Jump to content

Advertisements




Nguyên Lý Luận Giải Lá Số (của LongNguyenQuang)


563 replies to this topic

#16 TNK75

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2700 Bài viết:
  • 3662 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 11:17

TNT có thể kể vài chuyện ví dụ được k ? Lục sát tinh đang làm cho 4 đức của mình bị lung lay dữ dội

Thanked by 1 Member:

#17 tigerstock68

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1221 Bài viết:
  • 1833 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 11:19

TNT từng thấy tận mắt nhiều việc, điển hình như số phần phải như vậy, nhưng do được người ở cõi khác giúp, nên có thể tránh được việc dữ,..v...v...
tôi cũng tùng chứng kiến nhiều trường hợp như vậy,có những cách liêm trinh thiên tương cư ngọ , hình kỵ giáp ấn như lá số người nhà tôi phải gặp hạn dữ ở bên bịt mắt bắt dê dẫ từng post nhưng khi biết cách hóa giả ở cõi vô hình thì có thể tránh được việc dữ đó xảy ra... nhưng cũng như TNT nói cung phúc nó quyết định rất quan trọng trong việc hóa giải..

Thanked by 1 Member:

#18 TNT

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 514 Bài viết:
  • 881 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 11:44

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TonHanhGia85, on 14/01/2013 - 11:17, said:

TNT có thể kể vài chuyện ví dụ được k ? Lục sát tinh đang làm cho 4 đức của mình bị lung lay dữ dội
TNT có tập thói quen là hạn chế nói việc của người khác, nên nói cụ thể thì không được, đại khái là TNT có thể hỏi 1 số việc từ người cõi khác, giống như các Ông Thầy phán như thần có nuôi ma xó vậy đó.
TNT đã nhiều lần hỏi như thế, và sự việc xảy ra đúng 100%, có vài việc người cõi âm có thể giúp mình giảm nhẹ sự việc, 1 số việc thì không thể, họ nói thẳng như vậy và lý giải do phước phần nên phải chịu, không thể giúp gì.
Tóm gọn lại, những việc lớn, như Trả Nghiệp đã gieo thì phải chịu.
Các việc nhỏ như tai nạn, công việc,... thì có thể giúp được, nhưng tùy thuộc rất lớn vào công đức của người đó.
Và làm sao để được thần linh giúp, TNT nghĩ chỉ có cách là mình Tự Tu thôi, mới mong cải được số.

Sửa bởi TNT: 14/01/2013 - 11:45


#19 Tomraider

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 163 Bài viết:
  • 72 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 13:34

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NhuThangThai, on 13/01/2013 - 23:58, said:

Thế nhỡ tác giả xem bói bằng một đằng rồi nói một nẻo, chiêu có mười phân chỉ tung ra có 3, còn lại kiếm quyết quan trọng nhất thì dấu đi, (S200 thì bán, S300 thì cất đi như chính tác giả đã từng thổ lộ trên tvls) thì sao?

Tác giả xuất chiêu sử dụng lý thuyết khí tông, nhưng viết bài hướng dẫn lại dụng hình, luận một đằng nói một nẻo thì sao?
Chuyện tặng nhau hàng lởm để cả môn phái người khác dắt díu nhau đi xuống hố cả nút (XHCN), miếng ngon dành tặng học trò cưng... ta gặp mãi trong giới tử vi. Cũng không thể trách họ, môn quy không cho họ tiết lộ các kĩ thuật, mà chỉ có thể nói những thứ vu vơ.
Lúc đó nhìn cảnh các con giời mắt sáng ngời hi vọng, chăm chỉ học gạo theo tịch tà kiếm phổ rởm, thích phải biết.

Nên trong học thuật phải vừa học hỏi, vừa đào sâu suy nghĩ là vậy.

Học hỏi phải có gạn lọc, suy nghĩ chứ cứ cắm đầu mà đọc, mà học thì ngu là đúng rồi. Hèn gì ai ấy coi như...****. Vậy mà khối kẻ cứ tru lên ta đây giỏi.

Nếu chỉ nghiên cứu cho sướng, rồi sổ nho ra cho thiên hạ lác mắt trong khi chẳng ứng dụng gì được thì đúng là rỗi hơi. Mà nói nghiên cứu cho sang chứ học hành tới đâu. Toàn mấy chủ đề tào lao.

Sửa bởi Tomraider: 14/01/2013 - 13:37


Thanked by 4 Members:

#20 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 16:26

Thế tóm lại, tomraider đọc bài viết của tác giả LQN có gạn lọc được gì không, và có thải hồi được gì không? Và có ứng dụng được gì chưa, trao đổi mọi người cùng biết?

Thanked by 1 Member:

#21 AnKhoa

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6695 Bài viết:
  • 15445 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 16:45

Bài của anh LNQ có nhiều cái hay đó chứ, có thể NTT không nhìn ra, hoặc ... không muốn nhìn ra

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#22 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 17:14

Thì tôi phải thấy bài viết có cái hay, phải có giá trị thì mới đưa lên đây để draw attention, chứ bài viết vớ vẩn lãng xẹt, man thư phân loại con thì tôi đưa lên đây làm gì, tốn thời gian, phí băng thông mạng của admin.

Tuy nhiên, giá trị đến đâu, đọc xong có nắm được cái gì, người ta nói 10 phần hiểu được hai phần, hay tac gia? nói hai phần mình vỡ ra 10 phần thì lại tùy vào trí tuệ từng người. Nhiêu cái tác giả chỉ gợi ý, chúng ta phải work thêm.

Đưa ra thử xem mọi người gạn lọc, tiêu hóa ra sao.

Sửa bởi NhuThangThai: 14/01/2013 - 17:25


#23 AlexPhong

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8838 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 17:28

Trước đây bác VDTT tổng hợp ra các cốt yếu của Tử Vân rất cụ thể. NTT thử làm thế với pp của tác giả LNQ xem có gì đáng chú ý không. Bài post #1 thì quá yếu.

#24 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 17:49

Nói thật lòng, đây là cái tôi cho đàn em học tử vi bốn tháng đọc, và bắt các em ấy làm bản tổng kết xem từng tác giả có điểm mạnh yếu gi, có gì để học, cái gì họ phạm sai lầm và sa vào man thư để mình tránh ra. Tư duy phản biện đặc biệt quan trọng trong Khhb,, không khéo sa vào man thư cả đời không ra được, nên cần rèn luyện từ khi mới học. Đoạn nào man thư, chỉ ra, tại sao, đoạn nào đúng thì tại sao, có chiêu gì dấu đằng sau không. Đọc xong thì chuyển sang cuốn bm tvds.
Thường thì tôi cấm tiệt chuyện bình luận công khai, vì chẳng ai nói sạch cái mình có được, thường chỉ nói một hai phần.

Vì rằng ai cũng thủ thế cả, ngoại trừ man thư thì rất thoải mái trong việc tặng cho người ngoài, nên tôi không mấy khi bình luận xem có mạnh hay không' mà quan trọng là mình thu được cái gì.

Có điều lười chữa bài, nên vất lên đây để mọi người làm chơi, cũng không quá khó. Rảnh mình đi làm việc khác.

Sửa bởi NhuThangThai: 14/01/2013 - 18:02


#25 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 14/01/2013 - 18:57

Một trong những lý do chủ yếu tôi đưa bài viết này lên đây, đó là vì lý thuyết vòng trường sinh. Tôi có cùng quan điểm về vòng trường sinh với tác giả, nhưng cách lý giải khác hẳn:

Trích dẫn

- Vòng tràng sinh cho các Cục đều khởi thuận.

- Mộc cục khởi tràng sinh từ hợi .
- Hỏa cục khởi tràng sinh từ Dần .
- Kim cục khởi tràng sinh từ tỵ .
- Thủy cục khởi tràng sinh từ Thân.
- Riêng Thổ cục không nên xét theo quan điểm một vòng tràng sinh liên tục mà chỉ xét độ vượng suy : Vượng tại tỵ ngọ, Tướng tại Thìn tuất sửu mùi, Hưu tại thân dậu, Tù tại Hợi tí, Tuyệt tại dần mão.


Thanked by 2 Members:

#26 Can.Spacy

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 370 Bài viết:
  • 450 thanks

Gửi vào 15/01/2013 - 19:07

Cục vì sao lại được dùng để an 14 chính tinh dựa vào ngày sinh? ta nên nghiên cứu cục là cái rì nữa mới biết vì sao lại có cách an vòng Trường sinh theo cục như vey.

các bác cứ hùng hục chứng minh vòng trường sinh theo cục dựa trên dịch lý dễ đi vào ngõ cụt rồi cuối cùng mình lại mâu thuẫn với chính mình. để rồi chẳng biết vòng Trường sinh cục để làm gì. rồi thành ra một số người bỏ cả vòng Trường sinh cục đi trong luận số. vì nó có mấy cách an, bỏ đi thấy vẫn luận được. suy ra vòng trường sinh cục tào lao...Có biết rồi cũng là Cục là ngũ hành nạp âm của Can Chi cung mệnh...rồi suy ra các lý thuyết xxx nào đó. Như Cục là môi trường của mệnh chẳng hạn là lý thuyết xxx nào đó...

Sao không tự hỏi vì sao vòng lộc tồn lại an theo Nam Nữ?

nghiên cứu Tử vi toàn võ đoán, gọi 2 chữ nghiên cứu cho hay chứ kỳ thực mù tịt như thầy bói xem voi.

ông thầy mù này sờ phải cái Tai nói song Hao hành Thủy, ông thầy mù khác sờ phải cái chân nói song Hao hành Hỏa, rồi cãi nhau chí tử, cuối cùng mạnh ai người đấy làm, cuối cùng cũng là xưng Tử vi do ta nghiên cứu là khoa học hẳn hoi, đúng là như ông LQN nói "lấy thịt lợn để nuôi lợn".

Thanked by 1 Member:

#27 AlexPhong

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8838 thanks

Gửi vào 15/01/2013 - 19:18

Nguồn Tam Mệnh Thông Hội:
Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :

• Giáp tí Kim là thực vật thích Kim Thủy vượng địa, tấn thần hỷ phúc tinh, bình đầu huyền ngoại phá tự.
• Ất sửu Kim là khoáng vật thích Hỏa và Nam phương nhựt thời, phúc tinh Hoa cái chánh ấn.
• Bính dần Hỏa là Lư khôi thích Đông và Mộc, phúc tinh lộc hình, bính đầu lung á.
• Đinh mảo Hỏa là Lư yên thích Tốn và Thu đông, bính đầu triệt lộ huyền châm.
• Mậu thin Mộc là sơn lâm sơn dã, mộc bất tài, thích thủy lộc khố hoa cái, thủy lộc mã khố, bổng trương phục thần bình đầu.
• Kỷ Tỵ Mộc là hoa quả trên núi, thích Xuân và Thu, Lộc khố nhập chuyên.
• Canh Ngọ Thổ là đất mỏng bên đường, thích Thủy và Xuân, phúc tịnh quan quý, triệt lộ bổng trượng huyền châm.
• Tân Mùi Thổ, thích Thu với Hỏa, hoa cái huyền châm phá tự.
• Nhâm Thân Kim là kích chiến, thích Tí Ngọ Mảo Dậu, bình đầu đại bại, phường hại lung á phá tự huyền châm.
• Quý Dậu Kim là Kim thôi tạc, thích Mộc và Dần Mảo, phục thần phá tự lung á.
• Giáp Tuất Hỏa thích Xuân và Hạ, chánh ấn hoa cái, bình đầu huyền châm phá tự bổng trượng.
• Ất Hợi Hỏa, Hỏa khí nóng thích Thổ và Hạ, Thiên đức khúc cước.
• Bính Tí Thủy sông hồ, thích Mộc và Thổ, phúc tinh quan quý, bình đầu lung á, giao thần phi nhận.
• Đinh sửu Thủy, thủy bất lưu thanh, triệt cứ, thích kim và hạ, hoa cái thối thần, bình đầu phi nhận.
• Mậu Dần Thổ, đề tinh thành quách, thích Mộc và Hỏa, phục thần bổng trượng lung á.
• Kỷ Mão Thổ, phá đê bại thành, thích Thân Dậu và Hỏa, tấn thần đoản thiên cửu xá, khúc cước huyền châm.
• Canh Thìn Kim Tích lạp, thích Thu và triệt Mộc, hoa cái đại bại, bổng trượng bình đầu.
• Tân Tỵ Kim ; Kim sanh thì sa thạch tạp, thích Hỏa và Thu, Thiên đức phúc tinh quan quý, triệt lộ đại bại huyền châm khúc cước.
• Nhâm Ngọ Mộc : dương liểu cán tiết, thích Xuân Hạ, thích quan quý, cửu xú phi nhận bình đầu lung á huyền châm.
• Qúy Mùi Mộc : Dương liểu căn, thích Đông với thủy và chánh ấn ở Xuân, hoa cái đoản thiên phục thần phi nhận phá tự.
• Giáp Thân Thủy : Cam tỉnh thích Xuân và Hạ, phá lộc mã triệt lộ bình đầu.
• Ất Dậu Thủy : âm Thủy thích Đông và Nam phương , phá lộc đoản thiên cửu xú khúc cước phá tự lung á
• Bính Tuất Thổ : gò đồi, thích Xuân Hạ và Thủy, thiên đức hoa cái, bình đầu lung á.
• Đinh Hợi Thổ : Bình nguyên, thích Hỏa và Mộc, thiên đức phúc tinh quan quý đức hợp bình đầu.
• Mậu Tí Hỏa : Sét vậy, thích Thủy và Xuân Hạ, đắc thượng thần thiên, phục thần đoản thiên cửu xú trượng hình phi nhận.
• Kỷ Sửu Thổ : điện vậy, thích thủy và Xuân Hạ, đắc địa mà tối, hoa cái đại bại phi nhận khúc cước.
• Canh Dần Mộc : Thân cây tùng bách, thích Thu Đông, phá lộc mã tướng hình trượng hình lung á.
• Tân Mão mộc : Rễ cây Tùng, thích Thủy Thổ và Xuân, phá lôc giao thần cửu xú huyền châm.
• Nhâm Thìn Thủy : Long Thủy, thích Lôi điện và Xuân Hạ, chánh giáp thiên đức thủy lộc mã tất thối thần bình đầu lung á.
• Quý Tỵ Thủy : Không nghĩ khi chảy về biển, thích Hợi Tí mà biến hóa thiên ất quan quý đức hợp, phục mã phá tự khúc cước.
• Giáp Ngọ Kim : Bách luyện tinh Kim, thích Mộc Thủy Thổ, thối thần đức hợp, bình đầu phá tự huyền châm.
• Ất Mùi Kim : Lư khôi dư Kim, thích dại hỏa và thổ, hoa cái triệt lộ khúc cước phá tự.
• Bính Thân Hỏa : Bạch nha dã thiêu, thích Thu Đông và Mộc, bình đầu lung á đại bại phá tự huyền châm.
• Đinh Dậu Hỏa : Quỷ thần thừa hưởng Hỏa vô hình, thích Thìn Tuất Sửu Mùi, thiên ất hỷ thần bình đầu phá tự lung á đại bại.
• Mậu Tuất Mộc : Thứ cỏ ngải khô, thích Hỏa và Xuân Hạ, hoa cái đại bại nhập chuyên trượng hình triệt lộ .
• Kỷ Hợi Mộc : mầm cỏ ngải, thích Hỏa và Xuân Hạ, khúc cước .
• Canh Tí Thổ : Thổ giữa không, là ốc vũ, thích Mộc và Kim Mộc, đức hợp trượng hình .
• Tân Sửu Thổ : Mộ, thích Mộc và Hỏa với Xuân, hoa cái huyền châm.
• Nhâm Dần Kim : Kim hoa sức, thích Mộc Hỏa, triệt lộ bình đầu lung á.
• Quý Mão Kim : Dây ngọc, thích Hỏa mạnh và Thu, quý nhân phá tự huyền châm.
Giáp Thìn Hỏa : Đèn vậy, thích đêm và Thủy, Hoa cái đại bại bình đầu phá tự huyền châm.
• Ất Tỵ Hỏa : Ánh đèn vậy, thích Thân Dậu và Thu, chánh Lộc mã, đại bại khúc cước.
• Bính Ngọ Thủy : Nguyệt luân, thích đêm và Thu thủy, hỷ thần dương nhận, giao thần bính đầu lung á huyền châm .
• Đinh Mùi Thủy : Hỏa quang đồng thươn, hoa cái dương nhận thối thần nhập chuyên bình đầu phá tự.
• Mậu Thân Thổ : Điền địa, thích Thân Dậu và Hỏa, phúc tinh phục mã phục hình phá tự huyền châm .
• Kỷ Dậu Thổ : thích Thân Dậu và Đông, tấn thần triệt lộ cửu xú, khúc cước phá tự lung á.
• Canh Tuất Kim : thích dùng Hỏa và Mộc, hoa cái trượng hình.
• Tân Hơi Kim : chung đỉnh bảo vật, thích Mộc Hỏa và Thổ, chánh lộc mã huyền châm.
• Nhâm Tí Mộc : thương Thủy Mộc, thích Hỏa Thổ và Hạ,dương nhận cửu xú bình đầu lung á.
• Quý Sửu Mộc : thương Thủy Mộc, thích Kim Thủy và Thu, hoa cái phúc tinh nhập chuyên, phá tự dương nhận .
• Giáp Dần Thủy : Mưa vậy, thích Hạ và Hỏa chánh lộc mã phúc thần nhập chuyên bình đầu phá tự huyền châm lung á.
• Ất Mão Thủy : Lộ vậy, thích Thủy và Hỏa, kiến lộc, nhập chuyên cửu xú khúc cước huyền châm.
• Bính Thìn Thổ : Đê ngạn, thích Kim và Mộc , lộc khố chánh ấn, hoa cái triệt lộ bình đầu lung á .
• Đinh Tỵ Thổ : Thích Hỏa và Tây Bắc, lộc khố bình đầu khúc cước.
• Mậu Ngọ Hỏa : Nhựt về Hạ thì nhân úy, qua Đông thì nhân ái, kỵ Mậu tí Kỷ sửu Giáp dần Ất mão, phục thần dương nhận cửu xú bỗng trượng huyền châm.
• Kỷ Mùi Hỏa : Ngày kỵ đêm, phúc tinh hoa cái dương nhận khúc cước phá tự.
• Canh Thân Mộc : Lựu hoa, Hạ bất nghi, Thu Đông kiến lộc mã, nhập chuyên trương hình phá tự huyền châm.
• Tân Dậu Mộc Lựu nhỏ, thích Thu và Hạ kiến lộc giao thần cửu xú nhập chuyên huyền châm lung á.
• Nhâm Tuất Thủy : Biển vậy thích Xuân Hạ và Mộc, hoa cái thối thần bình đầu lung á trượng hình.
• Quý Hợi Thủy : Bách xuyên thích Kim trên Hỏa, phục mã đại bại phá tự triệt lộ .
Lục thập Giáp Tí thịnh lớn thì kỵ biến nhỏ yếu, nếu bị nhỏ yếu thì muốn thành lớn mạnh, giống như trước bần tiện mà về sau phú quý vinh hoa, trước phú quý mà sau bần tiện nhỏ mọn ; không nên dùng phú quý trước mà không luận bần tiện, cũng không thể thấy bần tiện trước mà không luận phú quý.
Niên sanh thuộc Mộc, ví dụ như Canh Dần Tân Mão tức Mộc lớn mạnh, nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc thì lấy Tòng bá Mộc mà luận ; vạn nhứt mà gặp Dương liểu hoặc Thạch lựu tức bỏ đại mà về tiểu, không lấy Tòng bá mà luận vậy.
Còn như sanh nhân là Nhâm Ngọ Quý Mùi thì Mộc nhỏ yếu nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc khác thì lấy Dương liểu mà luận, vạn nhứt nếu gặp Tùng bách hoặc Đại lâm Mộc tức bỏ nhỏ mà luận lớn, không nên luận như Dương liểu vậy.
Cho nên Thiên thượng Hỏa, Kiếm phong Kim , Đại hải Thủy Đại trạch Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp các vị nạp âm đều nhỏ yếu ; hay như Phúc đăng Hỏa, Kim bạc Kim, Tỉnh tuyền Thủy, Sa trung Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp vị khác thì nạp âm đều lớn mạnh, hoặc đem phàm nhập thánh, hoặc trước trọng mà sau khinh, đều theo sự biến mà luận chứ không thể chấp ở một mặt.
- Giáp tí là Kim tùng cách nên khí tán, nếu được Mậu Thân Thổ, Quý Tỵ Thủy tương hợp thì tốt, Mậu Thân là đất Lâm quan Kim, Thổ thì vượng ở Tí nên được sanh thành vậy, Quý tỵ thuộc hệ Kim sanh ở Tỵ, Thủy sanh ở Tí, nạp âm tat cả đều quy lại là triều nguyên lộc, kỵ Đinh Mão Đinh Dậu Mậu Ngọ Hỏa . Diêm đông Sưu nói : Giáp Tí Kim là tấn thần bẩm cái đức trầm tiệm hư vô nên tứ thời đều tốt, nhập quý cách thừa vượng khí nên tay nghề tinh vi chủ về vinh hoa hiễn đạt.
- Ất sửu là Kim phủ khô, Hỏa không thể khắc bởi Kim đã ân núp nên không bị hình hại xung phá lại là hiễn vinh , chỉ kỵ Kỷ Sửu Kỷ Mùi Hỏa. Diêm đông Sửu nói : Ất sửu là chánh ấn, là đại phúc đức, Thu Đông được phú quý thọ khảo, Xuân Hạ thì tốt , trong đó tự nhập cách thì kiến công hưởng phước. Ngọc Tiêu bửu Giám nói : Giáp Tí Ất Sửu chưa thành khí, Kim gặp Hỏa thì thành, gặp nhiều thì tốt.
- Bính Dần là Hỏa hách hy, Thủy không chế được nên cái Hỏa thiêu đốt dữ dội, Thủy không qua được, chỉ thích một mình Giáp Dần Thủy, đồng vị với nhau lại gọi là triều nguyên Lộc. Yếu luận nói : trong Dần Hỏa chứa khí linh minh, tứ thời sanh đức, nhập quý cách thì văn chương phát khoa giáp.
- Đinh Mão là Hỏa phục minh, khí yếu nên cần Mộc sanh, gặp Thủy thì hung, nếu gặp Ất mão Ất dậu thủy thì rất độc. Ngũ hành Yếu Luận nói : Đinh mão là Hỏa mộc dục, khí hàm lôi đông phong, thủy tề khí đạt, thổ tải thì mộ hậu, lấy mộc mà cho thì văn chương, lấy kim mà hợp lại gặp hạ thì hung bạo. Quỷ Cốc nói : Bính dần Đinh mão thu đông cần phải bảo trì. Chú rằng : hỏa không vượng tây đến thu đong thì thế sợ không bền.
- Mậu thin là lưỡng thổ hạ mộc, các kim không thể khắc bởi là thổ sanh kim tức cái đạo mẫu tử, được thủy sanh là tốt. Ngũ hành yếu Luận nói : Mậu thìn Canh dần Quý sửu 3 thần này tánh mộc tráng kiện, sanh ở Xuân Hạ có chất độc lập, tùy biến hóa mà thành công, thừa được vượng khí thì chí tận mây xanh, chỉ kỵ sanh ở Thu, tuy bị hoại tiết chí bị khuất phục nhưng chẳng theo vậy.
- Kỷ tị là mộc cận hỏa, kim sanh ở đây, ở ta mà không sát, kỵ gặp hỏa sanh vượng. Diêm Đông nói : Kỷ tỵ tại Tốn là Mộc bị phong đông, rễ dể bị bạt, hòa với Kim, Thổ vận ở Đông nam mà thành vật dụng, tuy ngoài dương trong âm mà chẳng phụ trợ nên khí hư tán, lại thêm Kim quỹ khắc nên thành Mộc bất tài dung vậy. Lạc lộc Tử nói : Kỷ tỵ Mậu thìn qua Càn cung mà thoát ách. Chú rằng : Kỷ tỵ Mậu thìn là loại cử mộc, kim quỹ vượng ở phương Tây, nạp âm mà Mộc thì đến đây phải tuyệt vậy. Như bị hạn ách nếu đến Càn Hợi cung thì Mộc đắc Thủy thành trường sanh mới khỏi ách.
- Canh ngọ Tân mùi Thổ, Mộc không dến khắc, chỉ kỵ nhiều Thủy thì bị thương khí, còn Mộc nhiều thì nhủ quy về, bởi Mộc quy Mùi vậy. Diêm Đong nói : Canh ngọ Tân mùi Mậu thân Kỷ dậu đều có đức hậu, Thổ bao hàm trấn tịnh, dung hợp hòa khí, nhân cách phước lộc.
- Nhâm thân là Kim lâm quan, thích gặp Thủy Thổ, nếu gặp Hỏa Bính thân Bính dần Mậu ngọ thì tác hại . Diêm D(ông nói : Nhâm thân Kim là cái uy của thiên tướng cho khí lâm quan, Thu Đong chủ quyền bị sát, Xuân Hạ thì tốt ít xấu nhiều, nhân cách lấy công danh mà phấn chấn, đế sát dùng để khắc bạc.



- Quý dậu là Kim cứng mạnh, Hỏa tử ở Dậu nên gặp Hỏa chẳng hề gì, chỉ kỵ Hỏa Đinh dậu cùng vị nên khắc vậy. Diêm Đông nói : Quý dậu là tự vượng Kim, cái khí chất thuần túy, Xuân Hạ thì tánh anh minh, Thu Đong rất quý nhân cách nên công danh sự nghiệp tiết tháo hơn người, đới sát thì niên thiếu ngang ngạnh đến sau 40 thì dần thuận tánh. Vương tiêu Bửu Giám nói : Nhâm thân Quý dậu là vị vượng Kim, không nên vượng lại vì vượng thì sát vật, không nên gặp Hỏa vì gặp Hỏa thì bị thương.
Giáp tuất là tự khô Hỏa, không sợ các thủy chỉ sợ Nhâm tuất, đó là cái họa mộ trung thọ khắc, khó tránh được. Ngũ hành yếu luận nói : Giáp tuất Hỏa là Ấn là khố, gồm cho đến khí dương tạng mật, gặp được qúy cách thì phú quý quang đại, chỉ kỵ sanh Hạ thì trong cát có hung.

- Ất hợi là Hỏa phục minh nên khí uất ức mà không phát tịch được, Kỷ hợi, Tân mão Kỷ tỵ Nhâm ngọ Quý mùi là Mộc sanh cho nên tinh thần vượng tướng, có Quý hợi Bính ngọ Thủy thì không tốt. Diêm Đông nói : ẤT hợi là Hỏa tự tuyệt, khí hàm minh mẫn mà tự tịnh, thuộc hệ ám quang tịch nhiên vô hình, nếu được đắc số thì cao nhân diệu đạo, quân tử tốt đức.

- Bính tí là Thủy lưu hành, không sợ các Thổ, chỉ hiềm Canh tí bởi trong vượng gặp quỷ chẳng được tốt lành. Ngũ hành yếu Luận nói : Bính tí tự vượng Thủy, dương thượng âm hạ, tinh thần hoàn hảo, bẩm chất thiên tư khoáng đạt, tri thức uyên thâm, Xuân Hạ thì khí tề vật, công năng kiện lợi.

- Đinh sửu là phước tụ Thủy, rất thích Kim sanh, sợ bị Tân mùi Bính thìn Bính tuất tương hình phá vậy.Ngũ hành yếu luận nói “ Đinh sửu Ất dậu tại số là thủy tam yếu, có bẩm chất âm thạnh dương yếu, tuy trong sáng nhiều huệ mà thiếu phước, dùng Thủy Mộc vượng khí thì quân bình được âm dương mà phát quý đạt hiển sĩ “.

- Mâu Dần là Thổ thọ thương, chẳng có chút lực, cần được Hỏa sanh vượng để giúp khí, kỵ Kỷ hợi Canh dần Tân mão Mộc khắc, chủ bị đoãn triết đại hung. Ngũ hành yếu luận nói : Mậu dần, Bính tuất hai vị này thừa khí Thổ, một mặt sanh Hỏa, một mặt giữ Hỏa, tức là linh dương theo trong được phước khánh, đắc quý cách, đạo đức hơn đời, đến tận thân vương công tử, nhiều nơi chỗ nhựt sanh thường được dắc cách, cũng đếu phước thọ dài lâu, trước sau đều an dật.

- Kỷ mão là Thổ tư tử, bị ức chế nhiều, quý nhờ ở cái HỎa Đinh mão Giáp tuất Đinh hợi Kỷ mùi mà có phước. Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mão tự tử Thổ, mạnh ở nơi chánh vị, gió nỗi sét động, tán mà hòa khí, bẫm loại đạo hàn, tùy biến mà thích ứng, phức thọ tự tại, chỉ không lợi nơi tử tuyệt tức là cửu giả vật quý chi đồ. Tam mệnh soán cục nói : Mậu dần Kỷ mão Thổ thọ thương không sợ lấy Mộc lâm tổn vì Thổ không còn lực. Vương tiêu bửu giám nói : Mậu dần Kỷ Mão Thổ không nên gặp Thủy, gặp Thủy thì tổn tài, không sợ Mộc, gặp Mộc thì thành chắc. Mậu dấn thừa Thổ đức vượng khí mà hàm sanh Hỏa, đắc thì chỉ phước thọ dài lâu, Kỷ mão không nên gặp lại tử tuyệt, gặp thì hung.

- Canh thìn là Kim tụ khí, không dùng Hỏa chế thì khí vật tự thành, Hỏa mạnh thì thành tổn thương khí vật, gặp Hỏa bệnh tuyệt thì vô hại, nếu gặp Giáp thìn Ất tỵ thì xấu ác rất nhiều, cũng không thể khắc các Mộc được. Diêm Đông nói : Canh thìn Kim có được sự cương kiện trầm hậu, lại có tánh thông minh lanh lợi, Xuân Hạ họa phước cũng có, nhập cách thì tài kiêm văn võ, đới sát thì hảo lộng binh quyền.

- Tân tỵ là bạch kim, tinh thần đầy đủ, khí thế hoàn bị, có bị thiêu đốt cũng không tiêu vong, kỵ Bính thìn Ất tỵ Mậu ngọ các Hỏa, bởi Kim bạch ở tỵ mà không thường sanh, bại ở ngọ tuyệt ở dần, khí tán mà lại gặp Hỏa sanh vượng thì khó mà đương nổi. Ngũ hành yếu luận nói : Tân tỵ Kim là tự sanh học đường, đủ anh minh khối kỳ, Thu Đong sức lực đầy đủ, Xuân Hạ bảy phần xấu ba phần tốt, nhập quý cách thì chủ học hành thông minh, thân được thanh quý, có lòng thương vật. Vương tiêu bửu giám nói : Canh thìn Tân tỵ chưa thành Kim khí nên cần gặp Hoa. Tân tỵ là tự sanh, tỵ thì đắc Hỏa nên quang huy nhựt tân.

- Nhâm ngọ là Mộc nhu hòa , thân rễ đều nhỏ yếu, mộc năng sanh hỏa nên kỵ gặp nhiều hỏa, gặp thì thiêu hết vậy, tuy là kim sanh vương nhưng cũng không làm cho thương tổn được bởi kim đến đây thì bại, được kim trở thành quý, thủy thổ thạnh thì cũng quý, chỉ sợ kim Giáp ngọ làm thương tổn thôi. Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm ngọ mộc tự tử, mộc tử tuyệt thì hồn đi mà thần khí linh tú, bẩm được cái đức tịnh minh, có dõng lực mà phá tịnh lập công, diên niên ích thọ.

- Quý Mùi mộc tự khố, sanh vượng thì tốt, tuy ẤT sửu kim không thể xung phá cũng đều phải quy về gốc mới không tương phạm, kỵ Canh tuất Ất mùi kim. Ngũ hành yếu luận nói : Quý mùi là chánh ấn , có tánh văn minh tài đức, muốn đươc phước thanh hoa. Ngọc tiêu bửu giám nói : Nhâm ngọ Quý mùi là Dương liễu mộc, mộc đến ngọ thì tử, đến mùi thì mộ, cho nên thịnh mùa Hạ lá nhiều, được thời thì phú thọ, chẳng đựơc thời thì bần yểu.
Giáp thân thủy tự sanh, khí lưu hành nên có nơi quy cũng mượn kim sanh, không sợ các Thổ khác chỉ sợ Mậu thân Canh tí thổ. Ngũ hành yếu luận nói : Giáp thân thủy bạch sanh có thiên chân học đường mà đắc nhập cuộc thì trí thức thông tuệ diệu dụng vô cùng.

- Ất dậu tự bại thủy, cần các kim tương trợ, bởi khí tự đã yếu, muốn được mẹ dưỡng, kỵ Kỷ dậu Kỷ mão Mâu thân Canh tí Tân sửu các Thổ, nếu gặp thì yểu triết cùng tiện.

- Bính tuất phước tráng lộc hậu thổ, mộc không thể khắc được, sợ gặp Kim sanh vượng, nếu gặp được Hỏa thạnh thì quý không nói hết.

- Đinh hợi Lâm quan thổ, Mộc không thể khắc, chỉ hiềm nhiều Kim thì tiết, cần có Hỏa sanh để cứu thì tốt , kỵ Kỷ hợi Tân mão Mộc. Ngũ hành yếu luận nói : Đinh hợi Canh tí hai thổ có chứa kim , trong cương ngoài hòa, có được đinh lực, dùng Thủy Hỏa vượng khí thì kiến công lập nghiệp vậy.

- Mậu tí Kỷ sửu hỏa ở trong thủy, lại gọi là thần long hỏa, gặp thủy thì quý là ma lục khí vậy. Ngũ hành yếu luận nói : Mậu tí chứa tinh thần quang huy toàn thật, khí cả 4 thời, bảo sanh cái phước, nhập quý cách tức là quý nhân quân tử khí chất gồm lớn phú quý hết đời.

- Kỷ sửu là hỏa Thiên tướng, lại là nhà Thiên Ất, hàm chứa khí oai phúc quang hậu, phát rất dũng mãnh , là tướng đức là khôi danh. Kinh nói : Hỏa được thai dưỡng thì khí dần mạnh, nếu được Bính Dần Mậu ngọ Hỏa trợ thêm thì trở thành có công tế vật .

- Canh dần Tân mão tuế hàn Mộc, sương tuyết không thể làm mất tiết tháo hướng chi là kim, như gặp thổ Canh dần Tân mão chẳng muốn chế trị, tự nhiên thành rừng. Diêm dông nói : Tân mão Mộc, tự vượng Xuân Hạ thì khí tiết xuất chúng, kiến công lập nghiệp, sanh ở Thu thì bị ngông cuồng hẹp hòi tỏa triết, khí vượng khí nhuần.

- Nhâm thìn là tự khố thủy, nếu là đất ao hồ tích thủy thì kỵ kim đến quyết phá, nếu gặp lại Nhâm thìn tức là tự hình, gặp nhiều Thủy Thổ thì thích, chỉ sợ gặp Nhâm tuất Quý hợi Bính tí Thủy, được sanh vượng thái quá trở thành tràn lan hỗn tạp. Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm thìn là chánh ấn thủy, chứa cái đức thanh minh huần ốc, có tánh bao dung quãng đại, tâm thức như gương, được mùa Xuân Hạ thì đại phước tuệ, Thu Đông thì thuộc loại gian trá bạc đức.

- Quý tỵ là tự tuyệt thủy, tên gọi là hạc lưu ( chảy cạn ), nếu gặp Bính tuất Đinh hợi Canh tí thổ hùng hậu thì còn giữ cạn, nếu gặp kim tam hợp sanh vượng thì thành nguyên lưu dồi dào khoa danh tấn đạt vậy. Ngũ hành yếu luận nói : Quý tỵ Ất mão là Thủy tự tuyệt tự tử , bèn đến âm lui ẩn, chân tình sắc dưỡng ngưng thành khí quý trở nên quý cuộc, loại nầy thuộc diệu đạo quân tử hiễn công cập vật.

- Giáp ngọ là tự bại kim cũng gọi là cường hãn ( dữ mạnh ) kim gặp hỏa sanh vượng thì khí vật thạnh, gặp Đinh mão Đinh dậu Mậu tí hỏa đại hung. Ngũ hành yếu luận nói : Giáp ngọ kim là tấn thần khí tốt có, có đủ đức cang minh, Thu Đông thì tốt Xuân Hạ thì xấu, nhập quý cách thì khoa trương xuất chúng, nếu chẳng gặp thời mà đới sát thì bạo liệt vô ơn thiếu nghĩa. Chúc thần kinh nói : Giáp ngọ kim dương dữ mạnh, nếu ức chế thì trầm. Chú viết : Sa thạch kim cứng thích sát, muốn ức thì lấy hỏa mà dùng vậy. Quỷ Cốc di văn rằng : giáp ngọ thích quan quỷ. Lý hư trung nói : Giáp ngọ kim tổn dữ mạnh, Nhâm tí mộc hết nhu, hoặc Nhâm tí gặp Giáp ngọ hoặc Giáp ngọ gặp Nhâm tí, âm dương giành vị không còn sáng tỏ.

- Ất mùi kim thiên khố ( không chánh khố ), cũng là hỏa khắc mà thổ sanh thì phước mạnh khí tụ, kỵ Kỷ mùi Bính thân Đinh dậu các hỏa. Ngũ hành yếu luận nói : Ất mùi kim ở số là mộc khố lại là thiên tướng có đủ các đức thuần nhân hậu nghĩa, được quý cách thì anh kiệt xuất chúng khôi trấn tứ luân, nếu được cách thường mà đới sát xung phạm cũng được quân tử bình thường.

- Bính thân hỏa tự bịnh, Đinh dậu hỏa tự tử, khí nhỏ yếu, cần mộc tương trợ thì khí mới sanh, kỵ Giáp thân Ất dậu Giáp dần Ất mão các thủy, Diêm Đông nói : Bính thân hỏa bịnh hư, gặp Mộc đức văn minh , thủy khoáng đạt thì được phước tuệ, chỉ có kim là bạo hại, nếu dù có tốt thì cũng đổi thành cái khí bất hòa. Ngũ hành yếu luận nói : Bính thân Đinh dậu hỏa tư tử, hàm khí dấu kín yên tịnh, ngoài hòa trong cương, quý cách ở đó, thuộc loại có đạo quân tử, đức hạnh tự nhiên.

- Mậu tuất mộc trong thổ kỵ gặp lại thổ, nếu nạp âm gặp nhiều thổ thì một đời truân chuyên, kim không thể khắc bởi kim đến tuất thì bại, gặp kim có khi lại được phước, thích gặp nhiều thủy, thịnh mộc sẽ thành quý cách. Diêm Đông nói : Mậu tuất mộc cô thân độc vị, hòa với thủy hỏa vượng khí thì được cái đức chân thật anh minh, nhập cách thì văn chương tấn đạt, phước lộc thủy chung, nhưng vì thừa khí thiên tướng nên trãi nhiều gian hiểm song tiết tháo không đổi thì mới được phước về sau.

- Kỷ Hợi mộc tự sanh, căn bản phồn thịnh không sợ các kim khác chỉ sợ Tân hợi Tân tỵ Quý dậu kim, nếu gặp Ất mão Quý mùi Đinh mùi mộc chưa hẳn là không đại quý. Ngũ hành Yếu luận nói : Kỷ hợi mộc tự sanh, anh minh tài trí, như đắc được nơi thì thanh quý. Diêm Đông nói : Kỷ hợi mộc được thời thì thanh quý, chẳng gặp thời thì tân khổ.

- Canh tí thổ hậu đức, hay khắc các thủy và không kỵ các mộc, bởi mộc đến tí thì vô khí, nếu gặp được Nhâm thân kim thì là được Lộc vị tức quý vậy.

- Tân sửu thổ phước tụ, bởi lộc không thể khắc và Sửu là Kim khố, trong Sửu có Kim nên không sợ gặp Mộc. Ngọc tiêu Bửu giám nói : Canh tí Tân sửu thổ thích Mộc mà ghét Thủy, gặp Mộc là quan, gặp Thủy thì không tương nghi. Diêm Đông nói : Tân sửu Kỷ dậu Thổ trong có chứa ít Kim, đức hậu tánh cứng hòa mà bất đồng, trên dưới tề nhau dùng Thủy Hỏa vượng khí thì công lớn danh oai vậy.

- Nhâm dần tự tuyệt kim, Quý mão là kim tám khí, nếu gặp các Hỏa thì phải tiêu khí, chỉ tốt khi được Thủy Thổ triều. Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm dần Quý mão là Kim hư hoại bạc nhược nhưng cũng có đức nghĩa nhu cương, Thu Đông khang kiện không xấu, xấu lại là điềm tốt, Xuan Hạ thì nội hung ngoại cát, tốt thì bị xấu trước, nhập quý cách thì tiết chí anh minh, đới sát thì hung bạo không cùng vậy.Tam mệnh soán cuộc nói : Quý mão là Kim tự thai, nếu gặp Bính dần Đinh mão Lư trung Hỏa thì không sợ, vì thai Kim nên ở trong lư thì thì khí vật được thành vậy.

- Giáp thìn là Hỏa thiên khố ( không chánh khố ), có nhiều Hỏa trợ thì tốt, đó là đồng khí tương trợ, nếu gặp được Mậu thìn Mậu tuất Mộc sanh cho thì đắc quý cách, kỵ Nhâm thìn Nhâm tuất Bính ngọ Đinh mùi Thủy rất độc. Ngũ hành yếu Luận nói : Giáp thìn là Thiên tướng Hỏa, tánh khí nóng mạnh nhanh nhẹn, nhập quý cách thi văn khôi đặc biệt, lợi ở Thu Đông mà không lợi ở Hạ.

- Ất tỵ lâm quan Hỏa, Thủy không thể khắc bởi Thủy tuyệt ở Tỵ, được Thủy tương tề thì là thuần túy, nếu có hai ba Hỏa tương trợ thì cũng tốt. Ngũ hành yếu Luận nói : Ất tỵ chứa thuần dương, phát khí ở Tốn nên quang huy sung mãn, Xuân Đông theo tốt, Thu Hạ theo xấu.

- Bính ngọ Đinh mùi Thiên hà Thủy thổ không thể khắc Thủy ở trên trời nên đất Kim không sanh được, như sanh vượng thai quá thì phát dục nơi vạn vật, nếu tử tuyệt thái quá thì lại không thể sanh vạn vật . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính ngọ là thủy chí cao, khí thể ôn hậu ở phương Nam tánh loại có đạo khí hư thì biến thành xuất sắc.

- Đinh Mùi thì đủ cả tam tài, toàn số được xung chánh khí bẩm được tinh thần toàn khí, căn tánh cao diệu, biến hóa vô cùng.

- Mậu thân trọng phụ thổ, mộc không thể khắc vì mộc tuyệt ở thân, nếu được kim thủy trợ nhiều thì chủ phú quý tôn vinh vậy.

- Kỷ dậu là tự bại thổ, khí không đầy đủ, cần lấy hỏa tương trợ, gặp được Đinh mão Đinh dậu hỏa thì tốt, kỵ nhất là tử tuyệt, nếu gặp Tân Mão Tân dậu mộc thì tai ương yểu triết

- Canh tuất Tân hợi là kiên thành kim không nên gặp hỏa dễ bị thương tổn, nếu được thủy thổ tương giúp thì quý. Diêm Đông nói : Canh tuất kim mộ ở hỏa, kim cương liệt trở thành hung bạo, Thu Đong ít nhiều trầm hậu, Xuan HẠ động sanh hối tiếc, quân tử nắm binh quyền, tiểu nhân thì tánh hung ác. Tân hợi kim mạnh ở Càn, có khí thuần minh trung chánh, Xuan Thu Đông đều tốt, Hạ thì 7 tốt 3 xấu, lấy nhân mà hành nghĩa, nếu có hình sát thì hung bạo bần tiện..

- Nhâm tí mộc chuyên vị, Quý sửu là mộc thiên khô, gặp tử tuyệt thì phú quý, gặp sanh vượng thì bần tiện, nhiều mộc thì yểu triết, kim thổ nhiều và thịnh thì tốt. Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm tí là mộc âm u, dương yếu mà âm mạnh, nhu mà không lập, gặp Bính ngọ thủy thì đức tánh thuần túy thuộc loại thần tiên dị sĩ tánh cách phi thường. Chúc thần Kinh nói : Nhâm tí mộc mắc ở chỗ nhu mềm, hoặc phát dương nhân thì cao minh. Chú rằng : Nhâm tí mộc ở nơi vượng thủy, tí được ít dương khí mà sanh, nhu thoát dễ triết tức là mộc tự bại, nếu phát lên được thì khí hỏa thượng tăng ích mà khiến cho phồn vinh nên cao minh nhân nghĩa.
- Bản gốc thiếu Quý sửu .

- Giáp Dần : Tự bịnh Thủy ; Ất Mão Tự tử Thủy : Tuy là tử bịnh Thủy nhưng Thổ không thể khắc được bởi vì can chi 2 Mộc có thể chế được Thổ, nếu gặp Nhâm dần Quý mão Kim thì rất tốt. Ngũ hành Yếu Luận nói : Giáp dần Nhâm tuất hai thủy này là phục nghịch, âm thắng dương chủ gian tà hai vật, chỉ nên dùng hỏa thổ tổn ích thì mới thành đại khí vậy.

- Bính thìn : tự khố thổ, vừa dày lại mạnh, thích Giáp thìn Hỏa mà ghét Mậu thìn mộc, Mộc này ở trên không tổn được vì bởi Bính là Hỏa, Thìn là Thiên khố hỏa, Thổ đã thành khí rồi, chỉ sợ Mậu tuất Kỷ hợi Tân mão Mậu thìn Mộc. Ngũ hành yếu luận nói : Bính thìn là chánh ấn thổ, có đức ngũ phước cát hội thì đều đại hưởng, không quý cũng phú, nếu phạm xung thì phần nhiều làm tăng sĩ.

- Đinh tỵ tự tuyệt Thổ mà lại không bị tuyệt bởi vì một Thổ mà ở với hai Hỏa, tức ở đất của cha mẹ nên không thể tuyệt, Mộc cũng không thể khắc, nhiều Hỏa thì càng tốt. Ngọc tiêu Bửu giám nói : Đinh tỵ là Đông Nam Hỏa đức vượng, đắc thì có nhiều phước thọ.

- Mậu ngọ là Tự vượng Hỏa ; Kỷ mùi là Thiên khô Hỏa, cư ở Ly thì sáng, là đất vượng tướng nên khí rất thịnh, các Thủy đều không hại được chỉ kỵ Bính ngọ Đinh mùi Thiên thượng Thủy. Diêm Đông nói : Mậu ngọ Tự vượng Hỏa có được khí viêm thượng ở Ly, tụ vật vô tình, động khắp các chúng, đắc ở Thu Đông, dùng Thủy Thổ vượng khí khoát đạt cao minh, phước lực mạnh mẽ, Xuân Hạ tốt theo, dùng Kim Mộc thì tuy phát nhanh mà mệnh chẳng thường lâu. Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mùi hỏa suy chứa được dư khí nên tháng Xuân Hạ thì vận được dấu kín nên minh mẫn tuấn đạt, phướng khánh đầy đủ, gặp Hạ thì chẳng hòa khí, gặp Thu thì trước tốt mà sau thì xấu.

- Canh thân, Tân dậu 2 Mộc này có Kim ở trên, do Kim mà thành vật nên kỵ tái gặp Kim sẽ hủy mất khí vật vậy, nếu gặp Giấp thân Ất dậu Thủy thì nhập cách. Ngọc tiêu bửu Giám nói : Canh thân tự tuyệt mộc là hồn du thần biến gặp được ngày mà sanh là loại phi phàm chủ tính cách xuất chúng, gia tộc không kềm chế được, nhập quý cách thì nhân kiệt anh tài. Tân dậu là Mộc thất vị, đối với Quý mão Kim thì cương nhu tương tề suy quần bạt tụy. Chúc thần Kinh nói : Hồn quý ở Thiên du, nên Canh thân mộc không sợ bị tử tuyệt mà quý ở thiên du. QUỷ cốc dị văn nói : Tân dậu kỳ sanh vượng. Chú rằng : Tân dậu mộc khí tuyệt, cần được sanh vượng thì mới vinh đạt.

- Nhâm tuất Thiên khố Thủy ; Quý Hợi Lâm quan Thủy đều gọi là Đại hải Thủy bởi can chi nạp âm đếu là thủy, kỵ gặp các thủy, tuy Nhâm thìn thủy khố cũng không thể gánh nổi, không bị các Thổ khắc, tử tuyệt thì tốt còn sanh vượng thì lại lan tràn không có chỗ quy vậy . Ngọc tiêu bửu giám nói : Hợi Tí là Thủy chánh vị, ở Nhâm tuất khí phục mà khôn thuận, chỉ dùng hỏa thổ để tổn ích thì thành đại khí ; QUý hợi đủ số thuần nhân, thể chất thiên từ thông minh, chí khí rộng lớn, phát triển công nghiệp, chọn nhựt thời tốt, đới sát thì vào loại hung giảo.

* Lại nói : Bính tuất thổ là phúc hậu, hỏa cũng tụ ở đây vậy, Kỷ mùi Canh thìn Mậu thìn Đinh sửu cũng đồng nghĩa nầy, Kỷ mùi hỏa, trong Mùi có mộc mộ, Canh thìn Kim vậy, trong kim có thổ mộ, Mậu thìn mộc trong thìn có thủy mộ, Đinh sửu thủy trong sửu có kim mộ, đều là khí phụ mẫu nên được dương, năm thứ này phước sâu dày nên dù có quỷ thương cũng không làm hại khí thành vậy. Lý hư Trung nói : Bính tuất rất lạ, lấy Tuất lại là bổn vị của thổ mà rất vượng thạnh.

* Ất tỵ, Mậu ngọ là hỏa nóng mạnh, Thu Đông có đức tốt, Xuân Hạ thì hình hung, nếu trọng Hạ thì phát nóng dữ, hết thảy khô táo, Ất tỵ Lâm quan hỏa có một mộc sanh nên khí thạnh, Mậu ngọ tự vượng hỏa nếu sanh Thu Đông thì khí ấm có đức nuôi vật, như sanh Xuân Hạ thì thì vượng hỏa trở về dương vị nên sanh hung, Hạ thì bạo lệ, thuộc loại hung yểu.

* Ất mão Quý tỵ Đinh dậu Ất hợi thủy hỏa tuy tử tuyệt nhưng lại giai diệu, hỏa tử tuyệt mà trong sáng ngoài tối phản quang hồi chiếu, thủy tử tuyệt mà thanh trọng. Lý trung Hư nói : 4 vị này tuy tử tuyệt không thanh minh mà diệu giai, cứ xem Thiên ất quý nhân thì biết vậy.

* Nhâm dần kim, việc vua không thể nghịch ; Canh thân kim, làm tôi không chống ngũ hành thuộc ngũ âm, cung thổ là vua, thương quan là thần, giác thủy là dân, thương thái quá thì thần mạnh, giác thái quá thì vua yếu, nên trong ngũ hành thường dùng 4 thanh cung để sát thương giác

* CAnh thân là giác mộc tự tuyệt, Nhâm dần là thương kim tự tuyệt, đều khiến được cái đạo trung thuận , nên việc vua không nghịch, là thần không chống, cho nên từ tử vi loan đài phụng các trở lên rất kỵ kim mộc mệnh sanh vượng, như vậy không thể làm, làm thì chẳng được lâu, độc nhất thì có thể được, nếu kim mộc sanh vượng mà khắc phá thì chẳng thể.

Canh thân mộc, Ất tỵ hỏa, thổ kim sanh mà hoàn, không sanh Bính ngọ thủy Quý mão kim, mộc thủy tử mà lại không tử, thổ sanh thân mà lại không sanh nơi Canh thân, thủy sanh thân mà lại không sanh nơi Mậu thân, hỏa sanh dần mà lại không sanh nơi Giáp dần, kim sanh tỵ mà lại không sanh nơi Ất tỵ, mộc sanh hợi mà lại không sanh nơi Tân hợi, bởi nơi sanh mà trở lại phản chế vậy, đắc thì yểu thọ. Mộc tử mão mà lại không tử nơi Quý mão, thổ tử mão mà lại không tử nơi Đinh mão, mộc tử ngọ mà lại không tử nới Bính ngọ, kim tử tí mà lại không tử nơi Canh tí, hỏa tử dậu mà lại không tử nới Tân dậu, bởi nơi tử mà được sanh vậy, đắc thì trường thọ.
Mậu tí can chi vượng ở Bắc phương là thủy vị, nạp âm thuộc hỏa tức hỏa ở trong thủy,không phải thần long thì không có. Bính ngọ can chi vượng ở Nam phương là hỏa vị, nạp âm thuộc thủy tức thủy ở trong hỏa, không phải Thiên hà thì không có. Người Bính tí gặp Bính ngọ hoặc người Bính ngọ gặp Mậu tí thì quý, bởi trong hỏa xuất thủy, trong thủy chứa hỏa tức thủy hỏa ký tế, tinh thần vận động thì thuộc người phi thường vậy. Lý trung Hư nói : Bính ngọ thiên thượng thủy trong 12 thời thiên hậu vậy, đắc được thì cao minh khoáng đạt linh dị bất phàm . Mậu tí hỏa ở trong thủy thì lục khí quân hỏa vậy, đắc được gọi là thần minh. Ngoài ra các khí khác lấy đây mà làm chuẩn. Tân sửu thổ không sợ mộc, Mậu tuất mộc không sợ kim, vì sao nói vậy : kim khố ở trong sửu nên mộc không thể khắc, trong mậu có hỏa kim tới thì bị thương. Như Mậu tuất mộc có hai thổ ở trên một mộc ở dưới, vì chôn dưới 2 thổ nên mộc manh nha mà chưa thấy hình tức là thổ thạnh mà mộc yếu, các loại khác đều xét.

* Canh dần mộc Đinh tỵ thổ không sợ quỷ kim mộc, kim đến cung dần tức là quỷ nhưng kim tuyệt ở dần nên không là quỷ, Mộc đến cung tỵ mà tỵ có kim sanh khắc mộc nên không là quỷ, nếu Canh dần mộc mà gặp Nhâm thân kim tức bị tương xung tương khắc vậy, các vị khác cũng.

* Canh ngọ thổ thừa nơi Nam phương vượng hỏa dưỡng mà thành hình, Mậu thân thổ tự sanh, Canh tí thổ tự doanh nên không sợ mộc quỷ bởi mộc đến ngọ thì tử ,đến thân thì tuyệt, đến tí thì bại, lại là thổ tự dưỡng nên không thể làm thương tổ được. CÁc vị khác cũng tính.

* Nhâm thân Quý dậu Canh tuất Tân hợi kim khí mạnh nên không sợ quỷ, Mậu tí hỏa không sợ quý thủy bởi Tích lịch hỏa là Thần long, có thủy thì Lôi mới phát, nếu gặp Bính ngọ Đinh mùi Thiên thượng thủy thì có thể kỵ vì bị tương chiến, thường thì khí bổn mạng can chi thọ thương tức lục căn không đủ, có trước không sau ; như Đinh tỵ gặp Quý hợi, Nhâm tí gặp Mâu ngọ. Các vị khác cũng tính vậy.

* Mâu ngọ Canh thân tương hợp, Canh thân Thạch lựu Mộc Hạ vượng nên thích Mậu ngọ, bởi hỏa cung vượng mà Thạch lựu mộc tánh được đắc thời, Mâu ngọ lại là cực vượng hỏa, thích nơi Thân, gặp thiên mã tương cho vậy, là thần đầu lộc tức chuyên vị thập can, Lộc là Am dương chuyên vị, thiên địa thần hội vậy. Bày cái chân nguyên của Bát quái , xếp cái thành bại của Ngũ hành, sự cương nhu tương quyền, có hay không hợp hóa, nên Nhâm tí quý ứng ở Bắc phương Khảm ; Bính ngọ hỏa thuộc Nam cung Ly, cho nên Bính ngọ đắc Nhâm tí không là phá, Đinh tỵ đắc Quý hợi không là xung, đây là Thủy Hỏa tương tế có cái nghĩa Phu Thê phối hợp vậy ; Khảm Ly là Nam Nữ, cái dụng tinh thần, Nhâm tí được Bính ngọ, Quý hợi được Đinh tỵ thì trước sau Thủy Hỏa có tương vị tế, không như Đinh tỵ gặp Nhâm tí, Bính ngọ gặp Quý hợi.

* Canh thân Tân dậu Kim ứng ở Tây phương Đoài, Giáp dần Ất mão Mộc thuộc Đong phương Chấn, sở dĩ Giáp dần gặp Canh thân không là hình, Ất mão gặp Tân dậu không là quỷ, bởi Mộc nữ Kim phu chánh thể vậy, rõ sự thần hóa tả hữu, Mộc chủ hồn mà Kim chủ phách, hai thứ này tả hữu tuong gian không hợp, nếu được toàn hợp tức là thần hóa chẳng còn khoảng cách vậy, nếu Canh thân gặp Ất mão, Tân dậu gặp Giáp dần thì không phải cái dụng biến thông nguyên thần.

* Mậu thìn Mậu tuất Thổ là khôi cương tương hội, hậu đức làm khôn không phải là phản ngâm, không phải là xung bởi Thổ đắc chánh vị, can ở nguyên hội.

* Kỷ sửu Kỷ mùi là quý thần giữ trung trinh, đây là tứ chân Thổ có cái đạo thủy chung của vạn vật, nếu chẳng phải bực đai nhân quân tử thì không có được cái đức nầy, huống chi là thần đầu lộc, chủ của các thần, sự vận động tả hữu ở trong lục hợp, biến hóa thừa thiếu của việc cát hung vậy.

* Kỷ sửu Thổ là Thiên ất quý nhân, là thái thường phúc thần, giải được sự hung ác của các sát, nếu đắc được thì chủ hoạnh tài, Mâu thìn là Câu trần, Mậu tuất là Thiên không, chủ tướng trấn biên phòng nên bất thường vậy, Đinh tỵ là thần Đằng xà, hung láy hung mà dùng, cát lấy cát mà theo, dễ bị mê hoặc, có tánh hoạt kê, Bính ngọ là thần Châu tước thể chất dương minh, văn từ thông tuệ, Giáp dần là thần Thanh long, giúp cho mọi loài, đắc lợi cả 4 phương, Ất mão là thần Lục hợp, phát sanh sự vinh hoa, Nhâm tí là thần Thiên hậu chủ thiên đức âm dương tốt đẹp nhiều quyền, Quý hợi là thần Huyền vũ là cuối cùng âm dương, khí đã tiềm phục, theo dưới mà lưu, tuy có đại trí mà chẳng có sự hiên ngang siêu đạt, thuận thì được an bình, nghịch thì loại cừu gian, Canh thân là thần Bạch hổ, lợi ở võ mà không lợi cho văn , sắc lệ nhu mì, có nhân nghĩa, thích u tịch, Tân dậu là thần thái âm, tính cách thanh bạch, văn chương trôi chảy, tài năng xuất chúng, nhưng phải xét sự hưu vượng thân sơ mà định tánh tình họa phước.

Sửa bởi Quản Lý Viên 01: 15/01/2013 - 20:20


#28 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 15/01/2013 - 21:13

Trích dẫn

Mình mới devolop được nội khí và ngoại khí cách đây gần 2 tháng bổ sung vào pho khí tông của mình. Giờ đọc topic này thấy lão Gấu nhắc đến nội khí và ngoại khí mới giật mình té ngửa ra, cứ tưởng mình mình phát triển kỷ thuật có được bí kíp phòng thân. ai dè người ta cũng đã và đang nghiên cứu rất tỉ mỉ và công phu lâu rồi. Sao mình toàn đi sau người khác không vậy trời.
lý chế tài, quan cũng là đi sau mấy ông trên này, chắc thế này thì lúc có cơ may công bố người ta trù dập chết mất, mà kiến thức do mình phát triển mà lại mang tiếng đi copy người khác. chuyển hướng nghiên cứu gấp.
Work đi sau người khác là chuyện bình thường. Và cũng không nên công bố làm gì, hoặc quá lắm chỉ công bố cái vỏ, ý tưởng chung khoảng 2-3 phần/10, người có duyên thì sẽ tự động hiểu hết, còn cụ thể thì cần để thời gian ít nhất vài năm cho ngấm một cách chín chắn.

Thử kết hợp các kỹ thuật về Nội Khí và Ngoại Khí, lý thuyết kỳ số cục của Hà Uyên với lý thuyết trục, cấu trúc space-time trong bài viết này xem có ra được kỹ thuật nào không.

Sửa bởi NhuThangThai: 15/01/2013 - 21:18


Thanked by 2 Members:

#29 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 15/01/2013 - 21:59

Lắm lúc tôi thấy rất khó hiểu nhé. Một số người khi an vòng trường sinh thì theo VĐTTL, chứ không an tthuận. Tuy nhiên, đọc bài viết của tác giả LQN xong thì thấy vỗ tay, khen rào rào người ta đoán đúng, nhưng chẳng hề có được nhận xét về sự khác biệt. Điều đó có nghĩa một trong các khả năng sau:

1-Khả năng đọc hiểu của họ quá thấp, cho nên họ đọc thấy an thuận cũng được, an xuôi cũng không sao, dù mọi thứ rõ ràng là khác hẳn. Cuối cùng thì đẹp trời an thuận, xấu trời thì an nghịch.

2-Khả năng nịnh nọt của họ quá cao, cho nên dù không có an sao cùng cách với tác giả thì vì thấy tác giả là thượng khách nên cứ vỗ tay khen rào rào trước đã. Nịnh cấp trên là một tố chất rất tốt, rất cần có để thành đạt trong hệ thống quan chức chính trị, nhà nước hiện nay, và là một cách cục rất đáng phát huy.
Hoặc là họ cũng ào ào rồi đọc lướt, thậm chí không chắc nhận ra được sự khác biệt, nhưng cái tay nó hay vỗ rồi.

3-Những người có cùng quan điểm về vòng trường sinh với tác giả, thì chúng ta không cần nhắc làm gì.

Bạn thuộc loại nào?

#30 AlexPhong

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8838 thanks

Gửi vào 15/01/2013 - 22:14

Không ai đi phân loại Thần Khê.

Về đâu, về đâu hỡi những Thần Khê trong đêm cuối tắt đèn, sầu giăng mắc ?






Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |