Jump to content

Advertisements




Thất sát tinh


10 replies to this topic

#1 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 10/12/2012 - 10:20

KHÂM THIÊN GIÁM


Sao Thất sát miếu ở Sửu, Dần, Thân, Tuất, hãm ở Mão, Dậu.

Thất sát là sao thứ năm của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, hóa khí làm “quyền”, cũng là tướng tinh bên cạnh hoàng đế, chủ về “túc sát” (nghiêm và có sát khí), cuộc đời chủ về cô độc, phần nhiều không có tri kỷ. Có thể lợi dụng tính cách độc lập mà phát triển, sáng lập sự nghiệp mới một cách bất ngờ.

Sao Tử vi tương hội với sao Thất sát, có thể giúp cho đế tinh cầm cương ra oai, chuyển hóa thành quyền lực, nhờ có vậy mà khí “túc sát” của Thất sát trở thành hòa hoãn.

Do Thất sát là sao đại tướng, cho nên rất ưa phò tá Tử vi, Thiên phủ, chủ về được quý nhân đề bạt mà hoạn lộ thênh thang. Dù gặp Sát tinh, cũng có thể theo ngành kinh doanh buôn bán mà trở nên giầu có. Nếu theo con đường kinh doanh, chỉ thích hợp với ngành công thương nghiệp, ở môi trường này sẽ là một nhân viên giỏi, năng động và tháo vát, nhưng không nên đầu cơ, vì dễ xẩy ra phá tán mà thất bại; khi đã thất bại muốn trở lại thăng bằng và lấy đà vực dậy, sẽ gặp nhiều trở ngại và rất khó khăn.

Phàm người có Thất sát thủ cung Mệnh, trong đời ắt sẽ có một lần gẫy đổ rất lớn, cung Mệnh mà gặp Địa không, Địa kiếp, Đại hao thì càng nặng. Nếu theo ngành công thương nghiệp, tuy có trở ngại nhưng lòng tin không bị mất, vẫn được sự tín nhiệm, có thể khôi phục nguyên khí, nhưng vẫn không nên đầu cơ mạo hiểm.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở Mùi, hoặc Thất sát độc tọa thủ Mệnh ở Ngọ, còn Liêm trinh thủ cung Phúc đức, đều gọi là cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về phách lực hùng hậu. Đây do âm Kim của Thất sát được âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện mà thành hữu dụng. Thất sát thủ Mệnh ở Tý thì tốt kế đó.

Thất sát ở Sửu, tuy có Liêm trinh đồng độ, nhưng là mệnh cách bình thường. Nếu tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về hình khắc, khốn khó, tổn thương, họa hại, nặng thì cuối cùng sinh tàn tật.

Thất sát rất ngại lạc hãm, cũng như không ưa gặp Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, Âm sát, chủ về tính cô độc càng thêm tăng nặng, phúc khí bất toàn. Phần nhiều, mệnh tạo thường tìm đến tôn giáo để giải tỏa tinh thần, tư tưởng nhiều ảo vọng nên thường cảm thấy tâm hồn hư ảo trống rỗng.

Thất sát ở Sửu hoặc ở Mùi, cung Thiên di ắt là Thiên phủ, chủ về bề ngoài cứng rắn mà bên trong giầu tình cảm, phần lớn hay buồn bã không duyên cớ, dễ mủi lòng, còn bất lợi về hôn nhân, cuối cùng dễ có tư tưởng xuất thế.

Thất sát gặp “Thái dương Cự môn” ở cung Đế vượng, gọi là “cát xứ tàng hung” (trong cát có hung), chủ về trong thuận cảnh bỗng sinh biến cố, nên giấu bớt tài năng.

Nam mệnh Thất sát, cung Phúc đức nên gặp các Cát tinh. Nữ mệnh Thất sát, cung Phu nên gặp các Cát tinh.

Thất sát là tướng tinh, các sao Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, cho tới Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đối với nó mà nói, đều rất quan trọng, làm tăng thanh thế cho Thất sát. Vì vậy không bằng trường hợp các sao Cát phân bố đều trong 12 cung, lúc này cách phối trí mệnh bàn được quân bình, đời người giảm thiểu những trắc trở gian nan.

#2 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 10/12/2012 - 10:39

THẤT SÁT TINH BÍ CẤP


Thất sát độc tọa Tý Ngọ
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện xung chiếu là “Vũ khúc Thiên phủ”. Khi Thất sát ở Tý, cổ nhân có thuyết “Vũ khúc, Phá quân, Tham lang hội hợp Tý, nhảy sông tự vẫn” (Vũ Phá Tham hội vu Tý, đầu hà nịch thủy), tuy nhiên thuyết này còn phải nghiên cứu thêm. Theo truyền thừa của Nam phái, khi Thất sát ở Tý gặp Vũ khúc, Phá quân, Tham lang, năng lực kháng cự Hung tinh của Thất sát sẽ yếu đi, nếu có đột biến xung lực thì lại không đúng nơi đúng chỗ, cho nên Thất sát độc thủ ở Tý không bằng độc thủ ở Ngọ.

Có điều, Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, chủ về được quý nhân quan tâm, bạn bè trợ giúp. Nếu có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, lại được Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền ở cung đối diện xung chiếu hiệp trợ, chủ về theo võ nghiệp, hoặc theo nghiệp chuyên quản về tài chính kinh tế, cổ nhân gọi là “văn võ toàn tài”. Nhưng nếu có tứ Sát cùng chiếu, lại thêm Thiên hình, Âm sát, Thiên hư hội chiếu, chủ về chết nơi sa trường.

Nếu không gặp Cát tinh, cũng chủ về người có mưu lược, nên theo ngành công thương nghiệp, tuy cuộc đời khó tránh một lần gặp sóng to gió lớn, nhưng nhất định sẽ lại hồi phục đứng lên.

Nếu Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ mà gặp Kình dương, Thiên hình, thì có thể theo nghề bác sỹ ngoại khoa, hoặc nha sỹ. Gặp Vũ khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền ắt thành danh y.

Thất sát và Liêm trinh đồng cung
Sao Thất sát và sao Liêm trinh đồng cung ở Sửu hoặc ở Mùi, tam phương hội hợp với các sao “Vũ khúc Phá quân” và “Tử vi Tham lang”, và gặp Thiên phủ ở cung Thiên di. Kết cấu này tuy toàn là sao mạnh, nhưng bị Thiên phủ của cung đối diện gây ảnh hưởng, nên, lại chủ về muốn khai sáng nhưng lại quá thận trọng, sở trường nhất là quản lý tài chính, thường không vì hưng phấn nhất thời mà phạm sai lầm, có điều vẫn khó tránh khỏi chìm đắm trong thú hưởng lạc.

Liêm trinh bị ảnh hưởng bởi Thất sát, nên phần nhiều tâm tính hay thay đổi, vì vậy không thể làm việc quá lâu ở một bộ phận chuyên trách nào, cũng như không thể theo đuổi một sự việc quá dài lâu, khi tình trạng công việc phải tuân thủ theo thời gian lâu dài, thường nảy sinh tâm trạng buồn bực, chán nản, hờ hững, nhiệt tình thuyên giảm, thường không theo đuổi công việc từ đầu đến cuối, do vậy tính kiên nhẫn và khả năng chịu đựng thường ảnh hưởng đến mệnh cách. Mệnh tạo cũng không được thừa hưởng tổ nghiệp hoặc giữ nghiệp của cha, thậm chí còn không ưa kế thừa nghề của cha. Do hay thay đổi, nên đời người cũng khó tránh phải trải qua nhiều gian khổ.

“Thất sát Liêm trinh” ưa biến động thay đổi, nên thích hợp với những chức vị hành chính, do tính chất đào hoa của Liêm trinh bị Thất sát tác động ảnh hưởng, nên có tính yêu thích văn hóa văn nghệ, nhất là thi phú âm nhạc; nếu gặp Văn xương Văn khúc hội hợp, sở thích yêu văn nghệ càng phát triển; nếu gặp thêm các sao Sát Kị cùng tụ tập, phần nhiều khó tránh có những sở thích không lành mạnh phong hoa tuyết nguyệt, mê đắm tửu sắc. Nhưng bất kể thế nào, mệnh tạo sẽ không vì tửu sắc mà khuynh gia phá sản.

Kết cấu tinh hệ giầu tính biến động thay đổi, thích quản lý tài chính, nên thường muốn hợp tác với người để thúc đẩy sự nghiệp kinh doanh, nhưng trong quá trình hợp tác, nếu ở cương vị lãnh đạo hay ở cương vị chủ chốt, thì công việc kinh doanh và sự nghiệp sẽ phát triển không thuận lợi. Có từ hai ba Sát tinh trở lên hội chiếu, thì nên chuyển hướng theo ngành công nghệ.

“Thất sát Liêm trinh” thủ mệnh, chủ về đường hô hấp yếu; nếu có Hồng loan, Thiên hỷ đồng cung và đối chiếu, chủ về mắc bệnh hen xuyễn. Nếu Hóa Kị mà còn gặp Đà la đồng độ, phần nhiều chủ về bệnh máu mủ. Có Hóa Kị lại gặp tá Sát hội cùng chiếu, mà không có Hóa Lộc hoặc có Lộc tồn và Văn xương Văn khúc giải cứu, chủ về cả đời thân thể hư nhược, hoặc yểu mạng; Có tứ Sát cùng chiếu mà còn gặp các sao Hình Kị, chủ về các bệnh máu như tăng bạch huyết cầu, thiếu máu bẩm sinh, bệnh máu trắng.

Tinh hệ “Thất sát Liêm trinh” đồng độ, khi mà Liêm trinh Hóa Kị còn gặp tứ Sát, cổ nhân có thuyết “chôn thây trên đường” (lộ thượng mai thi); vào đại hạn Bính (như Bính Tý, Bính Dần, …), hoặc lưu niên Bính, cần phải đặc biệt cẩn thận, không nên đi xa.

Nữ mệnh gặp tinh hệ “Thất sát Liêm trinh”, thường dung mạo ưa nhìn, nhưng khó bị người khác giới dụ dỗ, cung Phu tất có Thiên tướng, nếu không gặp các sao Sát Kị thì hôn nhân hạnh phúc, phu xướng phụ tùy, vợ chồng đồng lòng thì sự nghiệp ắt sẽ phát triển, nhưng phần nhiều dễ vì đối tượng không hợp ý mà kết hôn muộn. Thích hợp nhất là lấy chồng hơn mình tám tuổi trở lên.

“Thất sát Liêm trinh” của đại hạn và lưu niên, chủ về có biến động thay đổi, gặp Cát tinh thì thăng tiến phát triển rộng, hoặc được tăng lương, chủ về có tích lũy; gặp Sát tinh thì không nên chủ động thay đổi. Nếu các sao Hình Kị cùng đến, nhất là Vũ Khúc Hóa Kị gặp Liêm trinh Hóa Kị, mà không gặp Hóa Lộc, Lộc tồn giải cứu, cần phải đề phòng tai nạn chảy máu, không nên đi xa, tránh mọi tranh chấp kiện tụng.

Thất sát độc tọa Dần Thân
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối diện xung chiếu là “Tử vi Thiên phủ”. Lúc Thất sát ở Dần gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”, khi ở Thân gọi là “Thất sát triều đẩu”. So sánh hai trường hợp, thì Thất sát ở Thân tốt hơn ở Dần.

“Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều là cách cục được xem là tốt, chủ về có năng lực quản lý rất tốt, có thể đảm trách công việc một mình. Phát triển bất kể ở nghề nghiệp nào, mệnh tạo thường ở vị trí chủ chốt. Nhất là khi cung Mệnh hoặc cung Thiên di gặp Lộc tồn đồng đô, càng chủ về không phải lo thiếu thốn tiền bạc. Nếu gặp Sát tinh đồng độ hoặc hội hợp, chủ về đường đời nhiều trắc trở, gập gềnh. Một khi Thất sát đóng ở cung Mệnh, thì cuộc đời ắt sẽ gặp phải một lần sóng gió rất lớn. Muốn khắc phục và vượt qua vận hạn này, thì trí lực phải hành động thiết thực và tâm chí không thể nguội lạnh.

Thất sát “triều đẩu” hay “ngưỡng đẩu”, thông thường chủ về công việc theo chính giới, như quản lý hành chính, quản lý nhân sự, quản lý công xưởng; nếu có Văn xương Văn khúc hội chiếu, hoặc gặp Tử vi Hóa Khoa ở cung đối diện, có thể theo nghiệp nghiên cứu khoa học kỹ thuật; nếu gặp Thiên phủ Hóa Khoa, có thể theo nghiệp quản lý kinh tế tài chính, hoặc quản lý công thương. Nếu chỉ gặp sao Văn, chủ về là nhà giáo mẫu mực.

Nếu gặp Sát tinh nặng, lại gặp Hóa Kị, Thiên hình, Lộc tồn, Thiên mã, có thêm Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa hiệp trợ, chủ về gia nhập quân đội hay cảnh sát, cũng có thể là lãnh đạo chính giới.

Thất sát ưa gặp sao Lộc, vì sao Lộc hóa giải được tính cứng rắn của Thất sát (gặp lộc, cương hóa nhu). Nếu không gặp sao Lộc, mà có tứ Sát cùng hội chiếu, có thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, chủ về cuộc đời bị hình khắc rất nặng, còn chủ về tính “khăng khăng một mực”, “ngoan cố ương ngạnh”, nên khi xử sự thường bộc lộ thái độ kịch kiệt. Vì vậy tuy phú quý nhưng vẫn bị phá tán, thất bại. Còn chủ về nhìn quá cao, tự sùng bái mình, nên khó tránh cuộc đời cô tịch. Tính chất này có thể dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.

Thất sát và Vũ khúc đồng cung
“Thất sát Vũ khúc” đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu; tổ hợp kết cấu các sao cực kỳ mạnh mẽ, cần phải được Tả phụ Hữu bật vây chiếu, nếu được gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, thì những “tế ngộ” trong cuộc đời mới được thuận lợi toại ý; nếu không dễ sống trong tình cảnh cô lập, không có cứu viện, mà còn bị phá tài.

Đặc tính của tinh hệ này là nhạy bén, nhưng lại hay nóng vội, mưu tính nhiều nhưng lại không nhìn xa; tinh tế, sáng suốt, có năng lực làm việc, nhưng lại hay thích sát phạt, cần được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc điều hòa, mới có thể biến thành thông minh, lão luyện, mà không bị rơi vào tệ suy nghĩ thiển cận, bạc tình. Nếu được Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên mã hội chiếu, có khả năng được hưởng phúc trạch dày.

“Thất sát Vũ khúc” ở Mão, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, cổ nhân nói có tai họa “cây đè sét đánh”, xã hội ngày nay cần đề phòng thêm tai họa điện giật. Khi ở Dậu, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, chủ về tai họa bất trắc, đột ngột, dễ mắc bệnh ung thư, hoặc bệnh ở đầu.

“Thất sát Vũ khúc” có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về vì lợi lộc mà xảy ra bất trắc; lại gặp Vũ khúc Hóa Kị và Kiếp sát, hoặc có Đại hao đồng độ, chủ về gặp tai nạn trộm cướp; có Kình dương đồng độ, chủ về vì tài lợi mà gẫy đổ; nếu gặp Liêm trinh Hóa Kị, chủ về tai nạn chảy máu hoặc bệnh nặng phải phẫu thuật.

Do hợp lực các sao quá mạnh, khiến cho mệnh tạo luôn sung sức, làm việc có phách lực và nghị lực cao, ở thời tuổi trẻ nếu mạnh dạn bốc đồng làm ăn đầu cơ mạo hiểm, thường không có hiệu quả, chủ về thất bại.

“Thất sát Vũ khúc” tam phương có Lộc tồn Thiên mã đồng độ với “Liêm trinh Tham lang”, hoặc Lộc tồn ở cung đối diện hiệp trợ cùng với Cát tinh hội hợp, là điềm tượng “anh hùng mạt lộ gặp quý nhân”, chủ về đột nhiên phát đạt trong cảnh khốn khó.

“Thất sát Vũ khúc” hội hợp với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, sao Hình, thì nên gia nhập quân đội hay cảnh sát hoặc là công tác bảo an. Nếu Sát tinh quá nhiều, chủ về làm đồ tể. Nếu có văn tinh, hoặc gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về hợp với nghiệp bác sỹ ngoại khoa, gặp Liêm trinh Hóa Kị thì thích hợp theo khoa phụ sản.

“Thất sát Vũ khúc” có các sao Sát Hình, mà gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì trái lại, nên làm ăn kinh doanh.

Nữ mệnh “Thất sát Vũ khúc”, nên lấy chồng hơn mình ít nhất tám tuổi.

Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên có “Thất sát Vũ khúc”, chủ về biến động thay đổi lớn. Thấy có Hóa Kị chủ về bị đình chỉ chức vụ, có nguy cơ vỡ nợ hay sập tiệm; gặp Sát tinh là gặp trắc trở hoặc sức khỏe không tốt.

Thất sát độc tọa Thìn Tuất
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất là nhập “Thiên la Địa võng”, cung đối diện là các sao nhu hòa “Thiên phủ Liêm trinh” không thể giúp Thất sát thoát khỏi “Thiên la Địa võng”, vậy nên Thất sát phải một thân một mình gắng gượng. Kết cấu tinh hệ kiểu này, khiến mệnh cách phải trải qua gian khổ, miệt mài phấn đấu chẳng hề quan ngại, vì vậy mà sóng gió trùng trùng.

Có thể sáng lập được sự nghiệp trong gian khổ, nhưng mệnh tạo vẫn không hài lòng với những kết quả đã đạt, cũng như những thành tựu mà mình đã đạt được. Không ngừng theo đuổi lý tưởng, mà lý tưởng lại càng lúc càng cao, kế hoạch mới cũng càng lúc càng nhiều, suốt đời không có được một ngày thảnh thơi, nhưng mệnh tạo lấy đó làm nguồn vui.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, đều chủ về mệnh cách là người có chỗ sở trường, có khả năng kiến giải hơn người, ưa Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Lộc Quyền Khoa tam cát hóa hội chiếu hoặc đồng độ, là người văn võ song toàn, lại còn chủ về người yếu thích văn hóa văn nghệ.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, chỉ sợ Liêm trinh Hóa Kị ở cung đối diện xung chiếu ức hiếp, nếu lại gặp Sát tinh trùng trùng, thì cần phải xem xét các cung vị khác, xem cung nào là cung chí mệnh của nó. Nếu cung Tài bạch không tốt, cuộc đời phần nhiều gặp tranh chấp, bối rối khó xử về phương diện tiền bạc. Nếu cung Sự nghiệp không cát tường, cuộc đời nhiều lần bị vỡ nợ, sập tiệm. Nếu cung Tật ách không cát tường, cả đời sức khỏe không tốt, phần nhiều phải phẫu thuật, hoặc gặp một phen hú vía. Nếu cung Phu thê không tốt, bình sinh gặp nhiều sóng gió, trắc trở về tình cảm, hoặc người phối ngẫu gặp bất hạnh. Nếu cung Tử nữ không tốt, con bị nạn tai bệnh tật, yểu mạng, hoặc phạm pháp.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, tam phương tương hội có Tham lang Hóa Kị gặp Sát tinh, chủ về mệnh tạo luôn luôn lo lắng về tiền bạc bị túng thiếu, trong khi tình trạng thu nhập lại không như ý muốn. Đó là vì lý tưởng đặt ở mức quá cao, sự nghiệp mở rộng một cách quá đáng, mà không chủ về bần cùng. Tham lang Hóa Kị ắt sẽ gặp Phá quân Hóa Lộc, càng chủ về một đời chỉ thích khai sáng, mà không chịu thủ thành. Khi Tham lang Hóa Lộc mà không gặp Sát tinh, chủ về cuộc đời mệnh tạo luôn có tiền để dùng, nhưng lại không tích lũy được; còn khi Tham lang Hóa Lộc mà gặp Sát tinh, không những chủ về tiêu xài xa hoa, mà còn thích tổ chức tiệc tùng vui chơi, giao du không biết tiết chế.

Thất sát và Tử vi đồng cung
Thất sát và Tử vi đồng độ ở Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung, có uy thế không ai so bì được. Cho nên chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa, còn có tư tưởng độc đáo.

Thông thường, tinh hệ “Tử vi Thất sát” có thể xem là tượng trưng cho quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa Quyền, vì khi Tử vi Hóa Quyền chủ về có lòng ham muốn quyền lực quá cao, có biểu hiện “khí bá đạo”, khiến cho cộng đồng làm việc xa gần rất khó chấp nhận.

Tinh hệ “Tử vi Thất sát” rất cần các Cát tinh hội chiếu. Như có Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, khi được những Cát tinh này hội hợp, thì tính cương dũng của Thất sát có đất dụng võ, đây là cái gọi là “hóa sát làm quyền” của cách cục này. Nhưng, giả dụ không có những Cát tinh hội chiếu, thì cách cục này giống như “anh hùng thảo dã biến thành giặc cướp”, khó tránh khỏi có những biểu hiện “tàn nhẫn bá đạo”, chủ về phát triển lên một cách nhanh chóng, rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng.

Nếu như không có những Cát tinh, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh được “hình thương, khắc hại”.

Nữ mệnh gặp tinh hệ “Tử vi Thất sát”, nếu gặp Sát tinh, tuy có cơ hội thay đổi nhưng lại khó được như ý nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội thì phải chấp nhận trải qua sự biến động thay đổi, thì mới có được ích lợi.

Chung
Phàm, Thất sát thủ mệnh, nếu gặp Sát tinh, đời người ắt sẽ có chỗ thiếu sót, hoặc không thể phú quý, hoặc phú quý mà vợ chồng hình khắc phân ly, hoặc hôn nhân hạnh phúc mà lại không có con, hoặc có con mà lại không có con trai, hoặc có con trai mà bản thân nhiều bệnh tật. Nếu Lục thân không có khuyết khuyết, cơ thể khỏe mạnh thì lại không được phú quý. Cho nên cần phải xem xét toàn diện 12 cung để nhận thức những khiếm khuyết đáng tiếc của nó.

Nữ mệnh có Thất sát nhập miếu, gặp các sao Cát như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Ân quang, Thiên vu, Thiên thọ, chủ về phú quý sống thọ, nhưng có chí hướng hơn chồng. Nếu Thất sát ở hãm địa, gặp Hóa Kị, hội hợp với Hung tinh, Sát tinh như Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Thiên hư, Âm sát, Thiên nguyệt, thì nửa đời cô độc, hoặc nạn tai tật bệnh đeo đẳng theo người, chủ về làm kế thất, hoặc ở hai nơi, như vậy cũng làm giảm hình khắc đối với chồng và con cái.

Đại hạn và lưu niên, có Thất sát nhập cung mệnh, nếu Thất sát nhập miếu, gặp các Cát tinh, chủ về sự nghiệp gặp cơ hội chuyển biến tốt, làm công ăn lương thì chủ về được thăng chức hoặc chuyển đổi công tác tốt hơn. Nếu lạc hãm, gặp Sát tinh và Hung tinh, chủ về hình khắc phá tán, thất bại, xem 12 cung để luận giải nguyên nhân ? nội dung ? Nếu gặp Hung tinh mà được cát hóa, bất kể Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đều chủ về trước nguy sau an. Nếu lạc hãm mà có tứ Sát cùng chiếu, lại gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, chủ về có nguy cơ đến tính mạng.

#3 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 10/12/2012 - 10:45

THẤT SÁT TINH QUYẾT


Tổng luận
Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên làm mạnh thanh thế cho nhau.

Hai “tướng tinh” Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái, phải đợi sự lựa chọn ở trên và chịu thâm ý mờ ám.

Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.

Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.

Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).

Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh thêm cảnh ngộ gian nan của đời người. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh” (Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền” (Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).

Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.

Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không Địa kiếp.

Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “Hùng tú kiền nguyên”, tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn lẫn lộn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.

Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ”, thì gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ” thì gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.

Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.

Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình khắc” của Thất sát ở mức độ nào; nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô tịch.

Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.

Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Văn xương Văn khúc, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở tại cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.

Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên tứ vượng Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có “Thất sát Liêm trinh”, cho nên tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi Thất sát” đồng độ, cho nên tứ sinh Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử vi, Thất sát, Thiên phủ”.

Biệt cách
Các sao có liên quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.

Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:
  • Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Vũ khúc Thiên phủ”
  • Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh
  • Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Tử vi Thiên phủ”
  • Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc
  • Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Liêm trinh Thiên phủ”
  • Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi
Từ các tổ hợp này có thể thấy, các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc.

Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên khi thủ mệnh ở tứ sinh Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ “hợp cục nhập cách”, mà trở thành cát tường. Tổ hợp “Tử vi Thất sát” hóa làm “quyền lực”. Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về làm tăng “sức khai sáng” của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn dục vọng quyền lực.

Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính nhu của Liêm trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm mấy phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “Liêm trinh Thiên phủ”, là có thêm mấy phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không đẹp như “hoa trong gương” hay như “trăng dưới nước”, lúc này khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc trên chiến trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn.

“Thất sát Vũ khúc” đồng độ, là một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có Thiên phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc, cho nên có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp.

Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực
Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “cương mãnh”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong vô hình, toàn bộ tính phá hoại của Phá quân không còn dư lực, còn tính phá hoại của Thất sát thường là chủ mưu tính toán để hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “cương nhu tương tế”. Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực, không nịnh bợ nịnh hót, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như găp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít hợp quần.

Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ “độn thế và nhập thế” được gọi là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói “Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề khéo mà mưu sinh”, “Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ”. Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực, như cổ thư nói “Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải qua gian khổ”, đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham lang dễ khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tất cả, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên “trải qua gian khổ” sau mới có thành tựu.

Người có Thất sát thủ mệnh, phần nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh suyễn khí. Ngày nay Y học đã có những tiến bộ vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm.

Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức
Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn có người nệ cổ cho rằng “Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cổ nhân cho rằng tinh hệ này có tính chất “vô tình vô nghĩa”, thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính “hiếu động trôi nổi”, và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại, chỉ chủ về mệnh cách không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “Liêm trinh Thiên tướng” ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc, với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “xướng kỹ, tỳ thiếp”, bởi vì thời cổ đại, “xướng kỹ, tỳ thiếp” thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Nếu Thất sát độc tọa cung Thìn hoặc Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “Vũ khúc Thiên tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “Vũ khúc là sao cô quả” nên bất lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là “cơ trí”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm sóc gia đình, luôn ở trong nhà, “cơ trí” không có đất dụng võ, mà thường phát triển biến thái thành tính “ngầm hại nhau bằng kế mọn”, đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại, chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền, không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất định. Làm sao nói là “mệnh thấp hèn” ?

#4 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 11/12/2012 - 04:23

Thất sát độc tọa Tý Ngọ

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, các cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có thuyết “nhảy sông trầm mình”, khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.

Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “quyền uy” hay thuộc loại “khắc kị”.

Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải “khắc kị”. Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những tính của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “Hùng tú kiền nguyên”.

Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách có tính chất “quyền uy”.

Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham lang Hóa Kị (năm Quý), ảnh hưởng tới tính chất của Liêm trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến tính “quyền uy”, nhưng đời người gian khổ hơn.

Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính “khắc kị”. Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “trống không”.

Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính “khắc kị” rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có “Hỏa tinh Kình dương” đồng thời bay đến, thì tính “khắc kị” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có vấn đề.

Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về “quyền uy”.

Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng độ, Thất sát thuộc loại “khắc kị” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “quyền uy” thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính “khắc kị” của Thất sát, tính “khắc kị” được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “quyền uy” của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại “khắc kị” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người gây lụy.

Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn “Thái âm Thái dương” để an cung, thì ngoài những tính chất kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi).

Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các Phụ diệu cát, Tá diệu cát, xét ở nguyên cục loại Thất sát “quyền uy”, chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát “khắc kị” thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.

Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát “khắc kị” càng là bất lợi. Đạo “xu cát tị hung” là làm những nghề có liên quan đến “máu”, như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể … để giảm thiểu tính “khắc kị”.

Thông thường, Thất sát “quyền uy” ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát “khắc kị” thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này là vận hung hiểm.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát “khắc kị” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát “quyền uy” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.

Xét lưu niên, Thất sát “khắc kị” phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát “quyền uy” lại là năm định hình sự nghiệp.

Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “quyền uy” đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát “khắc kị”, thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với “Vũ khúc Thiên phủ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc “hung tinh hóa”, thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “khắc kị” của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.

Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính “khắc kị” cũng chủ về một năm thuận lợi toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “quyền uy” cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch.

Dù Tham lang Hóa Kị, thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như ý, nhưng không chủ về nạn tai.

Cung hạn “Thiên cơ Cự môn” đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát “khắc kị” chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát “khắc kị” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “quyền uy” gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.

Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, đối với Thất sát “khắc kị” chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát “quyền uy”, thì đây là thời kỳ ổn định.

Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “quyền uy” ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh không lành mạnh. Loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này, lại gặp các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra trắc trở.

Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “khắc kị” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát “khắc kị” nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “quyền uy” thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình bất ổn.

Sửa bởi saobienden: 11/12/2012 - 04:24


#5 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 12/12/2012 - 05:10

Thất sát và Liêm trinh đồng cung

Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là “Tử vi Tham lang” và “Vũ khúc Phá quân”, tính chất cấu tạo của tổ hợp sao khá phức tạp.

Muốn luận đoán bản chất của tinh hệ “Liêm trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại “phấn chấn” hoặc thuộc loại “cương bạo”.

“Liêm trinh Thất sát” thuộc cách “Hùng tú kiền nguyên” ở Mùi, gặp các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “phấn chấn”, thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp, khác với “Liêm trinh Thất sát” có tính “cương bạo”.

Gọi là “cương bạo”, là nói tính chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải bôn ba vất vả rất nhiều.

“Liêm trinh Thất sát” ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “phấn chấn”. Đây là điều kiện cơ bản.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách “phấn chấn”. Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “cương bạo”, mức độ “cương bạo” nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.

“Liêm trinh Thất sát” rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “cương bạo” của chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất “phấn chấn”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại “phấn chấn”.

Lộc tồn không nên đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, mà nên đồng độ với “Tử vi Tham lang”. Trường hợp Lộc tồn đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, dù khiến “Liêm trinh Thất sát” có bản chất “phấn chấn”, những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh hưởng rất lớn đối với bản chất của “Liêm trinh Thất sát”. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, “kho lộ” sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” biến thành “cương bạo”; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” thành mệnh cách “phấn chấn”.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.

Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.

Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn phát” thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thì thuần túy về nhục dục.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập vào cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “lập công ở biên cương”, vì vậy tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao Sát Kị, mà “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất trắc.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “Liêm trinh Thất sát”, bất kể thuộc loại bản chất “phấn chấn” hay “cương bạo” cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của “Liêm trinh Thất sát” cực kỳ đơn giản, “cương bạo” thì bất lợi, thất bại; “phấn chấn” thì cát lợi, có thu hoạch.

Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.

Cung hạn “Thiên cơ Thái âm” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất ổn định là không tốt.
Cung hạn “Tử vi Tham lang” rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc “Liêm trinh Thất sát” đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang bản chất “phấn chấn”, cũng chủ về xảy ra áp lực rất lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu “Tử vi Tham lang” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi, buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.

Thông thường “Liêm trinh Thất sát” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền bạc không có trở ngại. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “phản bối” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” gặp Cự môn của cục “phản bối”, tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “Liêm trinh Thất sát”. Bản chất “cương bạo” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng yếu, còn bản chất “phấn chấn” thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có địa vị cao.

Ở lưu niên, nếu “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” gặp cung hạn thuộc loại “Hình kị giáp ấn” chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính chất của cung hạn này.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực.

Nữ mệnh “Liêm trinh Thất sát” không nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang bản chất “phấn chấn” hay bản chất “cương bạo”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.

#6 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 12/12/2012 - 05:18

Thất sát độc tọa

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Muốn luận giải bản chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “cô độc, cao ngạo”, hay thuộc loại “uy quyền”.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo” bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “uy quyền”, nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “uy quyền” tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử.

Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới có thể giải được tính “cô độc cao ngạo” của nó, khi Tham lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, thì mệnh cách thuộc vào loại “uy quyền”, nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “cô độc cao ngạo”.

Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, thì mệnh cách thuộc vào loại “uy quyền”, tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất “chọn bạn rất nghiêm khắc”.

Nếu Thất sát có các sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, thì mệnh cách thuộc vào loại “cô độc cao ngạo”.

Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc vào mệnh cách mang tính “cô độc cao ngạo”.

Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng không thành tính “quyền uy”.

“Tử vi Thiên phủ” ở cung đối diện, rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về mệnh cách mang tính “uy quyền”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về mệnh cách mang tính “cô độc cao ngạo”.

Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất thuộc loại “uy quyền”, nếu mệnh cách thuộc loại “cô độc cao ngạo” chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân bất lợi.

Thất sát đến 12 cung, tính chất rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp Thất sát, đều có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản:

Thất sát nặng tính “uy quyền” mà nhẹ tính “cô độc cao ngạo”, thì nên đến những cung hạn sau:
  • Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.
  • Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.
  • Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc.
  • Vũ khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối diện.
  • Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.
  • Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.
  • “Tử vi Thiên phủ” hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.
  • Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.
  • Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.
  • Thiên lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.
Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các sao hội hợp để định.

Nếu bản chất Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.

Thất sát có bản chất “uy quyền” không nên đến những cung hạn sau đây:
  • Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị
  • Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.
  • Thái dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.
  • Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la.
  • Thiên cơ Hóa Kị
  • Thiên cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị
  • Thái âm lạc hãm Hóa Kị
  • Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị
  • Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu
  • Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao.
  • “Liêm trinh Thiên tướng” thuộc loại “Hình kị giáp ấn”.
  • Thiên lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.
Lúc đến các vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại “uy quyền” cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu.

Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem tính chất của các tổ hợp sao để định.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cảnh ngộ thực tế.

#7 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 12/12/2012 - 20:09

Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão Dậu

Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “Tử vi Phá quân” và “Liêm trinh Tham lang”.

Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại “quyết đoán” hay thuộc loại “nông cạn”.

Thực ra, “quyết đoán” sáng suốt và suy nghĩ “nông cạn” chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại suy nghĩ “nông cạn”, bề ngoài vẫn giống như người “quyết đoán” sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được.

“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán” sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui, còn loại người suy nghĩ “nông cạn”, thì phần nhiều là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này.

Luận giải tính chất của “Vũ khúc Thất sát”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “quyết đoán sáng suốt”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “suy nghĩ nông cạn”.

Lấy các sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ “Tử vi Phá quân” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm bản chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”; nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể gây ảnh hưởng cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thành bản chất “quyết đoán sáng suốt”.

Hệ “Liêm trinh Tham lang” cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ “Vũ khúc Thất sát” càng thêm quan trọng.

Văn xương, Văn khúc có khả năng điều hòa tính chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”, điều kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ “Liêm trinh Tham lang”. Nguyên nhân chủ yếu là vì hệ “Liêm trinh Tham lang” không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực “quyết đoán sáng suốt” của hệ “Vũ khúc Thất sát”.

Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát”. Nhưng, trường hợp mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, đối với hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được tổn thất.

Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau.

Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” không nên đến, nếu Thiên phủ lại là “kho lộ”, “kho trống”, thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp.

Cung hạn Thiên phủ thông thường bất lợi cho mệnh cách “Vũ khúc Thất sát”, nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.

Hệ “Vũ khúc Thất sát” ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo “xu cát tị hung” là biết có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn thất càng lớn.

Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt”, chủ về vì một quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “tĩnh” không nên “động”, “động” thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.

Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì loại mệnh cách “quyết đoán sáng suốt” rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.

Mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “Thạch trung ẩn ngọc”, vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán trách.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” sẽ cảm thấy bị áp lực, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” thì khá dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.

Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “Tài ấm giáp ấn”, thì bất kể mệnh cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về “mọi toan tính chỉ phí sức”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình sự nghiệp một đời.

Cung hạn hệ “Thiên đồng Thiên lương” tọa thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” mà gặp cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ “Thiên đồng Thiên lương” hội hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.

Ba cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, Liêm trinh Tham lang” và “Tử vi Phá quân”, là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ “Vũ khúc Thất sát” tọa mệnh.

Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách “quyết đoán sáng suốt”, còn mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì bất lợi.

Thanked by 8 Members:

#8 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 12/12/2012 - 20:10

Thất sát độc tọa Thìn Tuất

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện sẽ là hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, tam phương có Tham lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.

Muốn luận giải tính chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất tính lý của Thất sát là “lý tưởng” hay “ảo tưởng”.

Trong thực tế, “lý tưởng” không nhất định sẽ tốt hơn “ảo tưởng”. Bởi vì “lý tưởng” quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào “ảo tưởng”, tuy những suy nghĩ của họ không thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có “lý tưởng” nhưng không thực hiện được mà thôi.

Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung đối diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “lý tưởng”, trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ cực vẫn không từ nan.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” hội hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy khuyết điểm của bản thân.

Ngoại trừ hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng, nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.

Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không tưởng.

Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn chủ về nhiều không tưởng, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất chủ về nhiều “lý tưởng”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “lý tưởng”, còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách “ảo tưởng”. Hai tính chất này không có liên quan với tình trạng “miếu, vượng, lợi, hãm” của các sao.

Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “bách quan triều củng” mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách “lý tưởng”. Nếu gặp các sao Sát Kị Hình, , thì “lý tưởng” khá tầm thường, đời người phần nhiều phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “tại dã cô quân”, thì bản chất của Thất sát là không tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều “ảo tưởng” không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những “ảo tưởng” không thể thực hiện này, giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.

Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi “lý tưởng”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến “ảo tưởng” va chạm với hiện thực, mà biến thành “lý tưởng”.

Mệnh cách Thất sát “ảo tưởng”, không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận.

Hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn bất lợi đối với Thất sát, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất thì có lợi hơn.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” gặp các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng’ thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.

Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, hay “kho lộ”, khiến Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” càng tăng nặng “ảo tưởng”, dễ lâm vào tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng” thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.

Hệ “Thiên đồng Cự môn” bất kể là cát hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”, khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ “Thiên đồng Cự môn” có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ảo tưởng” rất nặng.

Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” ưa đến cung hạn “Thái dương Thiên lương”, gặp Cát tinh, là vận tốt để thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại “ảo tưởng” đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là cơ hội để thực hiện những “ảo tưởng”, nếu thực hiện những “ảo tưởng”, sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản thân.

Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối với Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ảo tưởng”. Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh cách loại “ảo tưởng” vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất sát, dù là loại mệnh cách “lý tưởng”, cũng dễ vì sai lầm nhất thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của mình.

Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi !

Khi luận giải không nên ngộ nhận đối với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt tiêu cực của sao Thất sát.

Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất “lý tưởng” và “ảo tưởng” của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Bởi vì, khi “lý tưởng” có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Lúc “ảo tưởng” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái tiêu cực.

Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực, thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát tọa mệnh.

Thất sát thuộc loại tiêu cực, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng tính tiêu cực của nó. Sự “trung hòa” đối với mẫu người này là rất quan trọng.

Thanked by 5 Members:

#9 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 12/12/2012 - 20:11

Tử vi và Thất sát đồng cung ở Tị Hợi

Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên phủ, cung tam phương là “Vũ khúc Tham lang” và “Liêm trinh Phá quân” hội hợp.

Mệnh bàn loại này cấu tạo thuần tính vật chất, các sao hội hợp mạnh mẽ, do đó cát hung thường thường chỉ cách nhau một đường ranh.

Muốn luận giải bản chất của hệ “Tử vi Thất sát” ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt tính chất cực đoan của chúng, là thuộc vào loại “quyền uy” hay thuộc vào loại “hoành hành bá đạo”.

Mệnh cách thuộc loại “quyền uy”, phần nhiều phát triển theo xu hướng chính đạo, chính giới, chính tắc. Trường hợp mệnh cách “hoành hành bá đạo” dễ đi vào con đường lầm lạc. Thông thường, người có hệ “Tử vi Thất sát” thủ mệnh, không có tính cực đoan mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại khuynh hướng trong tính chất mà thôi.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” đã có tính chất quyền lực, vì vậy không nên làm mạnh thêm tính chất quyền lực của nó, nếu không sẽ dễ biến thành “hoành hành bá đạo”. Lúc Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới có thể tiêu trừ khí “hoành hành bá đạo”, lại không có các sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại “quyền uy”.

Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng không trở thành tính chất “hoành hành bá đạo”, mà mệnh cách chủ về “quyền uy”.

Nhưng nếu không có các sao Phụ Tá hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ “Hỏa tinh Đà la”, hoặc gặp hệ “Kình dương Linh tinh” đồng độ hoặc hội chiếu, thì hệ “Tử vi Thất sát” biến thành “hoành hành bá đạo”, đời người sẽ gặp nhiều trắc trở.

Cung đối diện là Thiên phủ rất nên là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì có thể giải được tính chất “hoành hành bá đạo” của hệ “Tử vi Thất sát”. Dù không thể nhuyễn hóa thành mệnh cách loại “quyền uy”, nhưng ít nhiều cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều thuận lợi hơn.

Cung tam phương tương hội là hệ “Vũ khúc Tham lang”, trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ “Tử vi Thất sát” nhiều vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về được hưởng thụ.

Cùng một lý, hệ “Liêm trinh Phá quân” cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa Lộc còn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” dù không có tính chất “hoành hành bá đạo”, cũng không nên hội với sao Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng ít hơn Phá quân Hóa Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh sẽ ảnh hưởng khiến hệ “Tử vi Thất sát” thành “hoành hành bá đạo”, cho dù Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa.

Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại “quyền uy”, mà không phải thuộc loại mệnh cách “hoành hành bá đạo”. Khi có các sao hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí “tương hòa”, khiến mệnh cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham” mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ rất dễ hoạch phá.

Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về dễ thành công, đời người có nhiều thuận lợi toại ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm; nếu thành mệnh cách “hoành hành bá đạo”, chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng nhiều.

Cung hạn “Liêm trinh Phá quân”, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà không thích hợp với hệ “Tử vi Thát sát” loại “hoành hành bá đạo”, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự nghiệp, con mệnh cách lọa “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại vận 10 năm có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập.

Nếu gặp các sao Sát Kị Hình tụ hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại “Hình kị giáp ấn” xung chiếu, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, chủ về bị áp lực cạnh tranh, lúc này, nên xem xét hậu vận để định thời cơ tiến thoái; mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào hoa nặng, thì đây là năm có nhiều nguy cơ, thường thường vì thất bại mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là “kho lộ”, “kho trống”, thì bất kể hệ “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên phần nhiều đều bị phá tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh chóng.

Thiên phủ là “kho đầy”, lại không có Sát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận lợi toại ý; Còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, thì cần phải giữ mình.

Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp các sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà đến cung hạn này, chủ về sẽ có vinh dự đặc biệt.

Do tính chất không tương thích, vì vậy khi hệ “Tử vi Thất sát” đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên hạn, nguyên tắc thông thường không được tiến thủ.

Cung hạn “Thiên đồng Thái âm” đồng độ, thông thường hệ “Tử vi Thất sát” ưa đến. Do hệ “Tử vi Thất sát” chủ về vất vả, khi đến cung hạn “Thiên đồng Thái âm” thì có thể được yên tĩnh, vì vậy được xem là vận trình hưởng thụ của hệ “Tử vi Thất sát” thuoock loại “quyền uy”. Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị, sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng sức khỏe không tốt, nhất là cần lưu ý bệnh tim mạch.

Hệ “tử vi Thất sát” đến cung đại vận “Thiên đồng Thái âm”, chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh.

Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ “Tử vi Thất sát” không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không thể hành động. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật.

Cung hạn “Vũ khúc Tham lang” đồng độ, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà không thích hợp với loại “hoành hành bá đạo”. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, thường thường là vận thế hưng thịnh, được cát hóa và có các Cát tinh tụ hội thì càng tốt, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn bình thường. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh, rắc rối, thị phi, nếu thành cách “Hỏa Tham” cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía mới kiếm được tiền.

Nếu được cát hóa và có Cát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì lại không được dài lâu.

Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình tụ hội, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, chủ về bị cạnh tranh, thu hoạch không được như lý tưởng; Còn đôi với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì phần nhiều là thất bại, nếu gặp Đà la đồng độ, còn chủ về hành động của bản thân gây ra thị phi, phải chịu nghịch cảnh.

Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt chú ý họa vì tửu sắc mà gây ra thị phi.

Cung hạn “Thái dương Cự môn” đồng độ, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” không ưa Thái dương quá vượng, cho nên khi đến cung hạn ở Dần có hệ “Thái dương Cự môn” tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung hạn ở Thân, mệnh cách “quyền uy” nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát tốt hơn.

Nếu cung hạn “Thái dương Cự môn” có các sao Sát Kị Hình tụ tập, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người khác rất bất lợi; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên chú ý.

Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là “hiệu lệnh”, mang lại giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp cách “Hình kị giáp ấn”, đây là vận trình bị áp lực và trắc trở của hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân Hóa Lộc đến xung, chủ về có cơ hội nhiều và trắc trở cũng nhiều, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà gặp hạn “Hình kị giáp ấn” thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận trình có tính đột phá, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải gặp oán trách nhiều mà thôi.

Gặp hạn “Tài ấn giáp ấn”, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” cần phải an phận giữ mình thì sẽ tiến bộ, nếu vận dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là nhân tố khiến cho hậu vận xảy ra phá tán, thất bại.

Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ “Tử vi Thất sát” đến cung hạn này, đều nên “tĩnh” mà không nên “động”, nếu “động” sẽ gây tồn thất.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” đồng độ, cũng có lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà bất lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo”, thường thường là bất lợi đối với lục thân, gặp hạn đời cô lập.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” được cát hóa và có Cát tinh, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo” đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách “bá đạo” càng dễ vì cuộc đời chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa người thân, bạn bè.

Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi đối với người có mệnh cách “bá đạo”, chủ về loại người dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, đối với người có mệnh cách “quyền uy” thì rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi.

Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại người mệnh cách “quyền uy” hay loại người mệnh cách “bá đạo”, đều không nên đến cung hạn này, đối với người có mệnh cách “quyền uy”, có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân; còn đối với người có mệnh cách “bá đạo”, vì biến thái tâm lý, dẫn đến làm càn mà gây ra họa.

Thanked by 5 Members:

#10 saobienden

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 357 Bài viết:
  • 1665 thanks
  • Locationhanoi

Gửi vào 12/12/2012 - 20:12

MỆNH VIÊN LUẬN


Thất sát đồng cung với Tử vi hay đối nhau với Tử vi, đều hóa làm sao quyền. Nếu gặp Tử vi Hóa Quyền, thì quyền quá nặng ,trở thành không lợi. Đến các đại hạn hay lưu niên này ắt không cát lợi, chủ về biến động thất bại, đặc biệt rất ghét gặp cung hạn Vũ khúc Hóa Kị.

Thiên lương chủ về “phong tục, luật pháp”, Thất sát cũng chủ về “phong tục, luật pháp”, nên cũng chủ về “hình pháp, kỷ luật”. Có điều, Thiên lương thuộc “văn”, Thất sát thuộc “võ”; Thiên lương có thể lui về hậu trường, Thất sát thì bước lên phía trước. Nên, Thiên lương có thể nhuyễn hóa thành “giám sát”, Thất sát thì nhuyễn hóa thành “quản lý”.

Cổ nhân nói “Hai cung mà gặp nó, định phải trải qua gian khổ” (Nhị cung phùng chi, định lịch gian tân), tức là hai cung Mệnh và Thân mà gặp Thất sát, đời người ắt sẽ có một thời kỳ trải qua gian khổ. Thất sát rất kị đến hai cung hạn Thiên cơ hay Cự môn tọa thủ, khi gặp hai cung hạn này, tính “hành động thiết thực” của Thất sát bị hóa giải, không còn thiết thực mà trở thành mù quáng.

Thất sát ắt sẽ đối nhau với Thiên phủ – Thất sát chủ về “công”, Thiên phủ chủ về “thủ”, hai sao kềm chế lẫn nhau. Cần phải xác định rõ sự ảnh hưởng từ bên nào. Ví dụ như Thất sát ở Dần hoặc ở Thân có Lộc tồn đồng độ, cung đối diện là “Tử vi Thiên phủ”, mà Thiên phủ được Lộc tồn vây chiếu. Cho nên lợi về “thủ” mà bất lợi về “công”. Lúc này Thất sát chịu ảnh hưởng chi phối của Tử vi ở cung đối diện, nên quyền lực của Thất sát thiên về khuynh hướng bảo thủ, chỉ muốn duy trì phát triển trong cục diện hiện có, mà không mong cầu lập ra cục diện mới, vì vậy cũng không có nhiều biến động thay đổi.

Thất sát kị Hỏa tinh Linh tinh, kị nhất là tổ hợp “Kình dương Hỏa tinh” và “Kình dương Linh tinh”, trong hai tổ hợp này, thì tổ hợp “Kình dương Linh tinh” là xấu nhất; nếu có Thiên hình đồng độ, gặp các sao Âm sát, Đại hao, Thiên hư, sẽ chủ về phạm pháp hình sự.

Thất sát ở cung miếu, vượng, gặp tổ hợp “Kình dương Hỏa tinh” thì còn được, chỉ chủ về lực kích phát, đời người không ngừng trắc trở, nhưng cũng nhờ đó mà có tiến bộ. Nếu gặp tổ hợp “Kình dương Linh tinh”, lại chủ về lụn bại dần dần, ở hãm địa thì càng nặng, còn chủ về không có duyên với lục thân, cuộc đời ít được trợ lực.

Thất sát hội với Văn xương, Văn khúc, mà không tụ hội thêm với các Phụ diệu hay Tá diệu khác là điều không nên. Nếu không tụ hội thêm với các Phụ diệu và Tá diệu khác, chủ về càng thông minh thì càng độc đoán, không chịu nghe ý kiến của người khác, mệnh cách thường tự gây ra trắc trở cho bản thân.

Thất sát rất ưa gặp Thiên khôi, Thiên việt, thậm chí đến các cung hạn có lưu Khôi, lưu Việt vây chiếu hay hội hợp, chủ về cơ hội chuyển biến theo hướng tốt.

Thất sát cũng ưa gặp sao Lộc, ưa nhất là gặp Phá quân Hóa Lộc, chủ về đời người trải qua một lần chuyển biến quan trọng mà được phú quý, kế đến là Tham lang Hóa Lộc, cũng có thể được vinh hoa nhưng không được lâu dài, Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt nhưng là cách kém hơn.

Thất sát đối nhau với Thiên phủ, đã mang hàm nghĩa gây trở ngại lẫn nhau, có mâu thuẫn về tính chất. Khi Thất sát gặp những sao Sát, Hình, Không, Hao, đồng độ, thường vì gặp trắc trở mà cảm thấy đời người là hư ảo, vì vậy mà tư tưởng xuất hiện khuynh hướng ẩn nấp trong tôn giáo, ưa bước vào cửa Phật, cửa Đạo. Nhưng khi Thiên phủ gặp sao Lộc, sẽ gây ảnh hưởng đến Thất sát ở cung đối diện, nhu cầu ẩn nấp trong tôn giáo sẽ bị lu mờ, trước hay sau vẫn còn tham luyến duyên trần.

Thất sát ở Tý hoặc Ngọ, có “Vũ khúc Thiên phủ” vậy chiếu, gặp sao Lộc thì “tài tinh” Vũ khúc có gốc rễ, có thể điều hòa khí chất của Thất sát, khí chất của Thất sát được nhuyễn hóa, sẽ trở thành người theo giới làm ăn kinh doanh. Nếu là người nắm thực quyền về kinh tế tài chính mà lại không có sao Lộc, chỉ cần không có các sao Sát, Kị, Hình, cũng chủ về được bậc trưởng thượng dùng tài lực giúp đỡ. Đây là hình ảnh Thất sát được dư khí che chở. Bởi vì liên quan đến “sự che chở”, nên Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ đặc biệt ưa Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật. Khi đến đại hạn, lưu niên có lưu Khôi hoặc lưu Việt xung khởi Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì đại hạn hay lưu niên này, được xem là cát lợi, chủ về được người tri ngộ. Nếu có các sao Sát, Kị, Hình hội chiếu, thì trường hợp này thuộc ngoại lệ.

Nếu Thất sát ở Ngọ thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, thì đại kị Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, cách này là “hỏa luyện âm kim”, gặp Hỏa tinh hay Linh tinh thì hỏa hầu quá lớn, không những đời người gian khổ, mà e rằng còn bị tàn tật. Trường hợp thành cách, cũng ưa đến các đại hạn hoặc lưu niên có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt.

Thất sát ở Tý không thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, vì Tý là phương Bắc thuộc Thủy, thủy có thể khắc hỏa. Cho dù có Hỏa tinh hay Linh tinh đồng độ, chỉ chủ về bôn ba vất vả, mà không đến nỗi phá cách.

Trường hợp thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, rất ưa Liêm trinh Hóa Lộc, là thượng cách, chủ về sức sống mạnh, kiên nghị trác tuyệt, trải qua phấn đấu mà thành đại nghiệp. Vận phát đạt ắt ở cung hạn Phá quân tọa thủ. Năm phát đạt ắt ở cung hạn Liêm trinh tọa thủ hoặc Tham lang tọa thủ.

Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, khi không thành cách hoặc phá cách, lại không nên đến cung hạn Liêm trinh, chủ về hôn nhân gặp nhiều sóng gió, trắc trở, cũng không nên đến cung hạn “Thiên cơ Cự môn” tọa thủ, chủ về giai đoạn thất bại.

Thất sát ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, không ưa Tử vi Hóa Quyền mà rất ưa Tử vi Hóa Khoa và Thiên phủ Hóa Khoa, khi Tử vi hóa Khoa chủ về “công”, còn Thiên phủ hóa Khoa chủ về “thủ”. Thất sát ở Dần Thân, là người độc đoán, gặp Văn xương Văn khúc chủ về vì thông minh mà phạm sai lầm; Gặp Lộc tồn đồng độ, khí hòa hoãn thành mệnh cách tốt, nhưng tính độc đoán càng thêm nặng. Khi luận giải cần chú ý đến đặc điểm này, xem xét kỹ cung Phúc đức và cung Phu thê, để xác định phẩm tính của mệnh cách. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hậu vận. Gặp Hỏa tinh, Linh tinh chủ về tính tình nóng nảy, hay vô cớ nóng giận, bộp chộp. Đối với Thất sát ở Dần Thân, các cung hạn “Liêm trinh Thiên tướng”, Cự môn, Phá quân, Thái dương là những đại hạn hoặc lưu niên then chốt.

Thất sát ở Thân, còn “Liêm trinh Thiên tướng” ở Ngọ, dù không thành cách “Hùng tú kiền nguyên” (vì Thất sát thuộc âm Kim, cung Thân thuộc dương Kim; Liêm trinh thuộc âm Hỏa, cung Ngọ thuộc dương Hỏa, hai khí Kim Hỏa về gốc, trở thành mỗi bên một khí, không còn tác dụng tương hỗ), nhưng vẫn ưa hai cung hạn Liêm trinh Hóa Lộc và Phá quân Hóa Lộc, đây là giai đoạn phát đạt.

Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, có “Liêm trinh Thiên phủ” vây chiếu, chủ về lý trí nặng hơn “Liêm trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, mệnh cách loại này phần nhiều có tư tưởng rất đặc biệt, Thất sát tại Thìn Tuất rất kị gặp Địa không, Địa kiếp hội chiếu, nếu không, người ta khó mà hiểu và chia sẻ đối với mệnh tạo, vì mệnh cách loại này thường cảm thấy đời người thiếu tri kỷ, không bộc lộ chia sẻ nên thành người cô độc, nặng hơn thì tâm chí nhiều hoang tưởng, thiếu thực tế. Nếu gặp Xăn xương, Văn khúc thì còn được, nhưng cần phải gặp Thiên khôi Thiên việt hoặc Tả phụ Hữu bật, mới có thể phú quý. Nếu Tham lang Hóa Lộc đến hội chiếu, chủ về không thể thỏa mãn tham vọng quá cao, nên cuộc sống có thể đầy đủ nhưng lại rất vất vả. (Tham lang xung chiếu ảnh hưởng tới cung Phúc đức). Đối với Thất sát ở Thìn Tuất, các cung hạn “Vũ Khúc Thiên tướng”, “Thiên đồng Cự môn”, Tham lang, hoặc cung hạn có tinh hệ vây chiếu đã thuật ở trên, là những đại hạn lưu niên có tính then chốt.

Thất sát ở Thìn Tuất, nếu cung Phúc đức là Tử vi Hóa Quyền, ắt sẽ bất lợi trong hôn nhân, nhất là nữ mệnh, chủ về không có sinh hoạt hôn nhân, hoặc thiếu lạc thú vợ chồng (có thể vì bận rộn hoặc vì chồng bị bệnh tật).

Thất sát ở Tý Ngọ thiết thực hơn Thất sát ở Dần Thân cũng như Thất sát ở Thìn Tuất. Phân biệt các tính “nhiều dục vọng”, hay tính “giữ nguyên tắc” của các các nhóm tinh hệ liên quan đến Thất sát thủ mệnh, cũng giúp ích cho việc luận giải. Ảnh hưởng của Tham lang đối với Thất sát như thế nào, thường rất quan trọng, chi phối mối quan hệ rất lớn, như gặp Hỏa Tham hay Linh Tham, càng chủ về dễ phát dễ phá.

#11 Yahoo2015

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 87 Bài viết:
  • 36 thanks

Gửi vào 30/11/2017 - 01:12

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

saobienden, on 10/12/2012 - 10:20, said:

KHÂM THIÊN GIÁM


Sao Thất sát miếu ở Sửu, Dần, Thân, Tuất, hãm ở Mão, Dậu.

Thất sát là sao thứ năm của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, hóa khí làm “quyền”, cũng là tướng tinh bên cạnh hoàng đế, chủ về “túc sát” (nghiêm và có sát khí), cuộc đời chủ về cô độc, phần nhiều không có tri kỷ. Có thể lợi dụng tính cách độc lập mà phát triển, sáng lập sự nghiệp mới một cách bất ngờ.

Sao Tử vi tương hội với sao Thất sát, có thể giúp cho đế tinh cầm cương ra oai, chuyển hóa thành quyền lực, nhờ có vậy mà khí “túc sát” của Thất sát trở thành hòa hoãn.

Do Thất sát là sao đại tướng, cho nên rất ưa phò tá Tử vi, Thiên phủ, chủ về được quý nhân đề bạt mà hoạn lộ thênh thang. Dù gặp Sát tinh, cũng có thể theo ngành kinh doanh buôn bán mà trở nên giầu có. Nếu theo con đường kinh doanh, chỉ thích hợp với ngành công thương nghiệp, ở môi trường này sẽ là một nhân viên giỏi, năng động và tháo vát, nhưng không nên đầu cơ, vì dễ xẩy ra phá tán mà thất bại; khi đã thất bại muốn trở lại thăng bằng và lấy đà vực dậy, sẽ gặp nhiều trở ngại và rất khó khăn.

Phàm người có Thất sát thủ cung Mệnh, trong đời ắt sẽ có một lần gẫy đổ rất lớn, cung Mệnh mà gặp Địa không, Địa kiếp, Đại hao thì càng nặng. Nếu theo ngành công thương nghiệp, tuy có trở ngại nhưng lòng tin không bị mất, vẫn được sự tín nhiệm, có thể khôi phục nguyên khí, nhưng vẫn không nên đầu cơ mạo hiểm.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở Mùi, hoặc Thất sát độc tọa thủ Mệnh ở Ngọ, còn Liêm trinh thủ cung Phúc đức, đều gọi là cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về phách lực hùng hậu. Đây do âm Kim của Thất sát được âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện mà thành hữu dụng. Thất sát thủ Mệnh ở Tý thì tốt kế đó.

Thất sát ở Sửu, tuy có Liêm trinh đồng độ, nhưng là mệnh cách bình thường. Nếu tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về hình khắc, khốn khó, tổn thương, họa hại, nặng thì cuối cùng sinh tàn tật.

Thất sát rất ngại lạc hãm, cũng như không ưa gặp Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, Âm sát, chủ về tính cô độc càng thêm tăng nặng, phúc khí bất toàn. Phần nhiều, mệnh tạo thường tìm đến tôn giáo để giải tỏa tinh thần, tư tưởng nhiều ảo vọng nên thường cảm thấy tâm hồn hư ảo trống rỗng.

Thất sát ở Sửu hoặc ở Mùi, cung Thiên di ắt là Thiên phủ, chủ về bề ngoài cứng rắn mà bên trong giầu tình cảm, phần lớn hay buồn bã không duyên cớ, dễ mủi lòng, còn bất lợi về hôn nhân, cuối cùng dễ có tư tưởng xuất thế.

Thất sát gặp “Thái dương Cự môn” ở cung Đế vượng, gọi là “cát xứ tàng hung” (trong cát có hung), chủ về trong thuận cảnh bỗng sinh biến cố, nên giấu bớt tài năng.

Nam mệnh Thất sát, cung Phúc đức nên gặp các Cát tinh. Nữ mệnh Thất sát, cung Phu nên gặp các Cát tinh.

Thất sát là tướng tinh, các sao Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, cho tới Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đối với nó mà nói, đều rất quan trọng, làm tăng thanh thế cho Thất sát. Vì vậy không bằng trường hợp các sao Cát phân bố đều trong 12 cung, lúc này cách phối trí mệnh bàn được quân bình, đời người giảm thiểu những trắc trở gian nan.

Thất sát miếu ở Sửu ít nhắc đến,Thất sát miếu ở Tí,Ngọ là đúng hơn;ở Ngọ đẹp hơn ở Tí

Đa số các sách nói Thất sát miếu ở Dần,Thân,Tí,Ngọ,ở Sửu ít nhắc đến;ở Ngọ đẹp hơn ở Tí






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |