. Nhưng Hòa thượng vẫn bình tĩnh ngồi niệm Phật.

Trong khi đó, con cá liền cất cao cái đầu lên khỏi mặt nước mà lắp bắp cái miệng nói:

- Hỡi hành khách ở trên đò! Các người muốn được yên lành, hãy liệng lão ác tăng xuống đây cho ta, để nuốt chửng nó đi cho hả cơn giận. Các người có biết không? Ngày trước, ta theo lão tu đạo, lão không chịu giảng dạy chi cả, cứ buông lỏng cho ta muốn làm gì thì làm, không hề kiềm chế. Vì vậy, ta mới sinh ra lười biếng, chỉ lo rong chơi ăn ngủ theo thế tục, không thiết gì tới công phu bái sám, ăn chay niệm Phật và săn sóc công việc Chùa.

Không những thế, mỗi khi có đám tiệc lại để cho ta mang hậu đắp y để khoe khoang với đại chúng và bổn đạo. Vì những tệ đoan như thế, nên sau khi ta chết, phải đọa vào loài súc sanh làm thân cá Kình, đi tới đâu thì ồ ạt tới đó, làm cho những tôm cá chạy tét đi hết, không có cái gì để ăn, phải chịu đói khát, rất nên cực khổ, thiệt khổ còn hơn loài quỉ đói nữa. Vì thế mà ta chỉ oán lão thôi, còn các người đối với ta vô can, ta không muốn làm hại ai cả.

Nghe cá nói xong, Sư Cụ liền mỉm cười mà đáp rằng:

- Này nghiệt súc! Nhà ngươi nói thế mới thật là thậm ngu. Há ngươi không hiểu câu phương ngôn đạp gai, lấy gai mà lễ, hay sao? Nếu ngươi đã biết vì tạo những tội lỗi như thế mà phải đọa làm thân cá thì nhà ngươi cần phải ăn năn sám hối tội lỗi và tạo duyên lành, ngõ hầu mới được tội diệt phước sanh, rồi mới mong thoát khỏi được quả báo.

Ta là Thầy ngươi, mỗi khi dạy ngươi đúng theo giới luật, thì ngươi bảo là quá nghiêm khắc, hay la rầy quở phạt, còn thả lỏng cho ngươi không nghiêm trị, thì ngươi quen tánh mong lung, thành thử mới phải dọa làm loài cá. Một khi bị đọa, ngươi cần phải sám hối và báo cho ta biết để tụng kinh siêu độ và xả tội cho, còn nếu như muốn ăn thịt ta thì lấy ai để cứu ngươi nữa. Ðã có tội, không biết ăn năn mà còn kiếm cách đỗ lỗi cho người. Phạm Phật thì có Tăng cứu, còn như phạm Tăng thì Phật không độ. Ngươi có hiểu câu đó chăng? Loài súc sanh kia!

Sư cụ quở vừa dứt lời, thì cá Kình kia cũng lặn chìm xuống dưới đáy nước.

Kế đó, sau bảy ngày đêm vang tiếng tụng kinh cầu siêu độ tại chùa, thì cá Kình liền trồi lên mặt nước, lết thẳng tới sân Chùa, nằm dài một đống và hướng vào trong Chùa mà nói rằng:

- Bạch Thầy, mấy hôm nay, nhờ công đức của Thầy và chư Tăng Ni chú nguyện và tụng kinh siêu độ cho, nên con đã được tiêu nghiệp, thoát kiếp cá Kình và sanh lên cõi trời Dục Giới. Trước khi lên cõi Trời để hưởng sự khoái lạc của chư Thiên, con xin đến đây thành tâm đảnh lễ tạ ơn Thầy cùng chư Tăng Ni và con nguyện lưu cái xác thân cá Kình tại Chùa để mỗi ngày, chư Tăng Ni cầm cây gõ lên đầu con, ngõ hầu làm gương cho những vị nào tu hành còn biếng nhác, ưa khoe khoang, tự tôn, tự đại, không chịu khép mình vào vòng giới luật và cũng là để nhắc nhở cho những vị ấy nhớ tới bổn phận tu tâm, hành đạo, để khỏi xao lãng công phu bái sám, niệm Phật tu thiền, thúc liễm thâm tâm, nghiêm trì giới luật.

Vì sự tích như đã kể ở trên, mà từ ngày ấy tới nay, cái mõ mới trổ theo hình con cá để làm kỷ niệm mà thức tỉnh người tu hành.

THANH TÂM

“Em nhớ hôm nào sông nước vắng

Chuông Chùa lay động ánh sương chiều

Lời Kinh, tiếng “Mõ” như thầm nhắn

Cái kiếp phù sinh buổi xế chiều”



Thanked by 1 Member:

#58 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 26/08/2012 - 00:36

58. Y Vương

Trong những năm mới ngoài ba mươi, trên đường du hóa, Ðức Phật gặp một ông Bà La Môn giàu có. Thấy Ðức Phật chúng ta quá đỗi đẹp trai, ông Bà La Môn liền kêu lại, ngỏ ý muốn gả con gái cưng cho, Ðức Ðạo Sư bèn từ chối và lựa lời giáo hóa ông Bà La Môn tốt bụng này. Thái độ của Phật khiến người đẹp Ma Ðăng Già cảm thấy bị tổn thương, vì cô không phải là hạng gái ế ẩm đến nỗi phải đem bán cho.

Với chủ tâm trả thù Phật, ngày hôm sau Ma Ðăng Già cho bắn tin với Ðại Vương thành U Du rằng cô đã bằng lòng. Một tuần sau, cô trở thành Hoàng phi vua U Du, đệ nhất phu nhân vùng Kasambi.

Nhiều năm trôi qua, ngày mà Ma Ðăng Già chờ đợi đã đến. Ðức Phật cùng A Nan du hóa qua vùng Kasambi. Những tay chửi lộn mướn chua ngoa nhất của kinh thành đều được tụ tập lại, để đón chào Ðấng Ðạo Sư. Ngài điềm nhiên đi qua những con đường vang rền âm thanh thô tục như không có chuyện gì xảy ra. Riêng Tôn giả A Nan, tối tăm mặt mũi trước những âm thanh kỳ quái đó, bèn bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, chúng ta đi về thôi!

- Về đâu hở A Nan?

- Thưa, đi đến một thành phố khác, như thành Ðề Xá chẳng hạn.

- Nhỡ nơi đấy, cư dân lại đón tiếp thầy trò mình y hệt như nơi đây thì ông tính sao?

- Thưa, chúng ta sẽ đi qua thành Hoa Thị!

- Và nếu tình trạng của thành Hoa Thị lại tương tự như vậy thì con tính sao?

- Bạch Thế Tôn, chúng ta sẽ đi và sẽ đến những nơi nào mà người ta không bạc đãi mình như thành Vương Xá, thành Tỳ Xá Ly chẳng hạn.

- Này A Nan, Tại sao dân cư các thành phố đó lại ưu ái và ân cần với Thầy trò mình?

- Thưa, vì họ đã nghe pháp, hiểu pháp, đã có trí tuệ để biết đâu là hạnh lành, đâu là hành động dữ, nên rất khát khao được chiêm ngưỡng dung nhan Ðức Thế Tôn.

- Và này, A Nan còn dân cư vùng này tại sao đón tiếp Thầy trò mình kiểu này?

- Vì họ chưa hề biết đến Phật pháp, chưa phân biệt rõ đâu là việc lành hay việc dữ nên họ mới hành động như thế.

- Này A Nan, ví như có một đại lương y tài giỏi thương bệnh nhân như con đẻ. Vị lương y này có bao giờ dán bố cáo trước cổng rằng:

“Nơi đây bổn hiệu chỉ nhận chữa bệnh cho những người lành mạnh hoặc ít bịnh, còn ai đau nặng thì xin miễn tiếp hay không?

- Bạch Thế Tôn, không bao giờ. Vì thầy thuốc hay cần cho bệnh nặng không phải dành riêng cho người mạnh khỏe.

- Này A Nan, cũng thế! Như Lai ra đời là vì lợi ích cho những chúng sanh si ám, chưa phân biệt rõ thiện và ác, chuyên tạo nghiệp dữ để chiêu vời những quả khổ trong ba đường ác. Những người bệnh nặng cần lương y như thế nào thì cư dân nơi đây cũng cần đến sự hiện diện của Như Lai như thế đó. Cư dân của thành Tỳ Xá Ly cùng Vương Xá giống như những người khỏe mạnh hay ít bịnh, các đệ tử Như Lai hiện diện nơi đó cũng đủ rồi. Còn nơi đây, nếu Như Lai không đích thân giáo hóa thì còn ai dám thế nữa, hở A Nan?

- Nhưng bạch Thế Tôn, nơi đây có ai thèm nghe Thế Tôn nói pháp đâu? Họ đã đón tiếp Thế Tôn bằng những gì thối tha bẩn thỉu nhất. Những người bệnh nặng mà không cần thầy thuốc thì dù lương y có sẵn từ tâm, cũng chỉ uổng công vô ích mà thôi.

- Này A Nan, một người bị bệnh nặng, thân và tâm đều xúc não thống khổ, không thể nào có những tâm niệm ngôn ngữ và hành vi như những người bình thường được. Vị lương y phải tận tâm hành nghề, không xao xuyến về cử chỉ và lời nói bất nhã của bệnh nhân. Cho đến bao giờ, thấy rằng cư dân vùng này thật sự không còn cần đến Như Lai nữa. Như Lai sẽ đi ngay.

Ngay lúc ấy, tên chúa trùm du đãng, thủ lãnh các tay anh chị chửi lộn mướn chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư nói riêng, xin được ngỏ lời xin lỗi Ngài cùng ông thầy đây.

- Qua câu chuyện đối đáp giữa thầy trò của Ngài, chúng con vô cùng hối hận. Vậy xin Ngài Cồ Ðàm đừng giận mà hãy ở lại đây dạy dỗ chúng con, những bịnh nhân đang hấp hối.

Một tuần lễ sau, dân chúng thành U Du lại cư xử với đấng Ðạo Sư hệt như thành Vương Xá, thành Tỳ Xá Ly. Ngày Ðức Ðạo Sư cùng Tôn giả A Nan lên đường du hóa nơi khác, dân chúng lũ lượt kéo nhau đi tiễn đưa, rải hoa và khóc than rất bi thiết.

Ðời không đạo, đời vô liêm sỉ!

Ðạo không đời, đạo dạy cho ai?

Thanked by 1 Member:

#59 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 26/08/2012 - 01:05

59. Con cọp dễ thương

Xưa có một thiền sư sống ẩn dật tại một thâm sơn cùng cốc nọ. Trong một dịp tình cờ, Sư nhặt được một chú bé bị bỏ rơi, đem về hang núi nuôi dưỡng.

Chú bé lớn lên dưới sự chăm sóc của nhà sư giàu lòng bi mẫn, giữa những động đá thâm u, dưới những cội tùng xanh lá. Tâm tình chú cũng đơn sơ và bình yên như những con nước trong chảy róc rách qua các hòn cuội trắng. Ngoài Sư phụ ra, chú không hề thấy mặt một nhân vật nào khác. Bạn bè thân thuộc của chú là những thú rừng hiền thường đoanh vây quấn quít chung quanh chú như hươu nai, khỉ vượn.

Chú Tiểu đã lớn lên giữa khung trời bao la của thiên nhiên... và mãi đến lúc trưởng thành chú vẫn có màu mắt trong xanh như trẻ thơ... chú chưa từng biết buồn lo là gì cả.

Giang san của chú chỉ có một nhân vật đáng đề phòng là con cọp chúa thỉnh thoảng mò ra ven suối, uống nước ngắm trăng và kêu “cà um” inh ỏi. Mỗi lần vị chúa rừng này về, chú thường theo lệnh Thầy rút lên một cội cây cao cho an toàn... Và theo óc tưởng tượng của chú, cọp là một con thú có bộ dáng dữ dằn ghê lắm. Nhưng chú chưa từng giáp mặt với nó lần nào... nên rừng núi vẫn còn là một tổ ấm an ổn hồn nhiên che chở cho chàng trai mới lớn.

Cho đến một hôm vị Thiền sư nhận được tin một người bạn cố tri của mình lâm bệnh nặng, Sư liền quảy túi hạ sơn và chú Tiểu cũng được dịp theo Thầy xuống núi để học khôn luôn thể.

Những trần cảnh xôn xao đa diện của thế nhân khêu gợi óc hiếu kỳ của chàng trai hơn là ham muốn. Chàng bỡ ngỡ nhìn ngắm và lắng nghe tất cả với một thái độ lạnh nhạt của người ngoài cuộc. Dòng đời vẫn miên man trôi chảy và chàng đã nhìn nó với cặp mắt xanh của trẻ thơ. Tất cả đều có vẻ lạ lùng đến buồn cười.

Và trên đường trở về hai Thầy trò tình cờ gặp một thiếu nữ bán lụa... Chàng trai kinh ngạc và say sưa nhìn gương mặt của người khác phái mà lần đầu tiên chàng thấy có một sự thu hút kỳ lạ... Thấy vẻ sững sờ của đệ tử, nhà tu vội vàng nắm tay chàng rảo bước, chàng trai bỡ ngỡ hỏi Thầy:

- Bạch Tôn sư... đây là con gì vậy?

Nhà sư buông thõng:

- Cọp đó! Ði lẹ lên kẻo mất mạng bây giờ.

Hai thầy trò trở về Sơn động... Vị sư để ý thấy sau chuyến viễn du, người đệ tử của mình đâm ra thẫn thờ, bỏ ăn, bỏ ngủ... và có một cái gì thay đổi trong tâm tư chàng trẻ tuổi... Và một hôm, sau cơn dằn vặt tột độ chàng tìm đến Thầy thú thật:

- Bạch Tôn sư! Sao mà con nhớ con cọp hôm ấy quá... thà rằng... con tìm đến gặp nó, cho nó nhai xương con... cho rồi. Tán thân mất mạng về tay con cọp dễ thương còn dễ chịu hơn là ở đây mà dằn vặt nhớ thương nó... Từ 20 năm qua, chưa bao giờ con nếm phải một sự đau đớn kịch liệt như thế này. Con phải làm sao đây?...

"Một em bé tóc dài

Ðang rình con bướm bay

Bướm hoa màu sặc sỡ

Chập chờn trong nắng mai

Bướm vừa đậu cành hoa

Em bé mừng lo xa

Ðưa tay nhè nhẹ bắt

Nhưng bướm vùng bay xa..."



Thanked by 1 Member:

#60 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 26/08/2012 - 01:11

60. Những con ngựa dữ

Phật ví hạng người hung dữ trong môn đệ Ngài, giống như những con ngựa dữ khó điều phục. Ðó là:

1. Hạng người khi được bạn bè chỉ dạy lỗi lầm cứ chối bai bải, bảo "Tôi không nhớ, tôi không nhớ". Giống hệt con ngựa dữ bị tra hàm thiếc và quất roi da vào mông, vẫn còn hục hặc không chịu đi.

2. Hạng thứ hai, khi được chỉ lỗi, bèn đứng làm thinh, không nhận cũng không chối, giống như con ngựa dữ đứng dựa gọng xe không chịu đi.

3. Hạng thứ ba, là vị tu sĩ khi bị chỉ lỗi, liền hỏi trở lại người chỉ lỗi mình: “Huynh cũng phạm như tôi sao dám chỉ lỗi tôi”, giống như con ngựa dữ, ngã nhào xuống đất, trầy đầu gối, gãy gọng xe.

4. Hạng thứ tư, là loại người phản ứng bằng cách quạt lại người chỉ lỗi mình: “Ðồ ngu, phận huynh còn phải nhờ người chỉ dạy sao dám lên mặt chỉ dạy tôi”, giống như con ngựa dữ cứ thụt lui không chịu bước tới.

5. Hạng thứ năm là kẻ hay nói trớ sang chuyện khác, đem lòng thù hiềm oán hận người nhắc nhở mình. Như con ngựa dữ chạy bừa vào đường hiểm, làm cho xe bể bánh, gãy trục.

6. Hạng thứ sáu, là kẻ không sợ tội lỗi, không ngán chúng tăng, không cho ai chỉ lỗi, lấy đồ bỏ đi. Giống như con ngựa dữ bất kể nài và roi, ngậm hàm thiếc chạy càn, vô phương kiềm chế.

7. Hạng thứ bảy, phản ứng cách lộn ngược, y đứng giữa hội chúng khua tay nói lớn: “Ai cho phép mấy người dạy khôn tôi”. Như con ngựa dữ dựng ngược hai chân và sùi bọt mép.

8. Hạng thứ tám, loại dữ dằn nhất nói ong óng: “Mấy người có cho tôi y bát, tọa cụ thuốc men không mà dám sửa sai tôi”. Nói xong chưa đã giận, còn xả giới, lột y vứt bên đường, nghênh mặt hỏi chúng tăng: “Tôi đã hoàn tục rồi, mấy người vừa lòng hả dạ chưa?” Hạng người này giống như con ngựa dữ nằm bẹp giữa đường.

Kể xong về tám loại người hung dữ, Ðức Phật khuyên hàng môn đệ của Ngài nên dễ dạy bình tĩnh khi nghe người ta nhắc nhở mình, dù lời chỉ dạy có đúng hay sai đều giữ lòng bình thản và chân thật. Riêng người chỉ lỗi cho bạn phải biết đúng thời đúng lúc, nói năng dịu dàng nhỏ nhẹ, và nhất là thật yêu thương muốn giúp đỡ bạn chứ không phải vì ganh tỵ ghét bỏ.

Xong Ðức Phật kết luận:

- Này các Tỳ kheo! Ta đã nói đầy đủ, đằng kia là các cội cây, các hang trống. các ông nên đến đó mà tọa thiền, chớ có buông lung mà về sau hối tiếc không kịp. Ðây chính là lời nhắn nhủ của Ta đối với các ông.

“Có lỗi đã là một điều lỗi, không chịu nhận lỗi lại là một điều lỗi nữa”.



Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |