Jump to content

Advertisements




Nữ Mệnh Tổng Đoán


3 replies to this topic

#1 toahuongqui

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 122 Bài viết:
  • 388 thanks

Gửi vào 29/05/2011 - 05:07

1. Quí nhân trạch mã cùng trụ, dễ lạc kiếp phong trần

2. Trong trụ không có Sát lộ mà thân bị đa hợp thì dễ thành số kỹ nữ, nhưng nếu có Sát lộ hoặc Sát vượng thì lại không sao.

3. Dương nhận cách mà gặp Thương Quan lộ, là người đa đoan nhiều chuyện.

4. Ấn lộ khắp trụ là số khắc con

5. Thiên Nguyệt Đức cùng trụ với Chính Tài, phú quí tự nhiên đến.

6. Kim Bạch Thuỷ Thanh, sắc nước hương trời.

7. Đủ bốn chữ Dần Thân Tỵ Hợi: mở miệng dâm ô, đời cô độc

8. Tí Ngọ Mão Dậu có đủ: Bỏ nhà theo trai

9. Thìn Tuất Sửu Mùi có đủ: Phụ đạo không tròn

10. Tài Quan đóng trong mộ khố, nếu bị xung khai thì nghèo

11. Bốn thiên can cùng 1 chữ: Đời cô, hình, hoạ liên tiếp gặp

12. Địa Chi bốn chi cùng 1 chữ: Ít nhất 2 lần giá thú


Bài nữ mạng đoán trên trích từ Nữ Mệnh Phú Đoán, còn phải phối hợp với cách cục mà đoán, chứ bê nguyên xi công thức thì khoảng 70% là sai. Tôi không trích lại phần Hán Văn cho rườm, khi nào thấy cần thiết thì trích ra.

kính

mt
P/S: Khi có thời gian tôi sẽ dịch tiếp, hiện tại thì không dám hứa trước gì cả, sợ không thực hiện được


Những Quí Cách của Nữ Mạng

1. Quan Tinh lâm nguyệt lệnh không bị hình xung tạp thương

2. Tài Quan cùng vượng

3. Thiên Đức Quí Nhân cùng trụ với Ấn Thụ

4. Được một Thất Sát lộ ra và có chế phục

5. Thương Quan mệnh cục sinh Tài

6. Thiên Can Ngũ Hợp với Quan Tinh

7. Thực Thần vượng sinh Tài

8. Dương Nhận cách có Quan hoặc Sát lộ chế phục Nhận

9. Chi giờ có Lộc (Quy Lộc) mà Tài trên can giờ lộ ra

10. Thất Sát cách gặp Ấn lộ


Tiện Cách Của Nữ Mạng

1. Quan Sát Hỗn Tạp. Lưu ý là có phân ra 2 trường hợp là Sát Hỗn Quan và Quan Hỗn Sát. Từ đó mới chọn dụng thần là hợp sát lưu quan hay hợp quan lưu sát. Chứ Dụng Thần đâu có biết nghe tiếng người nói đâu mà khi mình thích Quan nên ra lệnh cho nó hợp Sát thì nó hợp Sát theo ý mình.

2. Quan Sát không bị chế phục. Trong đây thì nếu Quan nhiều ắt thành Sát.

3. Thương Quan quá nhiều không có Ấn chế phục

4. Tham Tài Hoại Ấn. Tài nhiều chưa chắc đã phá Ấn, Tài ít chưa chắc đã không phá Ấn. Trường hợp này phải xét lực của Quan Sát trong trụ và khảo sát thực tế cho kĩ lưỡng. Nếu đương số ham giàu, ham tiền thái quá, đầu óc thực dụng thì đích thị Tham Tài Hoại Ấn. Nếu đương số cư xử tiền bạc phân minh, vô công bất thụ lộc, thông minh có đầu óc thực tế thì không bị Tài phá Ấn.

5. Quan tinh bị thiên can khác hợp mất.

6. Phu cung (Nhật chi) tam hợp, nhị hợp với chi có Đào Hoa.

7.Thân vượng thái quá mà không bị chế phục. Ý câu này nói về Tỉ Kiếp trùng trùng. Nếu vượng mà nhờ Tự Vượng và nhờ Ấn Thụ thì lại không phải tiện cách.

8. Tài nhiều mà thân nhược

9. Thương Quan kiến Quan mà Tài không lộ hoặc bị đoạt.

10. Bát Tự bị Hình Xung. Trường hợp này cũng phải xét kĩ là hình xung đây là hỷ hay kỵ rồi mới đoán là tiện cách hay không? Nhiều khi hình xung mất kỵ thần thì phản thành quí cách.


Xét Bát Tự có 2 phép: Hoạt Pháp và Tử Pháp. Những phần này nói về sự biến hoá (Hoạt Pháp) bên trong một bát tự, không thể cứ bê nguyên xi công thức (Tử Pháp) vào để luận được. Thực ra không thể nào kể ra hết sự biến hoá của nó. Trùng trùng và trùng trùng. Khi nào rảnh rổi tôi sẽ viết tiếp bài Luận Về Cách Cục để rõ hơn.

kính

mt

Thanked by 1 Member:

#2 toahuongqui

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 122 Bài viết:
  • 388 thanks

Gửi vào 29/05/2011 - 05:09

Luận bàn của DauQuan
"
Kính thưa anh MT và quý vị,
Theo lời nhắn gởi chân tình của anh, tôi không dám khách sáo hay dấu dốt, xin được đóng góp ít lời, chỉ cốt để các bạn mới học hiểu thêm về thuật ngữ cùng đôi chút lý luận của khoa Tử Bình khi xem số phụ nữ. Nếu có chi khiên cưỡng sai lầm, mong được các vị thức giả chỉ bảo thêm.
Qua những luận điểm về giải đoán nữ mệnh đã được anh Mai Thôn trích dịch ở các bài trên, ta thấy những điểm tốt (quý cách) hay những điểm dở (tiện cách) đều xoay quanh Quan tinh, tức là sao chỉ người chồng, và cung Phu, tức là vị trí của chồng trong bát tự. Tài năng, tình cảm nội tâm của nữ giới ít được xem trọng, thậm chí trong nhiều trường hợp còn bị coi là yếu tố phá cách. Điều ấy hẳn phản ánh quan niệm về phụ nữ của xã hội Nho giáo, cho rằng "xuất giá tòng phu", nữ mệnh nên hư, hay dở tùy ở chồng. Ngày nay, theo thiển ý cũng phải châm chước khi luận mệnh, song về cơ bản, những điều hỷ kỵ mà anh MT đã nêu vẫn có tính chất khả dụng.
Nay chúng ta hãy xem các nhà lý học cho thế nào là quý cách của nữ mệnh :
1. Quan tinh lâm nguyệt lệnh, không bị hình, xung, tạp, thương.
Ta hãy giả dụ một cách đơn giản, nữ mệnh có can ngày (nhật nguyên) là Ất, sinh tháng Canh Thân. Như vậy Quan tinh Canh kim là bản khí của chi tháng, gọi là Quan tinh lâm nguyệt lệnh. Canh đắc thời nên mạnh, nhưng cần xem trong các can chi còn lại, xem có chữ Tỵ hình Thân, có chữ Dần xung Thân, có chữ Dậu hoặc chữ Tân lộ lên thành Sát hỗn tạp với Quan tinh, có chữ Bính khắc Canh làm tổn thương Quan tinh hay không. Nếu không gặp các trường hợp vừa kể, mà chữ Canh lại còn thấu ra trên can tháng hoặc can giờ như vậy, hẳn là Phu tinh toàn vẹn, có thể luận là quý cách.
2. Tài Quan toàn vẹn. Cũng trường hợp như trên, ta thấy trong nguyệt lệnh Thân còn chứa chữ Mậu là Tài tinh, không bị hình xung khắc hại. Tài là nguyên thần sinh ra Quan tinh, mà Quan là chồng, thì hẳn là số vượng phu, là tượng người đàn bà đảm đang giúp chồng làm nên sự nghiệp vậy.
3. Thiên Đức quý nhân cùng trụ với Ấn thụ là một quý cách cho cả nam lẫn nữ. Thần này làm tăng phúc lực cho Ấn thụ vốn là cái bảo vệ Quan tinh. Người nào gặp cách này thường được trọn đời an lành, gặp nạn hóa phúc. Nữ mệnh gặp cách này là người phúc hậu, tâm tính tốt.
4. Thất Sát lộ có chế phục.
Nếu không có Quan tinh, mà lại có Sát lộ lên, thì Sát tinh ấy phải được chế phục, bởi Sát là ác thần nếu không có gì kềm chế tất sẽ gây họa. Trường hợp này cần có Thực Thần, Thương Quan chế Sát (hoặc hợp Sát) hay là có Ấn tinh hóa Sát, khiến cho ác thần trở nên hữu dụng, có oai lực không kém Quan tinh, tạo thành quý cách như kiểu "phản vi kỳ" trong lá số Tử Vi vậy. Lý luận này cũng áp dụng cho trường hợp Thất Sát cách có Ấn lộ trên hàng can.
5.Thương Quan mệnh cục sinh Tài.
Phần này anh Mai Thôn đã phân tích trong bài Thương Quan cách, quý vị có thể tham khảo để rõ thêm.
6. Thiên Can ngũ hợp với Quan tinh.
Ngũ hợp của thiên can là tượng hai can âm dương hợp nhau, tượng trưng cho nghĩa vợ chồng. Trở lại ví dụ 1, đương số có nhật nguyên là Ất, can tháng kề bên có chữ Canh Quan tinh đến hợp với nhật nguyên là tượng phu thê giai ngẫu, thuận vợ thuận chồng. Nhưng nên lưu ý hai trường hợp :
- Nhật nguyên ở giữa, có hai Quan hai bên tranh hợp, một gái hai chồng lại là không tốt.
- Quan tinh không hợp với nhật nguyên mà lại đi hợp với can khác, giống như chồng mình lại đi với cô hàng xóm!
7. Thực vượng sinh Tài.
Nữ mệnh lấy Thực Thần làm con cái. Thực vượng tức là nhiều con, lại sinh Tài là sinh ra nguồn dưỡng mệnh cho mình. Ấy là số ích tử, con có hiếu, được nhờ con. Dẫu Quan tinh có èo ọt đi nữa cũng không đến nỗi, bởi Thực vượng sinh Tài, Tài vượng ắt sinh Quan. Trường hợp chi giờ có lộc (quy lộc) mà can giờ lộ Tài cũng thế, đó là tài lộc quy tụ ở can giờ là vị trí của cung Tử tức. Xã hội xưa trọng đạo hiếu, nên có con giàu sang thì phần lớn mẹ được vinh hiển.
8. Dương nhận cách tức là trường hợp sinh trong tháng Đế Vượng, ví như sinh ngày Giáp tháng Mão, can ngày quá vượng là người phụ nữ bướng bỉnh khắc chồng. Nhưng nếu có Quan Sát lộ can chế phục Dương Nhận sẽ thành phản vi kỳ, như nữ kiệt gặp anh hùng nên duyên kỳ ngộ, tương tự trường hợp hung tinh thụ chế trong Tử Vi vậy.

Mấy lời thô thiển không dám gọi là bình chú, chỉ là trao đổi ý kiến để cầu học.
"

Thanked by 2 Members:

#3 toahuongqui

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 122 Bài viết:
  • 388 thanks

Gửi vào 29/05/2011 - 05:11

Luận bàn của maithon
"
Kính anh Đẩu Quân và quí vị

Sở học của anh thật vững chắc của người đã có nhiều suy ngẫm về Lý Học Tử Bình. Không dám vọng ngữ, tôi chỉ xin thêm vài nét nữa gọi là có qua có lại. Hiện đang lu bu công việc một chút nên viết lách không được tập trung lắm, có gì anh và quí vị lượng thứ cho. Trước hết, tôi xin chia xẻ vài quan điểm.

1. Về điểm cách tân nhân sinh quan Tử Bình. Đồng ý với anh. Nhưng tôi thấy cần diễn giải rõ ràng 1 chút về tính "cách tân". Cách tân đây, tôi không rõ là ta nên cách tân về diễn giải hay cách tân về cấu trúc phương pháp luận cho môn Tử Bình? Ngày xưa tôi háo hức với cái mới bao nhiêu thì bây giờ lại dè dặt với mọi cái mới. Nên bài này thể hiện nhân sinh quan của người bảo thủ.

Đơn vị căn bản của Tử Bình thì lí là Can Chi, biểu là thập thần, nguyên lí là âm dương ngũ hành. Lấy sự hài hoà giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ làm chính. Nên nó không có giống Tử Vi dựa vào tổ hợp sao để diễn giải như Thiên Không là bầu trời mà cũng là thế giới ảo, Đà La có thể là cái lưới, cái chiêng và cũng có thể là mạng internet, tùy vào tổ hợp của nó. Điều này tôi nghĩ tương đối hạn chế bên Tử Bình. Phương tiện tính của Tử Bình không cho phép ta đi xa hơn cái có thể có của nó. Nên cấu trúc phương pháp luận, tôi nghĩ không có gì thay đổi. Ví như ngày xưa có các sao học vấn là có con đường làm quan, do đó mô típ của nó là thành công về khoa bảng sẽ có xác xuất cao thành công về quan trường. Ngày nay thì chưa chắc, vì xác xuất thấp hơn. Sự điều chỉnh này trong Tử Vi ta có thể thấy ở nhóm học tinh, thiếu học tinh thì vẩn làm quan được.

Nhưng trong Tử Bình không có sự điều chỉnh như vậy. Có Quan là chức vụ quyền hành, Ấn là học vấn là con dấu, hình tượng là như vậy. Nhưng nguyên lí bên trong thì Quan phải có Ấn bảo vệ khỏi Thương Quan thì Quan mới bền. Ấn phải có Quan thì mới không bị Tài phá. Công thức này đến mãi sau này cũng không thay đổi, vì đó là công thức của sự cân bằng, hài hoà. Không thể nào cách tân được.

Còn điều chỉnh với nhân sinh quan hiện đại như Đào + Thai ngày xưa là xấu, bây giờ thì bình thường. Thì điểm này trong Tử Bình, ta bắt buộc ta phải làm trong bất cứ thời đại nào khi diễn giải một công thức. Dễ thấy nhất là quan niệm quí tiện thọ yểu. Câu "Vị trí Tam Công" trong Tử Vi ngày xưa thì làm đến Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Ngày nay, dẫu cho câu đó đúng thì chỉ đến Cố Vấn Chủ Tịch Quốc Gia về Văn Hoá hay Giáo Dục gì đó. Ngày xưa cả nước chỉ có mỗi Quốc Tử Giám, nên chức Quốc Tử Giám Tế Tửu cũng to khủng khiếp. Nhưng bây giờ thì chỉ là hiệu trưởng đại học quốc gia thôi, có khi xuống làm hiệu trưởng đại học bán công không chừng. "Quí nhân trạch mã cùng trụ, dễ lạc kiếp phong trần", ngày xưa nữ giới Tam Tòng, khuê môn bất xuất, chỉ có lấy chồng làm quí nhân thôi mà lại có Mã Tinh, rồi đồng trụ với Quí nhân nữa thì dễ lạc kiếp phong trần. Còn ngày nay thì phong trần ta có thể hiểu là phong sương bôn ba, phải giao tiếp nhiều và phụ nữ thành đạt nào mà không bôn ba phong sương. Nhiều quí bà thành công sự nghiệp, nhưng cũng không tránh khỏi cái lúc "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, nghĩ mình mình lại thương mình xót xa". Chỉ khác khung cảnh 1 nơi là kỹ viện, 1 nơi có thể là tại biệt thự sang trọng của mình sau giờ làm việc mệt hoài căng thẳng. Nên quí ở đây, và tiện ở đây là về khía cạnh gì, công danh sự nghiệp hay đời sống cá nhân? Về đời sống cá nhân thì ngay nay không ai có thể áp đặt một chuẩn chung gì cả. Người Phương Tây hay cười người Phương Đông là gán ghép cái chuyện sex với đạo đức. Thiển nghĩ, có thay đổi là thay đổi về cách diễn đạt cách hiểu.


vài dòng tạm bút tham gia (còn tiếp). Bây giờ thì lại bận nữa rồi.
"

#4 Giacmoyenbinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 133 Bài viết:
  • 74 thanks

Gửi vào 12/06/2011 - 12:19

mong bác ToaHuongQui ghé qua topic nè xem sao. tứ trụ có đủ Dần Thân Tị Hợi... có rất nhiều chi tiết đặc biệt từ gia đình của chị nè !!!

mong mọi người ghé qua cho ý kiến.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn








Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |