Jump to content

Advertisements




NHỮNG BẬC THÁNH SIÊU PHÀM TRONG PHẬT GIÁO


25 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/10/2012 - 06:57

1. LỜI TỰA

Pháp Phật rộng lớn thâm sâu, nhưng không ngoài lý Duyên Khởi và lý Nhân Quả.
Duyên Khởi hay lý tánh của các pháp. Thật tướng của các pháp chính là không tướng. Nhân Quả là sự tướng của các Pháp, đều do muôn đức trang nghiêm. Tất cả các Pháp quá khứ, hiện tại, vị lai trên thế gian đều do duyên khởi, tánh không; ngay nơi một niệm khởi mà thấu nhân quả rõ.

Duyên Khởi tức là tánh của tướng; Nhân quả tức là tướng của tánh. Duyên Khởi tánh không, thật tướng tức là không tướng, sự tức lý; Ngay nhân rõ qủa, muôn đức trang nghiêm, lý tức sự. Do vì tướng không ngại tánh, tức vô lượng pháp là một pháp. Mỗi mỗi pháp do duyên khởi sinh, dung thông lẫn nhau, thảy đều tự tại.

Lý tánh không ngại sự tướng, nên một pháp tức là vô lượng pháp. Từ tánh Chân như ứng hiện nhân quả, trùng trùng lớp lớp, niệm niệm không ngại. Đây gọi là lý tuỳ sự biến, một và nhiều từ vô lượng Duyên Khởi sinh; Sự vô ngại, lý dung thông, ngàn sai muôn khác không ngăn ngại.

Quyển Phật Giáo Thánh Chúng Nhân Duyên Tập đã khéo léo giải thích rõ ý nghĩa này; Lý tướng viên dung, lý sự thông đạt; Nhân Duyên như thế, Quả báo như thế là điều kiện tốt để hành giả tu tập.

Nhiều năm trước, tôi đã từng nghe nói đến quyển sách này, lúc gần đây đủ duyên được cầm đọc, cảm ngộ được ý nghĩa thâm sâu trong sách, chính là Quả báo thiện ác, như bóng với hình; nhân quả ba đời, theo nhau không mất. Từ lời văn cho đến nghĩa lý, thật đáng suy ngẫm.

Khi ấy, tôi lại nảy ra ý vẽ hình phác hoạ, với tâm nguyện mong truyền bá sách này rộng rãi để cứu vãn phần nào nhân tâm của con người hiện tại. Tôi thỉnh cư sĩ Trần Chánh Hùng phát tâm vẽ hình và mời cư sĩ Chu Nguyên chuyển văn sách thành truyện đọc, tạo phương tiện cho những người không rảnh rỗi cũng có thể đọc hết quyển sách này.

Nhiều người đối với lý nhân quả báo ứng, thật chưa hiểu thấu đáo, thậm chí còn xem thường, buông lung tâm ý, khiến cho những phong tục tốt đẹp ngày càng đi xuống, mọi người phải thốt lời than thở không thôi.

Cầu mong quyển sách này sẽ giúp cho người đời, tin sâu nhân quả, làm lành lánh dữ, được tròn ý nguyện.

Hoa sen từ ngó sen

Ngó sen từ thân sen

Thân ít mà quả nhiều

Quả thấu suốt nguồn nhân.

Kính mong các bậc cao minh từ bi chỉ dạy những điều thiếu sót.

Ngô Trọng Đức
Kính đề.



Thanked by 5 Members:

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/10/2012 - 07:08

2. TÍN NỮ CHÍ THÀNH ĐẮC ĐẠO

Chuyện kể, một vị Tỳ kheo tuổi đời cao tuổi đạo thấp, lại chưa am hiểu giáo lý. Khi nhận người cung kính cúng dường và hỏi pháp thì lòng lo sợ, hồi hộp, khổ sở nên cất lên tiếng than. Người thí chủ nhân nghe lời than ấy, suy ngẫm thấu đáo mà được đắc thánh quả.

Kệ rằng:

Tuổi già, chậm hiểu đi xuất gia

Nhận người cung dưỡng, sao khổ tâm

Tự than: Vô tri sanh khổ não

Người nghe suy ngẫm, rõ lẽ huyền.

Ngoài thành Vương xá, nước Ma kiệt đà thuộc miền Trung Ấn Độ, có ngôi chùa Tùng rất nổi tiếng, bình thường có hơn một trăm vị Tăng chúng ở đó. Chùa Tùng cách làng nọ không xa, trong làng có một vị tín nữ tu học Phật pháp rất thành tín.

Vị tín nữ này thông minh. Cô nghĩ: ”Giáo lý hay kinh điển mà đức Phật đã dạy là đường lối cho người học Phật tu hành. Nếu hành giả học hỏi, thực hành thống suốt thì có thể thành tựu được đạo quả. Ngược lại, nếu người tu hành không học thì hiểu lời Phật dạy để ứng dụng công phu thì chỉ là tù mù”.

Tín nữ xin phép vị trụ trì sắp xếp cho cô mỗi ngày được cúng dường một vị Tỳ kheo. Do đó, chúng tăng trong chùa theo thứ tự mỗi ngày có một thầy đến nhà cô cư sĩ thọ trai. Mỗi khi cúng dường xong, cô liền thỉnh vị Tăng được cúng dường hôm ấy, thăng toà thuyết pháp hoặc cô xin thưa hỏi đạo lý.

Trong tăng đoàn, có một số Tỳ kheo vẫn chưa thâm nhập được tam huệ: Văn, Tư, Tu, nên không muốn đến nhà cô để nhận sự cúng dường. Một hôm, đến phiên của vị Tỳ kheo lớn tuổi còn tối dạ nhận lời thọ trai trưa nay. Tuy tuổi đời cao, nhưng thầy xuất gia chưa được bao lâu, đối với Phật pháp, thầy chưa am tường, thống suốt.

Biết mình chưa thâm nhập giáo lý, nên thầy Tỳ kheo này rất hồi hộp, vì thầy thường nghe chư tăng trong chùa kể: ”Vị nữ cư sĩ này là người hiếm có, không những có tâm chân thành cúng dường Tam Bảo, mà lại có trình độ Phật pháp uyên thâm”.

Thầy Tỳ kheo này tiến thoái lưỡng nan, không thể nào mở lời từ chối được, phải đi đến nhà nữ cư sĩ mà trong lòng không vui. Nỗi hồi hộp hiện lên sắc mặt, đầy lo sợ, bước đi thật chậm nhưng cuối cùng rồi cũng đến nhà nữ thí chủ. Khi nữ cư sĩ từ xa thấy oai nghi của thầy Tỳ kheo lớn tuổi này đang từng bước đến nhà mình, liền tỏ ra hân hoan rất mực.

Lòng nghĩ: ”Vị trưởng lão này đúng là bậc đạo cao đức trọng, bươc đi từ tốn không giống như những vị thầy khác. Có lẽ thầy đã chứng được thánh quả, nếu thế thì lời nói của vị này nhất định là pháp vi diệu quý báu, ta hãy đặc biệt chú tâm lắng nghe, không nên để mất đi một cơ hội tốt cầu pháp nào cả”.

Khi ấy, nữ cư sĩ cúng dường thầy Tỳ kheo thật đặc biệt. Sau khi thầy Tỳ kheo thọ trai xong, cô liền trải toà ngồi, năm vóc gieo sát đất, cung kính thỉnh thầy Tỳ-kheo lên pháp toà nói pháp. Thầy Tỳ kheo ngu tối thăng toà mà lòng bối rối, hổ thẹn. Nhìn thấy nữ cư sĩ đang cung kính quỳ phía trước, bất giác thầy cất tiếng than khe khẽ: ”Người ngu vô tri, thật là khổ não”.

Riêng nữ thí chủ do chú ý lắng nghe được câu nói này, liền cho là vô thượng quý báu, nên nhất tâm lắng nghe suy nghiệm, khiến thân tâm cô như đang nhập định, không hay biết cảnh bên ngoài. Thầy Tỳ kheo thấy gia chủ lặng lẽ quỳ thời gian lâu mà không hỏi gì hết, nên đứng dậy, nhẹ nhàng nhanh bước trở về chùa.

Lúc này, vị nữ thí chủ vẫn ngồi yên lặng chú tâm quán xét nghĩa lý của câu nói ấy. Cô nghĩ: ”Ngu si vô tri”, ngu si chính là vô minh. Vô minh là pháp căn bản của mười hai nhân duyên. Từ cội gốc vô minh này khiến cho sinh tử tiếp nối không ngừng, do đó chúng sinh phải chịu khổ não, nên nói “Thật là khổ não”. Nhân quán xét nghĩa lý ấy, mà tâm nữ thí chủ được thanh tịnh, phát sinh chánh kiến và chứng được quả Tu đà hoàn, là quả thánh thứ nhất trong bốn quả thánh.

Sau đó, nữ cư sĩ vì nghĩ đến ân khai đạo của thầy Tỳ kheo, nên muốn đến kho báu lấy y quí để cúng dường, cảm tạ thâm ân của thầy. Nhưng khi nhìn lên thì không thấy vị Tỳ kheo đâu cả. Cô tìm trong ngoài đều không thấy, thêm nữa cũng không thấy thầy từ giã trỏ về. Bất giác cô lại nghĩ có lẽ thầy đã dùng thần thông bay về chùa rồi.

Vị nữ cư sĩ liền cầm y báu đến chùa để tìm thầy Tỳ kheo đảnh lễ, cảm tạ công ơn khai đạo và cúng dường. Song thầy Tỳ kheo kia tuy trở về chùa mà trong lòng vẫn còn hổi hộp không thôi, lo là thí chủ sẽ đuổi theo nên về phòng đóng chặt cửa lại, lánh mặt không gặp ai cả.

Sư phụ của thầy Tỳ kheo ngu tối đã chứng quả A la hán. Khi nhìn thấy nữ cư sĩ đang vội vã đến chùa khác với mọi ngày, nên nghĩ không biết Tỳ kheo này có làm phiền lòng thí chủ không, mà sao cô lại tìm đến chùa trông dáng thật vội. Ngài liền nhập định để tìm hiểu nguyên nhân.

Khi biết được vì do tín tâm thuần nhất mà nữ cư sĩ đã đắc quả Tu đà hoàn, nên liền họp chúng tăng, kể lại nguyên nhân sự việc về thầy Tỳ kheo tối dạ nhận người cúng dường, nhân đó cũng nói rõ thầy Tỳ kheo và nữ thí chủ đã gieo trồng pháp duyên từ đời trước đến nay được thành tựu.

Thầy Tỳ kheo tối dạ ấy, khi nghe sư phụ nói rõ nhân duyên như thế, ngay đó liền chứng được quả Tu đà hoàn.

Kệ rằng:

Thật lòng buông bỏ niệm phàm phu

Tâm ý thanh lương thành bậc hiền

Nghe pháp diệt trừ điên đảo tưởng

Niệm lự ngưng rồi đạo tự thành

Dốc chí hành trì điều cần thiết

Dự lưu thánh quả sẽ được vào.



Thanked by 5 Members:

#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 31/10/2012 - 19:33

3. THÀNH TIÊN NHỜ ĐỨC TIN

Người ngu muốn học phép thành tiên

Ý chánh tâm thành chẳng tính toan.

Không công lao nhọc chẳng nề khó

Chỉ mong thấy được nước cây thần.

Nông phu ích kỷ, tâm không chánh

Lừa gạt người hiền chẳng xót thương

Dẫn người vào núi toan cho chết

Cất tiếng kêu to được lên trời.

Trong kinh Tạp Thí Dụ có kể rằng:

Trước kia, có một người quê dốt, nhưng tâm lại rất chân thành. Người ấy nghe lời đồn, bên nước láng giềng có một loại nước tiên, nếu người nào uống vào, liền được thành tiên.

Người kia so thâm cảm sâu sắc lẽ sanh, già, bệnh, chết của kiếp người, nên khởi niệm muốn cầu học đạo tiên, được an nhiên tự tại, thoát khỏi cảnh sống chết của trần gian nhiều đau khổ. Thế rồi người kia lần hỏi đường, quyết tâm đến xứ người, tìm cho được nước uống thành tiên.

Vượt qua bao gian khổ, người kia lần lần cũng đến ngay với địa phương đồn là đã sinh ra thứ nước tiên ấy. Song có một điều là khi người kia hỏi thăm chỗ có nước tiên, thì mọi người đều tỏ vẻ lạ lùng và cười nhạo anh chàng khờ khạo, họ nói thầm: ”Trên đời này làm gì có nước uống mà được thành tiên”. Nhưng người kia không thấy xấu hổ, cũng không thối chí, mạnh dạn tiến tới không màng đến sự chê bai, giễu cợt của mọi người. Người ấy dốc tâm phải tìm cho được nước tiên ấy.

Hôm ấy, đang còn lăn lội kiếm tìm nước tiên thì trời sắp tối, người kia dừng lại và xin ngủ tạm qua đêm nơi nhà của một điền chủ. Điền chủ hỏi: ”Anh là người từ phương nào đến đây? Có việc gì?” Người kia thật tình nói lên cảm nghĩ của mình về cuộc đời đầy đau khổ và do nghe rao truyền là có một thứ nước tiên, người uống vào sẽ được thành tiên, nên cố tâm đi tìm thứ nước ấy để uống, mong được thoát khỏi sự sanh già bệnh chết.

Khi ấy, điền chủ gian xảo thấy người kia quá thật thà, chất phác, nên muốn lợi dụng. Ông liền nói: "Tôi không biết chỗ nào có nước tiên cả, song tôi lại biết chỗ có cây thần. Nếu người có tâm thành, chỉ cần leo lên ngọn cây cầu khẩn thì sẽ được bay lên trời”.

Người thật thà khi nghe chủ nhà nói thế, trong lòng vô cùng phấn khởi, nói: ”Tốt quá, cây thần hay nước tiên gì cũng được, tôi chỉ muốn được lên trời là tốt rồi, xin ông hãy chỉ dùm tôi chỗ đến đó, tôi cám ơn nhiều lắm”.

Điền chủ nói: ”Đâu dễ như thế, nếu như ông chịu ở nhà tôi làm việc không công trọn một năm, thì tôi mới chỉ cho ông biết chỗ, còn không thì dù ông có đi khắp nước cũng không thể nào tìm ra”.

Người kia chấp thuận nói: ”Tôi bằng lòng. Để đáp trả lòng tốt của ông, tôi sẵn sàng làm việc giúp ông trong thời gian một năm”.

Bắt đầu từ đó, anh chàng thật thà kia phục vụ không công cho người điền chủ. Anh vui vẻ sốt sắng làm việc, không hề có chút so đo, tính toán nào. Còn người chủ nhà gian xảo kia, vì lòng ích kỷ lợi mình, đã lừa gạt người khác. Thật ra, trên đời này làm gì có nước tiên, cây thần.

Ngày qua tháng lại, một năm trời lao nhọc cũng trôi qua, người thật thà đến điền chủ yêu cầu giữ đúng điều lệ mà hai người đã giao ước. Lúc ấy, người điển chủ dẫn người thật thà đi sâu vào rừng, chỉ một cây cổ thụ to lớn mọc lên ven vách núi và nói: ”Đó chính là cây thần, anh hãy trèo lên ngọn cây cao nhất, rồi đợi ta nói tiếng BAY, lúc đó anh hãy buông tay, bảo đảm là anh sẽ được bay lên trời cho xem”.

Thương cho người thật thà kia, khi nghe người điền chủ kia nói thế cứ tưởng là thật, nên làm đúng theo lời chỉ vẽ, leo lên ngọn cây chờ đợi. Dưới này, ông chủ liền cất tiếng gọi to: ”Bay đi”. Người ngu nghe tiếng ấy rồi, lập tức buông tay. Lạ một điều là khi buông tay rồi, người ấy không hề rơi xuống mà lại từ từ bay cao thậy sự, dần dần mất hút không còn thấy bóng dáng đâu cả. Người ấy đã thực sự thành tiên, không còn bị trói buộc trong cõi trần gian đau khổ nữa.

Dưới này, điền chủ chính mắt thấy sự kiện kia, lạ lùng, kinh dị thầm nghĩ: ”Ta vì lợi dụng nó nên mới bịa ra chuyện cây thần, leo cao buông tay rớt xuống là tan thân, cho đáng đời ngu xuẩn, ai ngờ có linh nghiệm, hắn đã được thành tiên. À! Hay là cây cổ thụ đó chính là cây thần. Nếu thật là cây thần, thì ta cũng nên bắt chước hắn, bay về cõi trời sống sung sướng hơn không!”.

Thế là, người chủ nhà cứ mãi suy nghĩ về vấn đề cây thần suốt ngày đêm và quyết tâm thực hiện. Vài ngày sau, người chủ nhà dắt theo đứa con trai yêu quí vào núi sâu, đến dưới gốc cây thần kia, hai cha con định lên trời một lượt. Đứa con nhường cho cha leo lên trước, rồi đứng dưới này cất tiếng nói to: ”Cha ơi, bay đi!”. Người chủ nhà lập tức buông tay. Nhưng có điều mà hai cha con gian xảo kia không thể ngờ là thân người ông từ từ rơi xuống hố thẳm dưới chân núi và chỉ nghe được tiếng “Á” cuối cùng, trước khi tan xương nát thịt.

Tham lam chẳng hiểu gì đạo lý

Quả báo trả liền, đâu phải không.

Tâm ác hại người không ngờ nổi

Nghiệp báo như bóng, không rời hình.


Thanked by 5 Members:

#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 02/11/2012 - 21:53

4. TẢNG ĐÁ LÓT CỘT CHÙA

Hoan hỷ cúng dường đá trắng tốt

Được phước sinh thiên, phước cõi người

Chùa phế, nông phu cày đá cũ

Cung trời dao động bởi nhân xưa?

Thuở xưa, có vị trưởng giả, phát tâm kiến lập ngôi chùa Phật, trên cúng dường chư Phật, đồng thời có nơi chốn để tăng chúng an tu. Trưởng giả chuẩn bị vật liệu đầy đủ, song đến lúc dựng lên thì lại còn thiếu một tảng đá nhỏ để lót dưới chân cột chùa mới có thể xây tiếp tục, mọi người chạy kiếm khắp nơi, nhưng lúc cần thì không tìm được.

Bên cạnh ngôi chùa đang xây ấy, có nhà của một ông lão ngoại đạo, thấy ai nấy đang chạy tìm quýnh quáng, nên hỏi thăm, biết được chùa dựng cột còn thiếu tảng đá nhỏ là hoàn tất việc dựng mái chùa, nên ông vui vẻ phát tâm tặng một tảng đá tốt màu trắng mà ông thường dùng giặt y phục trong nhiều năm. Chuyện có thế. Vậy mà sau khi ông lão ấy mạng chung, lại được sinh lên cõi trời Đao lợi, làm cung chủ điện thất bảo,có rất nhiều thiên nữ hầu hạ, an nhiên thọ hưởng phước lạc cõi trời.

Thời gian trôi qua rất lâu, ngôi chùa Phật trang nghiêm ngày nào, cũng nhân năm dài tháng rộng mà xuống cấp rồi sụp đổ trở thành một đống gạch vụn nơi đồng hoang cô quạnh, và tảng đá trắng lót cây cột ấy cũng theo đó mà bị vùi sâu dưới bùn lầy.

Không biết thời gian bao lâu…

Bấy giờ, có một người nông phu trong vùng, đến khai khẩn mảnh đất hoang, đây chính là nền của ngôi chùa sụp đổ. Đang khi dẫn trâu cày ruộng, cày trúng nhằm tảng đá. Vì sợ hư hại cày, nên người nông phu ấy kêu gọi nhiều người đến phụ dời tảng đá ấy sang nơi khác. Trong khi mọi người đang xúm xít tìm cách dời tảng đá, thì cõi trời Đao lợi bị dao động.

Vị thiên chủ cõi trời thấy vô cớ mà thiên cung bị chấn động nên vô cùng kinh hãi, liền suy tìm nguyên nhân náo loạn ấy, Thiên chủ để tâm, rảo mắt xem xét khắp nơi thì thấy cõi trời không có điều chi lạ, bèn nhìn xuống thế gian, hoá ra tảng đá năm xưa ông cúng dựng chùa, đang nằm sâu dưới lớp bùn đất, hiện nay đang bị người tà đạo xới dời đi, do đó khiến cho cung trời của thiên chủ chấn động.

Khi ấy, thiên chủ mới hiểu ra, do trước kia hoan hỉ cúng dường một tảng đá lót cột chùa mà được phước sinh lên cõi trời, hưởng nhiều phúc báo như thế. Nếu tảng đá kia bị dời đi nơi khác, thì phước báo của thiên chủ sẽ không còn, cho nên phải nhanh chóng tự cứu lấy phước cho mình, tìm phương cách tốt hơn cho người nông phu kia đừng di chuyển tảng đá.

Tức thời, vị trời biến thành ông lão đến trước người nông phu kia hỏi: ”Vì sao lại phải dời tảng đá này đi nơi khác vậy?”

Nông phu đáp:

”Tảng đá này cản trở việc cày bừa khai khẩn đất, khiến tôi không thể thực hiện được công việc sản xuất, cho kịp vụ mùa”.

Ông lão nói:

”Anh khai khẩn đất hoang rất là cực nhọc, quanh năm vất vả cũng không thu hoạch được nhiều đâu! Bây giờ, tôi tặng anh 500 lượng vàng, với điều kiện là anh phải giữ gìn tảng đá cho kỹ, không cho bất cứ ai dời đi nơi khác, anh bằng lòng không?”

Người nông phu nghe thế, phần thì kinh ngạc, phần thì vui mừng, bởi từ trước nay, có bao giờ anh được món tiền lớn đến thế đâu, buộc miệng hỏi:

"Ông là người phương nào? Vì sao lại quan tâm đến miếng đá nhỏ này đến thế?”

Ông lão tức thời biến trở lại thân trời, nói với nông phu:

”Xưa nơi mảnh đất này có một ngôi chùa, nhiều năm hoang phế, rồi đổ nát. Nhà tôi ở cạnh ngôi chùa, nhân chùa đang xây dựng lại thiếu một tảng đá lót cột, khi ấy tôi phát tâm cúng dường tảng đá trong nhà. Tôi thật không ngờ là chỉ nhân cúng dường một tảng đá nhỏ mà được hưởng phước cõi trời đầy đủ bấy lâu. Sáng nay, cung trời do tôi cai quản, bỗng nhiên chấn động, nên tôi xét nguyên nhân, thấy anh đang định dời tảng đá đi nơi khác. Vì thế tôi liền xuống đây trao đổi với anh về việc này, để phước đức của tôi không bị tiêu mất”.

Người nông phu nghe đầu đuôi sự việc, liền chắp tay thưa với thiên nhân rằng:

”Hồi xưa, nơi đây vốn là chùa mà tôi không biết, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, gia đình mình nên suýt nữa làm hại đến phước của người khác, và còn dẫm lên nền của ngôi Tam Bảo, phạm tội rất lớn. Giờ đây tôi hiểu rồi, quyết định ngưng ngay việc làm này. Thiên nhân nghe người nông phu nói, rất đỗi vui mừng an lòng trở lại cung trời.

Còn lại một mình, người nông phu kia suy nghĩ, do cúng dường một tảng đá nhỏ mà được phước lớn như thế. Vị trời kia chỉ gieo một hạt giống mà thu hoạch được vô lượng quả lành, ta cũng cần phải tạo phước, để cuộc sống tốt đẹp hơn.
Khi ấy, người nông phu về kể lại sự kiện ấy cho bà con thân thuộc nghe. Mọi người đều tin nhận, lại còn phát tâm trùng tu lại ngôi chùa ngay nơi mảnh đất cũ năm nào.

Chẳng bao lâu, ngôi chùa Phật trang nghiêm được dựng lên, người người chăm lui tới kính lễ, quét dọn, tụng niệm, giữ gìn rất thành kính. Ngôi Tam Bảo được xán lạn huy hoàng.


Thanked by 4 Members:

#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 03/11/2012 - 07:10

5. LONG VƯƠNG QUI PHỤC

Vua A-dục muốn hàng phục Long vương, nhưng không được. Trưởng lão bày vua cân vàng chia đôi tạo tượng mỗi người đem cân, quả nhiên là lượng vàng của vua A-dục nhẹ hơn. Vua lập hạnh cúng dường bố thí, xây dựng chùa chiền, cứu giúp người nghèo khổ...sau đó, đem hai tượng đi cân, thì tượng vua A-dục lại nặng hơn và từ đó Long vương qui phục A-dục.

Trong kinh có câu chuyện về vua A-dục và Long vương:

Cách nay khoảng 2000 năm, ở Ấn Độ vào thời vua A-dục. Khi ấy, Vua là bậc nhân quân tạo lập nhiều phước đức trên toàn cõi Ấn Độ. Một hôm, vua A-dục triệu tập quần thần, tự mãn về những thành quả mà mình đã đạt được, nên nói:

”Trên toàn cõi đất nước hiện nay, đâu có nơi nào không thuộc về Ta đâu? Có ai dám không phục Ta?”

Quần thần đồng thanh đáp:

”Đúng thế! Thưa Đại Vương. Toàn cõi A-dục này trên dưới thảy đều quy phục đại vương”.

Khi ấy có một vị quan thần, bước ra tâu:

“Thần xin được nói, theo chỗ biết của thần, tuy cả nước đều qui phục, nhưng theo thần biết thì xưa nay Long Vương không hề đến hầu viếng Đại Vương, cũng không hiến tặng một vật báu nào, đủ biết là Long vương không qui phục”.

Vua A-dục muốn nghiệm xét xem phước đức, oai lực của mình có thể qui phục Long vương hay không? Vua bèn truyền lệnh tụ họp ngàn vạn cỗ xe với nhiều binh tướng hùng mạng, trống chiêng vang trời, cờ xí giương cao, đi thẳng ra bờ biển. Bấy giờ, Nhà Vua hướng về mặt biển lớn cất giọng nói to:

“Long vương, Ông ở trong nước của Ta, vì sao lại không qui phục bồn vương?”

Nhà vua lớn tiếng nói ba lần như thế, song mặt biển vẫn an nhiên bất động, như không có việc gì xảy ra. Vua A-dục hỏi quần thần:

”Có biện pháp nào có thể khiến cho Long vương xuất đầu lộ diện hay không?”.

Lúc ấy, có một vị Tôn giả, thưa với đức vua rằng:

”Sở dĩ Long vương không xuất hiện là vì phước đức của Đại Vương còn kém xa Long vương, do vậy mà Long vương không đến qui phục. Nếu đại vương không tin lời tôi thì cứ cân vàng thành hai phần bằng nhau, tạo một tượng Long Vương, tạo một tượng Đại vương, rồi đem hai tượng đó cân thử so sánh, nếu tượng nào nặng hơn thì phước của người đó lớn”.

Vua A-dục y lời làm theo, đem hai tôn tượng cân so sánh, quả nhiên tôn tượng của Long vương nặng hơn. Tôn giả lại thưa:

”Như thế rõ ràng là phước của Long vương hơn Đại vương nên không chịu đến triều phục. Nếu Đại vương phát tâm tạo lập chùa Phật, cúng dường bố thí khắp cùng, ủng hộ hoằng truyền chánh pháp thì phước đức tăng trưởng rộng lớn, khó ai sánh bằng, như vậy có thể Long vương không thể sánh được”.

Vua A-dục sau khi nghe lời tôn giả chỉ dạy, biết phước đức của mình còn cạn mỏng nên rất hổ thẹn, cũng nhân đây mà nhà vua tu trì Phật pháp rất nghiêm mật, siêng năng, lại còn mở kho báu cúng dường Tam bảo, rộng bố thí xây viện dưỡng lão, Cô Nhi, giúp đỡ người nghèo không nơi nương tựa, giáo dục nhân dân làm lành lánh dữ, xây tháp kỷ niệm những nơi thánh tích của Phật, truyền bá phật pháp đến trong và ngoài nước...làm các Phật sự tạo phúc nhiều không kể xiết.

Đồng thời vua A-dục còn xây dựng bốn ngàn bảo tháp, tôn trí xá lợi Phật đà tìm được trong kho tàng của Vua A xà thế, trên khắp cõi Diêm phù đề lưu truyền đời sau. Ngoài ra, vua còn cử các bậc cao tăng đi khắp nơi để tuyên dương Phật pháp được lưu truyền rộng khắp thế gian.

Ba năm tạo lập phước điền, sâu trồng Phật pháp không gián đoạn như thế, cuối cùng vua lại đem hai tôn tượng ra so sánh thì tôn tượng của Long vương lại cúi đầu đảnh lễ tôn tượng vua A-dục. Bấy giờ vị tôn giả mới nói:

”Hiện nay thì Đại Vương có thể hàng phục được Long vương rồi”.

Vua A-dục rất cao hứng, cũng như trước đó, vua mang ngàn vạn binh hùng tướng mạnh đến biển lớn. Vừa đến đã thấy Long vương biến thành một Bà la môn trẻ tuổi, quỳ trước vua A-dục thỉnh an thưa hỏi, tự xưng là tiểu thần.

Kệ rằng:

Bậc chánh pháp song tu phước huệ

Rộng truyền Phật pháp xiển uy quang

Tạo lập bảo tháp khắp Diêm phù

Khuyên hết người đời tu Phật pháp.

Lời phụ: Phước đức và trí tuệ là hai pháp căn bản để thành tựu Phật pháp. Như đức Phật chúng ta là bậc thầy đủ phúc trí, nếu là người kính tin Phật pháp thì hãy tự mình gieo trồng hạt giống trí tuệ chân chánh.

Bố thí được phước lớn, tu trì mở mang trí tuệ, nếu người muốn gieo trồng phước huệ, cần phải thành tâm cúng dường Tam bảo, bố thí người nghèo khổ, tinh tấn tu hành Phật pháp.




Thanked by 4 Members:

#6 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/11/2012 - 09:56

6. NHÂN QUẢ THEO NHAU NHƯ BÓNG VỚI HÌNH

Chỉ vì tật đố với xan tham

Thiên thu khốn khổ hoạ ngục đày

Dư báo năm trăm đời bị huỷ báng

Thân tâm nào được phút an nhàn.

Ngày nọ, đức Thế Tôn bảo với chúng đệ tử:

”Tỳ kheo Thật Lực trong chúng đây, ở đời quá khứ đã từng cúng dường vị Bích Chi Phật, do trồng cội phước này, nên đời nay được sinh trong gia đình sang quí, đời sống vật chất và tinh thần đều được an vui. Tỳ kheo lại được phát tâm xuất gia trong giáo pháp của Ta, tinh tấn hành đạo, chứng được quả A la hán. Tuy chứng thánh quả, song cũng một kiếp trong đời quá khứ, Tỳ kheo này đã tạo nghiệp xấu huỷ báng người, nên sau khi chứng đạo, bị chiêu cảm lời gièm chê và huỷ báng của mọi người”.

Thế Tôn nói rõ nguyên nhân vì sao Tỳ kheo Thật Lực lại bị quả báo khinh chê. Cách nay đã lâu, tại thôn nọ có vợ chồng phú hộ sống chung với nhau tình nghĩa rất là đầm ấm, không một chút nghi hiềm nào. Ngặt nỗi kết hôn đã lâu mà vẫn chưa có con nên hai người không được vui mấy.

Ngày nọ, người vợ nói với chồng:

”Nay tôi không thể sinh con cho anh được, anh nên cưới thêm người vợ nữa, mới mong có con nối dõi được”.

Chồng đáp:

”Từ xưa đến nay, gia đình nào có hai vợ, rất là phiền phức, có nhiều gia đình nhân đó mà bị tan nát, không được hạnh phúc”.

Người vợ lại nói:

”Việc này tôi cũng đã suy nghĩ qua, nhưng tôi nghĩ nếu cả hai người vợ đều có lòng tương kính và thương yêu lẫn nhau, thì không có việc gì xảy ra đâu, tôi nói như thế anh nghe có đúng không? Trong lòng của tôi không cảm thấy buồn ngại điều gì hết”.

Đức Phật lại kể tiếp:

"Lúc ấy, làng kế bên cũng có một nhà phú hộ, sinh được ba con, hai nam một nữ, đều đã trưởng thành. Chẳng bao lâu, cha mẹ của người đó lần lượt qua đời, ba anh em cùng nhau nương sống. Hai vợ chồng người kia nhờ mai mối đến dạm hỏi cô con gái nhà này. Sau nhiều lần suy tính, cuối cùng người anh lớn đồng ý gả em gái về nhà người làm vợ lẽ. Nhưng không bao lâu, cô vợ lớn lại có thai sinh ra một bé trai. Đứa bé càng lớn càng dễ thương, lại thông minh lanh lợi, từ nhỏ đã có tính đặc biệt là không hề nói dối. Nhân thấy đứa bé chân thật, mọi người đặt tên cho nó là Thật Ngữ.

Đến lúc Thật Ngữ được mười tuổi, mẹ của đứa bé khởi tâm tật đố, cô nghĩ: ”Ta sinh được một bé trai kháu khỉnh, sao chồng ta cứ mãi thương cô vợ lẽ như thế”. Bởi tâm thật đố phát sinh, nên cô vợ lớn quyết tâm đuổi vợ lẽ đi. Cô nói với con trai:

”Thật Ngữ! Con có biết nỗi khổ của người như mẹ không?”.

Thật Ngữ thưa:

”Con còn nhỏ nên không biết gì cả”.

Người mẹ tố cáo cô vợ nhỏ đủ điều và nói:

”Nỗi khổ của người nữ chính là tâm tật đố”.

Thật Ngữ nói:

”Mẹ ơi! Tâm tật đố không tốt đâu, mẹ không nên giữ trong lòng”.

Người mẹ tiếp:

”Thật Ngữ, bây giờ mẹ sẽ bịa đặt tội xấu cho mẹ kế của con, nhưng quan trọng là mẹ cần con làm chứng”.

“Mẹ cần làm chứng việc gì, mà điều mẹ nói là thật hay giả?”

“Đó chỉ là bịa đặt thôi”.

"Mẹ ơi, từ nhỏ mọi người đều biết con là người có lời nói chân thật, chưa từng lừa dối ai, nay đâu thể vì mẹ mà con nói lời vọng ngữ”.

Cũng chính do tâm tật đố của người mẹ, là mầm mống sinh ra những mưu kế xảo quyệt, gây rối tâm hồn trong sáng của đứa bé. Người mẹ mãi nài nỉ:

”Thật Ngữ, nếu cha của con có hỏi con điều gì đó, thì con cứ im lặng, chẳng cần nói lời nào hết, chỉ gật đầu là xong. Con ngoan của mẹ, hãy nghe lời mẹ dặn, mới thật là con có hiếu”.

Đứa bé mới mười tuổi, chưa hiểu biết gì cả, song nghe theo lời của người mẹ, mà trải qua vô lượng kiếp bị tội báo khốn khổ, mà chẳng hay biết tội báo đó do đâu. Khi ấy, người vợ lớn bị tâm tật đố ràng buộc nên mách dối với chồng là vợ lẽ làm điều bất chánh, tư thông với người khác trong làng. Người chồng nói:

”Này em, đừng gieo tiếng xấu cho người, cô ta chẳng bao giờ làm việc như thế đâu”.

Người vợ nói:

”Nếu anh không tin thì đến hỏi Thật Ngữ đi!”

Lời nói này đã khiến cho người chồng suy nghĩ: ”Con ta mọi người đều biết là không hề nói dối. Đối với người ngoài mà nó còn nói thật như thế, thì đối với ta chắc chắn không bao giò nói dối”.

Người cha liền đi đến hỏi con:

”Thật Ngữ, con có thấy mẹ kế của con chơi thân với ông bạn nào không?”

Lúc đó người vợ lớn cũng đi theo sau, ra dấu cho Thật Ngữ và nói:

”Cô ta cũng là mẹ của con, con đâu thể nói xấu mẹ mình được, nếu như việc đó có thật, con chỉ cần gật đầu”.

Đứa bé vì không biết mưu kế xảo quyệt của mẹ, nên liền gật đầu. Cũng từ việc làm chứng gian này mà đứa bé không còn mang danh Thật Ngữ nữa, lại được mệnh danh là Vọng Ngữ. Lúc ấy, người chồng nói với người vợ nhỏ:

”Cô đã làm việc xấu, chẳng nên ở lại nhà này”.

Rồi đuổi vợ lẽ đáng thương ấy trở về nhà anh em. Cô vợ nhỏ sau khi trở về nhà, giải bày sự việc với anh lớn, đau buồn than khóc không thôi. Hai người anh quá tức giận, nên đến nhà lân cận đính chánh cho em gái mình, và đem em gái về nhà an ủi.

Thôn làng có một vị xuất gia đã đắc đạo, ôm bát khất thực ngang nhà của ba anh em. Hai người anh chân thành cúng dường thánh tăng, sau khi cúng dường xong, người em gái lại cầu nguyện:

”Đời này, tôi bị người phỉ báng khốn khổ, nếu đời sau được sinh làm người, xin nguyện xuất gia tu hành và tôi nhất định đòi lại nợ ác mà người đã làm tôi đau khổ”.

Hai người anh đồng tình nói:

”Nếu lúc đó, tôi gặp người đã làm cho em đau khổ, tôi sẵn sàng làm chứng”.

Đức Thế Tôn nói:

”Các Tỳ kheo, do đó mà những người này đời đời oan oan tương báo không dứt. Thật Ngữ nay chính là Tỳ kheo Thật Lực, còn mẹ kế là Tỳ kheo... hai anh là Tỳ kheo... Tỳ kheo Thật Lực do đời quá khứ đã phỉ báng mẹ kế mà phải chịu tội đoạ địa ngục thiêu đốt đến ngàn năm, chịu vô lượng thống khổ.


Thanked by 3 Members:

#7 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/11/2012 - 05:34

7. KHẨU NGHIỆP NHƯ NÚI

Lời nói, là nguyên nhân gây khổ đau và tội lỗi
Im lặng không nói lại giống như người gỗ
Tướng sư tà kiến gây tai hoạ
Lầm nhận điều tà, suýt giết con.

Vào thời quá khứ, tiền thân của Phật Thích-ca khi còn tu hạnh Bồ-tát, có một kiếp đã từng làm Thái tử con vua Ba-la-nại tại Ấn Độ, tên là Mộ Phách. Năm ấy, Thái tử được 13 tuổi, bỗng nhiên không nói chuyện, giống như người câm điếc hay pho tượng không khác.

Nhà Vua chỉ có một mình ngài là thái tử, được người trong cả nước đều yêu kính, không bao lâu nữa ngài sẽ là người kế thừa ngôi vua. Vua cha trông thấy thái tử, tuy có ăn cơm, mặc áo nhưng không hề biết kêu la lạnh đói; tuy mắt thấy tai nghe, song giống như không nghe thấy. Trước đây thái tử là một người bẩm tính thông minh, lanh lợi nhưng nay lại giống như người đá. Nhà vua âu sầu, lo lắng khôn cùng.

Bấy giờ, nhà vua mời các Bà-la-môn tướng số nổi tiếng, họ nói rằng:

”Thái tử vì sao trước đây nói chuyện được, mà nay lại không biết nói?”

Các tướng sư thưa:

”Tâu bệ hạ, tướng mạo thái tử tuy đoan chánh, nhưng thân bị bệnh khuyết tật. Mà người có khuyết tật như vậy, sớm muộn gì cũng hại cha mẹ, làm mất nước, nhà tan. Hiện nay, thái tử lại bị khuyết tật chắc không lâu sau, sẽ đem đến những hậu quả rất nghiêm trọng”.

Tướng sư lại nói:

”Sở dĩ bệ hạ không sinh được nhiều thái tử, đều do bệnh khuyết tật của thái tử đây làm trở ngại. Muốn tiêu trừ những tai ương này, chỉ có cách là đem chôn sống thái tử, mới có thể làm cho nước nhà cường thịnh, lại sẽ sinh thêm nhiều thái tử. Nếu không làm như vậy, thì bệ hạ cùng với quốc gia sẽ gặp nguy hiểm”.

Nhà vua nghe nói liền tin lời yêu mị của tướng sư, nên trong lòng lo buồn, ngồi đứng không yên. Khi ấy, vua liền triệu tập các đại thần thân tín để bàn luận việc này. Quan thần trong triều đề nghị đem thái tử bỏ vào rừng sâu, hay nhận chìm xuống sông biển? Có một vị quan thần đề nghị:

”Chúng ta có thể tìm một nơi đồng trống, tạo một nhà mồ dưới lòng đất sâu, đem thái tử nhốt trong mộ ấy, phái năm người đi theo để trông coi việc ăn uống cho thái tử”.

Nhà vua bất đắc dĩ phải chấp nhận lời đề nghị ấy, song nghĩ đến tình cha con sâu nặng, mà đau xé ruột gan. Lúc ấy, trong lòng thái tử ngậm ngùi xót xa, chỉ vì không nói chuyện mà bị mọi người đối xử tàn nhẫn, nhưng không có niệm oán trách mọi người. Hoàng hậu khi hay tin ấy, thương khóc khôn xiết đấm ngực nói:

”Con ta mạng sống mong manh, tuổi đời chưa được bao nhiêu đã gặp phải tai ương!”

Bà than thở phàm làm mẹ mà khi con mình gặp nạn cũng không có quyền giúp đỡ, đành lau lệ đi dọn quần áo, châu báu, anh lạc, vật dụng cá nhân mà hằng ngày thái tử thường dùng đưa người hậu cần mang theo đến mộ. Bà lại còn chọn lựa năm người hiền lành, chất phác dặn dò họ nhớ chăm sóc thái tử thật tốt.

Nhà vua cho xe chở thái tử đến ngôi mộ nơi đồng vắng, khi ấy, ngôi mộ vẫn chưa làm xong. Thái tử Mộ Phách đang ngồi trên xe, khởi nghĩ:

”Phụ vương và mẫu hậu đều cho ta là người câm, giống như cây đá không khác. Nhưng họ không biết sở dĩ ta không nói, là vì muốn thoát khỏi tai hoạ của khẩu nghiệp, để được an ổn tu hành. Hiện nay, phụ vương bị người xấu lừa gạt, nếu ta không đính chính thì sau này còn nguy hại đến nhiều người có hoàn cảnh giống như ta”.

Bấy giờ thái tử ung dung đi xuống dòng suối tắm rửa, mặc y phục mới và đeo chuỗi anh lạc trang sức thân tướng thật đẹp. Sau đó, đi đến bên ngôi mộ đang xây, hỏi những người đang xây mộ:

”Các ông đào hầm làm chi vậy?”

Công nhân đáp:

”Nhà vua có một vị thái tử tên Mộ Phách, mới 13 tuổi mà bị điếc, câm, chúng tôi được lệnh xây mộ này, để nhốt thái tử vào trong đây”.

Thái tử nói:

”Ta chính là Mộ Phách”.

Nhưng công nhân ấy không tin, nên chạy đến kiệu của thái tử cách đó không xa để xem xét, thì thấy trong kiệu không có ai cả. Mọi người đi trở lại ngôi mộ, nhìn kỹ tướng mạo, lời nói, cử chỉ của thái tử, đều giống như người thường, đâu phải như lời đồn đại, khiến cho họ cảm thấy lạ lùng.

Thái tử hỏi:

”Các ngươi đã quan sát ta có phải là quỷ ma hay không? Tướng mạo đoan chánh, tinh thần bình tĩnh, hiền lành, có phải là đứa con hại cha mẹ, hại đất nước hay không? Vì sao mọi người lại dễ tin vào lời nói sai lạc của thầy tướng, đào xây nhà mồ này để chôn sống ta như thế?”.

Bằng lời nói hoà nhã, cử chỉ khoan thai, thái tử đã xoá tan hết lòng nghi kỵ của mọi người, họ sinh lòng hoảng sợ, quỳ xuống lạy cầu xin thái tử tha tội. Lúc ấy, mọi người đều khuyến thỉnh thái tử hồi cung. Thái tử nói:

”Ta đã bị bỏ rơi, nên không còn muốn trở về hoàng cung nữa”.

Nhóm tuỳ tùng lập tức phi ngựa về cung bẩm báo. Quốc vương, hoàng hậu hay tin, tức khắc lên xe ngựa chạy nhanh ra ngôi mộ để tìm con. Vua đang trên đường đi tới, thì ở đây thái tử nghĩ:

”Ta đã thoát ly được sự ràng buộc trong cung, đây là cơ hội tốt, để cho ta nhất tâm tu hành”.

Không bao lâu, xe kiệu của nhà vua và mẫu hậu đến. Từ xa, vua cha nhìn thấy thái tử ngồi ngay thẳng dưới gốc cây, lời nói nhẹ nhàng, trong lòng vua cảm thấy hân hoan vô kể, liền đi đến giục thái tử về cung.

Mộ Phách kinh sợ thối lui vài bước, chắp tay thưa với phụ thân và mẫu hậu:

”Con sinh ra đời được 13 năm, biết được những việc lành dữ xảy ra trong nhiều kiếp trước, như xảy ra trước mắt, không hề quên xót dù là việc nhỏ nào. Sở dĩ con người phải chịu tội báo ở địa ngục là do nghiệp miệng gây ra. Trong cuộc sống nếu không khéo kiểm soát lời nói, khi duyên hội đủ, phải thọ lấy tội báo thống khổ cả ngàn vạn năm. Con nay rất sợ những thảm khổ nơi địa ngục, nên từ lúc sinh ra đến giờ, rất ít khi con nói chuyện.

Trải qua 13 năm rồi, mỗi khi thốt ra lời nào, con đều nghĩ hoạ từ miệng mà sinh ra. Con giữ hạnh ít nói, nhưng thấy không có kết quả nhiều, chi bằng không nói có thể dứt được mầm tai hoạ. Sở dĩ con ngậm miệng không nói, là để bớt tạo nghiệp thị phi.

Mộ Phách nói tiếp:

”Xưa kia, có một kiếp con đã từng làm Vua nước lớn, tên là Tu Niệm. Con dùng chánh pháp cai trị đất nước, tu tất cả điều lành. Những dụng cụ giết người hung cư sĩ, con cấm tuyệt không cho dùng; ban cho mọi người lòng nhân ái, cứu giúp kẻ gặp khốn cùng. Khi ấy có nhiều vua nước nhỏ thấy lòng từ bi rộng lớn, đức đại hỉ xả của Vua Tu Niệm, một lòng cảm ân mến đức, chân thành qui kính vua.

Vua Tu Niệm mở một đại yến tiệc lớn để chiêu đãi vua các nước. Người đầu bếp chuẩn bị các món ăn cao lương mỹ vị, nên phải giết đến sáu loài súc vật khác nhau, bèn bẩm nên vua Tu Niệm. Vua Tu Niệm xưa nay vốn nhân từ không sát sinh, chỉ vì muốn đãi khách quí, đối với việc này chẳng dừng được nữa, nên đành phải gật đầu nói thôi được.

Do một lời nói này, mà ngay sau đó biết bao nhiêu sinh mạng thú vật bị chết theo, do vậy sau khi mạng chung, vua bị đoạ xuống địa ngục, để đền lại nợ sát sinh ngày trước. Phải chịu tội bị chưng nấu hơn sáu vạn năm, đau khổ khó nhẫn nổi, kêu cứu cũng không có người giúp được, muốn chết cũng không được, không ai có thể chia sẻ nỗi khổ của con lúc ấy. Khi chịu tội địa ngục xong, trả hết quả báo, con mới được sanh làm người.

Vì nhớ lại đời quá khứ, chỉ nhân một câu nói, mà con đã chịu vô lượng khổ sở. Đời này, con vì mong cầu dứt tất cả mọi đau khổ, nên quyết tâm xuất gia học Phật. Bởi con luôn nhớ đến nghiệp báo đã thọ, chỉ vì một câu nói mà chịu bao thống khổ, nên mới cấm khẩu không nói.

Vua cha hiểu được tâm chí dứt khoát của thái tử, cũng đồng ý cho xuất gia tu đạo. Sau khi thái tử Mộ Phách xuất gia, do tinh cần chuyên niệm, nên sớm được chứng đạo, tự biết rõ đời trước của mình và tất cả những việc lành dữ, khổ vui, tốt xấu, sống lâu hay chết yểu sắp xảy ra đời vị lai, đều thấy biết rõ ràng, giống như sự việc xảy ra trước mắt vậy.

Cũng bởi nhân ấy mà thái tử thường sinh lòng sợ hãi, một bề giữ gìn khẩu nghiệp, ít nói những việc làm không cần thiết.

Hoạ từ miệng phát, nghiệp như núi
Chỉ một lời mà chịu khổ biết bao năm
Kêu cứu không ai, chết không được
Khiếp cả tâm can, bởi trả nợ xưa.

Sửa bởi hiendde: 09/11/2012 - 09:30


Thanked by 2 Members:

#8 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/11/2012 - 09:18

8. NGHIỆP BÁO HỦY BÁNG

Trong 16 vị đại đệ tử của Phật Thích-ca, tôn giả Xá-lợi-phất là người có trí tuệ bậc nhất, ngài Mục-kiền-liên là bậc thần thông đệ nhất. Hai vị là bạn thân. Thông thường, hai đồng du hoá chung, ít khi tách rời đi đơn độc.

Một hôm, hai tôn giả đang đi du hoá, thấy trời chiều nên vội vã trở về tinh xá. Bỗng nhiên khí trời thay đổi, đổ cơn mưa lớn, hai tôn giả đi vào lò gạch để trú mưa. Mưa lâu lắm mà vẫn chưa tạnh, ngoài trời tối sầm mà mưa lại to hơn, cả hai đều không có áo đi mưa, nên không thể trở về, chỉ còn cách là ngủ qua đêm nơi lò gạch.

Khi ấy, phía sau lò gạch đã có một cô gái chăn bò đến trú mưa trước hai vị. Hai tôn giả không biết đã có người khác phải trú mưa tại đó, mặc dù các vị đã chứng quả thánh, nhưng Thanh Văn không nhập định thì không biết mọi việc, chẳng khác phàm phu.

Do nghiệp chướng sâu dày của cô gái, nên khi nhìn thấy hai tôn giả cùng trú ở qua đêm với mình, cô ấy khởi tà niệm, trong tâm vọng tưởng cùng hai tôn giả phạm tà hạnh. Hai tôn giả vì không nhập định nên không biết mục nữ này đã khởi niệm tạo nghiệp tà dâm với hai Ngài. Trời vừa sáng, hai tôn giả từ lò gạch đi ra. Bấy giờ, có một người không tốt tên Cừu-kỳ-ly.

Ông ta không sợ nhân quả, khinh chê các bậc thánh hiền, trong tâm đầy tà kiến, sân si, tật đố lại hay nói lời thô cư sĩ. Khi nhìn thấy hai tôn giả và cô gái có sắc mặt không đoan chánh từ lò gạch đi ra, ông liền khởi nghi và đem phao tin là:

”Hai tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã quan hệ bất chánh với cô gái chăn bò tại lò gạch đêm mưa hôm đó”.

Không những thế, người kia còn đi rộng phao tin thất thiệt cho các Tỳ-kheo nghe biết. Lúc ấy, các Tỳ-kheo lo ngại cho ông ta phải bị quả báo đoạ địa ngục vì tội nói xấu bậc thánh, nên hết lời khuyên can Cừu-kỳ-ly rằng:

”Ông chớ nên nói lời huỷ báng hai vị tôn giả”.

Các Tỳ-kheo vì thương xót người không biết rõ việc tội phước, nên khuyên can ba lần như thế, để giúp ông ta giảm bớt tội khổ. Nhưng Cừu-kỳ-ly không biết suy nghĩ, khi thấy các Tỳ-kheo khuyên can, chẳng những không nghe mà còn nổi cơn sân giận, càng mạ lỵ hai tôn giả giống như người điên.

Khi ấy, có thiên nhân Bạc-già-phạm trước kia chính là trưởng giả Già-bà là đệ tử của hai tôn giả, được hai tôn giả hướng dẫn tu học và đã chứng quả đến vị A-na-hàm. Vị ấy đã mạng chung và được sinh lên cõi trời Phạm thiên. Trời Bạc-già-phàm thấy Cừu-kỳ-ly huỷ báng hai vị tôn sư của mình, nên dùng thần thông, hiện xuống khuyên răn Cừu-kỳ-ly.

Cừu-kỳ-ly thấy bỗng nhiên có người xuất hiện trong nhà của mình, hốt hoảng hỏi:

”Ông là ai? Từ đâu đến? Nhà đóng cửa tại sao ông lại vào đây được?”.

Vị trời đáp:

”Ta từ cõi trời Phạm Thiên xuống đây, tên Bạc-già-phạm. Do vì ta nghe ông dùng lời phỉ báng hai vị tôn giả, cho nên mới xuống đây khuyên ông, hy vọng từ đây về sau, ông không tái phạm tội lỗi, gây ra khẩu nghiệp nữa”.

Dù đã hết lời khuyên bảo, nhưng Cừu-kỳ-ly một mực cố chấp, còn dùng lời giễu cợt:

”Ông nói ông là Thiên Nhân Bạc Già-Phạm, chứng quả A-na-hàm. Đức Phật nói ”Bậc A-na-hàm là người không còn trở lại cõi dục”, sao ông còn đến phòng tôi? Nếu như thế thì lời của đức Phật là hư dối sao?”

Vừa nói dứt lời, thì trên thân của ông ta từ đầu đến chân tự nhiên mọc nhiều ghẻ độc lớn như hạt đậu. Bị như thế mà ông vẫn không hề hối hận, đi đến trước Phật kiện rằng:

”Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã quan hệ bất chánh với cô gái chăn bò”.

Đức Phật dùng lời hoà nhã khuyên can, chớ nên huỷ báng hai vị tôn giả. Nghe lời Phật khuyên, ông ta nổi sân khiến cho các ghẻ độc trên người ông thêm lớn. Phật khuyên bao nhiêu thì Cừu-kỳ-ly càng phỉ báng hai vị tôn giả, khiến cho các mục ghẻ của ông to bằng nắm tay. Cừu-kỳ-ly phỉ báng hai vị tôn giả trước Phật lần thứ ba, thì mục ghẻ trên thân ông lớn như trái bầu, bức nóng không chịu nổi.

Ông ta liền chạy xuống ao nước ngâm mình trong đó, thì nước trong ao biến thành nước nóng. Ông càng ngâm mục ghẻ càng lở loét và lớn thêm cho đến khi ông không chịu nổi tắt thở. Lập tức đoạ vào địa ngục chịu tội khổ đến hàng vạn kiếp.

Lúc ấy, các Tỳ-kheo thưa hỏi nguyên nhân vì sao hai tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên lại bị người nói xấu như thế? Đức Phật đáp:

”Nhiều kiếp về trước, khi hai vị tôn giả còn là phàm phu, một hôm có một vị tăng từ lò gạch đi ra, lại có một cô gái chăn bò đi theo sau. Hai vị khởi tâm khinh khi nói: Đã là người xuất gia mà còn quan hệ bất chánh với người nữ. Do vì phỉ báng người xuất gia mà hai vị đã chịu quả khổ trong ba đường cư sĩ, tuy hiện tại hai tôn giả đã chứng quả thánh, nhưng vẫn còn phải trả tội báo của khẩu nghiệp đời trước, là bị người phỉ báng nặng nề đến như vậy”.

Trồng tre được tre, trồng sen được sen, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu…Người gieo tạo nghiệp xấu, phải chịu quả báo xấu. Đạo lý nhân quả nhất định như thế, không hề sai lệch.

Kẻ ác mắng người hiền
Kẻ ác sầu khổ thêm
Nếu mắng người tu hành
Nghiệp ác càng lớn hơn.




Thanked by 2 Members:

#9 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/11/2012 - 09:28

9. ĐÒI NGƯỜI VÔ THƯỜNG

Có một vị đạo nhân tên Trường Thọ, gia tài vô lượng, lại là người nhân từ, thường bố thí cho người nghèo khổ thiếu thốn. Đạo nhân có một người bạn thân, đến thăm thấy bản thân ông tiết kiệm từng đồng, không dám xài phí, cực khổ lắm mới làm ra tiền của, có được gia sản như hôm nay thật không dễ. Vậy mà đạo nhân đem cúng dường Tam-bảo, cứu giúp người nghèo không hề tiếc nuối.

Khi ấy, người bạn mới nói với ông:

”Anh đem gia tài làm các việc phước đức, cúng dường Tam-bảo, bố thí người nghèo, công đức anh lớn lao khó ai bì kịp”.

Đạo nhân đáp:

”Không nhiều! không lớn đâu! Theo lời Đức Phật dạy, thì tôi chưa chứa nhiều công đức đâu!”. Phật dạy: Chúng sinh tử vô thuỷ kiếp đến nay, trôi lăn trong sáu nẻo, không có ngằn mé”. Những việc bố thí của tôi nếu đem so sánh, bình quân mỗi ngày không đáng là bao, như thế so với năm tháng bị luân hồi đâu thể tính nhiều được?”

Đức Phật dạy: ”Giả như có người đem của cải bố thí khắp thiên hạ, công đức không bằng người nghe được một câu kinh của Phật”. Do kính tin lòng từ bi dạy bảo của Phật, tôi đem của cải bố thí rộng khắp, cứu giúp người khốn khổ. Bởi vì nếu người chỉ lo tích chứa tài sản, không những không được giải thoát, mà còn có thể nhân của cải mà gây tai hoạ cho thân mình. Tuy nhiên nếu người biết sử dụng của cải đúng pháp, bằng cách đem cúng dường bố thí thì công đức rất lớn không thể nghĩ bàn”.

Đạo nhân nói tiếp:

”Anh có nghe nói trong núi sâu có một loại chim Yết, lông đuôi của nó rất đẹp, nên nó đặc biệt thương tiếc bộ lông. Không may bị cỏ dại hoặc các thứ dơ tạp bay đến dính trên lông, nó không hề dám cử động vì sợ tổn thương đến bộ lông đẹp đẽ. Kết quả, vì không dám cử động, nên nó thường đậu trên đất hoặc chỗ thấp, thế nên hay bị thợ săn đánh bắt, chẳng những không giữ được bộ lông đẹp kia mà ngay đến tánh mạng cũng không thể giữ gìn.

Vì thương tiếc bộ lông nên bị hoạ hại thân. Con người thương tiếc tài vật cùng với loài chim Yết kia đâu có khác gì? Con trâu mao cũng vậy, chỉ vì mến tiếc cái đuôi xinh đẹp của nó, mà bị người sát hại. Trên đời này thật không ít người si mê, chỉ biết liều mạng để kiếm tiền của, lòng tham không chán, chẳng biết tai hoạ ngày một gần, còn không chịu tỉnh giác, một khi vô thường đến tất cả đều không thể mang theo, chỉ có nghiệp theo mình mà thôi.

Khi ấy, đạo nhân đem tất cả tài vật bố thí cho mọi người hưởng dụng. Ông nghĩ: ”Nếu cuộc đời vô thường như thế, chi bằng hiện tại rộng tạo phước điền, để thoát khỏi tai hoạ về sau”.

Đạo nhân lại nói:

”Có một số bằng hữu thân thích trách tôi tại sao đem của cải ra bố thí hết, không giữ lại một ít để dành cho con cháu. Thật ra, con cháu tự có cái phước của con cháu, đâu cần chúng ta phải bận tâm. Tôi đưa ra một thí dụ:

”Hãy nhìn loài ong mỗi ngày phải bay đi hút mật hoa. thật cực khổ mới kết thành mật đường cho ong con làm thức ăn. Cuối cùng lại bị người đến dùng khói lửa đốt cháy, lấy hết mật ong ra khỏi tổ. Không những bị lấy hết mật, mà có thể liên tiếp bị con người sát hại. Tai hoạ của con ong từ mật mà ra, cũng như con người bị hoạn nạn là do của cải, có gì khác đâu?”.

Tôi sở dĩ đem của cải ra bố thí, xa lìa sắc dục, chính vì muốn tránh tất cả những tai nạn đưa đến. Người đời đêm ngày lo toan, lao tâm nhọc sức, tẩt cả chì vì tiền của. Nếu sớm biết được cuộc đời là vô thường, một khi tắt thở sang đời khác, những tài sản đã có, không thể đem theo dùng được.

Nếu người đắm mê mong cầu tiền bạc, bất chấp mọi thủ đoạn để được tài vật bất chính là tạo tội, không thể nào trốn tránh được đâu. Người này sau khi chết, không những bị đoạ trong đường ác chịu khổ, đời sau sinh ra cũng phải đền nợ trước, phải trả đủ tài vật đã thiếu của người, theo ngày tháng mà tính thêm lợi tức. Nghiệp đã tạo ngày càng lâu, thì tội báo phải chịu càng nhiều”.

Đạo nhân trân trọng nói tiếp:

”Người sống ở đời, giống như ngồi thuyền đi trên sông, Thuyền chở đồ nặng, rất dễ bị chìm, thật là nguy hiểm, phải khéo dùng sào tre chống phụ giúp qua sông.(Sào tre: Pháp lành của Phật dạy thoát khỏi sông mê, biển khổ).

Đạo nhân Trường Tọ nói với mọi người:

”Thân người giống như chiếc thuyền, mạng người vô thường nguy hiểm, sáng còn chiều mất, nên sớm học Phật pháp, đem thân cúng dường Tam-bảo, bố thí, giúp đỡ mọi người, tạo nhiều phúc đức, thì mỗi ngày sống của người mới thật đáng quí”.

Tham lam quả báo khổ nghèo cùng
Cúng dường bố thí phước càng tăng
Thiện ác theo nhau như hình bóng
Nẻo xuống nẻo lên tự tâm thôi.




Thanked by 2 Members:

#10 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 09/11/2012 - 09:37

10. HƯƠNG THÁNH ĐỨC BAY XA

Tâm lành xé áo bó vết thương
Khuyên người tạo tội sửa lỗi lầm
Nhân lành sinh phước đời đời hưởng
Thân khoác y vàng, miệng thoảng hương.

Thành Vương-xá là thủ đô nước Ma-kiệt-đà (Ấn Độ), trước kia có một gia đình giàu có, lại còn vang danh là trưởng giả hiền đức. Ông nhờ người làm mai mối đem sính lễ đến cưới cô thiên kim tiểu thơ con trưởng giả khác về làm vợ. Kết hôn không lâu, phu nhân đã hoài thai. Từ khi có mang, trong miệng của phu nhân trưởng giả thường phát ra mùi thơm lạ thường hiếm có, bay khắp cả nước. Người nào ngửi được mùi hương đó, đều có cảm giác an lạc. Họ đều nghĩ không biết mùi hương nhiệm mầu như thế xuất phát từ đâu? Ai nấy đều bàn tán, suy lường về nguồn gốc phát sinh mùi hương kia.

Vua A-xà-thế cũng ngửi được mùi hương ấy, hạ lệnh cho tất cả các quan quân bí mật tìm ra nơi xuất phát mùi hương. Không lâu sau, tìm được mùi hương xuất phát ra từ miệng của phu nhân trưởng giả. Trước kia toàn thân của phu nhân không có mùi hương như thế, chỉ sau khi thọ thai mới sinh ra mùi hương kỳ lạ.

Lúc ấy, quan quân vội vàng về triều báo cáo cho quốc vương hay. Vua A-xà-thế vô cùng hoan hỉ, liền triệu trưởng giả vào cung nói:

”Hiền khanh! Phu nhân của khanh, nếu sinh ra nam tử xin hãy tặng nó cho bổn vương”.

Sau mười tháng mang thai, phu nhân sinh ra một bé gái phúc tướng đoan trang. Đứa con gái này không giống như đứa bé gái khác, từ khi mới sinh ra đã có áo vàng che thân, mẹ của bé thấy việc kỳ lạ, liền cởi áo vàng ấy bỏ ra, song lại thấy hiện ra cái áo khác. Cứ thế, phu nhân không có cách nào cởi bỏ được chiếc áo ấy. Mọi người đều công nhận đứa bé gái kia có nhiều phước đức. Song cũng cho đây là việc kỳ lạ, nghĩ xét không biết đứa bé này đã tạo nhân gì ở đời quá khứ, mà đời này vừa sinh ra đã được mùi hương thơm và áo quí che thân như vậy?

Dân chúng tại thành Vương-xá đều cũng nghĩ như thế, nên cử người đến núi Linh Thứu thưa hỏi đức Phật, họ nói:

”Chỉ có đức Thế Tôn mới hiểu rõ cội nguồn và có thể giải thích cho chúng ta hiểu mà thôi”.

Khi ấy, đức Thế Tôn đang diễn nói diệu pháp tại núi Linh Thứu (Vương Xá), người đại biểu đi đến trước Phật đảnh lễ, cung kính trình thưa về sự việc đã xảy ra và xin đức Thế Tôn giải nghi cho tất cả mọi người.

Đức Phật đáp:

”Thời quá khứ, có một người phụ nữ nghèo khổ sống trong thôn làng kia. Một hôm, cô đi ra cửa thì trời mưa lớn, cũng khi ấy có vị Tỳ-kheo già bị trọng thương đi tới, cô gái nghèo kia đã vì vị Tỳ-kheo chùi rửa bùn máu nhơ bẩn, rồi cho mượn y phục của mình để băng bó vết thương.

Người thiếu nữ nghèo ấy, tuy sinh sống nơi miền quê mùa không được sự giáo dục bao nhiêu, nhưng cô ta lại biết: Phật là bậc đại giác ngộ trên hết ở thế gian này, Pháp Phật sâu rộng vô biên, trên trời dưới thế không gì có thể bằng.

Cô thiếu nữ biết cung kính Tam Bảo, công đức cung kính người xuất gia nhiều vô lượng. Cô cũng biết đối với Tam-bảo nếu không kính quí hoặc huỷ báng, quấy nhiễu, chê cười việc phải quấy của người xuất gia thì phạm phá ”Hòa hợp Tăng” là phạm đậi tội(một trong năm tội phải đoạ địa ngục vô gián). Do đó, cô rất chí thành cung kính Tam Bảo lại còn tán dương công đức cứu đời của đức Phật.

Nếu cô thấy người nào không kính tin Tam-bảo, sinh tâm huỷ báng thì cô đều hết lời khuyên nhủ, khiến cho người kia bỏ ác tu thiện; cô lại còn nói rõ những tội nghiệp, nhân quả về việc huỷ báng Tăng Ni, khuyên người kia biết sám hối Tam-bảo. Những người phạm tội huỷ báng Phật pháp Tăng, sau khi nghe lời cô khuyên dạy, chỉ dẫn, được khỏi tội phước sinh, số đông không thể tính.

Cô gái hiền lương này có tâm thiện, đem y phục của mình cắt ra băng bó vết thương cho vị Tỳ-kheo già bị trọng thương; lại dùng lời lành khuyên bảo mọi người bỏ ác hành thiện, do nhân duyên hiền thiện như thế nên được nhiều phước báu có một không hai trên đời. Vì thế mà sau khi mạng chung, sinh làm thiên nữ trên cõi trời Đao-lợi, hưởng phước trời đến ngàn năm, sau khi hết phước trời ấy, sinh làm thân người, tự nhiên được y báu che thân luôn cả người mẹ cũng được phước báu có hương thơm hơi miệng”.

Tâm lành miệng thánh phát hương thơm
Kính giúp Tỳ-kheo bó vết thương
Cõi trời hưởng phúc vui vi diệu
Phước do hướng dẫn người làm lành.

Tự cắt dọc y phục của mình để băng bó vết thương cho người xuất gia, được phước sinh cõi trời và có y báu cuốn thân. Khuyên người ác khẩu, bỏ dữ làm lành nên được phước báu trong miệng có mùi hương. Công đức này vô lượng vô biên.

Người tạo tội nghiệp phỉ báng Tăng Ni sau khi chết đoạ vào địa ngục Bạt-Thiệt chịu tội cắt lưỡi, sau đó nếu có làm người phải chịu qủa khổ đui, điếc, câm, ngọng, đời đời chịu người phỉ báng. Miệng phát ra hơi hôi, lời nói ra không ai tin tưởng, thọ khổ nhiều vô lượng.



Thanked by 1 Member:

#11 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/11/2012 - 05:22

11. Cản người xây chùa - quả báo vô biên

Một hôm , Long vương A-nậu-bà-đạt-đa thỉnh Đức Phật đến Long cung thiết trai cúng dường. Đức Phật dẫn 500 vị đệ tử cùng đến thọ trai. Phía trước cung điện có một ao lớn, gọi là ao A-nậu-đạt. Trong ao có nước bát công đức của ao Thất bảo liên nơi thế giới cực lạc Tây Phương.

Phàm những người có duyên phước, chỉ cần uống vào một giọt, liền chứng trí túc mạng, có khả năng biết được tất cả việc quá khứ. Những vị đệ tử của Đức Phật phần nhiều đã chứng quả A-la-hán đủ sáu thần thông, chỉ còn một số ít chưa chứng quả. Từ khi uống bát nước công đức ấy thảy đều chứng trí túc mạng, thấy biết hết những việc đã xảy ra trên thế gian.

Đức Phật vì muốn cho mọi người thấy rõ sự nghiêm trọng của luật nhân quả nghiệp báo, ngài đứng bên ao A-nậu-bà-đạt-đa bảo 500 đệ tử sau khi uống bát nước công đức, mỗi người phải tự chân thật nói về nghiệp báo nhân quả của mình để cảnh giác tất cả chúng sinh.

Tôn giả A-bi-đề thưa trước: ”Thuở xưa, sau khi Phật Câu-lâu-tôn nhập niết-bàn, có nhiều đệ tử phát tâm xây chùa rộng lớn để có chỗ cúng Phật và tăng chúng yên nghỉ. Khi đó, tôi là người ở gần chùa Phật, thấy nhiều người phát đại nguyện rộng lớn xây chùa, bỗng nhiên nảy tâm ngu si tật đố. Lúc đó tôi sinh ý xấu đến trước những người phát tâm xây chùa nói:

“Hoạch định một công trình to lớn, tháp cao tới mây, chánh điện rộng lớn như thế, chắc phải lao tâm phí sức, mà không biết đến bao giờ mới hoàn thành? Chỉ bằng xây nhỏ lại một chút, cũng có công đức vậy, vừa không hao tiền bạc mà lại không phí công sức nữa”.

Đúng là hoạ từ miệng sinh chỉ câu nói ấy mà đã chiêu cảm nghiệp xấu, phải chịu khổ không thể tính kể. Không bao lâu, tôi mạng chung. Sau khi chết bị đoạ vào địa ngục, chịu lửa phiền não đốt cháy, sự đau đớn không thể nào chịu nổi, ngày đêm kêu gọi những người đến cứu, nhưng không ai có thể giúp được. Lúc đó, tôi tự kiểm xét nỗi lầm của mình do nhân gì mà phải chịu quả đau khổ thế này. Khi hiểu ra, tôi rất xấu hổ, sám hối tội lỗi của miệng, ngay một niệm sám hối trồng được căn lành, thoát khổ địa ngục bỏn sẻn.

Sau đó, lại tái sinh làm thân chim quạ, mang hình sắc đen xấu, là quả báo của người thô ác, mọi người trông thấy đều chán ghét, cười nhạo khinh chê, nhiều đời tôi phải chịu quả súc sinh khốn khổ như thế, trải qua một vạn năm không biết pháp giải thoát. Về sau, đến thời Đức Phật Ca Diếp, tôi đầu thai làm người xấu xí, đoạ lạc trong đường xấu, lại sinh vào trong loài chim đáng ghét, đến đâu cũng bị người xua đuổi.

Khi ấy, tuy tôi là một con chim nhỏ, đời quá khứ đoạ trong địa ngục xan tham, đã từng nhờ ánh sáng của một niệm sám hối nên cũng có căn lành, nhân đây tôi cũng nhớ được nghiệp ác khẩu đời trước. Mỗi ngày, tôi ở dưới gốc cây bên đường tại nước Ba-la-nại, từ xa thấy hào quang của Phật Ca-diếp sáng hơn cả ánh mặt trời, cùng rất nhiều thánh chúng Tỳ-kheo, vây quanh lễ bái cung kính nghe pháp âm. Tôi cũng theo đoàn người lễ bái, lắng nghe Phật thuyết pháp, trong miệng thường phát ra tiếng kêu bi ai hướng đến Phật thành tâm sám hối.

Đức Phật Ca-diếp du hành giáo hoá chúng sinh nơi nước ấy, tôi vẫn theo sau Ngài kêu khóc, khẩn cầu Thế Tôn từ bi cho tôi được sám hối, giúp tôi sớm tiêu trừ tội nghiệp, giải thoát kiếp súc sinh đoạ đầy. Đến nay được gặp đấng chánh giác Thích-ca Mâu-ni là bậc đạo sư vô thượng, bấy giờ tôi theo Phật xuất gia học đạo, chứng quả A-la-hán đầy đủ sáu phép thần thông.

Nhớ lại thời quá khứ do một lời nói không ý thức mà phải chịu vô lượng khổ sở, khiến tôi còn kinh sợ. Cũng nhân đây tôi hiểu rõ tội khẩu nghiệp cao như núi, nếu không chân thành sám hối thì không biết đến bao giờ tôi mới sớm thoát khổ đây?"

Một lời nói ác khổ vạn năm

Thốt câu thô ác tội vô biên

Nếu hay phỉ báng người tu đạo

Muôn kiếp sầu buồn thật đáng thương.

1. Câu chuyên này cảnh giác chúng ta về tội đáng sợ của khẩu nghiệp. Chúng ta đã biết rõ Hoạ từ miệng ra nên phải giữ miệng hộ tâm, chớ nói lời vô ích, càng không nên phỉ báng Tam Bảo, chiêu tội báo rất nặng.

2. Người đoạ vào ba đường khổ súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục phần nhiều đều là do đời quá khứ tạo khẩu nghiệp. Tội khẩu nghiệp nghiêm trọng như thế, không thể không dè dặt.

3. Trong cửa Tam Bảo phước đức có thể cầu, song cũng dễ tạo tội. Do vì không biết nên dễ tạo thành nghiệp ác, về sau nếu biết hối cải, hướng đến Phật cầu xin sám hối, phát tứ hoằng nguyện và nỗ lực tẩy trừ nghiệp chướng, tương lai ắt sẽ được thành tựu quả Phật.


Thanked by 2 Members:

#12 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/11/2012 - 05:26

12. Nhờ phước sinh thiền

Năm dài tháng rộng quên tu phước

Chỉ lo buôn bán kiếm tiền nhiều

Duyên hết, phước không mang thân thú

Độ anh nói pháp thoát kiếp trâu.

Trước kia, có một gia đình cha mẹ đều qua đời, chỉ còn hai anh em sống nương tựa vào nhau. Người anh buôn bán giàu có. Người em xuất gia học phật chứng được quả thánh A-la-hán, đầy đủ sáu phép thần thông.

Tôn giả vì muốn cứu anh mình thoát khỏi biển khổ sinh tử, nên về nhà tha thiết khuyên anh tu phước tạo công đức, tôn giả nói: "Mạng người chỉ sống được vài mươi năm, mà anh lại tính làm sự nghiệp để đến ngàn năm. Kinh Phật dạy: ”Đời người vô thường, tài sản rốt cuộc cũng chỉ là không”. Nếu một mai vô thường đến, dẫu anh có gia tài nhiều vô lượng, vàng chất như núi đi nữa thì cũng không thể đem theo dùng. Như nay chỉ lo tích chứa của cải, sau này bị của cải ràng buộc không thể giải thoát, nhân đây còn tạo ra nhiều nghiệp xấu bị đoạ vào trong đường ác”.

“Này anh! Đời sống con người vô thường, anh cũng đã có nhiều tiền bạc, không cần phải vì tiền bạc mà lao tâm khổ nhọc nữa, nên mau quy y Tam Bảo, tu học Phật pháp, trồng cội phúc để làm vốn liếng trí huệ cho đời sau”.

Người anh đáp:” Lời của em nói thật không sai, nhưng hiện nay anh phải lập thêm công xưởng, đẩy mạnh sản xuất, cực khổ lắm mới có miếng ăn, đâu có thời gian mà học Phật, làm các công đức“. Người anh của người tôn giả thì mỗi lần nghe em khuyên nhủ thì luôn nói: ”Công việc gấp”. Anh mượn cớ vì miếng ăn mà từ chối lời khuyên, khiến tôn giả nhiều lần thất vọng trở về, không còn nghĩ ra biện pháp nào để khuyên anh mình được hết.

Không lâu sau, người anh bỗng nhiên mang trọng bệnh qua đời. tôn giả thương nhớ anh khôn tả. Sau vì muốn biết anh mình đang ở chốn nào nên tôn giả dùng đạo nhãn quan sát cõi thuộc đường lành thì không thấy, tìm trong đường địa ngục, ngạ quỷ cũng không thấy. Cuối cùng lại thấy anh đang mang lông đội sừng, đầu thai làm một con trâu.

Một hôm, người phu xe trở một xe hàng hoá rất nặng đi trên đường núi, con trâu kéo xe rất lớn. Đường quanh co hiểm trở, con trâu kéo xe vất vả. Người phu xe chẳng những không thương xót, lại còn dùng roi đánh mạng, làm con trâu quá đau rống to, âm thanh nghe buồn thảm, giống như tiếng của người đang bị đau khổ mà không thể cứu giải được vậy”.

Tôn giả nhìn thấy anh mình đang bị đau khổ như thế, trong lòng xót xa không tả. Lúc ấy ngài dùng thần thông bay đến đứng bên đường trâu đang kéo xe, đem những lời anh đã nói lúc còn sống nói lại cho trâu nghe: ”Ta không có thời gian để tu phước làm công đức”, sau đó lại nói tiếp:” Thử nghĩ vì tiền bạc mà phải bận rộn cả đời, kết quả lại nếm mùi như thế sao?”

Con trâu nghe tôn giả nói, liền cúi đầu chảy nước mắt, vô cùng hổ thẹn rồi nhịn ăn mà chết. Chủ con trâu biết được lấy làm kỳ lạ, nghĩ người xuất gia này đã dùng pháp thuật gì khiến cho con trâu của mình chết? Bấy giờ, mọi người trong gia đình ấy tìm kiếm tôn giả trách hỏi nguyên nhân. Tôn giả giải thích:
“Con trâu này chính là anh tôi đã đầu thai. Bởi do trước đây anh tôi ham thích giàu có, dù tôi có đêm Phật pháp khuyên nhủ thế nào thì anh tôi cũng từ chối bảo mắc bận nhiều công việc.

Do anh tôi không hiểu được đời người là vô thường, khổ, không, vô ngã nên cứ mãi lo làm ăn, bỗng nhiên bị bệnh rồi qua đời. Do kiếp trước không chịu làm phước tu công đức, chỉ làm thương tổn nhiều người để có nhiều tiền, nên sau khi chết theo nghiệp đầu thai làm trâu đền lại nợ trước. Tôi vì thương nhớ anh nên đã dùng đạo nhãn tìm kiếm thấy anh mình đang đoạ làm kiếp súc sinh, nên tôi mới giúp anh tỉnh ngộ và hướng công đức tu hành đến cho anh tôi”.

Mọi người nghe tôn giả trình bày, biết đây là bậc tu hành chứng quả nên rất mực cung kính và cũng nhân câu chuyện này đã khiến mọi người giác ngộ được cuộc đời vô thường, nhân quả nghiệp báo đáng sợ. Bấy giờ, họ cùng nhau làm lễ siêu độ cho trâu. Con trâu nhờ phước đức của tôn giả mà thoát được kiếp súc sinh, hưởng được phước trời.

Hết thảy sự vật đều vô thường

Của cải dù nhiều cũng về không

Nếu không làm phước tu điều thiện

Muôn kiếp mang thân phận nghèo cùng.

1. Con người luôn vì sự nghiệp mà bận rộn, không chịu reo trồng phước đức trí huệ. Sau khi mạng chung qua đời khác, kết quả vô phước phải đầu thai làm kiếp thú, chịu muôn phần đau khổ.

2. Kinh Phật dạy: Con người chỉ có thể mang theo nghiệp lành dữ đến đời sau”. Nếu như con người chúng ta không thể quên ăn bỏ ngủ, thì cũng không thể không làm các việc phước đức tu trồng trí huệ.

3.Tu học Phật pháp, rộng làm phước điền, mới là gia tài pháp bảo giúp chúng ta dùng hoài không hết.



Thanked by 2 Members:

#13 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 15/11/2012 - 05:50

13. Cải tạo mạng vận

Vợ chồng khốn khổ hiểu nguyên nhân

Nghĩ tột không tiền chịu bán thân

Hoan hỉ gieo trồng cây phúc đức

Vua khen, thưởng quả chuyển nghiệp nghèo.

Kinh Phật chép: ”Muốn biết nhân đời trước xem quả đời này đang thọ; muốn biết quả đời sau, xem nhân tạo đời này”. Sự giàu sang, nghèo cùng, khổ vui của con người đều có quan hệ nhân quả. Tuy nhiên, cái gọi là vận mệnh ấy, cũng có thể dùng tâm chúng ta mà sửa đổi.

Người xưa nói: ”Tâm tốt thì mạng cũng tốt, được giàu sang cho đến tuổi già; mạng tốt mà tâm không tốt, phước bỗng chuyển thành hoạ. Tâm tốt, mạng không tốt, tai hoạ chuyển thành phước; người tâm, mạng đều không tốt, cảm quả nghèo cùng và nhiều tai nạn. Tâm có thể cứu vãn được số mạng, đó chính là lòng nhân từ; vận mạng được tạo từ tâm, hoạ phúc do người chiêu cảm”.

Dưới đây, là câu chuyện chỉ dạy cho chúng ta cách ”Cải tạo vận mạng.”

Xưa, có hai vợ chồng tên Kế La Di, tâm ý rất hiền hoà và hay nhịn nhường mọi việc, cho nên cảnh gia đình chàng tuy có vẻ thanh bạch, nhưng đương nhiên không khỏi rơi vào trường hợp nghèo, làm cho vợ chồng phải phấn đầu với hoàn cảnh, xông lướt giữa phong trần để tìm phương nuôi sống.

Đang trong tình huống ấy, nếu những hạng người tầm thường không đủ nghị lực, thì ắt không tránh khỏi sự nhớp nhơ tâm hạnh. Nhưng chàng Kế La Di đối với hoàn cảnh ấy xem như một trường học dạy về khoa cao thượng và cũng là lò thiên nhiên để cho chàng rèn đúc tâm hồn trở nên thuần tuý.

Một ngày, vợ chồng Kế La Di thức dậy sớm, chia nhau mỗi người một ngả đi làm mướn. Trong khi đi được nửa đường, Kế La Di có gặp nhiều ông trưởng giả y phục nghiêm trang, bộ dạng văn nhã, cùng nhau câu hội trong một ngôi chùa kia để tổ chức cuộc bố thí cầu phước, thì tâm trí của chàng sinh ra nhiều trộm trách thầm than thân phận của mình, không biết ngày sau sẽ có thể làm được những lợi ích cho loài hữu tình như vậy hay không, nên trọn ngày chàng cứ xốn xang trong dạ.

Đến tối, mãn giờ làm công việc cho chủ, chàng liền cáo từ ra về. Tắm gội vừa xong thì trời cũng đã khuya, nên hai vợ chồng vào phòng an nghỉ. Thấy chồng nằm ngủ không được mà lại thở dài nàng vội cất tiếng dịu dàng mà hỏi: ”Đêm đã khuya, canh hầu tàn sao chàng cứ trằn trọc trở lăn, chưa ngon giấc nồng. Hay là tại dầm sương phơi nắng, làm ráng quá sức, mà sinh chứng nhức mỏi thương hàn, xin nàng vui lòng cho tỏ cho thiếp biết, đặng tiện việc thuốc thang điều trị”.

Tiếng oanh thỏ thẻ nghe có điệu âm nghĩa thâm trầm, làm cho Kế La Di càng thêm bồi hồi thổn thức và nước mắt nhỏ ra dầm dề, nhưng chàng cứ im hơi, không trả lời một tiếng. Chàng chỉ thầm nghĩ trong trí rằng: ”Đời trước ta không làm việc phước thiện, nên ta phải chịu cảnh nghèo, còn mấy nhà trưởng giả kia kiếp trước họ hay làm phước, nên nay được phong phú hơn người. Đó là lẽ tất nhiên theo luật nhân quả. Huống chi ta là kẻ hàn vi vô phước, nếu nay không sớm lo chứa đức tu nhân, thì kiếp sau không khỏi thống khổ hơn nữa”.

Nghĩ như vậy rồi chàng thêm sụt sùi rơi lệ, buồn bã không cùng. Người vợ bèn mở lời hỏi nữa rằng: ”Cớ sao thiếp thấy chàng có vẻ buồn bực dị thường, xin tỏ hết mọi lỗi cho thiếp nghe, hầu có chia đắng sớt bùi đôi chút với chàng."

- Hiền thê ơi! Đôi ta số phận nghèo nàn, thua sút hơn mọi người, là bởi kiếp trước không có tu phước. Vì nghĩ như vậy, nên ta quá đỗi ưu phiền, không ngăn nổi đôi mạch sầu ấy.

- Thưa lang quân! Theo ngu ý của thiếp xét nghĩ thì sự buồn rầu khóc tủi như thế chẳng có ích gì, mà ngồi lo suông cũng không có hiệu quả chi, không bằng lang quân mang thân thiếp đây bán cho người giàu, đặng lấy số tiền làm các việc Phật sự, thì hay biết bao nhiêu! Song không biết lang quân có đồng tình với thiếp chăng?

- Hiền thê ơi! Thế thường có câu sống thì đồng tịch đồng sàng, chết thì đồng quan đồng quách. Tuy nghèo hèn rách rưới, song đôi ta lúc sơ giao cho đến bây giờ, mảnh ái tình rất nên trong sạch và đằm thắm như bát nước đầy. Nay bỗng nhiên bảo đem thân nàng mà bán cho nhà giàu là sao? Điều vô nhân đạo đó, ta không thể làm được!

- Thua lang quân! Thiếp tuy là phận nữ lưu kém thiếu về phần kiến thức, nhưng thiếp cũng biết rằng thà tử biệt còn hơn sinh ly, là thứ bệnh chung của loài người sống trong trời đất, tất không ai làm được hết, chớ không riêng gì một mình chàng. Vậy thiếp xin tỏ thêm một ý kiến này nữa, hầu chàng thẩm xét và thực hành. Xin chàng nên biểu đồng tình với thiếp, cả hai đều đem thân đi bán cho một nhà giàu nào đó mà làm ở làm tôi tớ trai gái, đặng lãnh đồng tiền làm các việc công đức.

Đến đây đã giải được vấn đề tác phước, nên hai vợ chồng Kế La Di đều được toại lòng an giấc, rồi sáng ngày đồng dắt nhau đi đến nhà một phú hộ mà thưa rằng:” Nay chúng tôi đem cả hai thân nghèo nàn này đến xin ông đổi lấy ít đồng vàng đem về cúng Phật làm phước”.

Ông phú hộ nghe nói sự lạ như vậy thì vội hỏi rằng: ”Hai vợ chồng ngươi đổi chừng mấy đồng?”.

Chàng Kế La Di đáp: "Thưa ông! Chúng tôi định đổi lấy mười đồng mà thôi”.

Ông phú hộ nói: ”Ta hỏi thử hai vợ chồng ngươi chơi vậy, chớ ta không muốn bó buộc đâu. Bây giờ ta cho hai vợ chồng ngươi mượn trước mười đồng vàng, trong khoảng bẩy ngày phải lo cho đủ số mà đem trả cho ta. Nếu đúng kỳ hẹn mà không lo nổi, thì qua ngày thứ tám hai vợ chồng phải lại đây ở làm công việc cho ta đặng trừ nợ”.

Nội trong ngày thứ nhất, giấy tờ làm xong, lăn ray điểm chỉ giao kết đâu đó đoàng hoàng, hai vợ chồng Kế La Di lãnh được mười đồng vàng, rồi giã từ ông phú hộ, đi đến một ngôi chùa kia, vào ra mắt vị chủ Tăng xin nạp tất cả số tiền ấy, đặng nhờ ngài từ bi đến bữa thứ sáu mở hội làm chay bố thí giùm, rồi qua ngày thứ bảy thì hoàn kinh cúng ngọ.

Chủ Tăng thấy vợ chồng chàng tuy là nghèo nàn mà có dạ tin Phật khẩn thiết như vậy, thì trong lòng thương mến vô cùng, nên bảo người trong chùa lo treo phướng bắt bông, sửa soạn Phật điện nghiêm khiết và mua sắm các món đồ diệu cúng...

Khi ấy vợ chồng Kế La Di quá đỗi vui mừng, dường như đã nhẹ mình bay theo ánh sáng của Phật, đặt chân trên mặt đất “kim sa bố địa” của đức Di-đà mà không còn nghe biết mùi tanh hôi thống khổ ở trần tục nữa vậy. Cho nên vợ lo giã gạo xay bột, chồng lo bửa củi gánh nước, bảo lãnh hết các việc mệt nhọc trong việc làm chay.

Hai vợ chồng bèn dặn bảo nhau rằng: ”Đôi ta chỉ được tự do hành động nội trong sáu ngày nữa mà thôi, vậy nên chớ nài cực nhọc, đừng nghỉ ban đêm, ráng thức mà làm công quả, đặng trồng giống phước để về ngày sau, chớ hết hạn bảy ngày, thì đôi ta sẽ làm nô lệ cho nhà người, không có quyền tự tại mà tạo nhân phước thiện được nữa”.

Trong lúc ấy lại có một vị quốc vương ở nước nọ, chọn ngày làm kỳ siêu cho tiên vong và bố thí cho dân nghèo cũng trùng một bữa với hai vợ chồng Kế La Di mà không hay, nên bảo kẻ thị vệ sửa soạn xe giá, chở bạc vàng gấm lụa và châu ngọc, rồi vua đồng ngự giá đến chùa, xin mở hội kỳ siêu đặc biệt.

Vị chủ Tăng tâu lại rằng: ”Muôn tâu Thánh thượng! Bữa ấy bần tăng đã định là ngày làm chay cầu phước cho hai vợ chồng người nhà nghèo kia rồi. Nếu thánh thượng muốn thiết chay đặc biệt, không chung chạ với phàm dân thì xin rời qua ngày khác!”

Vua nghe nói mấy lời ấy thì lấy làm ngạc nhiên mà phán rằng: ”Trẫm đây là đấng quân chủ, có lẽ đâu người kia là đứa tiểu dân mà dám không nhường ngày ấy cho Trẫm hay sao?”.

Nói như vậy rồi, tức thời Vua sai sứ giả ra nói với Kế La Di phải nhường ngày thứ sáu đó lại cho mình đặng làm chay trước, rồi qua ngày khác chàng sẽ mở cuộc trai đàn của chàng. Như vậy thì chẳng trễ nãi ngày giờ của Vua đã định, mà chàng cũng được trọn ơn nghĩa đối với bề trên.

Kế La Di nghe sứ giả dạy như vậy, bèn thưa rằng: ”Bẩm cùng sứ quan! Ngày ấy tôi không có thể nhường đặng!”.

Đã ba lần sai sứ giả đến nói, mà ba lần chàng Kế La Di cũng như kiên chấp không chịu nhường, nên vua lấy làm lạ, bèn cho đòi chàng đến tận mặt mà hỏi rằng: ”Sở dĩ làm sao mà ngươi không chịu dời ngày khác làm chay, đặng nhường ngày đó cho Quả nhân?”.

Kế La Di thưa rằng: ”Muôn tâu lệnh Thánh thượng! Chỉ trong hai ngày ấy thì kẻ mạt dân này mới có phần tự do, chớ quá hai ngày đó thì phải làm nô lệ cho người, không còn hy vọng cúng Phật trai Tăng được nữa”.

Vua hỏi rằng: Tại sao vậy? Ngươi khá tỏ thật cho Quả nhân rõ”.

Kế La Di đáp: ”Muôn tâu thánh thượng! Kẻ mạt dân này nghĩ vì bần cùng là tại kiếp trước không biết tu phước, mà hay nếu không sớm liệu làm lành, ắt kiếp sau còn nguy khốn hơn nữa. Vậy nên vợ chồng kẻ mạt dân này đành đem thân bán cho người, đặng lấy mười đồng vàng về làm phước và hẹn trong bảy ngày, nếu không có số tiền ấy mà hoàn lại, thì phải đến ở mướn mà trừ nợ. Vì nguyên cớ ấy, nên hai vợ chồng kẻ mạt dân này, thà cam tấm nhắm mắt dưới lưỡi kiếm vô tình của thánh thượng còn được toại lòng hơn là sống là lỡ dở, không được làm theo ý nguyện."

Nghe đến câu chuyện này, vua động lòng thương chàng Kế La Di vô hạn, nên Ngài khen ngợi rằng: ”Nhà ngươi bề ngoài tuy là đê hèn, mà tinh thần ở trong thật là cao thượng, hiểu lý bần cùng đã thấu đáo, biết lẽ nhân quả cũng tinh tường, nên quyết đem thân mềm bở mà đổi lấy thân cứng bền, biết đem của biến hiện mà đổi lấy thân thường trụ. Như thế thật là xưa nay chưa từng có, cho nên Quả nhân vui lòng để vợ chồng ngươi kiến thiết pháp hội trước”.

Vua nói vừa dứt bèn truyền lệnh lấy vàng bạc châu báu mà cho hai vợ chồng Kế La Di, và thảo ra một tờ chiếu chỉ dạy địa phương cắt mười bốn chục tụ lạc làm đất phong mà ban cho vợ chồng chàng hưởng huê lợi vĩnh viễn. Nhờ vậy mà Kế La Di có tiền đem hoàn lại mười đồng vàng cho ông phú hộ gia và tạ ơn ông.

Nếu người thật tâm tạo phước điền

Cúng một đồng lợi được vạn đồng

Phước chuyển nhiều đời vui hành thiện

Nhân lành quả chín phước huệ tăng.

1. Công đức phát tâm từ chân thành cúng dường Tam Bảo thật không thể nghĩ bàn. Hai vợ chồng Kế-la-di trước kia nghèo cùng khốn khổ, ý thức được nguyên nhân nghèo khổ nên đồng bán thân để có tiền cúng dường trong thời gian bảy ngày, chuyển nghiệp nghèo trở thành một đại phú gia.

2. Người mong cầu của cải, phát tâm cúng dường Tam bảo để được phước, nhất định sẽ được phước; người giàu có mong tạo thêm nhiều phước đức, đem tài vật của cải cúng dường Tam bảo thì đời đời tài bảo dùng không hết.

3. Đức Phật dạy: ”Khởi một niệm lành, thốt một lời lành, cúng dường tăng chúng tứ sự theo nhu cầu, đều gọi là thí; Tuỳ phước lớn nhỏ được sinh lên sáu tầng trời, nếu sinh làm người thì được mười kiếp”.

Bí quyết thay đổi mạng vận chính từ do phát tâm tu phước.

Thanked by 1 Member:

#14 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/11/2012 - 13:40

14. Lỡ lời làm chó

Tỳ-kheo trẻ mắng Tỳ-kheo già

Biết thành tâm sám hối nên tội giảm

Song năm trăm đời vẫn làm thân chó

Chỉ một lời nói, phải bị khổ khôn cùng.

Một thời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngụ tại tinh xá Kỳ Viên, khi ấy tôn giả Xá-lợi-phất mỗi ngày thường dùng thiên nhãn xem xét chúng sinh đang thọ khổ trong sáu đường luôn hồi, xem ai là người có nhân duyên đáng được độ, tức liền đến giáo hoá giúp chúng sinh ấy thoát khổ được vui.

Lúc ấy, có rất nhiều thương nhân, kết bạn đi buôn. Họ tìm đến nước lân cận buôn bán. Trong số đó có một thương buôn mang theo con chó để nó canh giữ hàng hoá ban đêm. Trên đường đi, họ dừng ngủ ở một doanh trại bên đường. Con chó lẻn cắp thịt của những thương buôn khác. Sau đó, người chủ phát giác bị mất thịt, loan báo khiến mọi người trong đoàn hết sức tức giận, hè nhau lấy cây đánh chó gãy chân rồi đem nó vất ngoài đường.

Cũng lúc đó, tôn giả Xá-lợi-phất bằng thiên nhãn thanh tịnh thấy rõ hết sự việc, Ngài biết con chó không thể đi nổi, đau đớn rên la, chắc chắn bị đói lạnh mà chết. Tôn giả đi xin thức ăn rồi vận dụng thần thông mang đến cho con chó. Con chó được cho ăn, nên mạng sống được kéo dài, nó vẫy đuôi lộ vẻ vui mừng.

Tôn giả Xá-lợi-phất vì con chó giảng nói Phật pháp vi diệu, sau khi được nghe pháp mầu, tội chướng của nó tiêu trừ, nó cảm tạ ân cứu mạng và chết ngay khi ấy. Nói đến con chó chết rồi, chuyển kiếp sinh làm người, sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn trong thành Xá-vệ.

Hôm ấy tôn giả Xá-lợi-phất cầm bát đi đến trước cửa Bà-la-môn khất thực, Bà-la-môn hỏi tôn giả:

”Thưa tôn giả, Ngài đi một mình, không có thị giả theo hầu sao?”.

Tôn giả đáp:

”Tôi không có thị giả. Nghe nói gia chủ có một đứa con trai, vậy gia chủ có bằng lòng cho đứa bé theo hầu tôi không?”

Gia chủ đáp:

”Tôi có một đứa con tên Quần Đề, song tuổi còn rất nhỏ, chưa biết gì hết, nên không thể theo hầu ngài được. Đợi nó lớn một chút, thì tôi sẽ cho theo Ngài làm thị giả”.

Tôn giả bằng lòng. Thời gian trôi qua, người con trai của Bà-la-môn ấy được 7 tuổi, tôn giả Xá-lợi-phất nhớ lời hứa cũ nên tìm đến nhà Bà-la-môn để xin cho đứa bé xuất gia. Bà-la-môn ấy vô cùng hoan hỉ, cho con trai Quân Đề xuất gia làm Sa-di.

Tôn giả dẫn Quân Đề đến tinh xá Kỳ Viên, thế phát cho làm sa-di Quân Đề sáng tâm hiểu đạo, chứng được quả A-la-hán được thần thông tự tại. Sau khi chứng đạo, sa-di Quân Đề vận dụng trí túc mạng nhớ lại những kiếp trong đời quá khứ của mình đã làm gì? Ở đâu?

Do đó nhớ duyên đời trước khi làm con chó được tôn giả Xá-lợi-phất từ bi cứu mạng, nói pháp tế độ, nên được làm thân người, đời này vẫn tiếp tục tế độ khiến cho ngài thoát khỏi đau khổ ràng buộc trong vòng luân hồi. Khi ấy sa-di Quân Đề rất đỗi vui mừng, muốn báo đáp ân trọng, nên phát nguyện trọn đời theo hầu tôn giả Xá-lợi-phất.

Sa-di Quân Đề kể lại:

”Đời trước sở dĩ ta phải mang thân chó là do kiếp xa xưa ta đã lỡ tạo khẩu nghiệp. Vào thời Phật Ca-diếp, ta từng xuất gia tu học. Bấy giờ ta cùng với đại chúng tụng kinh. Trong ấy có một Tỳ-kheo già âm thanh tụng kinh khàn đục, rất khó nghe. Ta ỷ mình tuổi trẻ, âm thanh trong trẻo, nhiều người khen ngợi, nên khởi niệm chê tụng kinh của vị Tỳ-kheo già giống như chó sủa. Lúc đó, vị Tỳ-kheo đã chứng A-la-hán, Ngài bảo ta:

”Tỳ-kheo kia, ngươi chê lầm ta rồi”.

Tỳ-kheo trẻ nói:

”Tôi biết ngài là bậc Tỳ-kheo thượng toạ ở đây phải không?”

Tỳ-kheo già nói:

”Ta tuy tụng niệm âm thanh khó nghe, song ta đã thoát ly sinh tử, không còn thân sau nữa”.

Lúc bấy giờ khi nghe vị Tỳ-kheo già nói thế, tâm ta kinh sợ, tự biết đã lỡ lời, vô cùng hổ thẹn, cầu xin sám hối. Nhưng khi tội đã thành rồi thì không còn cách nào tiêu trừ, từ đó ta bị quả báo liên tiếp năm trăm đời mang thân chó, trả nợ cho câu nói chê bai bậc đã chứng thánh quả.

Song, cũng do nhân lành trước kia đã xuất gia học Phật pháp, giữ giới thanh tịnh, chính nhờ công đức ấy mà ngày nay ta được gặp tôn sư cứu mạng, còn tế độ giúp ta chứng được quả thánh. Ôi! Công đức của Thầy thật là thênh thang vô kể!

Khuyên tất cả mọi người, dè dặt từng tiếng nói, không để phạm lỗi lầm bị quả báo khổ như ta.

Chê người tụng kinh tiếng như chó sủa

Phải bị năm trăm đời làm thân chó

Nhân quả theo nhau nghìn muôn kiếp

Mảy may không sót phải răn dè.


Thanked by 1 Member:

#15 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/11/2012 - 00:07

15. Thần thông xuyên đá

Phật pháp như nước rửa sạch cấu uế

Như lửa mạnh thiêu đốt hết vật tham sân

Nghèo giàu sang hèn từ một thể

Xuất gia chứng đạo đủ thần thông

Trời giải hoa, thân xuyên qua đá.

Bỏ nghiệp gánh phân suốt năm trăm đời.

Một thời, đức Phật Thích Ca đang ngự tại Kỳ Viên, thành Xá Vệ, thuộc nước Câu-tát-la. Tại đây nhiều người nhân nghe pháp Phật đều được giải thoát, nhờ đời trước đã gieo trồng thiện căn sâu dày. Cũng trong thành ấy, có một người thuộc giai cấp hạ tiện, thường gọi Ni-đề, hành nghề đổ phân để nuôi sống bản thân.

Một hôm, Phật quán sát căn cơ chúng sinh, xem ai là người có duyên đáng được độ? Ngài thấy chàng Ni-đề kia, nghiệp tội đã giảm, đủ nhân duyên được độ thoát. Nhân đây, Thế tôn cùng tôn giả A-nan đi vào thành khất thực. Thế Tôn cố ý đi vào một đường hẻm chật hẹp, gặp Ni-đề đang cầm bình sành đựng đầy phân và nước tiểu đang từ đường hẻm đi ra.

Thấy trước mặt mình là bậc giác ngộ cao quí, vì sợ phải đối mặt với đức Phật, Ni-đề xấu hổ quẹo đi ngõ khác, ông cũng lại gặp đức Phật. Ni-đề quýnh quáng định chạy trốn. Và vì không tự chủ, xoay tới xoay lui nên bình phân trên tay đụng mạnh vào tường. Thế là, khắp cả người ông đều thấm ướt phân và nước tiểu, khiến ông càng hổ thẹn, không dám nhìn đức Phật.

Thế Tôn đến trước Ni-đề nói:

”Ni-đề, ông có muốn xuất gia tu hành để vĩnh viễn thoát khỏi đau khổ trong vòng sinh tử không?”

Ni-đề cúi mặt thưa:

”Thế Tôn là bậc vua chúa, hàng tôn quí xuất gia, đệ tử đi theo đều là những người giàu có. Con xuất thân từ giai cấp hạ tiện, đâu thể được như mọi người mà xuất gia tu hành”.

Thế Tôn nói:

”Giáo pháp của ta nhiệm màu thanh tịnh. Như nước trong có thể rửa sạch tất cả cấu uế. Phật pháp giống như ngọn lửa mạnh mẽ thiêu đốt tất cả, bất luận vật lớn hay nhỏ, sang hèn đều thành tro bụi. Phật pháp bình đẳng rộng khắp, không có sự khác nhau giữa bần tiện và sang quí. Bất cứ là nam nữ, già trẻ, sang hèn, trí ngu nếu thật tâm xuất gia tu hành, thì đều có thể chứng thánh quả”.

Ni-đề nghe Thế Tôn khai thị, kinh ngạc và quá bất ngờ, liền phát tâm xin Phật xuất gia. Thế Tôn bảo A-nan dắt Ni-đề đến sông lớn ngoài thành tắm rửa, rồi hãy dẫn về tinh xá.

Phật dạy Ni-đề:

”Tất cả chúng sinh đều phải chịu tám thứ khổ: Sanh, già, bệnh, chết, thương yêu xa lìa khổ, cầu không được khổ, ghét mà thường gặp khổ, năm ấm hưng thịnh là khổ”. Tám điều khổ này không luận bần cùng hay phú quí, thông minh hay ngu si đều khó thoát khỏi, ngoài ra còn các thứ khổ do thiên tai, chiến tranh gây ra… và cuối cùng còn có cái khổ lớn nhất là luân hồi trong sáu nẻo, mãi mãi không dừng. Người nào muốn thoát khỏi nỗi khổ như thế, thì phải lìa tục xuất gia, tinh tấn tu hành, mới có thể đạt được an vui thanh tịnh Niết-bàn”.

Sau khi Ni-đề nghe Phật dạy về chân lý vô thường, khổ, không…bỗng nhiên tâm được khai ngộ chứng quả Tu-đà-hoàn, thấy rõ khổ đế. Ông tha thiết cầu xin Thế Tôn xuất gia trở thành vị Tỳ-kheo. Phật chấp thuận liền vì ông cạo râu bỏ tóc, cho mặc pháp y, hiện tướng Tỳ-kheo.

Phật lại dạy Tỳ-kheo Ni-đề pháp tứ thánh đế:

KHỔ ĐẾ: Chúng sinh có tám thứ khổ, vô lượng nỗi khổ…Những khổ nạn này đều do nghiệp ác của mỗi người đã tạo từ đời trước, nay phải chịu quả báo.

TẬP ĐẾ: Chúng sinh do không thấy biết đoạn trừ những cội gốc vô minh phiền não tham sân si…lại chìu theo đó mà tạo các nghiệp ác khiến kết thành quả khổ.

DIỆT ĐẾ: Nếu muốn hưởng được an lạc Niết-bàn thì phải đoạn trừ tất cả cội gốc vô minh phiền não.

ĐẠO ĐẾ: Con đường an lành giúp hành giả tu tập phát sinh trí huệ, đoạn trừ lậu hoặc, đạt được an vui vĩnh viễn.

Sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng về Tứ thánh đế, Ni-đề được đoạn trừ hết tất cả phiền não, thành tựu đạo quả A-la-hán, chứng được tam minh, lục thông. Tin người ghánh phân Ni-đề xuất gia được loan truyền nhanh chóng đến tai đức vua. Nhiều người bất bình, bàn luận xôn xao:

“Thế Tôn sao lại cho cả người gánh phân gia nhập vào hàng ngũ xuất gia cao quí? Chúng ta đâu thể lễ bái con người bần tiện đó được? Giả như chúng ta thỉnh Phật và chúng tăng cúng dường, nếu có cả Tỳ-kheo gánh phân này thì sẽ làm ô uế chỗ ngồi trong nhà chúng ta sao?”

Vua Ba-tư-nặc nghe tin này, cảm thấy sầu muộn. Vua ngồi xe báu đi đến tinh xá Kỳ Viên thỉnh Phật về vấn đề này. Xe báu vừa đến cổng tinh xá, đang tạm dừng dưới gốc cây chờ thưa báo. Ngoài cổng tinh xá có một hòn đá lớn, khi ấy Tỳ-kheo Ni-đề đang ngồi may áo trên tảng đá ấy. Chư thiên đang ở trên không trung cung kính rải hoa cúng dường tôn giả.

Vua Ba-tư-nặc thấy thầy Tỳ-kheo tướng mạo trang nghiêm, nên rất hoan hỷ, đến trước thầy Tỳ-kheo nói:

”Thưa tôn giả! Nay con có việc đến lễ bái đức Thế Tôn, xin tôn giả vào thưa giùm con được không?”.

Thầy Tỳ-kheo liền đi xuyên qua đá vào tinh xá trình lên đức Phật. Phật bảo:

”Ông từ tảng đá đi vào đây thì bây giờ từ tảng đá đi ra mời đức vua vào đây”.

Tỳ-kheo Ni-đề làm theo lời Phật dạy từ trong đá bước ra mời đức vua:

”Thế Tôn mời đức vua vào bên trong”.

Vua Ba-tư-nặc thấy việc phi thường ấy sinh lòng kính nể, hết nhìn tảng đá lại nhìn thầy Tỳ-kheo, rồi tự nghĩ: Ta hãy vào thưa hỏi Thế Tôn xem thầy Tỳ-kheo này là ai? Giới đức thế nào? Sao lại có thần lực như thế?

Vua Ba-tư-nặc sau khi thăm hỏi đức Thế Tôn xong, chắp tay hỏi Phật:

”Vị Tỳ-kheo vừa rồi là ai? Thầy có thần thông quảng đại quá!”.

Phật cười nhẹ nói:

”Đó là thầy Tỳ-kheo Ni-đề, người mà đức vua muốn đến hỏi Thế Tôn hôm nay đó. Thế Tôn đã hoá độ cho ông ấy xuất gia và thành Tỳ-kheo A-la-hán.

Vua Ba-tư-nặc nghe Phật nói xong, mọi hoài nghi sầu muộn đều tiêu tan hết, sinh tâm hoan hỷ. Thế Tôn nói:

”Phàm người sinh ra ở đời giàu nghèo, khổ vui…đều do quả báo lành dữ đã tạo từ đời trước của người ấy. Giả như có người lòng nhân từ, giữ gìn hoà khí, trên kính dưới nhường, do nhân thiện này sẽ được quả báo tốt, sinh trong giàu sang; ngược lại, người gieo nhiều nhân xấu thì quả xấu cũng theo đó chiêu cảm, cuộc sống nghèo cùng, bất an”.

Sau khi nghe Thế Tôn dạy, vua Ba-tư-nặc hoan hỷ cung kính hướng về Thế Tôn bạch:

”Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Ni-đề là người thuộc giai cấp thấp cũng được Thế Tôn hoá độ thành tựu đạo quả, huống chi là những người khác. Bạch Thế Tôn, vị Tỳ-kheo này do nhân duyên gì mà phải sinh trong nhà bần cùng khốn khổ như vậy? Và được phước đức gì mà lại được Thế Tôn hoá độ, chứng quả A-la-hán?”.

Thế Tôn đáp:

”Vào đời quá khứ, sau thời Phật Ca-diếp, nơi ấy có ngôi chùa lớn, gồm cả 1.000 Tỳ-kheo tu học. Vị trụ trì của tăng đoàn này kiêu ngạo, ỷ quyền, lười biếng, bình thường hay sai đệ tử đổ phân tiểu cho mình. Song người đệ tử này đã chứng thánh quả, do nhân duyên sai khiến bậc thánh đổ phân uế nên nhiều kiếp bị quả báo, phải lang thang trong sinh tử, làm người hạ tiện đổ phân, không được giải thoát. Song do quá khứ, ông đã từng xuất gia tu học, giữ giới cấm của Phật, nên được Phật hoá độ thành Tỳ-kheo, khai tâm chứng đạo. Người trụ trì ấy chính là Ni-đề ngày nay vậy”.

Ngu trí, sang hèn hay giàu nghèo

Tất cả đều do nhân thiện ác

Phật pháp dạy người rất bình đẳng

Bần cùng xuất gia chứng thánh quả.





Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |