Jump to content

Advertisements




HOA CẢNH ỨNG DỤNG TRONG PHONG THỦY


19 replies to this topic

#16 thathoc

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 187 Bài viết:
  • 483 thanks

Gửi vào 12/04/2013 - 16:03

Chương 3
NGÔN NGỮ CỦA CÁC HOA ĐƯỢC SỬ DỤNG LÀM LỄ VẬT


1. Chúc mừng:
Khai trương
- Hoa vạn niên thanh: bốn mùa đều xanh
- Hoa hồng: hưng vượng phát đạt
- Hoa cúc Phi châu: đi lên phơi phới
- Hoa đào: vận may sẽ đến
- Hoa bách hợp đỏ: tưng bừng vui nhộn
- Hoa mẫu đơn: phú quý hưng thịnh
- Cây sồi: hưng thịnh, thịnh vượng.
- Hoa hướng dương: tôn kính, hiển hách
- Cây xô thơm đỏ: giàu có, sung túc
- Hoa đỗ quyên: hồng vận đang đầu
- Hoa ví tiền: tiền vô như nước.

Chiến thắng:
- Hoa bông gòn đỏ: hoa của anh hùng
- Hoa nguyệt quế: quang vinh
- Vòng hoa nguyệt quế: người có công lao
- Cây cọ: thắng lợi
- Hoa sơn trà: anh dũng
- Hoa pháo: nhiệt liệt chúc mừng.

Sau buổi diễn:
- Hoa yến mạch: âm nhạc
- Tường vy nhiều bông: thiên tài
- Hoa lan cần: thắng lợi
- Hoa hồi hương: ưu việt
- Hoa cát tường; phong cách thanh tao
- Hoa thược dược: trang nhã, cao quý
- Hoa linh lan: tri âm.
- Hoa sen: xinh đẹp
- Hoa dâm bụt: diễm lệ nhiệt tình
- Lan văn tâm: thanh xuân, hoạt bát
- Cây tỏi trời: đẹp đẽ
- Cỏ phi yến: xinh đẹp, thanh nhã

2. Tặng bạn
Chia tay:
- Hoa păng-xê: nhớ nhung
- Cây hòe gai: tình bạn.
- Hoa đậu khấu, thược dược, cúc zinnia: lưu luyến
- Hoa lưu ly: tình bạn lâu dài
- Cỏ lưỡi mèo: hồi ức
- Hoa dừa cạn: bình thường, lâu dài

Tiến thủ
- Hoa la đơn: vững chắc
- Loa kèn: nhiệt tình
- Cây dương vàng: kiên định
- Cây khoản đông: chính nghĩa
- Cây linh sam: cao quý
- Hoa hồi hương: sức mạnh
- Cành quế: học thức uyên bác
- Cây cọ: thắng lợi
- Hoa đuôi mèo: cố gắng
- Hoa cúc phi châu: nhiệt tình, sức sống
- Hoa lay-ơn: tính cách kiên cường.
- Hoa đón xuân: sức sống mãnh liệt
- Hoa hướng dương: tươi sáng, sức sống
- Hoa đuốc: nhiệt tình, tươi sáng.

3. Hôn lễ:
- Hoa bách hợp trắng: trăm năm hạnh phúc.
- Cây mã đề: tình yêu thuần khiết
- Hoa lan hồ điệp: yêu kiều, thướt tha
- Hoa hướng dương: chung thủy
- Hoa cúc Phi châu: phụ trợ lang quân
- Hoa tú cầu: mỹ mãn, đoàn viên
- Hoa hồng chưởng: thiên trường địa cửu
- Hoa dạ hợp: phu thê ân ái
- Hoa thường xuân yến: chung thủy, đầu bạc răng long
- Hoa bạc hà: tình cảm nồng cháy
- Hoa bìm bịp, cây thạch trúc: tình yêu vĩnh cửu
- Hoa hương hồng: thanh xuân
- Hoa lưu ly: tình yêu vĩnh hằng
- Cát tường thảo: hạnh phúc bền lâu
- Cỏ lưỡi mèo: tình ý lâu dài
- Hoa tử vy: may mắn

4. Đãi khách
- Các loại dây leo: hoan nghênh
- Hoa tiểu mạch: tán đồng, hợp tác
- Hoa dừa cạn: những hồi ức vui vẻ
- Hoa bồ đào: khoan dung, bác ái
- Kim ngưu thảo: nhiệt tình
- Cây lan tử la: tình bạn trong sáng
- Hoa cẩm chướng: bác ái
- Cúc bạch nhật: lâu dài
- Hoa irit: nhiệt tình
- Hoa hỏa hạc: nhiệt tình, phóng khoáng
- Cây lan huệ: phong thịnh tường hòa
- Lá dương xỉ: sung túc, hài lòng
- Hoa đuốc: nhiệt tình, tươi sáng.
- Cây xô thơm đỏ: sung túc no đủ, tưng bừng vui nhộn.

5. Chúc thọ
- Hoa lan: đức cao vọng trọng
- Hoa phong đỏ: chín chắn
- Hoa cúc: cao sang
- Hoa mai: hàn mai mãn tiết hương
- Tùng bách: trăm năm ích thọ
- Hoa trường thọ: khỏe mạnh, trường thọ.
- Trúc xanh: đức độ
- Hoa lay-ơn, hoa phước lộc: đa phúc, đa thọ
- Vạn niên thanh: vẫn mãi tươi trẻ
- Hoa sen, hoa phụ tử: vui vẻ, tôn kính
- Kim chi ngọc diệp: cao quý, hạnh phúc
- Cúc vạn thọ: trường thọ, khỏe mạnh.

6. Thăm bệnh
- Hoa hải đường, hoa hàm tiếu: chúc bạn vui vẻ
- Hoa bách hợp dại: hồi phục sức khỏe
- Hoa anh thảo: thanh xuân
- Bạch dương: kiên trì, dũng khí
- Cây cúc tây: thông cảm
- Hoa tường vy: hy vọng
- Hoa anh túc đỏ, hoa sơn trà: an ủi
- Hoa cẩm chướng, hoa lưỡi đòng: hỏi thăm
- Hoa bi: quan tâm
- Cỏ hiên: hỏi han
- Cây mận gai: thăm hỏi
- Hoa hướng dương: tươi sáng, đầy sức sống
- Hoa đón xuân: sức sống mạnh mẽ.

#17 thathoc

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 187 Bài viết:
  • 483 thanks

Gửi vào 12/04/2013 - 16:13

Phần 4
HOA CẢNH CÁT TƯỜNG

Trong ứng dụng của phong thủy học, hoa cảnh thường được dùng để xu cát tị hung, do đó các hoa cảnh khác nhau đều mang hàm nghĩa khác nhau.

CÁC HOA CẢNH ĐƯỢC COI LÀ CÁT TƯỜNG
1. Cây quất: (đồng âm với chữ cát trong tiếng Hán) chậu quất đã trở thành vật trang trí trong gia đình vào mỗi dịp Tết nguyên đán.
2. Cỏ kiết tường: nhỏ nhắn, xanh biếc quanh năm, trong bùn hay trong nước đều dễ sinh trưởng, tượng trưng cho “như ý cát tường”, còn được gọi là cây thụy thảo.
3. Cây thầu dầu: dễ sinh trưởng và sống lâu. Ở Trung Quốc, vào đêm Từ Tịch, trẻ con đều phải sờ vào cây thầu dầu, và đi vòng quanh nó mấy vòng để cầu xin mau ăn chóng lớn.
4. Cây hòe: được cho rằng đại diện cho “màu xanh”. Các triều đình xưa đều trồng tam hòe cửu cức (cây táo gai), các công khanh đại phu sẽ ngồi dưới nó, những người đối diện với tam hòe chính là tam công, sau này người đời bèn trồng cây hòe ở sân vườn.
5. Linh chi: từ xưa người ta đã coi nó là điềm may, các bức họa cát tường thường hay thấy miệng hưu hay miệng hạc ngậm lấy linh chi, dùng làm lễ vật chúc thọ.
6. Hoa mai: năm cánh hoa của nó được cho rằng năm vị thần cát tường, do đó có bức họa “mai khai ngũ phúc”.
7. Cây đào: được coi là tinh hoa của ngũ hành, có thể khắc chế trăm quỷ, nên bùa hoa đào được treo trên cửa vào mỗi dịp Tết, được cho rằng có tác dụng trấn yêu khử tà.
8. Cây liễu: có tác dụng giống như cây đào, treo cắm cành liễu trước cửa có thể đuổi tà.
9. Lá hương bồ, lá ngãi: vào Tết Đoan Ngọ, treo lá hương bồ, lá ngãi bên cạnh cửa, hoặc dùng ngãi làm thành “ngãi hổ” rồi đeo lên người, có thể có tác dụng giải độc trừ tà.
10. Cây bạch quả: nở hoa vào ban đêm con người không thể thấy được nên được cho là có âm linh, do đó các bùa ấn của thuật gia đều được khắc từ gỗ cây bạch quả.
11. Cây bách: kiên cường chính trực, được tôn lên đứng đầu trong các loại cây, được tôn là có thể đuổi yêu nghiệp. Cây bách thường được trồng bên cạnh các ngôi mộ 12. Thù du: theo phong thủy học, thù du là một loại thực vật may mắn, đeo nó có thể tránh được tai
họa.
13. Cây bồ hòn: rất được tôn sùng. Loại cây cao to rụng lá này nở hoa trắng vào giữa tháng 5 và tháng 6, quả to hơn 1 chút so với quả sơn trà, khi sống có màu xanh còn khi chín có màu vàng, bên trong có một hột, cứng như là hạt châu. Phật giáo gọi nó là bồ đề tử, dùng để làm tràng hạt, có nó thì có thể “vô hạn” (không có tai họa bệnh tật)
14. Cây bầu (hồ lô): tại sao một trong bát tiên là Trương Quả Lão lại sử dụng “bảo hồ lô” để đựng rượu ? Thì ra trong thuật phong thủy, quả bầu được cho rằng có thể đuổi tà, người xưa thường để nó trước cửa phòng và sau nhà. Thử nghiệm vật lý hiện đại đã chứng minh các đồ đựng có hình dạng “bảo hồ lô” có thể ngăn che sự quấy nhiễu của các loại sóng và bức xạ. Trương Quả Lão sử dụng “bảo hồ lô” để đựng rượu, ngoài đuổi tà ra, có thể bảo tồn mùi vị của rượu

CÂY PHONG THỦY:
Ở phía nam Trung Quốc, có một số ngôi làng còn giữ lại một rừng cây nhỏ, đa số là các loại cây lâu năm như cây long não, cây tùng, cây bách, cây lim. Nếu bạn là người tham quan thì nên nhớ là đừng có đụng vào chúng, bởi vì đây chính là cây phong thủy, cũng được gọi là cây thủy khẩu. Tất cả người dân sống ở đây đều không dám đụng đến một nhánh cây một ngọn cỏ ở nơi đó, vì sợ rằng sẽ phá hoại phong thủy của làng mình

1. Cây tùng:
Tùng là loại cây được ca ngợi từ xưa đến nay, cây xanh quanh năm, vỏ thô như vẩy rồng, lá nhỏ như bờm ngựa, gặp sương tuyết cũng không héo rụng, trải qua ngàn năm cũng không chết. Lịch sử ghi lại, khi Tần Thủy Hoàng đi dạo chơi Thái Sơn thì mưa gió ập đến, nên ông đã trú mưa dưới cây tùng, sau phong cho cây này là “Tùng ngũ đại phu” nên câu nói: “trúc xưng quân tử, tùng hiệu đại phu” từ đó mà có. Cây tùng chịu được lạnh và khô hạn, trong đất đá khô cũng có thể sống được; vào mùa đông hay mùa hạ đều xanh tươi. Trong dân gian thường có câu: “phúc như Nam Hải trường lưu thủy, thọ tỷ Nam Sơn bất lão tùng. Trong các thư họa thường có “Tuế hàn tam hữu” (tùng, trúc, mai) với ý nghĩa cát tường. Trong thư họa, các dụng cụ, vật trang trí thường có “tùng bách đồng xuân”, “tùng cúc diên niên”, “tiên hồ tạp khánh” (cắm cành tùng, hoa thủy tiên, hoa mai, linh chi,… vào trong bình). Do đó, có thể nói: cây tùng là loại cây cát tường được phổ biến rộng rãi từ xưa đến nay.

2. Cây bách
- Hữu sinh đức giả, cố chữ tùng bạch. Bạch, tây phương chính sắc dã “không hùa cùng bọn xấu, kiên trinh hữu tiết, địa vị cao sang”. Trong sách “Học thuyết” của Trung Quốc có nói: “bách do bá dã, cố chữ tùng bạch” (trong tiếng Hán chữ Bách cũng như chữ Bá đều có Bạch). Tùng là “công”, bách là “bá”, trong ngũ tước “công hầu bá tử nam”, bá xếp vị trí thứ ba, nên cây bách cũng được “vị liệt tam công” (xếp vào hàng ngũ thứ ba).

- Tương truyền, các ma quỷ thích ăn gan và não của người chết, sợ hổ, cây bách. Do đó, bên cạnh các âm trạch, lăng mộ thường trồng cây bách và dựng hổ đá. Các tâp tục dân gian Trung Quốc cũng thích sử dụng gỗ bách để trừ tà. Trong “Bản thảo cương mục” có nói: “vào tết nguyên đán lấy nó để ngâm rượu trừ tà” (Cây bách có tính bền, vững chắc, là loại cây lâu năm, có thể ăn được, các đạo gia thường lấy nó để làm thuốc, vào tết nguyên đán thì lấy nó ngâm rượu trừ tà.Con xạ hương ăn vào thì cơ thể có mùi thơm, còn phụ nữ ăn vào thì cơ thể sẽ nhẹ đi, đây cũng là hiệu quả của nó.
Vào đời Thành Đế, một số thợ săn đã bắt gặp một cô gái không mặc quần áo ở núi Thung Nam, toàn thân đều là lông, nhảy qua các khe suối như bay vậy, bèn cùng nhau vây bắt. Hỏi chuyện mới biết cô ta là cung nữ của đời Tần, vì tránh loạn lạc mà trốn vào núi, đói rét không có cái ăn, một ông lão đã dạy cô ăn lá và quả của cây bách, tức thì không đói rét nữa, thân nhẹ như bay, đến đời Hán Thành Đế thì đã hơn 300 tuổi rồi)

- Ngoài ra, dân gian còn cho rằng: “râu đỏ thường ăn quả bách, răng rụng lại mọc”, “ăn quả bách vào người càng sống lâu” hoặc “giao thừa uống rượu lá bách sẽ thêm thọ”. Trong quan niệm các dân gian, cây bách đồng âm với chữ “bách” (trăm) là cực số, cực ngôn nhiều và trọn vẹn, mọi việc đều lấy chữ “bách” (trăm), bao trùm toàn bộ, như bách sự (trăm sự), bách điểu (trăm con chim), bách xuyên (trăm con sông)… Do đó, các bức họa thường có: cây bách và các hình các vật “như ý” hợp thành “bách sự như ý” (trăm sự như ý), bách và trái quýt hợp thành “bách sự đại cát” (chữ “quýt” trong tiếng Hán gần âm với chữ “cát”. Ngày xưa, người Hàng Châu (Trung Quốc) có tập tục, tết Nguyên Đán đi xin xăm làm bằng cành bách, và đặt trái quýt lên miếng hồng khô, đây có nghĩa là bách sự đại cát. Vì chữ bách, thị (hồng), đại cát (trái quýt to) đồng âm với bách sự đại cát.

3. Cây quế:
- Loại giống của quế gồm đan quế (có hoa màu đỏ), kim quế (màu vàng), ngân quế (màu trắng), nở hoa vào tháng 8 âm lịch, nên người ta gọi tháng 8 là “quế nguyệt”. Hoa quế thơm lừng, có thể pha trà uống, có thể làm thuốc. Quế được xem là hoa cảnh mang đến vận may, xưa nay người ta vẫn gọi việc đậu khoa cử là “nguyệt trung chiết quế”, “chiết nguyệt quế” và sự tôn vinh hiển quý, tương lai sáng rạng của con cháu là “đan quế tề phương”. Ở Trung Quốc, vào đời Ngũ Đại, Đậu Vũ Quân của Yến Sơn sanh được năm đứa con trai và tất cả đều thành tài. Đại thành Phùng Đạo đã tặng cho câu thơ: “Yến Sơn đậu thập lang, giáo tử hữu nghĩa phương, linh xuân nhất chi lão, đan quế ngũ chi phương”. Trong “Tam Tự Kinh” cũng có ghi lại: “đậu Yến Sơn, hữu nghĩa phương, giáo ngũ tử, danh câu dương”.

- Trong tiếng Hán, “quế” đồng âm với “quý”, nghĩa là vinh hoa phú quý. Có tập tục cô dâu mới phải đeo hoa quế để thơm và “quý”. Bức họa gồm có hoa quế và hạt sen là “liên sang quý tử” (liên tục sanh con trai), bức họa gồm có hoa quế và trái đào là “quý thọ vô cực”… Quế có hàm ý cát tường chính là vì sự đồng âm đó.

4. Thầu dầu
- Được coi là loại cây trường thọ, thuộc cát tường. Người xưa thường nói: “thượng cổ hữu đại xuân giả, dĩ bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế vi thu”, điều này có thể thấy được tuổi thọ của cây thầu dầu. “Bản thảo cương mục” có ghi: “cây thầu dầu dễ sinh trưởng và sống lâu” nên mọi người thường lấy “xuân niên”, “xuân lệnh” để chúc thọ.

- Do cây thầu dầu sống thọ nên người ta có thói quen ví von nó như cha và ví cỏ hiên như mẹ. Đời Minh, trong “Kim thoa ký” của Chu Quyền có ghi: “bất hạnh xuân đình hữu tang, thâm lại tuyên đường huấn hải thành nhân”. Một số nơi (như vùng Lỗ Tây Nam ở Sơn Đông Trung Quốc) có tập tục là vào đêm giao thừa, trẻ em sờ vào cây thầu dầu và đi vòng quanh để cầu xin mau lớn và trường thọ.

5. Cây hòe
- Dân gian có câu: “trước cửa một cây hòe, không phải bảo thì là tiền tài”. Cây hòe được coi là giống cây cát tường, được cho rằng là “linh tinh chi tinh”, có khả năng phân xử các tố tụng, kiện cáo.

- Cho nên người ta trồng cây hòe trước sân một là lấy bóng râm, hai là lấy niềm may, kỳ vọng rằng con cháu sẽ thành đạt. Ngoài ra, cây hòe cũng có thể dùng làm thuốc. Trong “bản thảo cương mục” có ghi: “chồi non mới mọc của cây hòe có thể rửa sạch chiên chín rồi ăn, cũng có thể uống thay cho trà. Hoặc hái hạt hòe trồng trong ruộng, rồi hái mầm cây ăn sẽ tốt”. Hoặc theo “Danh y biệt lục” có ghi: “ăn vào có thể bổ đầu óc, tóc không bạc mà dài thêm”.

- Cây hòe có lợi cho con người, thường được dùng để xanh hóa, và cũng không ít người dùng để bố trí phong thủy.
6. Cây ngô đồng
Cây ngô đồng là một loại của cây đồng, cây đồng gồm có cây trẩu, cây bào đồng, cây đồng hoa tím, cây đồng hoa trắng, ngô đồng… Cấy đồng có rất nhiều công dụng, gỗ của cây đồng không hề bị mục nát, dù gió thổi nắng chiếu cũng không đứt gãy, dù mưa tạt bùn dơ cũng không khô héo, dù khô hay ẩm cũng không biến chất, dù cây lim sống lâu năm cũng không bằng nó, có thể sánh với những cây quý trên đời. Cây trẩu có thể vắt dầu, cây bào đồng che nắng và ngô đồng được sử dụng làm đàn là tốt nhất.
Trong “Hậu hán thư” có ghi: “Thái Ba đi dạo chơi núi Thái Sơn, thì thấy cây ngô đồng bị cháy và nghe tiếng nổ to, cho rằng: “đây là gỗ tốt, bèn lấy về làm đàn”. Ngô đồng được coi là “linh thụ”, có khả năng ứng nghiệm thời sự, nếu người làm vua biết bổ nhiệm kẻ hiền tài, thì ngô đồng sẽ mọc ở đông sương; ngược lại nếu ngô đồng không mọc, tức nước nhà thay chủ. Hơn nữa, cây ngô đồng còn có thể cho ta biết được năm tháng, khi lá rụng là báo hiệu mùa thu đến, nên dân gian thường có câu: “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ tận tri thu”.

7. Cây trúc
- Dựa vào phân loại hoa cảnh học hiện đại, trúc thuộc họ thân lúa. Người Trung Quốc xưa cho rằng trúc “bất du bất cương, phi thảo phi mộc”. Từ xưa đến nay có rất nhiều từ phú ca tụng về trúc. Trúc có mối quan hệ mật thiết với dân sinh, có thể dùng để xây nhà, làm bút lông, làm giấy, dụng cụ gia đình và chạm trổ các bức tranh. Về môi trường sống, trúc không héo rụng khi gặp sương tuyết, qua bốn mùa vẫn tươi tốt, đẹp nhưng không lẳng lơ, trang nhã, mộc mạc đáng để thưởng lãm. Các văn nhân xem trúc như hiền nhân, quân tử.
Trong “Dưỡng trúc ký” của Bạch Cư Dị có nói: “Trúc tự hiền, hà tai ? Trúc bản cố, cố dĩ thụ đức, quân tử kiến kỳ bản; tắc thi thiện kiến bất bạt giả. Trúc tâm không, không dĩ thể đạo, quân tử kiến kỳ tâm, tắc thi ứng dụng hư thụ giả. Trúc trinh tiết, trinh dĩ lập chí, quân tử kiến kỳ tiết, tắc thi để lệ danh hành, di hiểm nhất trí giả. Phu như thị, cố hiệu quân tử”. Sự cao phong lượng tiết của trúc khiến cho người ta xếp nó chung với các hiền giả, vì vậy có câu nói: “thà rằng ăn không có thịt, nhưng không thể ở mà không có trúc”. Trong các bức họa quý, người ta thường gọi trúc, tùng và mai là “tuế hàn tam hữu”, trúc, mai, nguyệt, thủy là “ngũ thanh đồ”, tùng, trúc, tuyên, lan và thọ thạch là “ngũ thụy đồ”; và thường được xuất hiện dưới ngòi bút của các họa gia.

- Trúc có nhiều loại, có thể có trên trăm loại. Rất nhiều trúc đều có ngụ ý văn hóa. Như: ban trúc (tây sương ký), từ trúc (cũng được gọi là hiếu trúc, trúc mẫu tử), trúc la hán, trúc kim lương ngọc, thiên trúc (thiên trúc nam đại trúc)… Nếu vẽ trúc chung với bí đỏ, hoa dừa cạn, lấy ý nghĩa của các từ đồng âm thì có thể tạo thành ngụ ý “thiên địa trường xuân”, “thiên trường địa cửu”. Trúc lại đồng âm với từ “chúc” nên có hàm ý chúc phúc tốt đẹp.

8. Hoa dạ hợp
Hoa dạ hợp thuộc cây cao to rụng lá, lá kép so le dạng lông vũ, ban đêm sẽ khép lại sáng giãn ra, tượng trưng cho sự ân ái êm ấm của vợ chồng và hôn nhân hạnh phúc, nên còn được gọi là cây “hợp hoan”. Bắt đầu từ đời Hán, hai chữ hợp hoan đã đi sâu vào văn hóa hôn nhân của Trung Quốc, có hợp hoan điện, hợp hoan bị, hợp hoan mão, hợp hoan kết, hợp hoan yếu và hợp hoan bôi. Có câu đối: “tính đế hoa khai thiên lý thụ, tân bội tửu tiếp hợp hoan bôi”. Hoa dạ hợp được văn nhân coi là cây hóa giải hận thù và phiền muộn. Họ cho rằng: “hợp hoan, nhất danh độc nhân phẫn, tắc tặng dĩ thanh đường, thanh đường nhất danh hợp hoa, năng vong phẫn”; hay “hợp hoan độc phẫn, tuyên thảo vong ưu”. Do đó, người ta thường trồng dạ hợp ở sân vườn bên cạnh nhà.

9. Cây táo
Táo là loại cây được trồng rất phổ biến, gỗ cứng có thể làm dụng cụ gia đình, điêu khắc, sách cổ thường gọi là “táo bản”; quả ăn vào có thể “bổ trung ích khí ăn lâu thần tiên”. Cây táo ra quả rất sớm, cây non có thể kết trái. Trong tiếng Hán, táo đồng âm với chữ “tảo” (sớm), phong tục dân gian đã từng vẽ táo chung với hạt dẻ (hoặc vải), vì đồng âm với “tảo lập tử” (sớm sinh con trai).
Người ta thường mang táo và quế nguyên để làm quà tặng trong ngày hôn lễ, vì chúng đồng âm với “tảo sinh quý tử” (sớm sinh quý tử); ngoài ra, người ta cũng dùng táo, hạt dẻ và đậu phộng vào việc “tán tướng” trong đêm tân hôn để mang đến sự may mắn, thuận lợi.

10. Cây hạt dẻ
Hạt dẻ có thể ăn, có thể làm thuốc. Thời xa xưa, người ta dùng gỗ cây dẻ để làm phần chủ (linh bài của người chết), và gọi tông miếu thần chủ là “lật chủ”. Người xưa dùng nó để biểu thị sự chân thành của người phụ nữ và hạnh phúc gia đình như: “phu nhân chi chí, cụ tần phủ, tu táo lật” ; “phu phụ chí bất qua táo lật, dĩ cáo kiền dã” ; hoặc “đông môn chi lật, hữu tịnh gia thất”. Trong tiếng Hán, hạt dẻ (lật tử) đồng âm với “lập tử”, là vật cát tường để cầu tự. Táo, hạt dẻ, đậu phộng, rượu… thường được đặt trên bàn tân hôn, giữa giường hoặc trong lòng cô dâu để cầu xin sự may mắn.

11. Cây đào
Đào có xuất xứ từ Trung Quốc và mang nét văn hóa rất đặc sắc, trong quan niệm về tập tục dân gian, tôn giáo và thẩm mỹ, đều có sự đóng góp quan trong của nó. Đào có hoa màu đỏ, trắng, hồng phấn, đỏ sẫm, rất đẹp và đáng yêu. Người Trung Quốc thường lấy hoa đào để ví von các cô gái xinh đẹp, những chuyện liên quan đến phu nữ cũng đều mang chữ “đào”, ví dụ như: đaò hoa trang, đào hoa vận, đào sắc tin tức… Loại văn hóa này được truyền sang Nhật Bản, phong lữ trường (nhà tắm) của Nhật Bản có ghi rõ là “đào chi thang” , “tùng chi thang” (nhà tắm nữ, nhà tắm nam). Dân gian cho rằng đào có linh khí, nếu đào không nở hoa vào tháng 3 thì di báo sẽ có hỏa hoạn, do đó tháng 3 cũng gọi là “đào nguyệt”. Thần thoại Trung Quốc nói rằng cây đào có thể là do gậy thần của trời cũng có thể là do sao bắc đẩu biến thành; tuy nhiên dù là gì cũng đều mang sự thần kỳ.
Trong sách “Thái Bình ngự giám” nói rằng: “đào dã, ngũ thuật chi tinh dã, cố yếm phục tà khí giả dữ. Đào chi tinh sinh tại quỷ môn, chế bách quỷ, cố kim tạo đào nhân cách trước môn, dĩ áp tà khí”. Đào có thể chế ngự trăm quỷ, nên quỷ rất sợ gỗ đào. Người xưa thường dùng gỗ đào làm thành các vật phẩm trừ tà, như: đào ấn, đào bùa, đào kiếm, đào nhân… Tết Đoan Ngọ, cắm cành đào lên trước cửa cũng là quan niệm tập tục đào có thể tránh tà khí. Ngoài ra, quả đào còn có tên là “tiên đào”, “thọ đào”, đây chủ yếu bắt nguồn từ thần thoại về cây bàn đào do Tây Vương Mẫu trồng, truyền thuyết 3000 năm ra hoa, 3000 năm kết trái, ăn vào có thể tăng thêm 600 tuổi. Hoa cây đào đẹp, quả tươi, lại dễ trồng, nên thường được trồng trên sân vườn của nhà ở.

12. Cây lựu
Cây lựu còn có tên là An Thạch Lựu, theo lịch sử Trung Quốc ghi lại, vào đời Hán Vũ Đế, cây lựu được mang từ An Thạch về Tây Vực nên được gọi là An Thạch Lựu. Nhưng trong y điểm của Mã Vương Đôi Hán Mộ lại ghi chép rằng trước thời Tây Hán, Trung Quốc đã có cây lựu, như bài thơ “Vịnh thạch lựu” của Lương Nguyên Đế: “đồ lâm ứng vi phát, xuân mộ chuyển tương thôi. Nhiên đăng nghi dạ hỏa, hại châu thắng tảo mai”. Trong văn hóa tập tục Trung Hoa, cho rằng “thạch lựu bách tử” là tượng trưng cho “đa tử đa phước”. Trên thực tế, hoa và quả lựu đỏ như lửa, quả lại có thể giải khát và giải rượu nên rất nhiều dân cư đã trồng nó trong sân vườn.

13. Cây quất
Khuất Nguyên từng lấy “cát tụng” để vịnh hình dạng, tính chất và phẩm cách của quất. Tính chất của quất sẽ thay đổi theo địa khí, trong “Chu lễ - khảo công ký” có nói: “cát du hoài nhi hóa vi tính… thử địa khí nhiên dã”. Quất có linh tính, truyền thuyết nói rằng có thể ứng nghiệm sự vật.
Theo tương truyền: “Trần Hậu mơ thấy một đám người áo vàng vây thành, chặt đốn hết tất cả cây quất mọc quanh thành, Khi quân Tùy kéo đến, trên dưới đều mặc áo vàng, chẳng bao lâu việc quân Tùy tấn công vào thành đã ứng nghiệm”. Lại có người cho rằng quất là do sao Thiên Tuyền của Bắc Đẩu biến hóa thành. Ngoài ra, quất còn được xem là: “tuyền tinh tán vi cát”, giá trị thực tế của nó chủ yếu là quả tươi ngon ăn được, vỏ và hột có thể làm thuốc, trồng nó sẽ có lợi ích về kinh tế.
Trong các tập tục dân gian, vì trong tiếng Hán, quất đồng âm với cát nên người ta lấy quất để xu cát cầu phúc, quất vàng có thể là điềm tốt. Do đó vào ngày tết Nguyên Đán, người dân thường xiên cành bách qua trái hồng khô, rồi đặt lên trái quất lớn, để cầu xin trăm sự may mắn.

14. Cây mai
Mai là loại hoa đặc trưng dùng để chưng trong ngày tết cổ truyền của dân tộc để kính nhớ tổ tiên và cầu may mắn. Mai nở hoa vào giao mùa giữa mùa đông và mùa xuân “độc thiên hạ nhi xuân”, nên có tên là “hoa báo xuân” và được cho là “thiên hạ ưu vật”. Hoa mai được dùng để ví von phụ nữ, có người nói rằng hoa mai “quỳnh cơ ngọc cốt, vật ngoại giai nhân, quần phương lãnh tụ”, trúc được ví như chồng, mai được ví như vợ, các câu đối chúc mừng tân hôn thường có: “trúc mai song hỷ”, cả nam nữ thiếu niên cũng được gọi là “thanh mai trúc mã”. Phẩm cách của mai trong sạch hơn sương tuyết, nên được cho rằng bao gồm “tứ đức”.
Người xưa nói: “mai cụ tức đức, sơ sinh vi nguyên, khai hoa vi hanh, kết tử vi lợi, thành thục vi trinh”. Hoa mai có 5 cánh, tượng trưng cho ngũ phúc – vui vẻ, hạnh phúc, trường thọ, thuận lợi, hòa bình, lại phù hợp với thuyết âm dương “ngũ hành” kim mộc thủy hỏa thổ của Trung Quốc. Các câu đối chúc thọ thường có: “mai khai ngũ phúc, trúc báo tam đa” (lá trúc có ba phiến), ngụ ý cát tường. Ngoài ra mai còn có vẻ đẹp “từ quý”: quý hy bất quý mật, quý lão bất quý nôn, quý sấu bất quý phì, quý hàm bất quý khai, nên có câu “mai khai nhị đổ” để hình dung vẻ đẹp của nó. Hy (thưa), lão (già), sấu (ốm), hàm (khép lại) là vẻ đẹp “tứ quý” của mai, điều này thường được biểu hiện dưới ngòi bút của các họa sĩ.

15. Hoa sen:
- Hoa sen có rất nhiều tên như hà hoa, thủy phù dung,… Ngó sen có thể ăn và làm thuốc, có tác dụng bổ sung ích khí; hạt sen có thể làm mát gan, giải nhiệt. Trong “Bản thảo cương mục” có nói: “các thầy thuốc lấy nó để ăn, trăm bệnh đều trị được”. Ngoài giá trị thực dụng, hoa sen còn là biểu tượng của Phật giáo. Quê nhà của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni có rất nhiều hoa sen, do đó Phật giáo thường lấy hoa sen để tự ví mình. “Bản thảo cương mục” có ghi: “thích thị dùng nó để tự ví, diệu lý câu toàn”. Sau khi nhà Đường lập Phật giáo làm quốc giáo, hoa sen rất được mọi người kính yêu.

Nước phật được cho rằng chính là nơi ở của hoa sen và được gọi là “liên giới”, kinh Phật được gọi là “liên kinh”, Phật tọa được gọi là “liên tọa” hoặc “liên đài”, Phật tự được gọi là “liên vũ”, Tăng xá được gọi là “liên phòng”, cà sa được gọi là “liên y”,… Hình ảnh hoa sen cũng trở thành ký hiệu của Phật giáo, các kiến trúc, công trình và vật dụng của Phật giáo cũng đều có bức vẽ hoa sen. Ngoài ra, ở Trung Quốc, hoa sen được coi là quân tử và có ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời sống con người.

- “Bản thảo cương mục” có nói: “rễ của hoa sen mọc dưới bùn dơ, nhưng vẫn tự giữ mình trong sạch; mềm mại nhưng rắn chắc, có khí tiết, tuy có non yếu nhưng vẫn mọc ra thân, lá, hoa và quả; rồi lại đâm chồi để có thể tiếp tục duy trì sự sống. Bốn mùa đều ăn được, làm cho người ta yêu thích, có thể nói là loại rễ quý !”. Những cây sen có 1 – 2 hoa được gọi là sen tịnh đế, tượng trưng cho sự kết hợp của nam và nữ, sự yêu thương của vợ chồng. Các câu đối chúc mừng thường có tỉ dực điểu vĩnh thê thường thanh thụ, tính đế hoa cửu khai cần kiệm gia”… Trong tiếng Hán, hoa sen đồng âm với chữ “liêm” (khiết), “liên” (sinh), dân gian có tập tục lấy nghĩa theo chữ đồng âm như: “nhất phẩm thanh liêm”, “liên sanh quý tử”… Tuy nhiên, đối với văn hóa của người dân Nhật Bản lại cho rằng hoa sen không trinh trắng và thanh khiết mà là loại hoa “hạ tiện”.

16. Phù dung:
Phù dung chia làm thủy phù dung, và mục phù dung. Thủy phù dung còn được gọi là cây mộc liên, địa phù dung, cự tuyết… Cây phù dung có rất nhiều tại Tứ Xuyên (Trung Quốc), nở hoa vào mùa thu và mùa đông, nở rộ nhất vào những ngày sương giá. Vào đời Ngũ Đại, Thục Hậu ra lệnh Mạnh Sưởng trồng đầy cây mục phù dung bên ngoài thành Cung Uyển, rồi hoa nở như gấm nên sau này người ta gọi thành đô là Cẩm Thành, Dung Thành. Cây phù dung chịu được lạnh, gặp sương thì hoa nở rộ, nên còn có tên là “cự sương”. Trong tiếng Hán phù dung đồng âm với “phú vinh”, trong các bức vẽ thường được vẽ chung với hoa mẫu đơn để thành “vinh hoa phú quý” và đều có ngụ ý cát tường.

17. Hoa mẫu đơn:
Hoa mẫu đơn thuộc cây bụi họ mao lương, còn có tên là “vua của các loài hoa”, “hoa phú quý”. Mẫu đơn là loại hoa nổi tiếng của Trung Quốc, có từ rất xa xưa. Loại giống hoa mẫu đơn rất đa dạng (hơn 269 loại) và được chia thành 6 loại phẩm lớn: thành phẩm, danh phẩm, linh phẩm, nhật phẩm, hãng phẩm và cụ phẩm. Tương truyền, khi vua Đường Huyền Tông đang ngắm hoa mẫu đơn đã từng hỏi rằng ai làm thơ vịnh hoa mẫu đơn hay nhất, có người tâu rằng câu thơ “thiên hương dạ nhiễm y, quốc sắc triều cam tửu” của Lý Chính Phong hay nhất, nên mẫu đơn có danh hiệu là “quốc sắc thiên hương”.
Trong “Bản thảo cương mục” nói rằng: “trong các loại hoa, mẫu đơn đứng đầu, thược dược thứ hai, nên người đời gọi mẫu đơn là vua các loài hoa”. Đến đời Tống, mẫu đơn ở Lạc Dương được tôn sùng là thiên hạ đệ nhất, từ đó có tên gọi là “hoa Lạc Dương”. Hoa mẫu đơn xinh đẹp đẫy đà, nên gọi là “hoa phú quý” và được lưu truyền. Mẫu đơn là hoa phú quý quốc sắc thiên hương, từ xưa đến nay các danh nhân nhã sĩ thường dùng nó để làm tên của phòng sách, vườn hoa. Như “thiên hương đường” của Châu Tất Đại của đời Tống, “quốc sắc viên” của Châu Vương của đời Minh… Hoa mẫu đơn có sắc đẹp và tiếng tốt, ngụ ý cát tường, do đó trong lúc xây dựng vườn hoa, hoa mẫu đơn thường được đặt chung với thọ thạch để thành cảnh quan “trường mệnh phú quý”, và đặt chung với hoa dừa cạn để thành cảnh quan “phú quý trường xuân”

18. Hoa hồng
Hoa hồng thuộc cây bụi thẳng đứng họ tường vy, là do 15 loại hoa tường vy lai tạp nhiều lần mà thành. Ở Trung Quốc có hơn 600 loại hoa hồng, mùa hoa nở rất dài, lại có tên là nguyệt nguyệt hồng; mỗi tháng nở một lần, bốn mùa đều không ngừng. Vào những năm 80 của thế kỷ 18, hoa hồng đã từ Ấn Độ truyền vào Châu Âu, lúc đó chiến tranh giữa Anh và Pháp nổ ra, nhưng cuối cùng đôi bên đã bắt tay giảng hòa và tặng hoa này lẫn nhau. Do đó người nước Anh đến nay vẫn tôn hoa hồng làm quốc hoa. Do hoa hồng bốn mùa đều nở và dân gian coi nó là điềm lành, nên có ngụ ý “tứ quý bình an”. Hoa hồng kết hợp với cây thiên trúc có ngụ ý tứ quý thường xuân”.

19. Cây bầu
Cây bầu thuộc loại thân dây leo rập rạp, quả kết sum suê, hạt lại rất nhiều, người Trung Quốc coi nó là loại cây cát tường tượng trưng cho con cháu phồn thịnh. Cành “man” (dây leo) đồng âm với từ “vạn”, ngụ ý vạn đại cẩm trường. Ngoài ra, cây bầu còn tránh được tà khí và ngăn chặn khí trường. Vào Tết Đoan Ngọ, dân gian có tập tục cắm cành đào, treo quả bầu lên cửa. Theo phân tích về phong thủy trường khí, các đường cong của quả bầu giống với hình dạng chữ “S” chứa chức năng thần kỳ của đường phân giới âm dương thái cực. Do đó, được ứng dụng để hóa sát trong phong thủy.

20. Thù du
Thù du có mùi hương rất đậm đà, chín vào trước hoặc sau ngày 9 tháng 9, có màu đỏ sẫm, theo tập tục dân gian, hái thù du vào ngày này treo trên đầu có thể tránh tà, diệt ma quỷ. Ngoài ra, nếu trồng thù du bên cạnh nhà có thể “tăng thêm tuổi thọ, trừ bệnh hoạn”; trồng bên cạnh giếng và bên bờ sông để lá cây rơi vào trong đó, con người uống nước này vào thì sẽ không bao giờ có bệnh dịch. Gấm vóc đời Hán có “Gấm thù du”, vải thuê có “hình thuê thù du”. Phiên hội họp dân gian vào lễ Trùng Dương ngày 9 tháng 9 của Trung Quốc cũng được gọi là “hội thù du”.

21. Xương bồ
Xương bồ là cây thân cỏ lâu năm, thường là cây mọc hoang, nhưng cũng thích hợp trồng trong vườn nhà. Tập tục dân gian cho rằng hoa của xương bồ rất quý, vị của nó khiến cho con người tăng thêm tuổi thọ. Vào thời xa xưa, người Trung Quốc cho rằng xương bồ là tái sinh của thiên tinh. Theo truyền thuyết, nếu ai nhìn thấy hoa xương bồ sẽ gặp may mắn, theo sự ghi chép trong “Lương thư” : “Thái tổ hoàng hậu Trương Thị đang ở trong phòng thì đột nhiên thấy xương bồ nở hoa trước sân, có màu sắc sáng rực, thật là hiếm có trên đời, nên rất kinh ngạc, hỏi các người hầu: “các người đã từng thấy nó chưa ?”, những người ấy đều trả lời rằng chưa.
Hậu bèn nói: “ta nghe nói nếu nhìn thấy hoa xương bồ thì sẽ gặp may mắn”, do đó bèn hái để ăn và sinh ra Cao Tổ”. Do đó xương bồ đã được yêu thích và sử dụng rộng rãi trong dân gian, được coi là loại hoa cảnh cát tường dùng để tránh tà khí. Xương bồ cũng có giá trị trị bệnh. “Bản thảo cương mục” ghi rằng: “Xương bồ chủ yếu trị phong hàn tê thấp, khái nghịch thượng khí, khai tâm khổng, bổ ngũ tạng, thông cửu khiếu, minh mục nhĩ, xuất thanh âm. Ăn lâu thì thân sẽ nhẹ, tinh thần minh mẫn, sống thọ, ích tâm trí, cao chí bất lão”.
Trong “Đạo tàng kinh – xương bồ kinh” có ghi: “Xương bồ, là loại cỏ tinh anh, là loại thuốc thần tiên. Thuốc của nó lấy ngũ đức phối hợp với ngũ hành, lá xanh, hoa cảnh, mấu trắng, tim vàng, rễ đen. Có thể trị toàn bộ các chứng bệnh về phong, tay chân tê cứng… chắc gân cốt, tăng tinh thần, nhuận ngũ tạng, bổ lục phủ, khai vị và huyết mạch, lợi răng miệng, thính tai sáng mắt, dưỡng da, khứ hàn nhiệt…”

#18 thathoc

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 187 Bài viết:
  • 483 thanks

Gửi vào 12/04/2013 - 16:20

Phần 5
CÁCH LỰA CHỌN VÀ PHỐI HỢP CÁC BÌNH HOA



Cách lựa chọn bình hoa trong thiết kế của nghệ thuật cắm hoa rất quan trọng, nó liên quan đến việc tạo dựng bầu không khí cho toàn chỉnh thể. Các vật liệu tự nhiên tất nhiên sẽ mang lại hiệu quả mới lạ, tại sao chúng ta không dùng cành khô làm bình hoa để cho một vẻ đẹp nguyên thủy lại hiện ra trước mắt chứ ?
Chỉ cần các vật đựng có lỗ thoát nước ở phần đáy, các dụng cụ sinh hoạt đều có thể làm bình hoa. Nếu chất lượng, màu sắc của bình không dễ phối hợp, ta có thể phủ lên 1 lớp tảo khô để tạo mùi vị nguyên thủy thuần túy và tự nhiên; đồng thời sử dụng các loại hoa có màu sắc thanh nhã để phối hợp với bình sẽ mang đến cho người thưởng ngoạn cảm giác khác lạ và có thể tô thêm sắc cho môi trường trong nhà.
So với các chậu hoa thấp bé thông thường, hình dáng cao thon thẳng đứng của bình hoa lại mang nét đặc trưng riêng, sử dụng lá cây để gói hoa là một sự phối hợp của toàn chỉnh thể, nguyên cái tạo hình cũng tỏ ra tự nhiên nhưng khí thế, có thể đặt ở cạnh cửa, cũng có thể đặt trên bàn ăn lớn. Ngoài ra, còn các loại bình cắm hoa chuyên dụng bằng các vật liệu như: thủy tinh, đồ sành, đồ gốm, kim loại, mây tre, và các loại lẳng, giỏ, vòng mây…

CÁC BÌNH HOA
- Tại khu vực Châu Á, các bát dạng lớn thường được gọi là chậu hoa, nhưng ở các nước Châu Mỹ, chậu hoa hoặc bát… bất kể vật đựng lớn hay nhỏ, các vật đựng dùng để trồng thực vật đều được gọi là bình hoa (container)
- Nguyên liệu để làm bình hoa ngoài như cao su, bê tông và inox ra, còn có các nguyên liệu thiên nhiên như bát, đồ gốm hoặc đồ gỗ… Có thể căn cứ vào vị trí trưng bày, hình dáng và độ lớn nhỏ của bình để lựa chọn loại hoa thích hợp, nhưng nếu cắm hai loại hoa trong một bình, thì ngoài phối hợp hình dạng hoặc màu sắc ra, còn phải chú ý đến tính chất của mỗi loại hoa.

- Hoa tươi thích hợp cắm trong bình hoa bằng sứ hoặc thủy tinh, trong đó bình thủy tinh được mọi người yêu thích nhất. Bình thủy tinh được chia làm mấy loại như: bình trong suốt, bình hoa nghệ thuật và bình pha lê có chạm trổ… Khi cắm hoa tươi, thông thường người ta đều chọn loại bình trong suốt hoặc bình hoa nghệ thuật, bởi vì ngắm hoa là mục đích chính, bình hoa chỉ là cái công cụ dùng để cắm hoa. Các bình pha lê có chạm trổ ngoài việc có thể sử dụng để cắm hoa, bản thân nó chính là một tác phẩm nghệ thuật, có tính thưởng lãm cực lớn, nhưng giá tiền lại rất đắt. Nên chọn các bình có thân hơi dài và miệng hơi rộng để đề phòng hoa tươi bị khô héo do thoát nước; đồng thời có lợi cho sự thoáng khí, ngăn ngừa thối rữa.

- Các loại bình bằng gốm cũng rất đa dạng và có giá trị nghệ thuật cao, vừa có thể trưng bày trong nhà vừa dùng để cắm hoa. Ngoài ra, các vật dụng bằng trúc, gỗ hay mây, thường dùng để tạo hình phối hợp với hoa khô, hoa nhân tạo cũng có hiệu quả trang trí độc đáo.
- Các ngôi nhà ở quốc gia Âu Mỹ thường để trống một khoảng không gian gần cửa sổ để trồng hoa hay đặt các bình hoa có hình chữ nhật. Ngoài ra, còn đặt trực tiếp lên sàn nhà dưới cửa sổ, hoặc treo lên lan can, ban công. Các bát nông là một trong những bình hoa rất thích hợp dùng để trồng hoa cảnh, nếu thêm vào giá đỡ, còn có thể làm vật trang trí dạng lập thể nữa ! Vả lại, nó có thể đặt ở bất cứ địa điểm trang trí nào, do vật đựng nông, lượng đất sử dụng ít nên việc mang theo rất tiện lợi. Chất liệu và hình dáng của các bát nông không giống nhau, thông thường đường kính miệng bát to hơn so với độ cao (độ sâu), nên khi vun trồng, tốt nhất là phần đất trồng ở giữa cao hơn 1 chút. Ngoài ra, đất trồng của bát dễ khô hanh, cần chú ý bổ sung nước. Trên nguyên tắc là đất trồng vừa khô là tưới lượng nước bổ sung lên ngay.

- Hoa dây vừa có thể treo, vừa có thể máng, bất luận là trên tường, xung quanh cạnh cửa, hàng rào hoặc sân vườn nhỏ đều có thể sử dụng để trở thành vật trang trí dạng lập thể.
- Hoa dây có loại hình như lẳng hoa làm bằng dây thép, gốm, gỗ và nhựa cây… Ngoài lẳng làm bằng dây thép ra, các phương pháp vun bón bằng loại hình khác đều giống với các bát thông thường. Khi sử dụng các lẳng hoa bằng dây thép dạng cái bát để vun trồng, trước tiên dán một lớp cỏ rêu nước vào bên trong dây thép, thêm vào đất trồng rồi trồng thực vật, các loại cây điển hình có thể trồng trong các chậu, bát là cây bách lá tù. Nếu sắp đặt 1 cách khéo léo có thể khiến nó tạo thành một vườn hoa trên không dạng nhỏ. Cả xâu hoa với các thực vật màu xanh là chính, thêm vào chút hoa cảnh dễ thương, nhìn vào vừa mới lạ vừa trang nhã.

VŨ ĐIỆU VALSE CỦA HOA VÀ BÌNH ĐỰNG HOA
- Với đủ các loại hoa muôn màu, muôn sắc, hãy sử dụng đôi mắt độc đáo, những sáng tạo mới lạ và đôi tay khéo léo để các bình và hoa có khí chất khác nhau cùng nhau nhảy múa, chúng sẽ khiến cho ngôi nhà của bạn rạng rỡ khác thường !
- Bình sứ trắng mang cảm giác yên tĩnh, hàm xúc, trầm uất của phương Đông, kết hợp với màu sắc rạng ngời của cây phù lan sẽ hình thành một loại cảnh trí đối chọi mạnh mẽ. Với chiếc bình hoa nhỏ trong suốt, đặt vào bình vài viên sỏi cũng có thể làm nổi bật cảm giác nhỏ xinh của chiếc bình.

Dưới sự tôn thêm của những chiếc bình với những đường cong trang nhã, sự đơn giản của cây tuyết tùng, sự sôi nổi của cây hỏa long châu, cùng với sự rực rỡ của hoa hồng đỏ sẽ tạo ra một không khí lãng mạn lạ thường. Đem những miếng vải bố mộc mạc bọc những chậu hoa thô ráp lại, rồi buộc nhẹ ở phần miệng chậu, vẻ đẹp của hoa oải hương hình như cũng vì đó mà thay đổi. Còn những chiếc bình hoa cổ cao và miệng rộng thì thích hợp dùng để trồng những cây có thân to. Sự xanh biếc, dễ thương của cây nhung thiên nga và cây lục lan đã mang đến hơi hướm của mùa xuân trong khi đung đưa trước gió. Những chiếc sọt bện bằng cỏ dùng để dựng những vật linh tinh hoặc sử dụng trong nhà rất thích hợp dùng để trồng những chậu hoa nhỏ tạo một không khí thôn dã vừa ấm cúng vừa yên ả

- Những cái thùng sắt thường không được người ta chú ý đến nhưng cảm giác lạnh và cứng của chúng mang lại phong cách hiện đại. Hoa hồng và hoa uất kim hương có thân cao và mang tính chất nhu mì của nữ giới, nếu đem cắm vào trong thùng sắt thì giống như chuyện tình của những tiên nữ dưới trần thế vậy, rất mới lạ và xinh đẹp. Một bó hoa hồng vàng thích hợp với những bình có miệng rộng, hãy thử dùng lá gỗ Brazil trang trí quanh bên trong bình sẽ mang đến cho người thưởng ngoạn cảm giác mới lạ. Giống như một buổi chiều hoàng hôn với ánh nắng sáng đẹp được nó tô điểm mà trở nên êm ấm nhưng yên tĩnh vậy.
- Các chất liệu dùng để cắm hoa rất đa dạng, gồm có đồ sứ, đồ gốm, thủy tinh, nhựa, đồ đồng, đồ nhôm, đồ thiếc, đồ gỗ, đồ sơn mài, đồ trúc, đồ đá, đồ ngọc, vỏ sò, vỏ dừa…, hầu hết những vật đựng được nước đều có thể làm bình hoa. Từ xưa đến nay, sản xuất bình hoa rất được coi trọng, trong đó được ứng dụng nhiều nhất là đồ sứ.

- Tạo hình của bình hoa cũng rất phong phú. Những kiểu bình mà chúng ta ứng dụng hiện nay là sự kế thừa và phát triển văn hóa ưu tú của nhân loại trong mấy ngàn năm. Đồ đồng xanh của thời kỳ Ân Châu: đỉnh, lẩu, hộp, đậu, vò rượu, tước, bình,…, lúc bấy giờ tuy là dùng để làm vũ khí, vật dụng làm bếp, ăn và rửa…, bây giờ những tạo hình này đã được ứng dụng rộng rãi để làm vật dụng quý giá hiện đại trong nhà. Đồ đồng xanh của thời cổ người xưa vốn dùng để uống rượu, bây giờ càng được những nhà nghệ thuật vườn đời sau ngưỡng mộ. Ngoài sự tích lũy các hình dáng của các bình xa xưa, hiện nay lại có giao lưu văn hóa giữa phương Đông và phương Tây, cho nên hình dáng của bình hoa cũng ngày càng phong phú.

- Việc lựa chọn bình hoa cũng thể hiện phong cách của người sử dụng. Câu “đắt nhất là đồng, rẻ là vàng bạc” chính là khí chất trang nhã thanh tao mà những văn nhân nhã sĩ tôn sùng. Theo kinh nghiệm truyền thống của nghề trồng hoa ở Trung Quốc, khi chọn bình cần chú ý đến thời tiết: “xuân đông dùng thép, thu hạ dùng sứ”. Hoặc phải biết phối hợp tính chất của bình hoa với hoa tươi như: “trong bình đồng cắm hoa mai, trong bình sứ cắm hoa se”. Do đó, có thể thấy, sự phối hợp giữa hoa và bình hoa cần phải chọn lựa kỹ lưỡng.

- Ngoài ra, việc lựa chọn các bình hoa còn phải chú ý đến hoàn cảnh ứng dụng thực tế. Các không gian rộng rãi như phòng khách thì hoa tươi cần phải được cắm rậm rạp một chút, bình hoa cũng nên lớn hơn. Ngược lại, những không gian khá nhỏ như phòng học thì hoa tươi nên giản đơn và bình hoa cũng có thể nhỏ một chút.
- Đồng thời cũng phải chú ý đến màu sắc của bình. Nếu những hoa tươi được cắm um tùm thì màu sắc của bình hoa phối hợp có thể đậm hơn. Ngược lại, những hoa tươi hơi nhạt màu thì nên phối hợp với những bình hoa có màu sắc phức tạp.
- Bình hoa tuy có rất nhiều loại, lại thiên biến vạn hóa, nhưng dù biến hóa thế nào vẫn không thoát khỏi cái gốc của nó, hình thái cơ bản cũng không ngoài mấy loại sau: chậu, bát, ống, bình, và các biến dạng của chúng.

Chậu: đặc điểm cơ bản là đáy cạn, miệng rộng.
Bát: đặc điểm cơ bản là miệng rộng hơn đáy, đáy hơi sâu, chân đáy có cao có thấp.
Ống: đặc điểm cơ bản là miệng và đáy có độ lớn tương đương nhau, thường có hình tròn, tam giác, tứ giác, lục giác…
Bình: đặc điểm cơ bản là miệng nhỏ bụng to, có cổ.

- Ngoài ra còn có các bình hoa dạng treo và treo tường, đặc điểm giống nhau của chúng là đều có quai hoặc lổ để treo lên. Cũng có thể chặt một đốt ống tre xanh biếc, hoặc cắt đứt một phần miệng của bình rượu tây xinh xắn là ta đã có một chiếc bình hoa ngộ nghĩnh và độc đáo.
- So với các cuộc thi và triển lãm cắm hoa dạng lớn, thì việc cắm hoa trong nhà chỉ cần một ít nguyên liệu hoa và các vật dụng đơn giản như chén, tô, khay trà, hoặc hộp đựng bằng gỗ… cũng có thể biến thành một tác phẩm nghệ thuật vừa thi vị vừa ấm cúng, nhưng cũng không kém phần đặc sắc.
- Do đó, có thể nói, khi sử dụng những đồ dùng đơn giản để cắm hoa sẽ làm nổi bật sức căng của nghệ thuật cắm hoa. Điều quan trong là chúng ta phải biết kết hợp giữa loài hoa, màu sắc… và vật dụng cắm hoa để làm tăng giá trị thưởng ngoạn, đặc biệt là phải phù hợp với ý nghĩa của hoa cảnh theo phong thủy học.

HẾT
Nếu có sai sót, vui lòng thông báo giúp để điều chỉnh.
Mê Học

Thanked by 1 Member:

#19 thathoc

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 187 Bài viết:
  • 483 thanks

Gửi vào 12/04/2013 - 17:34

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

kiepsat, on 10/04/2013 - 22:05, said:

quyển sách trên khá hay ! bạn có cuốn phong thủy huyền không của bình nguyên quân không cho mình xin với . ? mình tìm cuốn này khá lâu rồi mà không thấy . xin cảm ơn bạn trước nhá !

Quyển này, bạn có thể liên hệ trực tiếp với tác giả Bình Nguyên Quân, được biết tác giả là hội viên của diễn đàn Tử Vi Lý Số.
Bạn có thể vào google gõ từ khóa tìm kiếm: "Phong Thủy Huyền Không Học" để tìm đến tác giả liên hệ mua sách nhé.

Thanked by 1 Member:

#20 VAV

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 20 Bài viết:
  • 10 thanks

Gửi vào 10/06/2013 - 11:39

rất hay cho câu : " HOA CẢNH CŨNG CÓ LINH HỒN " đọc bài này chơỵ nhớ tới nhân vật LÃO TÀ - HOÀNG DƯỢC SƯ, người đã kết hợp cây hoa đào + kỳ môn độn giáp ,bài trận pháp hư ảo > mà có thể nhốt được đại võ lâm cao thủ LÃO NGOAN ĐỒNG - CHÂU BÁ THÔNG trên hoang đảo suốt mấy mươi năm trời không có lối thoát. thank.

Sửa bởi VAV: 10/06/2013 - 11:44







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |