Jump to content

Advertisements




Sao Tử vi


2 replies to this topic

#1 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 07/12/2012 - 21:53

KHÂM THIÊN GIÁP BÍ CẤP


Tử vi miếu ở ba cung Sửu, Ngọ, Mùi, không ưa hai cung Thìn Tuất.

Tử vi thuộc âm thổ, là Bắc Đẩu chủ tinh. Trong 14 chính diệu của Đẩu Số, nó là lãnh đạo của các sao, cho nên Cổ nhân gọi là “đế diệu”, ví với hoàng đế. Do ví với hoàng đế, nên dễ nhớ đặc tính của sao Tử vi như sau:

1. Có khí quý phái, có tài lãnh đạo, có phong thái của người ra lệnh. Tài năng lãnh đạo có hoàn mĩ hay không? Mệnh lệnh có chính xác hay không? thì cần phải xem Tử vi ở cung vị nào, và hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính cát hung ra sao mới định được.

2. Có lực điều giải, tức là giỏi khống chế và làm thay đổi. Cho nên, Tử vi có thể kiềm chế các sao hung hãn như Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, Hóa Kị. Nhưng lại không tránh được ảnh hưởng của ám tinh Cự môn. Bởi vì, hoàng đế tuy có thể nhiếp phục được quần thần, nhưng lại dễ thích nghe lời sàm tấu, Cự môn giống như nịnh thần hay sàm tấu, có thể gây ảnh hưởng đến sự biểu hiện của Tử vi.

3. Có lực khắc chế, là nói đối với hai sao Thất sát và Phá quân. Phá quân giống như tướng soái ở ngoài trận địa, không nhận mệnh lệnh của quân vương, nhưng không có Thất sát thì làm sao tâu báo với Tử vi. Nhưng, "Tử vi Phá quân" đồng cung, cũng có thể biến lực phá hoại của Phá quân thành lực khai sáng.

4. Có lực cạnh tranh, đặc biệt đối thủ càng mạnh thì đấu trí của Tử vi càng mạnh. Nếu như hội hợp với các sao có sự trợ giúp cho lực cạnh tranh như Thiên phủ, Thiên tướng, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì Tử vi càng không dễ nhượng bộ, giống như bậc quân vương lấy xã tắc làm trọng.

5. Có lòng tự tôn, mà còn có tính cách mạnh mẽ, giống như hoàng đế nhất định phải giữ sự tôn nghiêm của bản thân. Cho nên, về tính cách thường có biểu hiện tự cao tự đại, thiện ác tùy tâm. Nếu Tử vi hội chiếu với sát tinh mà không có sao cát, thì dễ kích động theo kiểu: thương thì cho sống, ghét thì cho chết. Nhưng khi ở trong nghịch cảnh, Tử vi lại có thể giấu nỗi khổ trong lòng, không chịu biểu lộ.

Vì Tử vi là “đế diệu”, cho nên rất ưa trăm quan đứng chầu (bách quan triều củng), rất kị quân thần xa lánh (tại dã cô quân). Bách quan và quần thần, là chỉ các sao Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quan, Thiên quý, Lộc tồn, Thiên mã, Thiên khôi, Thiên việt. Tuy Tử vi cũng ưa Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, nhưng vẫn không bằng cách "Bách quan triều củng". Cho nên Tử vi đóng ở cung Mệnh, được "Bách quan triều củng" thì có thể đại phú đại quý. Còn được cách "Phủ Tướng triều viên" thì chỉ là cách cục không thấp, nếu chỉ mang đặc tính của Tử vi để phát huy mà thôi, thì chưa chắc có thể phú quý.

Nếu không có "trăm quan đứng chầu", mà là "quần thần xa lánh", giả dụ như ngay cả "Phủ Tướng triều viên" cũng không có được cách này, thế thì, giống như vị vua cô độc nơi hoang dã (tại dã cô quân). Lúc này Tử vi sẽ có biểu hiện xử sự thiếu hòa hợp, đây là do sự tôn quý của hoàng đế, vì vậy khác với tư tưởng của người thường.

Sao Tử vi ở trong tình cảnh "Tại dã cô quân", lại gặp Địa không, Địa Kiếp và tứ sát, thì chỉ thích hợp phát huy tư tưởng siêu thoát. Cho nên cổ nhân cho rằng trường hợp này thích hợp làm tăng nhân, đạo sĩ. Nhưng ở thời hiện đại, có thể phát triển thành nhân vật có tư tưởng đặc biệt. Nếu gặp được Tham lang, Thiên tài, hoặc Liêm trinh, thì có khả năng là nghệ thuật gia hoặc nhà thiết kế.

Nhưng nếu Tử vi trong hoàn cảnh "tại dã cô quân" lại gặp các sao Sát, sao Không, còn tương hội với Thái âm, thì trái lại, tư tưởng siêu thoát sẽ không phát huy. Do ảnh hưởng của Thái âm, sẽ biến thành người hý lộng thủ đoạn, thích giở mánh khóe.

Ngoại trừ tam phương tứ chính, Tử vi còn chịu ảnh hưởng của hai cung ở bên trái và bên phải, Tử vi rất ưa Tả phụ Hữu bật giáp cung, kế đến là Văn xương và Văn khúc giáp cung.

Nếu gặp phải Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, hoặc Kình dương và Đà la giáp cung, thì Tử vi có khả năng trở thành bạo chúa, tức là phát huy toàn bộ tính chất xấu của Tử vi.


TÍNH CHẤT Ở 12 CUNG


Tử vi độc tọa ở Tý hoặc Ngọ

Tử vi độc tọa, ở Tý không bằng ở Ngọ, bởi vì khi Tử vi ở Ngọ là nhập miếu, tài lãnh đạo và lực điều hòa chế hóa đều lớn hơn khi độc tọa ở Tý, vì vậy tài địa và tài phú cũng đều hơn hẳn.

Tử vi độc tọa, ngoài việc ưa “bách quan triều củng” ra, còn ưa Tả phụ, Hữu bật giáp cung mệnh, Văn xương, Văn khúc giáp cung mệnh, Lòng trì, Phượng các giáp cung mệnh, thảy đều làm tăng khí thế và giảm bớt vất vả cho Tử vi.

Nếu là “tại dã cô quân”, còn gặp các sao “Không”, như Thiên không, Địa không, thì thích hợp làm người truy tìm chân lý, thành nhân vật tôn giáo, cũng có thể trở thành nhân vật lãnh đạo. Gặp Hóa cái, tín ngưỡng tôn giáo càng sâu, hơn nữa còn thích tìm hiểu sự việc thần bí.

Tử vi độc tọa mà gặp đủ các sao Phụ, Tá, Sát, Hóa, thì cần phải xét xem các sao cát hung nhiều hay ít thế nào, sức mạnh của chúng ra sao, để định tốt xấu. Thông thường, phần lớn trường hợp đều chủ về có lý tưởng cao nhưng sức mạnh hành động không đủ, cần phải dùng Hậu thiên để bổ cứu cho những nỗ lực thực hiện lý tưởng của sao Tử vi.

Nếu như không có Cát tinh hội hợp mà chỉ gặp Sát tinh, thì dễ cảm thấy “có tài mà không gặp thời”, nên làm việc ở lĩnh vực kinh doanh thương mại. Chỉ cần Sát tinh nhập miếu, mà Sát tinh không nhiều, thì vẫn có thể hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại mà trở nên giầu có. Tốt nhất là được Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội hợp, dễ giầu có mà còn có địa vị trong xã hội, nhất là, càng dễ phát triển trong giới thương nghiệp. Nếu theo lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục, thì trái lại, sẽ gặp nhiều trắc trở bất đắc chí.

Sát tinh nặng, thông thường đều chủ về bất hòa, tranh chấp thị phi. Nhất là gặp phải Kình dương lạc hãm, càng chủ về kiện tụng, hoặc phải phẫu thuật ngoại khoa.

Tử vi độc tọa, cũng ưa Hóa Quyền và Hóa Khoa. Khi Hóa Quyền có thể làm tăng năng lực lãnh đạo và sức cạnh tranh, khi Hóa Khoa thì có danh tiếng, hơn nữa, theo ngành nghiên cứu học thuật để dung hợp các thuyết mà sáng tạo ra cái mới; nhưng đều khiến cho mệnh tạo tăng mạnh tính chủ quan, khó tiếp thu ý kiến của người khác.

Trường hợp Tử vi chỉ gặp một hai sao Sát Kị, thì lại chủ về dễ nghe lời nói xấu, dèm pha, thị phi.

Phàm Tử vi độc tọa, cung đối diện ắt sẽ gặp Tham lang chủ về hiếu sắc, có thêm các sao đào hoa hội hợp thì càng nặng, nếu chỉ hội hợp với Thiên hình thì chủ về tự biết kềm chế, gặp Đà la cũng có thể tự kềm chế.

Trong đại hạn hoặc lưu niên, gặp Tử vi độc tọa tại cung Hạn, cần phải xét kỹ các sao hội hợp để định cát hung. Gặp Cát tinh thì chức vị thăng tiến, thương vụ phát triển, phúc lộc đều hậu hỷ; nếu gặp Hung tinh Địa không, Địa kiếp, sao Hao (Đại hao), thì chủ về kinh tế khó khăn hoặc phá tài; có Sát tinh tương hội chủ về bất hòa, tranh chấp, trong làm ăn dẫn tới đình trệ, trong chức vụ bị giáng chức hoặc bị truất phế.

Tử vi Phá quân ở Sửu hoặc Mùi

Tử vi ở Sửu hoặc Mùi luôn luôn có Phá quân đồng độ. Đây là kết cấu tinh hệ rất có lực khai sáng. Phá quân vốn là chiến tướng tiên phong, được Tử vi cầm cương điều khiển, lực phá hoại của Phá quân nhờ vậy mà được giảm thiểu, sức sáng tạo trái lại sẽ tăng. Tuy đời người không tránh được vất vả gian khổ, nhưng nhờ có tài lãnh đạo, có tính quyết đoán, nên cũng chủ về trải qua vất vả mà có thành tựu.

Nhưng, lúc Phá quân Hóa Quyền sẽ làm tăng tính chất biến động của Phá quân, vì vậy mà đời người càng thêm biến động thay đổi. Nếu có Tả phụ Hữu bật hội hợp, có thể giảm thiểu vất vả; nếu gặp tứ Sát, thì chỉ thích hợp làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, và cần phải chú ý tính chất sáng tạo cái mới trong kinh doanh.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, đồng thời với sự khai sáng là cơ hội kiếm tiền, khiến cho sinh hoạt vật chất được sung túc, để bù đắp những vất vả đã trải qua. Nhưng như vậy, đồng thời tình cảm cũng gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử, hơn nữa, sẽ khiến cho mệnh tạo thiên về hưởng thụ nhục dục. Bởi vì lúc này sẽ gặp Liêm trinh và Tham lang đồng độ ở Tị (hoặc ở Hợi), do hội với Phá quân Hóa Lộc mà phát huy tác dụng.

Bất kể Phá quân Hóa Quyền hay Hóa Lộc, cũng chủ về khiến cho mệnh tạo trở thành phú quý, nhưng nếu đồng thời hội hợp với các sao Sát Hình Kị, thì tuy giầu có sung túc, nhưng lại dễ chuốc điều tiếng thị phi. Gặp Kình dương, Thiên Hình, Hóa Kị, còn dễ vướng vào tranh chấp kiện tụng, thích hợp theo binh nghiệp hoặc ngành pháp luật.

Tinh hệ “Tử vi Phá quân” chủ về biến động, bởi vậy trong kinh doanh làm ăn, cần phải chú ý khi cơ hội đến bất ngờ, hơn nữa, có khả năng sẽ đồng thời kinh doanh hai ba lãnh vực có liên quan với nhau, hoặc cùng một thời điểm phải giải quyết hai ba việc. Nếu là nhân viên làm thuê, thì chủ về kiêm ngành, kiêm chức, hoặc làm tăng ca, nhưng nhất định sẽ một mình đảm trách công việc.

“Tử vi Phá quân” đóng ở cung mệnh, là người thẳng thắn, nhưng nếu gặp Hoa cái, thì thích hợp nghiên cứu tôn giáo hoặc triết học.

Có điều, do mệnh tạo hay lo toan nghĩ ngợi vì nhiều biến động thay đổi, lại xét thấy Thiên phủ ở cung Phúc đức chủ về lo toan chu đáo, nên khi gặp các sao Sát, sao Không, sẽ biểu hiện tính tự tư ích kỷ. Cổ nhân nói: "Tử vi Phá quân, làm tôi thần bất trung, làm con bất hiếu" (Tử vi Phá quân, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu), còn nói: "Tử vi Phá quân mà không có Tả Hữu đồng cung, là phường quan lại hung ác" (Tử Phá đồng cung vô Tả Hữu, vô cát diệu, hung ác tư lại chi đồ), tức là đã chỉ ra bản tính tự tư ích kỷ và khuynh hướng hay lo toan nghĩ ngợi của mệnh tạo. Nhưng chỉ cần có Cát tinh hội hợp, thì những tính cách không lành này sẽ giảm nhẹ, thậm chí tiêu trừ.

Đại hạn hoặc Lưu niên mà gặp “Tử vi Phá quân” đồng độ, chủ về "khứ cựu canh tân" (bỏ cũ để đổi mới). Được Cát tinh hội hợp, đương nhiên biến động sẽ cát lợi. Nếu gặp Sát tinh, thì nên suy nghĩ kỹ, không được vội vã thay đổi. Nếu Sát tinh và Cát tinh đều có, thì phải xem đến vận hạn sau có cát hay không để quyết định làm hay dừng.

Tử vi Thiên phủ ở Dần hoặc Thân

Hai sao Tử vi và Thiên phủ đồng độ ở Dần hoặc ở Thân. Sao Tử vi là chủ tinh của Bắc Đẩu, tính thích hợp khai sáng. Thiên phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, tính lợi về bảo thủ. Cho nên khi hai chủ tinh gặp nhau, không những xung đột “một núi không thể có hai cọp”, mà tính chất còn kềm chế lẫn nhau, như vậy sẽ khó mà phát huy tác dụng. Thông thường, chỉ chủ về thanh cao, thậm chí có khả năng phát triển thành tự sùng bái mình. Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên theo sự nghiệp giáo dục, làm công chức cũng được, không nên theo nghiệp kinh doanh, nếu không, sẽ có phản ứng sai lầm, hành động không mạng lại hiệu quả tốt cho bản thân, thường đánh mất cơ hội, hoặc khéo quá mà thành vụng.

Khi “Tử vi Thiên phủ” đồng cung, nếu Tử vi Hóa Quyền hoặc Hóa Khoa, thì vầng hào quang của Tử vi càng lớn, khí quý phái càng lớn. Nếu Thiên phủ Hóa Khoa thì chỉ có khuynh hướng giữ uy tín, xem trọng lời hứa, nhưng sẽ quá khiêm cung hiền lành, thiếu năng lực lãnh đạo và khai sáng mọi thứ từ thực tế.

Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên gặp cách “Lộc Mã giao trì” đến hội hợp, chủ về phú quý song toàn; kế đến là cách “Lộc văn củng mệnh”, tức có Lộc tồn hoặc Hóa lộc và Văn xương, Văn khúc hội hợp, cũng chủ về phú quý; kế đó nữa là các phụ diệu – tá diệu hội hợp và hội chiếu, chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Nếu các sao Phụ diệu, Tá diệu không hội hợp, mà có tứ Sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, trái lại, sẽ chủ về bên ngoài thì tỏ ra trung thành mà bên trong thì gian trá, phần nhiều hay tráo trở thị phi. Nếu gặp sao Không, hoặc Không vong, là người tầm thường, cô độc, kiếm sống qua ngày.

Nữ mệnh có “Tử vi Thiên phủ”, nếu Tham lang của cung Phúc đức hội hợp với các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Thiên diêu, Hàm trì, thì rất nên xem trọng sinh hoạt tình cảm. Nếu cung Mệnh có các sao Sát Hình tụ tập, thì có thể làm kế thất, hoặc do quá tự sùng bái mình mà suốt đời không kết hôn.

Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên gặp “Tử vi Thiên phủ” thì cát lợi hơn so với gặp ở cung mệnh nguyên cục, chủ về được quý nhân trợ lực, dễ phát đột ngột. Nếu gặp Thiên khôi, Thiên việt, hoặc lưu Khôi, lưu Việt thì nhờ có thay đổi mệnh lệnh, hoặc nơi làm việc thay đổi chính sách cũng phất lên đột ngột. Trong làm ăn phần nhiều không cầu mà bỗng nhiên gặp may.

Tử vi Tham lang ở Mão hoặc Dậu

“Tử vi Tham lang” đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu, cổ nhân gọi cách này là “”đào hoa phạm chủ”, cho rằng chủ về dâm loạn. Cho nên gặp tinh hệ “Tử vi Tham lang” đồng cung, rất kỵ gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Đại hao, Thiên diêu, Mộc dục, nếu không, chủ về bản thân dễ mất kềm chế không tự chủ được trước sức hấp dẫn của người khác giới. Nếu gặp thêm Sát tinh sẽ gặp họa vì sắc đẹp. Cho dù không gặp Sát tinh cũng vẫn bị ảnh hưởng đến con đường sự nghiệp.

Nếu Tử vi Hóa Quyền, được “bách quan triều củng”, giống như thiên tử phong lưu ở thời thái bình, chủ về phú quý đa tình. Tử vi Hóa Khoa gặp Cát tinh tuy có danh tiếng, nhưng vẫn thiên nặng về nhục dục và ham muốn vật chất.

Nếu Tham lang Hóa Lộc, chủ về giao tế thù tạc nhiều, thiên nặng về ham muốn vật chất, nhưng lại có tài vận hanh thông. Tham lang Hóa Quyền, ham muốn vật chất cũng nặng, nhưng phải trải qua cạnh tranh mới có được thành tựu. Tham lang Hóa Kị, tuy giảm sắc thái đào hoa, nhưng tài năng và tài nghệ lại rất khó phát huy và phát triển, những ham muốn vật chất khó toại nguyện.

Tử vi đồng độ với Tham lang, ưa gặp Tả phụ, Hữu bật đồng cung, mà không ưa Văn xương, Văn khúc. Nếu gặp Văn xương Văn khúc đồng cung, thì khuynh hướng hấp dẫn người khác giới càng lớn, đồng thời còn chú trọng trang điểm trải chuốt về biểu hiện hình thức bề ngoài hoàn mỹ, cho nên hành sự “giả nhiều mà thực ít”. Nếu gặp Tả phụ và Văn xương, hoặc Hữu bật và Văn khúc giáp cung Mệnh, thì trái lại, sẽ dễ phát huy tài chí, sự nghiệp có thành tựu. Cổ nhân nói: “Tả Hữu Xương Khúc giáp chế”, theo bí truyền của Trung Châu phái, đây là cách nói “giao thoa nhau mà giáp cung mệnh”, bởi vì tinh hệ “Tử vi Tham lang” vĩnh viễn không có khả năng “Tả Hữu giáp mệnh”.

“Tử vi Tham lang” mà gặp Sát tinh, chỉ nên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng Sát tinh nặng cũng có thị phi, tranh chấp. Nếu lại gặp sao Không và Hoa cái, trái lại, sẽ sinh nhai bằng nghiệp hoạt động tôn giáo.

Nữ mệnh có “Tử vi Tham lang”, gặp đào hoa và Sát tinh, dễ rơi vào chốn phong trần. Kị nhất là gặp sao Kình dương, khi các sao đào hoa tụ tập, thì nguy cơ rơi vào chốn phong trần càng lớn, đồng thời cũng vì vậy mà ham muốn vật chất có khuynh hướng trụy lạc. Khi cung mệnh an tại Dậu, phải mượn tinh hệ “Tử vi Tham lang” ở Mão để an cung, thì càng cần phải chú ý.

Cung mệnh của lưu niên, hoặc cung mệnh của đại hạn mà gặp tinh hệ "Tử vi Tham lang", tính chất đào hoa sẽ nhẹ hơn khi gặp ở cung mệnh nguyên cục. Thông thường, nếu hội hợp với các Cát tinh chủ về ít có sự biến động thay đổi nhưng lại khó tiến bộ, nếu hội hợp với các Sát tinh mà không gặp các sao Hình Kị thì lại có thể tiến bộ. Còn khi các Sát tinh hội tụ lại gặp thêm các sao Hình Kị, chủ về vì sắc mà phá tài, chuốc họa, hoặc vì thù tạc mà chuốc điều tiếng thị phi.

Tử vi Thiên tướng ở Thìn hoặc Tuất

“Tử vi Thiên tướng” đồng độ ở Thìn hoặc ở Tuất, biết rằng Tử vi là đế diệu, Thiên tướng là sao “ấn”, thoạt nhìn có vẻ là một kết cấu rất lý tưởng, nhưng khi hai sao này đồng cung, thì lại vì Phá quân ở cung đối diện xung chiếu mà thay đổi tính chất. Đây là một ví dụ, mà Trung Châu phái xem trọng đặc tính của toàn bộ kết cấu các tinh hệ trong mệnh bàn.

Tinh hệ “Tử vi Thiên tướng” rất ưa được Lộc tồn hội chiếu, có thể giầu có, nhưng thành kiến chủ quan cực nặng, mà còn thích tranh quyền, nên dễ bị nhiều người không chấp nhận mà gây áp lực chèn ép, nặng hơn còn bị loại bỏ. Nếu không có Lộc tồn và Tử vi Hóa Quyền, thì tính thích tranh quyền càng diễn biến kịch liệt; nếu không có Lộc tồn mà Tử vi Hóa Khoa, tính thích tranh quyền tuy có giảm, nhưng lòng tự tôn và trọng danh dự càng nặng nề, dễ bị người ta úy kị.

Nếu tinh hệ “Tử vi Tham lang” không gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì tinh hệ này ưa được “bách quan triều củng”, không ưa các sao Sát Kị hội hợp. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, thì sự nghiệp có thể thành tựu, tính tình ôn hòa nhân hậu chủ về kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo. Nhưng vì ảnh hưởng của Phá quân ở cung đối diện xung chiếu, nên trong đời người ắt phải trải qua một lần sóng gió, trắc trở.

Nếu không gặp Cát tinh, mà có tứ Sát hội hợp, thì lấy trường hợp Kình dương, Đà la là khá tốt, thích hợp hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Nếu gặp Hỏa tinh Linh tinh, do Tử vi phải hao phí sức lực hóa giải nên tăng thêm vất vả, gian khổ. Giả dụ như gặp Hỏa tinh, Linh tinh, mà còn gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên Hình, chủ về gặp bất hạnh, tinh thần bị kích thích mạnh, hoặc mắc bệnh tim. Phàm tinh hệ Tử vi Thiên tướng thủ mệnh, dù không gặp Sát tinh, cũng nên chú ý sức khỏe tim mạch, nên chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Nếu có nhiều Sát tinh hội hợp, chủ về phát triển một cách nhanh chóng rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng, có những ứng xử biểu hiện vô tình vô nghĩa. Nếu có thêm Cát tinh tương hội, chủ về đời người trải qua nhiều sóng gió trắc trở, cuộc đời có bước ngoặt đặc biệt, hoặc gặp bất hạnh bất ngờ. Nhưng trong ngẫu nhiên vô tình vẫn có biểu hiện vô tình lạnh nhạt.

Nữ mệnh gặp tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cần chú ý quan tâm đến sinh hoạt tình cảm, đồng thời phải lưu ý đến đặc tính “vô tình vô nghĩa” của tinh hệ này mà biết tự mình kềm chế bản thân, thì mới được hưởng cuộc sống an lành, tuy nhiên trong tình yêu ắt khó tránh được cảnh sóng to gió lớn.

Cung mệnh của lưu niên, hoặc cung mệnh của đại hạn có tinh hệ Tử vi Thiên thướng, nếu gặp các sao Sát Kị, ắt sẽ bị nhiều trở ngại rồi sinh lòng thay đổi, như mong muốn thay đổi việc làm nhưng lại không được. Gặp Cát tinh thì vận hạn thuận lợi toại ý, sự nghiệp có thành tựu.

Tử vi Thất sát ở cung Tị hoặc Hợi

Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung, có uy thế không ai so bì được. Cho nên chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa, còn có tư tưởng độc đáo.

Thông thường, tinh hệ “Tử vi Thất sát” có thể xem là tượng trưng cho quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa Quyền, vì khi Tử vi Hóa Quyền chủ về có lòng ham muốn quyền lực quá cao, có biểu hiện “khí bá đạo”, khiến cho cộng đồng làm việc xa gần rất khó chấp nhận.

Tinh hệ “Tử vi Thất sát” rất cần các Cát tinh hội chiếu. Như có Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, khi được những Cát tinh này hội hợp, thì tính cương dũng của Thất sát có đất dụng võ, đây là cái gọi là “hóa sát làm quyền” của cách cục này. Nhưng, giả dụ không có những Cát tinh hội chiếu, thì cách cục này giống như “anh hùng thảo dã biến thành giặc cướp”, khó tránh khỏi có những biểu hiện “tàn nhẫn bá đạo”, chủ về phát triển lên một cách nhanh chóng, rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng.

Nếu như không có những Cát tinh, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh được “hình thương, khắc hại”.

Nữ mệnh gặp tinh hệ “Tử vi Thất sát”, nếu gặp Sát tinh, tuy có cơ hội thay đổi nhưng lại khó được như ý nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội thì phải chấp nhận trải qua sự biến động thay đổi, thì mới có được ích lợi.

=== o0o ===


TỬ VI TINH QUYẾT


1.1. Tử vi tổng luận

Tử vi là chủ tinh của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ. Trong Đẩu Số, sao Tử vi có địa vị chí tôn chí quý, cho nên cổ nhân ví với “đế tọa”, tức là, ví Tử vi là vua một nước. Vua của một nước tuy tôn quý, nhưng không phải việc gì cũng nhất định sẽ như ý. Vì vậy, muốn luận đoán tính chất của sao Tử vi trong mệnh bàn, cần phải căn cứ vào sự hội hợp hoặc đồng độ của các sao mà định.

Tử vi không nên làm “cô quân”, vì vậy rất ưa “bách quan triều củng”. Cái gọi là “bách quan”, cũng phân chia thành hai hệ: một là hệ Chính diệu; hai là hệ gồm có Phụ diệu, Tá diệu và Tạp diệu.

Hệ Chính diệu “triều củng” Tử vi, cần phải có sao Thiên phủ và sao Thiên tướng mới hợp cách. Thiên phủ là “kho tiền”, Thiên tướng là “quan ấn”. Quân vương không có “kho tiền” thì không thể lập quốc; quân vương không có “quan ấn” thì không thể ban hành mệnh lệnh.

Dù được “Phủ Tướng triều viên” vẫn cần phải nghiên cứu tính chất của Thiên phủ và Thiên tướng trong tinh bàn.

Khi Thiên Phủ “triều củng” sao Tử vi, thì sao Thiên phủ rất ưa gặp sao Lộc, trong đó gặp Vũ Khúc Hóa Lộc là thượng cách, trường hợp gặp Liêm Trinh Hóa Lộc là kế đó, trường hợp gặp Lộc Tồn là sau cùng. Được sao Lộc thì “kho tiền” đầy. Không nên đồng độ với Địa không, Địa kiếp, Thiên không, cũng không ưa Chính Tiệt không và Chính Tuần không. Sao “Không” đồng cung với Thiên Phủ là “kho trống”, cho dù hội hợp với Tử vi cũng không có tác dụng.

Khi Thiên Tướng “triều củng” sao Tử vi, thì sao Thiên tướng rất ưa gặp cách “Tài ấm giáp ấn”, tức là Thiên Đồng Hóa Lộc, hoặc Cự Môn Hóa Lộc, cùng với Thiên Lương giáp cung Thiên tướng tọa thủ; rất kỵ gặp cách “Hình kị giáp ấn”, tức là Thiên Đồng Hóa Kị, hoặc Cự Môn Hóa Kị, cùng với Thiên Lương giáp cung Thiên Tướng tọa thủ. Kình dương và Đà la giáp cung Thiên Tướng tọa thủ, chủ về có tính chất không lành.

Phụ diệu “triều củng” Tử vi, rất ưa Tả phụ, Hữu bật cùng giáp cung, tình huống này chỉ thấy ở Sửu hoặc ở Mùi, tinh hệ được giáp là Tử vi Phá quân. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật ở tam phương hiệp trợ, chủ về cuộc đời có nhiều trợ lực đắc dụng, hoặc nhiều thuộc hạ trung thành và có năng lực.

Sao Tử vi cũng ưa Thiên khôi, Thiên việt ở tam phương hội hợp và tứ chính hiệp trợ, chủ về làm tăng tài lãnh đạo của mệnh cách, đồng thời cũng chủ về cuộc đời của mệnh tạo gặp nhiều điều tốt lành.

Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, rất ưa Văn xương, Văn khúc, làm tăng mạnh tư tưởng cao thượng thanh nhã cho mệnh tạo, làm giảm khuyết điểm độc đoán, tự cao tự đại của sao Tử vi. Chỉ có trường hợp Tử vi đồng cung với Tham lang, gặp Văn xương Văn khúc mới làm tăng mạnh thêm sắc thái đào hoa.

Sao Tử vi cũng ưa gặp Lộc tồn, Thiên mã, đối với Tá diệu, điều này thường khiến tư tưởng của mệnh cách có những thay đổi, nhưng đối với người có Tử vi tọa mệnh, còn có tác dụng dung hòa được khuyết điểm “cầu danh bất cầu lợi”, thậm chí “cầu khí bất cầu tài”.

Có thể gọi là Tạp diệu “triều củng” như ví dụ sau:


- Tam thai và Bát tọa làm tăng địa vị của mệnh cách, bởi vì hai Tạp diệu này là tùy tùng.

- Ân quang và Thiên quý làm tăng danh dự của mệnh cách, bởi vì hai Tạp diệu này chủ về vinh dự.

- Long trì và Phượng các làm tăng danh giá của mệnh cách, bởi vì hai Tạp diệu này chủ về tài nghệ.

- Thiên phúc và Thiên thọ làm tăng sự thông đạt của mệnh cách, bởi vì hai Tạp diệu này chủ về phúc thọ.


Còn tam cát hóa Lộc Quyền Khoa thì không gọi là “triều củng”, mà chỉ có tác dụng rất lớn ở phương diện cải thiện vận thế.

Sao Tử vi nhập miếu, nếu không có “bách quan triều củng” thì còn khá. Nếu sao Tử vi lạc hãm, mà còn không có “bách quan triều củng”, thì gọi là “tại dã cô quân”. Tính chất của “tại dã cô quân”, lại có thể phân chia thành hai loại:


- Tại dã cô quân” gặp sao “Không”

- Tại dã cô quân” không gặp sao “Không”.


Khi sao Tử vi trong tình trạng “tại dã cô quân” lại gặp sao “Không”, chủ về mệnh tạo là người tuy có thành kiến rất nặng, nhưng lại có tư tưởng siêu thoát. Cho nên, nếu gặp thêm Hoa cái, Thiên hình, thì có khuynh hướng nghiên cứu triết lý hoặc tôn giáo. Càng nên gặp hai sao Thiên đức và Bác sỹ, nếu đồng thời còn gặp thêm Văn xương hoặc Văn khúc, chủ về mệnh cách lỗi lạc bất phàm.

Khi sao Tử vi ở hoàn cảnh “tại dã cô quân”, mà không gặp sao “Không”, chủ về người xử sự khô cứng không uyển chuyển, không thể ra lệnh, nhưng lại không chịu cúi đầu nhường bước, phạm lỗi lầm về đường ăn lẽ ở với người, vì vậy, gây nên những khó khăn trở ngại lớn cho mệnh cách.

Khi Tử vi ở trong tình cảnh “tại dã cô quân” thì không nên gặp các sao Sát Kị. Đã gặp sao “Không” mà còn gặp thêm các sao Sát Kị, chủ về người không thể nhờ được sự giúp đỡ của người thân, lục thân duyên bạc. Thời xưa, là mệnh cách làm tăng nhân, đạo sỹ. Không gặp sao “Không” mà gặp các sao Sát Kị, thì cuộc đời phần nhiều gặp thị phi phiền toái. Trong vận hạn mà gặp nó, cũng chủ về gặp chuyện kiện tụng, hoặc bệnh tật phải phẫu thuật.

Tình hình thường gặp nhất là Tử vi tọa mệnh, mà các sao Cát và sao Hung cùng tụ tập ở tam phương tứ chính. Lúc luận đoán, cần phải biết tường tận tính chất cá biệt của từng Sao, không được bỏ sót.

Ví dụ như tinh hệ Tử vi Phá quân tọa mệnh ở Sửu, được Tả phụ Hữu bật cùng giáp cung, nhưng ở Dậu gặp Kình dương, ở Mùi gặp Đà la; tinh hệ kết cấu dạng này, chủ về nhờ Tả phụ Hữu bật giáp cung mà có nhiều trợ lực, nhưng không tránh được những tranh chấp bất ngờ về phương diện sự nghiệp, và lúc còn trẻ thường gặp bất lợi, ví dụ như phá tướng.

Trong những tình huống thông thường, khi Cát tinh và Hung tinh tụ tập, gặp sao Lộc chỉ lợi về kinh doanh làm ăn; gặp Văn xương Văn khúc mà có Sát Kị hội hợp, thì có thể thành nhân tài chuyên nghiệp.

Trong các Sát tinh, Tử vi chỉ sợ Kình dương và Đà la, mà không sợ Hỏa tinh và Linh. Nhưng cũng không ưa Kình dương Đà la và Hỏa tinh Linh tinh đồng thời hội hợp. Tứ sát cùng hội chiếu thì Tử vi trở thành “bạo chúa”, cá tính quá nặng về ưa ghét thành kiến, tâm chí đê tiện mà nhu nhược, lại ứng xử độc đoán cao ngạo.

Nếu là Kình dương và Đà la giáp cung thì dễ chuốc oán. Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung thì vất vả gian khổ nhiều. Cả hai trường hợp đều chủ về việc gì cũng phải tự mình làm.

Sao Tử vi phân bố ở 12 cung, có thể chia thành 6 loại kết cấu, như: “độc tọa”, “Tử vi Phá quân”, “Tử vi Thiên phủ”, “Tử vi Tham lang”, “Tử vi Thiên tướng”, Tử vi Thất sát”. Cung đối diện xung chiếu gồm những sao Thất sát, Phá quân, Tham lang và Thiên phủ. Có thể thấy Tử vi có quan hệ rất lớn đối với 4 sao này. Nói một cách khái quát, trong 12 tinh hệ của sao Tử vi, thì các trường hợp Tử vi độc tọa, Tử vi Phá quân, Tử vi Thất sát là có thể trở thành mệnh cách tốt lành, còn hai trường hợp tinh hệ Tử vi Tham lang và Tử vi Thiên tướng cần phải suy tính luận đoán kỹ lưỡng và cẩn thận hơn.

1.2. Tử vi biệt luận

1.2.1- Tử vi tọa mệnh, có tốt có xấu
Trong Tử vi Đẩu Số, các sao trong hai hệ Bắc Đẩu và Nam Đẩu đều phải theo sao Tử vi mà bày bố, do đó cổ nhân xem nó là “đế tinh”, tức có ý vị của một lãnh đạo.

Nhìn từ góc độ tốt, người có sao Tử vi tọa thủ cung Mệnh, về đại thể đều “phùng hung hóa cát”, cục diện càng khốn khó lại càng phát huy tài năng một cách ung dung mà không rối loạn, đồng thời cũng khá có chủ kiến. Nhưng xét từ mặt xấu, thường thường biến thành người mang tính cô độc và độc đoán, đồng thời còn là người nhiều ngạo khí.

Cho nên, gặp người có Tử vi thủ mệnh, ngoại trừ xem tam phương tứ chính của cung Mệnh, còn phải xem cung Phúc đức, nếu cung Phúc đức tốt, thì mệnh tạo một đời được hưởng nhiều phúc khí. Ngoài ra, còn phải xem học vấn của mệnh tạo, nếu gặp Văn xương Văn khúc hoặc Hóa Khoa, nhờ có học vấn mà đưa ra những quyết định đúng, không phạm sai lầm, mặc dù tính cách là người độc đoán. Nhưng, phán đoán của mệnh tạo nhất thời sẽ không làm cho người ta tin phục, mà còn khiến cho người ta thấy đặc tính “thích cố chấp”, bởi vì mệnh tạo có cái nhìn xa, đi trước người khác nhiều bước. Đồng thời tính khí của mệnh tạo không dễ dàng ứng xử theo cách “tùy thuận hòa đồng”, “không chịu phụ họa theo người”. Vì vậy, càng khiến cho người ta nhận định về mệnh tạo là “người thiên kiến”. Nếu đã từng biện luận kịch liệt, thì sau chuyện đó, cho dù mệnh tạo có liệu việc đúng như thần, cũng chưa chắc người khác đã tâm phục khẩu phục. Đây là bi kịch trong vận mệnh của người có sao Tử vi thủ mệnh. Giả dụ như cung Sự nghiệp hoặc cung Tài bạch hơi kém, thì địa vị xã hội không cao, rất khó khiến cho người ta phục tùng, kết quả phát triển thành nguy cơ có tính phẫn thế và ghét đời. Cổ nhân nói sao Tử vi mà gặp các Sát tinh tụ hội nặng, hoặc gặp các sao “Không”, chủ về làm tăng nhân hay làm đạo sỹ, về điều này thì cần phải xem xét sâu thêm một bậc.

Sao Tử vi nhập Mệnh mà không gặp Văn xương Văn khúc hoặc Hóa Khoa, chủ về có học hành mà không có thành tựu. Nếu là người ít có học thức, thường đưa ra những phán đoán dễ phạm phải sai lầm, nhất là người có cung Phúc đức xấu, sẽ biến thành bạo ngược một cách thô bỉ.

Cổ nhân nói, sao Tử vi ưa gặp lục Cát tinh, tức là Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, nguyên nhân phần lớn là vì những lý lẽ đã luận thuật ở trên. Gặp Văn xương Văn khúc là có học có hành mà gặt hái được thành tựu. Gặp Tả phụ Hữu bật là có trợ lực mà đạt được hiệu quả thiết thực. Gặp Thiên khôi Thiên việt là có cơ hội mà lại đúng thời đúng vận. Thảy, đều có thể nâng cao vị thế của người có sao Tử vi thủ mệnh, có ảnh hưởng rất lớn tới vận trình cuộc đời của mệnh tạo.

1.2.2- Tử vi và Thiên phủ đồng cung, không nhất định được hưởng nhiều phúc.
Tử vi và Thiên phủ là hai chủ tinh, tình hình cùng ở một cung chỉ có hai trường hợp, một ở Dần hoặc ở Thân; và nhất định cung Tài bạch sẽ gặp Vũ Khúc; cung Sự nghiệp nhất định gặp Liêm Trinh và Thiên Tướng; cung đối diện xung chiếu tất nhiên phải là sao Thất Sát. Đây là phối hợp cố định “tam phương tứ chính” của mệnh bàn.

Theo lý, kết cấu phối hợp khá mạnh, có thể nói mệnh cách là một “chuyên gia nội các”. Tử vi và Thiên phủ thủ mệnh, tài tinh Vũ Khúc thủ cung Tài bạch, Thiên tướng là “ấn tinh” thủ cung Sự nghiệp, sao Liêm Trinh lại chủ về người có tài năng, thêm vào đó, cung đối diện có sao Thất Sát xung phong hãm trận, đúng là người có thể “công” mà cũng có thể “thủ”, ví như ở trong trướng mà quyết thắng ngàn dặm.

Nhưng, khi các sao hữu lực tập trung quá nhiều, lại dễ gây ra biến hóa thay đổi. Tử vi độc đoán, Thiên phủ vững vàng, Tử vi quyết đoán, Thiên phủ không có chủ kiến; hai sao này đều là Chủ tinh mà cùng ở một cung, dễ xảy ra tình hình kềm chế lẫn nhau.

Cần nói, do Cát tinh đều tập trung ở tam phương tứ chính, nên các cung còn lại sẽ chỉ còn một số sao vô lực hoặc không cát tường. Do đó, cung mệnh của đại hạn và cung mệnh của lưu niên mà đến cung này, so với cung mệnh nguyên cục, các sao vô lực thường sinh ra tình huống “mệnh tốt mà vận xấu”, khiến cho mệnh tạo cảm thấy “tâm so với trời cao, mà thân thì thấp hèn”.

Cho nên, cuộc đời có được hưởng phúc nhiều hay không, còn phải xem sự phối hợp của tứ Sát tinh và lục Cát tinh mà định. Người có mệnh “Tử vi và Thiên phủ đồng cung cách” rất ưa được Lộc tồn đồng cung hoặc ở cung đối diện xung chiếu. Đây cũng là vì hai sao Tử vi và Thiên phủ không có Hóa Lộc, cho nên đặc biệt thích Lộc Tồn.

1.2.3- Tử vi và Tham lang đồng cung, có phải là “đào hoa phạm chủ” không ?
Cổ ca Thái vi phú nói “Đào hoa phạm chủ là cực dâm”. Nói “Đào hoa phạm chủ” tức là Tử vi và Tham lang đồng cung. Tình hình này chỉ xảy ra ở Mão hoặc ở Dậu.

Sao Tham Lang thực ra là sao “giao tế”, hễ người có sao Tham lang tọa Mệnh hoặc tọa cung Phúc đức, thậm chí tọa cung Thiên di, đều có tài giao tế rộng, nhất là ở cung Mệnh, khả năng diễn đạt ngôn ngữ sâu rộng, năng khiếu về các ngôn ngữ địa phương nắm bắt nhanh, trí nhớ tốt. Nếu hội các sao Văn xương, Văn khúc, Thiên tài, Bác sỹ, ngoài việc khéo giao tế ra, nhất định còn có thú vui “cầm kỳ thư họa”, “phong lưu thi tửu”, tinh thông các môn âm nhạc.

Khi Tử vi tọa mệnh mà gặp Tham lang, bản chất khéo giao tế và tính “phong lưu thi tửu” sẽ vì vậy, mà thường tự tư ích kỷ, dễ biến thành chìm đắm trong hưởng thụ nhục dục. Cho nên, ở đây là kết quả của việc hai sao Tử vi và Tham lang gặp nhau. Do đó, người có “Tử vi Tham lang” tọa Mệnh, nếu phát triển trên con đường chính giới thì sẽ có thành tựu, có thể trở thành văn học gia hoặc nghệ thuật gia, nói “phong lưu mà không hạ lưu” là như vậy.

Có thể phát triển theo con đường chính giới hay không, phải xem các sao hội hợp có liên quan. Nếu gặp phải Kình dương, thì sẽ bị nó phá hoại, khiến cho tính chất văn hóa văn nghệ của Tham lang có khuynh hướng chuyển thành hạ lưu, ví dụ như thích xem tranh ảnh khiêu dâm, thích nghe dâm khúc, thích đọc tiểu thuyết sắc tình, tính thích “phong lưu thi tửu” sẽ vì vậy mà biến thành hạ lưu. Lúc này muốn phát triển theo con đường chính sẽ rất khó. Nếu hội hợp thêm Cát tinh, như Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, hoặc hội hợp với các sao chủ về “tính kỷ luật” như Hóa Kị, sao “Không”, Thiên hình, thì phát triển theo con đường chính giới sẽ dễ hơn.

1.2.4- Tử vi Phá quân thủ mệnh, vì người khác mà bôn ba !
Nếu sao Tử vi ở Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ đồng độ thủ mệnh cùng với sao Phá quân. Luận đoán phối hợp, tinh hệ “Tử vi Phá quân” phải là không tệ, bởi vì Tử vi là đế tọa, Phá quân lại có “uy quyền”, hai sao phối hợp, chủ về có sức mạnh đột phá và thanh thế dữ dội.

Mệnh cách như vậy rất ưa gặp Lộc tồn. Người tọa mệnh ở Sửu, sinh năm Bính, cung Sự nghiệp sẽ gặp sao Lộc, sinh năm Tân cung Tài bạch sẽ gặp sao Lộc. Người tọa mệnh ở Mùi, sinh năm Nhâm cung Sự nghiệp sẽ được gặp sao Lộc, sinh năm Ất cung Tài bạch sẽ được gặp sao Lộc, chủ về có sự giúp đỡ cho toàn bộ mệnh cách. Nhưng vẫn lấy cho trường hợp gặp sao Lộc ở cung Sự nghiệp là tốt nhất, lợi về phát triển trong chính giới, hoặc có lợi ở môi trường cơ cấu công cộng. Nếu gặp sao Lộc ở cung Tài bạch, tuy kinh doanh làm ăn có thể phát đạt, nhưng khó tránh phải gặp sóng gió trắc trở. Vì trước sau, Phá quân vẫn tồn tại một lực xung kích, mà biến động thay đổi ắt phải lớn, thậm chí thường thường khi ra một quyết định sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh một đời Tuy có Tử vi quản chế, cũng khó tránh vất vả, nhất là chủ về nhiều lo toan nghĩ ngợi.

Nếu như hội hợp với Sát tinh, thì tình trạng lo toan nghĩ ngợi sẽ thiên về bản thân, ích kỷ, mà còn thường cậy quyền thế để đạt được mục đích của bản thân. Cho nên, cổ thư cho rằng mệnh tạo “là tôi thần bất trung, là con bất hiếu”. Nhưng nếu hội hợp với Cát tinh, như Tả phụ, Hữu bật, sẽ chủ về người thẳng thắn, có tài năng lãnh đạo, có thể làm công tác lãnh đạo trong công ty lớn hoặc cơ quan nhà nước.

Thời xưa cho rằng, thương nhân nhất định phải là người giảo hoạt, nên người xưa nói: “Tử vi Phá quân thủ mệnh, gặp Kình dương Đà la, thích kinh doanh làm ăn”. Thực ra người có mệnh cách loại này, vẫn có mặt “chính trực” của họ, ở thời đại ngày nay chưa chắc thích hợp phát triển trong giới doanh thương, trừ phi người này kinh doanh theo phương thức có tính sáng tạo, phát minh.

Phàm là người có “Tử vi Phá quân” thủ mệnh, thường có thể kiêm nhiều chức vụ, hoặc đồng thời làm hai nghề. Tuy có cảm giác mệt mỏi, nhưng mệnh tạo lại lấy sự bận rộn vất vả làm sự hưởng thụ. Do đó nếu như các sao của cung Phu thê không tốt, người có mệnh cách loại này, duyện phận vợ chồng cũng sẽ có khiếm khuyết, đây là nhược điểm của họ.

1.2.5- Tử vi Thiên tướng đối Phá quân, có kỹ năng đặc thù
Tử Vi Đẩu Số toàn thư nói: “Tử vi gặp Phá quân ở Thìn Tuất Sửu Mùi là tôi thần bất trung, là con bất hiếu”.

Câu này biểu hiện rõ ràng cổ nhân cho rằng, Tử vi phối hợp với Phá quân là không lành.

Tử vi ở Thìn hoặc ở Tuất ắt sẽ có Thiên tướng cùng thủ tọa, ở cung đối diện xung chiếu ắt sẽ gặp Phá quân. Chiếu theo thuyết của cổ nhân, dường như cho rằng, Tử vi và Phá quân đồng cung thì tốt hơn Tử vi và Thiên tướng tương xung với Phá quân, bởi vì “Tử vi Phá quân tọa mệnh ở Sửu Mùi, thêm sao Cát, rất phú quý”, còn “Tử vi ở Thìn Tuất gặp Phá quân, là vua tôi bất nghĩa, giầu mà không sang, có hư danh”. Rõ ràng ở hai cung Thìn hoặc Tuất là không bằng ở hai cung Sửu hoặc Mùi.

Tại sao đồng cung lại tốt hơn ở cung đối diện xung chiếu ?

Then chốt của vấn đề có hai điểm:

Một là, Thìn và Tuất là “Thiên la Địa võng”. Sao Tử vi bị khốn trong “Thiên la Địa võng”, giảm bớt sức mạnh “chế hóa” Phá quân.

Hai là, Thiên tướng là sao giữ “ấn”, tính cách ổn trọng, trở thành sao bạn của Tử vi, về phương diện tính cách cũng có tác dụng thoái lui, giảm bớt lực “chế hóa” của Tử vi đối với Phá quân.

Do đó, phàm là người có Tử vi thủ mệnh ở Thìn hoặc ở Tuất, sẽ có nhược điểm về tính cách, bản thân thích mạo hiểm, nhưng lại xúi dục người khác xung phong đi đầu, rồi sau bản thân mới chịu tiến tới. Tính cách này, cổ nhân nói là “vua tôi bất nghĩa”. Phân tích cho thấy, đây là ảnh hưởng của Phá quân và Thiên tướng đối với sao Tử vi.

Người có mệnh cách phối hợp loại này, rất ưa Phá quân hoặc cung mệnh gặp sao Lộc, bất kể là Hóa Lộc hay Lộc tồn đều được, có sao Lộc thì có thể kềm chế Phá quân, khiến cho tính mạo hiểm và lực phá hoại của Phá quân giảm bớt.

Cũng ưa có Tả phụ hoặc Hữu bật đồng cung với sao Tử vi (cho nên lợi cho người sinh vào tháng 1 và tháng 7). Bởi vì, Tả phụ Hữu bật làm mạnh thêm lực chế hóa của Tử vi đối với Phá quân. Có điều, lúc này cũng sẽ làm mạnh thêm tính cách độc đoán, độc hành của Tử vi, vì vậy mà biểu hiện cá tính mạnh mẽ, hỷ nộ tùy ý.

Nhưng người có Tử vi Thiên tướng thủ mệnh gặp Phá quân, ắt sẽ có kỹ năng đặc thù, trong đời cũng sẽ có một hai lần gặp vận may đặc biệt, đây là đặc điểm của mệnh cách này.

1.2.6- Mệnh cách Tử vi Thất sát, tay trắng làm nên
Tử vi thủ mệnh ở Tị hoặc ở Hợi, ắt sẽ đồng độ với Thất sát. Cổ nhân đánh giá mệnh cách “Tử vi Thất sát” rằng: “Tử vi Thất sát hóa Quyền, thì cát tường”, “Tử vi Thất sát thêm sao Không, chủ về có hư danh hưởng phúc ấm”, “Tử vi Thất sát đồng cung, gặp tứ sát tinh là không quý, chủ về cô độc, hình thương”.

Sao Thất sát và sao Phá quân trong Đẩu Số tuy cùng loại “thượng tướng”, nhưng tính chất lại có phân biệt.

Thất sát thuộc âm Kim, mang Hỏa khí, còn Phá quân thì thuộc âm Thủy. Cho nên Thất sát mang sát khí, còn Phá quân thì có lực phá hoại. Vì vậy Thất sát chủ về biến động, không biến động thì thôi, sẽ vĩnh viễn không biến động, còn một khi đã biến động, thì sẽ biến động lớn và lâu dài. Phá quân cũng chủ về biến động, nhưng biến động nhiều lần một cách bất thường, và rất hao tổn nguyên khí, có khuynh hướng phá hoại.

Tử vi và Thất sát phối hợp, cũng giống như Tống Giang và Lâm Xung, còn Tử vi và Phá quân phối hợp, cũng giống như Tống Giang và Lý Quỳ, trong Thủy hử truyện.

Do đó, người có Tử vi và Phá quân thủ mệnh, cuộc đời có ít nhiều kịch tính; còn người có Tử vi và Thất thủ mệnh, lại có khí khái đường đường.

Thông thường người có Tử vi và Thất sát thủ mệnh có năng lực khai sáng, có thể tay trắng làm nên, không sợ khốn khó, thậm chí khốn khó càng lớn thì “sức khai sáng” cũng càng lớn, phát đạt thì càng rực rỡ. Xét từ phương diện tính cách, người có mệnh cách loại này nhất định có cá tính mạnh, không chịu phục tùng. Vì vậy người có mức độ giáo dục khác nhau, tuy cùng một mệnh cách, vẫn có những biểu hiện cực kỳ khác nhau. Có người sáng lập được sự nghiệp, cũng có người chỉ là kẻ hung hăng ở chốn chợ búa.

Cho nên, Tử vi và Thất sát đồng cung, điều tối quan trọng là xem sự phối hợp của hai sao Văn xương và Văn khúc, và cung Phụ mẫu gặp Cát tinh hay là Sát tinh, những điều này đều quan hệ đến cơ hội giáo dục của mệnh tạo.

Nhưng người có Tử vi và Thất sát đồng cung, trước sau vẫn có hai nhược điểm về tính cách: Một là, lúc thuận lợi thì ỷ vào quyền thế mọt cách quá đáng; còn lúc ở vào nghịch cảnh thì lại đầu cọp mà đuôi rắn. Sự thành bại của mệnh tạo có quan hệ rất lớn với hoàn cảnh thuận, nghịch nhiều hay ít của đại hạn.


TỬ VI TINH LUẬN QUYẾT MỆNH VIÊN


Sao Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, nếu là trường hợp “bách quan triều củng”, thì rất ưa đến cung mệnh đại hạn và cung mệnh lưu niên được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa.

Nếu Tử vi Hóa Quyền hoặc Tử vi Hóa Khoa ở nguyên cục mà không có “bách quan triều củng”, thì ưa đến cung mệnh đại hạn hoặc cung mệnh lưu niên có các sao Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật hội hợp.

Nếu nguyên cục vốn là cách “tại dã cô quân”, đến niên hạn dù được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì cát lợi cũng nhỏ, e rằng chỉ là nhất thời đắc ý.

Nếu nguyên cục vốn là cách “vô đạo cô quân”, lại đến niên hạn có các sao Sát Kị tụ tập, thường chủ về tai họa, phần nhiều là tự chuốc lấy họa.

Phàm là Tử vi độc tọa thủ mệnh, đều ưa đến cung hạn Thiên phủ hay Thiên tướng tọa thủ, ưa nhất là cung hạn Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ.

Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ ưa có Lộc tồn đồng độ. Có điều, khi Tử vi “tại dã cô quân” thì phần nhiều chủ về ích kỷ, rất hay nghi kỵ. Đến niên hạn có các sao Sát Kị Hình đồng thời hội chiếu, phần nhiều chủ về hay oán trách, thị phi, thường còn gây nên tự họa kiện tụng.

Phàm là Tử vi tọa mệnh đều không ưa đi đến cung hạn Thiên Cơ hay Thiên Lương tọa thủ, có Cự môn đồng độ, gặp Hóa Kị thì càng thêm tệ. Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, gặp cung hạn Thiên Cơ chủ về phá tán thất bại; gặp cung hạn Thiên Lương chủ về tai ách tật bệnh, nhưng tai ách chỉ gặp một phen mất hồn hú vía; gặp cung hạn Cự Môn chủ về gặp rắc rối khó sử về tình cảm tâm oán tình cô, có cát hóa thì giải quyết được, gặp các sao Sát Hình thì ứng nghiệm.

Tử vi và Phá quân tọa mệnh, tối kỵ gặp cách “tại dã cô quân”, đến cung hạn Thiên Cơ, Thiên Lương hay Cự Môn, thường là vận trình then chốt của cuộc đời. Nếu cung hạn gặp các sao Sát Kị Hình hội chiếu, chủ về sẽ xảy ra sự cố, thường ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Cũng không nên đến cung hạn Thái Dương Hóa Kị, thường dẫn đến thị phi oán trách. “Tử vi Phá quân” tọa mệnh, có Vũ Khúc Hóa Kị ở nguyên cục, đến đại hạn “Vũ khúc Thất sát” đồng độ, lại đến lưu niên Thái Dương Hóa Kị hoặc Cự Môn Hóa Kị, chủ về vì tiền mà chuốc họa. “Tử vi Phá quân” tọa mệnh không ưa đến cung hạn Thiên Phủ là “kho trống”, “kho lộ”, chủ về phá tài. Nếu Thiên Phủ có sao Lộc, thì chỉ chủ về vì tiền mà mất nghĩa.

“Tử vi Phá quân” đến niên hạn “Thiên Đồng Thiên Lương” tọa thủ, gặp Thiên cơ Hóa Kị kèm theo sát tinh đến xung, chủ về xử sự phải hết sức thận trọng, cơ tâm mưu mẹo càng nhiều thì phá tán, thất bại càng lớn.

“Tử vi Thiên phủ” tọa mệnh, rất ưa gặp sao Lộc, có Lộc Tồn đồng độ, Liêm Trinh Hóa Lộc đến hội, chủ về cự phú. Lấy trường hợp Hóa Lộc, Lộc tồn của niên hạn làm ứng nghiệm. Ví dụ Tử Phủ cư Dần, người sinh năm Giáp, đến hạn Đinh Mão chủ về kiếm được tiền, hoặc gặp cơ hội làm đại lý mà phát đạt.

“Tử vi Thiên phủ” ưa đến cung hạn Vũ Khúc độc tọa, gặp lưu Lộc, hoặc Tham Lang Hóa Lộc, hoặc Liêm Trinh Hóa Lộc, chủ về kiếm được tiền. Nếu lại có các sao Phụ diệu cát và Tá diệu cát, không có các sao Sát Kị Hình hội chiếu, nguyên cục là “Tử vi Thiên phủ” lại có kết cấu cát lợi, chủ về tay trắng làm nên mà thành cự phú.

“Tử vi Thiên phủ” không có sao Lộc, đến niên hạn gặp sao Lộc cũng cát lợi.

“Tử vi Thiên phủ” có sao Lộc, đến niên hạn Thái Dương độc tọa ở Tị, gặp các sao Phụ diệu cái và Tá diệu cát, chủ về địa vị thăng tiến, trường hợp Thái Dương ở Hợi là tốt kế đó.

Đối với người “Tử vi Thiên phủ” tọa mệnh, mà đại vận tính thep chiều nghịch, thì đại hạn Thái Dương giữ cung, hoặc Vũ Khúc giữ cung, là then chốt của mệnh vận cả đời. Đại vận đi thuận, thì đại hạn Tham Lang (Vũ Khúc ở cung đối diện), hoặc đại hạn Cự Môn (Thái Dương ở cung đối diện), là then chốt của mệnh vận cả đời. Các đại hạn này cát hay hung, có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời.

“Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh, ưa gặp Hỏa tinh, Linh tinh, cũng ưa gặp Tham Lang Hóa Lộc, chủ về phát lên một cách đột ngột, mà còn kéo dài. Nếu Tham Lang Hóa Kị, thì cuộc đời gặp nhiều vất vả khổ lụy, mà còn không được như ý. Nếu Sát tinh lại nặng, thường thường lúc sắp thành công thì đột nhiên thất bại.

Nữ mệnh gặp “Tử Vi Tham Lang” không ưa đến niên hạn Thái Dương tọa cung Phu của niên vận, chủ về gặp kẻ bất lương. Nam mệnh “Tử vi Tham Lang” không ưa đến niên vận cung Thê là Thiên Đồng (hoặc Cự Môn) tọa thủ, chủ về rơi vào lưới tình, khó mà thoát ra.

“Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh đến hạn “Vũ Khúc Phá Quân” mà Vũ Khúc Hóa Kị, lại gặp lưu niên Văn Xương Hóa Kị, hay Văn Khúc Hóa Kị, chủ về xảy ra phá tán thất bại.

“Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh tại Mão, đến đại vận hoặc lưu niên ở Ngọ, nếu Thiên Lương Hóa Lộc, chủ về tham tiền hiếu sắc, đều gây ra phiền phức, gặp thêm Sát tinh thì có hung họa, nhưng cuối cùng hóa giải được.

“Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh, cung hạn “Thái Dương Cự Môn” tương hội và cung hạn “Thiên Cơ Thái Âm” đồng cung, là then chốt của mệnh vận cả đời.

“Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, gặp lưu niên Sát Phá Tham, đều chủ về có biến động thay đổi, biến động thay đổi là cát hay hung, phải xem xét tính chất của các tổ hợp sao để định.

“Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến đại vận “Tử vi Thiên Tương” thủ cung Tật Ách, phải đề phòng bệnh tim mạch.

“Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến đại vận “Tử Vi Thiên Tướng” thủ cung Phu Thê, phải đề phòng hôn nhân đổ vỡ.

“Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến đại vận “Vũ Khúc Thiên Phủ” nếu Vũ Khúc Hóa Kị, hoặc Thiên Phủ là “kho lộ”, “kho trống”, chủ về gặp tình huống tráo trở, điên đảo, mà gây nên phá tán thất bại (như thất nghiệp, ngừng kinh doanh, vỡ nợ, sập tiệm, …).

“Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, lại đến lưu niên “Tử Vi Thiên Tướng” trong các tình huống thông thường, không nên hợp tác với người khác, năm kế tiếp nếu có hợp tác thì cũng không thể lâu dài.
“Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, không ưa gặp cung hạn Tham Lang Hóa Kị. Gặp nó ở bất cứ cung viên nào, cũng chủ về ứng nghiệm xấu ở cung đó. Ví dụ như đến đại vận hoặc lưu niên Tham Lang Hóa Kị thủ cung Phụ mẫu, chủ về người cấp trên trọng dụng mệnh tạo lại bị hoán chuyển công tác, đến lưu niên gặp Tham Lang Hóa Kị thủ cung Phu thê, chủ về xảy ra sự thay đổi trong tình cảm.

Đối với người “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, mà đại vận tính theo chiều nghịch, thì các đại vận Tham Lang, Vũ Khúc, Thiên Phủ thủ cung hạn là những vận hạn then chốt của mệnh vận cả đời. Đối với người “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, mà đại vận tính theo chiều thuận, thì các đại vận Thất Sát, Liêm Trinh thủ cung hạn là những vận hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời.

“Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, mà Tử Vi Hóa Quyền, thì “tài khí” trong đời không đủ để giúp cho sự nghiệp.

“Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, chủ về nặng tinh thần trách nhiệm. Người sinh năm Quý, cung Sự nghiệp là “Liêm Trinh Phá Quân” mà Phá Quân Hóa Lộc, lại chủ về gánh vác trách nhiệm quá mức, việc gì cũng đích thân làm.

“Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, cung độ “Thái Dương Cự Môn” có tính then chốt, Thái Dương ở Dần thì tốt hơn ở Thân, nhưng vẫn phải xem các sao cát hung ra sao mà định.

Nữ mệnh “Tử vi Thất Sát”, hôn nhân phần nhiều không như ý. Nếu cung Mệnh và cung Phu gặp Sát tinh, nếu không khéo khắc chế, thì tình cảm rất dễ thay đổi.

“Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, đại hạn Thiên Tướng, đại hạn "Vũ Khúc Tham Lang" thủ cung hạn, là có tính then chốt của mệnh vận cả đời.

#2 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 07/12/2012 - 23:06

TỬ VI TINH LUẬN QUYẾT HUYNH ĐỆ


Tử Vi độc tọa cung Huynh đệ ở Tý hoặc ở Ngọ, có các sao đào hoa đồng cung, chủ về trong anh chị em, chị gái là con trưởng, hoặc chủ về bất hòa với anh cả.

Tử Vi độc tọa Huynh đệ ở Tý hoặc ở Ngọ, được “bách quan triều củng”, thì được nhờ anh lớn, chị lớn. Nhưng cần phải tình nguyện ở địa vị thứ hai, làm phụ tá, mới có thể hợp tác với người khác làm việc; nếu không, đến đại hạn và lưu niên có cung Huynh đệ là "Vũ Khúc Thiên Tướng" cùng tọa thủ, hoặc Phá Quân độc tọa, gặp các sao Sát Kị, thì quan hệ hợp tác sẽ đổ vỡ.

Tử Vi độc tọa cung Huynh đệ ở Tý hoặc ở Ngọ, là cách “tại dã cô quân”, hoặc “vô đạo cô quân”, chủ về khó nhờ vả anh chị em, khi hợp tác với người khác cũng chủ về bị người ta lợi dụng.

“Tử Vi Phá Quân” tọa cung Huynh đệ ở Sửu hoặc ở Mùi, gặp Sát tinh, thì anh em kết thành phe phái, hoặc hình khắc bất hòa, hoặc có anh em khác mẹ. Ý nghĩa này suy rộng ra là, quan hệ giữa bản thân mệnh tạo với các đồng sự cũng dễ kết thành phe đảng, mà còn cạnh tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau, gặp Sát tinh thì càng đúng, còn nếu gặp các sao Phụ diệu cát và Tá diệu cát, thì khá bình hòa. Trường hợp có các sao Sát Kị Hình, lúc niên hạn đến cung có Tử Vi, hoặc Thiên Tướng, hoặc Phá Quân tọa thủ cung Huynh đệ, sẽ xảy ra ứng nghiệm không lành.

Nếu “Tử vi Phá quân” ở cung Huynh đệ nguyên cục có các sao Cát hội chiếu, thì khi đến cung Huynh đệ của lưu niên là “Vũ khúc Thất sát”, hoặc Thiên Phủ độc tọa, sẽ chủ về ứng nghiệm tốt lành, có thể hợp tác với người mà sáng lập sự nghiệp.

“Tử Vi Thiên Phủ” đồng độ tọa thủ cung Huynh đệ ở Dần hoặc ở Thân, cũng chủ về được nhờ anh lớn hay chị lớn. Gặp các sao Sát Kị Hình thì bị lợi dụng gây lụy. Cũng có thể mang tính chất này, suy rộng ra ở mối quan hệ với bạn hợp tác làm ăn hoặc đồng sự. Tình hình cát sự thì thường sẽ ứng nghiệm lúc gặp Vũ Khúc, hay “Thái Dương Cự Môn”, hay Thái Âm thủ cung Huynh đệ của lưu niên. Tình hình hung sự thường ứng nghiệm lúc gặp Phá quân, Thất sát, Liêm trinh, Thiên tướng, hay Cự môn thủ cung Huynh đệ của lưu niên.

“Tử Vi Tham Lang” đồng độ tọa thủ cung Huynh đệ ở Mão hoặc ở Dậu, gặp các sao đào hoa, chủ về trong anh chị em thì chị gái là con trưởng; gặp sao “Không” thì trong các anh chị em, tình hình của anh cả là xấu nhất.

“Tử Vi Tham Lang” đồng độ gặp nhiều sao Cát, cũng chủ về được nhờ anh lớn; nếu gặp cách “Hỏa Tham” thì anh lớn giầu có, nhưng lại không giúp ích gì cho bản thân mệnh tạo. Nếu có các sao Sát Kị Hình Hao tụ tập, chủ về bị liên lụy mà thất bại, gặp thêm các sao đào hoa, lại gặp sao lẻ Phụ Tá, chủ về anh em loạn luân.

“Tử Vi Tham Lang” ở Mão, lúc hợp tác với người khác giới, thường dễ nảy sinh tình cảm, mà còn chuốc bất lợi, năm ứng nghiệm thường là Thiên đồng, hay Cự môn, thủ cung Huynh đệ của lưu niên.

“Tử vi Thiên tướng” đồng độ tọa thủ Huynh đệ ở Thìn hoặc ở Tuất, cũng chủ về có anh em khác mẹ, nếu gặp Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, thì thường thường có anh chị em sinh đôi. Gặp Cát tinh thì có thể hợp tác tốt, gặp Hung tinh thì ý kiến trái ngược nhau. Năm ứng nghiệm đều thường là lúc niên hạn gặp “Tử vi Thiên tướng”, Phá Quân, "Vũ Khúc Thiên Phủ" thủ cung Huynh đệ của lưu niên. Nếu phá sản, lỗ vốn thì năm ứng nghiệm đều là lúc gặp niên hạn “Thiên cơ Cự môn”, Thiên lương thủ cung Huynh đệ của lưu niên.

“Tử vi Thất sát” đồng độ tọa thủ Huynh đệ ở Tị hoặc ở Hợi, gặp Cát tinh thì trong anh em có người quyền quý, cũng chủ về dựa dẫm thích quan hệ với bạn bè quyền quý hay người có chức quyền. Nếu gặp Sát tinh, thì bị anh em hay bạn bè bắt nạt, hà hiếp. Trường hợp “Vũ khúc Tham lang” đồng cung với Hỏa tinh, Linh tinh, lại có Cát tinh, chủ về nhờ anh em bạn bè giúp đỡ mà phát đạt.

“Tử vi Thất sát” đồng độ, Cát thì ứng nghiệm lúc Thiên Tướng, "Thái Dương Cự Môn" thủ cung hạn; Hung thì ứng nghiệm lúc “Vũ khúc Tham lang”, “Liêm trinh Phá quân” thủ cung hạn.

Thanked by 5 Members:

#3 xungdang

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 350 Bài viết:
  • 450 thanks

Gửi vào 09/12/2012 - 15:21

Mong tiếp tục. Trông đợi Tử Vi Tinh Luận Quyết Thiên Di.

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |