Jump to content

Advertisements




Suối nguồn yêu thương


58 replies to this topic

#1 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 09/01/2014 - 10:18

TÌM NHAU GIỮA VÔ THƯỜNG

Chúng ta từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay không ai sống mà không có yêu thương.

Đó là tình yêu thương của cha mẹ, anh chị em, thân bằng quyến thuộc và xa hơn nữa là tình người, trong cùng một môi sinh, với những người không quen không biết. Yêu thương với mỗi người không giống nhau, nên việc xác lập và duy trì yêu thương thường không dễ dàng, mong manh và nhiều khi rất dễ vỡ.

Đối diện yêu thương, người ta thường trở nên yếu đuối và bé nhỏ. Vì yêu thương xuất phát từ con tim, từ xúc cảm của tâm hồn nên lý trí khôn ngoan và sự thấu suốt cũng chừng như bất lực. Yêu thương với ngôn ngữ riêng của mình, đó là ngôn ngữ của sự chấp nhận, chịu đựng và đồng điệu trong tâm hồn, lý tưởng sống của hai trái tim yêu.

Khi hữu duyên, cảm mến rồi thương yêu một người, ta thường bị thuyết phục bởi những biểu hiện đáng hay yêu tinh tế mà chúng ta dành cho nhau, bằng những sự rung cảm và đồng cảm nhất định. Dần rồi ta cũng tìm thấy những điểm không giống nhau giữa ta và người ấy, nhưng vì yêu thương ta chấp nhận thay đổi vì nhau. Nhưng đến lúc ta biết rằng có những điều cố hữu - vì duy ý chí hay khách quan - mà người ta không thể thay đổi vì nhau, thì lúc đó người ta phải học cách chịu đựng nhau.

Ông bà ta có câu “Hết tình còn nghĩa” nên người ta càng phải chịu đựng nhau dù rằng có vô số u uất và bất mãn ta dành cho nhau khi đã qua giai đoạn hẹn hò. Cái tình ở đây có lẽ là những đắm say ngọt ngào khó phai ta dành cho nhau vào cái thuở ban sơ của tình yêu. Nghĩa là cái đạo mà ta dành cho nhau, vì ta biết đã thương nhau thì thương luôn cả cái đáng yêu và không đáng yêu của nhau. Đó là cái đạo tình khoan dung cao đẹp dạy người ta biết nhẫn nại và biết sống vì người khác.

Nhờ cái đạo nghĩa ấy, một ngày nào đó người ta sẽ biết được ai là người thương mình, để cùng nhau đi hết cõi trăm năm mà không để sầu hận, buồn thương cho nhau.

Thương thay câu hát: “Đói lòng ăn nửa trái sim - Uống lưng bát nước đi tìm người thương”. Người ta thường bảo, những người yêu nhau rồi sẽ tìm thấy nhau và đến được với nhau dù cho bao nhiêu nghịch cảnh trở ngăn. Đó có lẽ là niềm tin mà những người yêu nhau nuôi dưỡng cho tình yêu chân chính của mình. Ta đi tìm nhau, rồi vỡ òa trong hạnh phúc thấy nhau. Và những tưởng sẽ không gì có thể chia cách tình yêu thương ta dành cho nhau.

Thế nhưng bản thân mỗi người lại là một thể vô thường nên những gì cố hữu nhất trong con người chúng ta đều có nguy cơ thay đổi thì làm sao ta giữ cho những thứ vừa là của mình, vừa không là của mình bất biến với thời gian và mọi sự biến xung quanh.

Một ý chí mạnh mẽ từ bản thể tinh thần mạnh mẽ có thể đối kháng những vô thường tự sanh khởi nơi cá nhân ấy, nhưng cái vô thường của sức khỏe, bệnh tật, hoàn cảnh thì con người chỉ biết đón nhận dù muốn dù không. Con người vô thường, cảnh cõi vô thường nên yêu thương cũng là vô thường. Có yêu thương cũng đồng nghĩa với việc sẵn sàng nhìn yêu thương biến đổi và chuyển hóa thành một dạng thức khác. Hỏi đời mấy ai chấp nhận những điều vô thường mang đến khổ đau? Không ai cả, nên cái thân vốn vô thường càng không thể nào bám víu vào những cái vô thường khác.

Ta biết nhau, hiểu nhau rồi mến nhau và không thể đến với nhau, không phải vì vô thường; mà vì mỗi người chúng ta mỗi lý tưởng, một con đường của riêng mình. Ta không mộng tưởng điều phi thường nhưng ta không thể sống quá bình thường như lẽ thường tình của cuộc đời này. Và lẽ sống ấy, ngay lúc này dù bị trở ngăn nhưng rồi một ngày nào đó, ta sẽ thực sự bước đi trên con đường mà mình mãi ấp ủ, tưởng nghĩ. Thế nên ta chấp nhận ý niệm duyên tan - duyên hợp, dù rằng ta mãnh liệt tin rằng duyên hợp là do con người tạo ra, và duyên tan cũng chính do con người đoạn tận nó.

Dù cố không sống bằng những xúc cảm rất con người, nhưng có khi ta thấy mình yếu đuối. Có lúc ta muốn chạy ngay đến bên người ta thương quý; có khi ta cầm điện thoại lên, viết đầy một tin nhắn rồi lại xóa ngay; có khi ta muốn gọi điện để nghe, để sẻ chia nhưng rồi lại thôi. Vì ta biết những thường tình như thế sẽ cản chân người ta thương quý thực hiện ước mơ của mình. Có những thương yêu ta không dám mang đến cho người ta thương vì những thương yêu ấy là vọng động, là trở duyên.

Nhắm mắt lại, nước mắt có thể rơi, lòng có thể thấy xót xa nhưng ta không thể nào để người ta thương phải tiến thoái lưỡng nan, phải chọn lựa những điều mà họ không bao giờ muốn chọn lựa hay phải quyết định lựa chọn trong bất lực.

Yêu thương bao giờ cũng vậy, không thể so đo hay tính lường. Và yêu thương dù cho đi hay để nhận lại đều có cái giá của nó. Đó không phải là đổi chác, mà đó là sự dâng tặng tự nguyện và vô điều kiện. Và như thế, ta đi tìm nhau, tìm nhau giữa vô thường, để mong thấy nhau không bằng ánh mắt, không bằng cái nắm tay, mà bằng một ý nghĩ về nhau. Tìm nhau giữa cõi vô thường, thấy nhau giữa cảnh vô thường và thương nhau trong tưởng vô thường. Và chính trong vô thường ấy, ta mới biết mình mãi thương nhau…

(giacngo.vn)

#2 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 09/01/2014 - 10:54

ĐỊNH MỆNH VÀ NGHIỆP QUẢ

Một số người tin rằng những diễn biến xảy ra trong cuộc đời đã được an bài sẵn. Khoa chiêm tinh (astrology) tin rằng những diễn biến trên quả địa cầu và tánh tình con người đều bị ảnh hưởng bởi những vị trí ngôi sao trên trời. Nếu ta sanh vào ngày tháng nào đó thì sẽ bị dấu ấn của những vì sao ảnh hưởng lên tánh tình và những diễn biến trong cuộc đời. Những người đó tin rằng ngay khi sanh ra là định mệnh đã an bài rồi, không ai chạy khỏi hết. Thí dụ người tuổi Sửu thì trong cuộc sống sẽ trải qua những năm thuận và năm kị tuổi. Năm thuận và kị như những cái đèn xanh đèn đỏ của đời người. Năm thuận thì gặp đèn xanh nhiều, làm gì cũng êm xuôi và năm kị thì trường hợp ngược lại.

Người đạo Ki tô giáo tin rằng những gì xảy ra cho họ là do ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúa đặt đâu ta ngồi đó. Có người Chúa đặt vào hoàn cảnh giàu sang, còn người khác bị lâm vào hoàn cảnh nghèo đói. Ta không cãi ý Chúa được. Ta cần cầu nguyện để cho Chúa thương xót mà thay đổi hoàn cảnh cho ta. Có thể những hoàn cảnh khó khăn là những thử thách nên ta không nên than trời trách phận. Một số con chiên còn mang mặc cảm tội lỗi là mình đã làm gì khiến Chúa phật lòng nên Ngài mới đặt mình vào hoàn cảnh khổ sở.

Người Phật tử thì tin rằng định mệnh là nghiệp. Mình đang ở hoàn cảnh xấu là do mình tạo nghiệp xấu từ kiếp trước. Mình nên "trả nghiệp" bằng cách chịu đựng một thời gian thì nghiệp sẽ hết. Khi cái nghiệp xảy ra thì mình không thay đổi được. Nhiều người cũng không muốn thay đổi vì e rằng làm như thế nghiệp sẽ nặng hơn. Giống như thiếu nợ thì phải trả cho chủ nợ, cứ khất nợ hoài thì nó chồng chất, mình sẽ trả không nổi. Có nghĩa là mình muốn thoát hoàn cảnh này thì sợ gặp phải hoàn cảnh xấu hơn nữa, như tục ngữ có câu: chạy ông mồ mắc ông mả.

Những người tin hoàn toàn vào định mệnh thì sẽ rất thụ động. Nói đúng hơn họ sợ làm cái gì đó khác hơn để thay đổi hoàn cảnh, nên phải đứng yên cắn răng chịu đựng. Đó là những người rất lo âu trước cái vô định của cuộc sống nên thích tin vào một đường lối đã vạch định sẵn.

Quyền lựa chọn

Khi phân tích kỹ ta thấy rằng khoa chiêm tinh không có đưa ra một định mệnh không thể thay đổi. Con người có quyền chọn lựa ngày tháng tốt để bắt đầu công việc làm ăn quan trọng, chọn lựa chồng hay vợ hạp tuổi để tránh những mâu thuẫn về tánh tình. Ngoài ra dân gian có câu: cái đức thắng cái số. Nếu ta ăn ở hiền lành thì nếu gặp "năm tuổi" thì sự xui xẻo sẽ ít hơn. Ngày nay khoa học hiểu rằng mỗi người chúng ta đều có một nhịp điệu sinh hóa (bio rhythm) thay đổi theo sức hút các ngôi sao. Ở phụ nữ, chu kỳ kinh nguyệt có nhịp điệu sinh hóa thấy rõ. Khi ta bắt đầu công việc quan trọng vào thời điểm nhịp sinh hóa cao thì dễ thành công hơn. Tuy nhiên ảnh hưởng của nhịp sinh hóa không đáng kể so với ảnh hưởng của ý định (intention). Ngay khi ta ở giai đoạn nhịp sinh hóa cao mà có ý định xấu (tham lam, hờn giận) thì ý định sẽ làm biến đổi nhịp sinh hóa theo chiều xấu.

Đạo Ki tô cũng thế, đề cao sự chọn lựa và ý định tốt. Chúa Jesus không lên án người đàn bà ngoại tình bị dân làng muốn chọi đá cho chết, như người dân làng thường tin là định mệnh của những người đàn bà ngoại tình. Ngược lại Chúa khuyên dân làng hãy dừng lại và có những lời khuyên đề cao sự tha thứ. Chúa khuyên chúng ta nên có ý định tốt và chọn lựa sự tha thứ để thoát khỏi định mệnh an bài. Khi hiểu được ý nghĩa câu chuyện này thì ta thấy rõ rằng ta có quyền chọn lựa 2 con đường: con đường buộc tội và con đường tha thứ. Con đường buộc tội là con đường của định mệnh: ta buộc tội và bị người khác buộc tội lại. Con đường tha thứ là con đường của giải thoát.

Nghiệp trong Phật giáo cũng là một sự chọn lựa. Ta có quyền chọn lựa tạo dựng cơ sở của những nghiệp tốt, như cố gắng học hành để giúp ích xã hội. Ta có quyền chọn lựa nghiệp xấu như hút sách và rượu chè, như thế ta đạp phá những tiềm năng tốt. Thí dụ như uống rượu đến xơ gan làm sức khỏe suy tổn. Thoạt đầu ta có sự tự do chọn lựa nhưng nếu ta chọn con đường rượu chè, xì ke ma túy thì dần dần khả năng chọn lựa của ta bị mất dần. Khi bị nghiện rồi thì ta hoàn toàn mất sự tự do chọn lựa và trở thành nô lệ cho những thói quen xấu này. Những căn bệnh hiểm nghèo kéo đến làm khả năng thay đổi cuộc sống càng khó hơn gắp ngàn lần.

Thế nào là nghiệp?

Nghiệp (karma) không có gì huyền bí hết, nghiệp là tác động của những động lực. Động lực đó có thể ở dạng thân, khẩu hay ý. Bất kỳ lực (force) nào cũng gây ra phản lực (counter force). Cái mục đích của lực và phản lực là để trở lại điểm yên tịnh ban đầu (initial stillness). Thí dụ như con lật đật, ta đẩy nó qua bên phải thì nó bật trở về bên trái. Cuối cùng là nó đứng yên một chỗ. Sự đứng yên một chỗ có thể coi là niết bàn hay thiên đàng vì nó tượng trưng cho trạng thái bình thản, không căng thẳng đau khổ.

Nói về cường độ của phản lực thì trên thế giới vật chất ta có: ý nghĩ yếu hơn lời nói, và lời nói yếu hơn hành động. Thí dụ phản ứng của ta trước lời phê bình mà ta không thích: ta chửi thầm người ta ghét (ý) hậu quả ít hơn là ta la lối chửi người đó trong buổi tiệc (khẩu). Hậu quả của lời chửi bới ít hơn là hậu quả ta nhảy lại đánh người đó bầm mình (thân).

Xã hội chỉ có hình phạt khi ta làm chấn thương người khác, còn tôn giáo thì muốn khuyên ta nên trị tận gốc nghiệp dữ bằng cách dừng suy nghĩ giận dữ lại. Khi ý khởi dậy thì nó tạo một tiềm năng hành động (potential of action) rồi. Thí dụ nói theo phàm tục, khi cái ý ghét đã khởi dậy rồi thì ta muốn chửi cho đã miệng. Chửi thầm thì ngủ không được. Nhưng khi chửi bằng miệng mà bị đối phương chửi lại thì ta càng tức hơn. Nếu ta dằn không được đi đánh lộn đến bị thương tích hay bị bỏ tù, về nhà lại càng tức hơn nữa. Như thế mà ta cứ tạo nghiệp thân-khẩu-ý thành một chuỗi lực và phản lực (chain of action and reaction).

Sở dĩ chiến tranh trên thế giới xảy ra liên tục là vì con người không có đời sống tâm linh, dùng sự giết chóc để mong cầu trở về chỗ yên tịnh ban đầu. Người lính cảm tử quân Hồi giáo có cái ảo tưởng rằng khi giết chết kẻ thù ngoại đạo họ sẽ được sống trên thiên đàng, có nghĩa là trở về chỗ yên tịnh ban đầu. Đó là sự lầm lẫn vô cùng tai hại vì khi họ tạo một động lực căm thù thì sẽ để lại cái phản lực căm thù, như thế cứ lưu truyền mãi không ngừng trên thế gian từ thế hệ này qua thế hệ kia.

Tuy nhiên nghiệp lực, khác như dân gian nghĩ, là khi kiếp trước ta lỡ ăn trộm người nào đó 10 đồng thì kiếp này ta phải trả lại 10 đồng chẵn. Trên phương diện tâm linh, cái điểm yên tịnh ban đầu có được không phải khi ta trả lại 10 đồng mà khi ta nhận thức ta nên vui lòng bỏ qua khi bị người khác giựt tiền rồi thực hiện được điều đó. Khi đọc những thí dụ của nhà soi kiếp E. Cayce thì ta thấy rằng chỉ có sự vui lòng bỏ qua thì con người mới "trả" được cái nghiệp.

Nói một cách khác, sở dĩ ta mang cái nghiệp (bị phản lực/quả) vì ta không nhận thức được những đau khổ mà ta đã tạo ra cho người khác (lực đã tạo/nhân), nên cái nghiệp nó xảy ra khiến ta bị đau khổ để ta thông cảm nỗi khổ của người kia. Lúc có sự thông cảm thì lực và phản lực sẽ trung hòa với nhau. Nhưng nếu trong đau khổ, ta lại thù người đó thì sanh thêm cái nghiệp nữa, và như thế sẽ tạo ra cái vòng lẩn quẩn mà Phật gọi là bánh xe luân hồi.

( còn tiếp )

Bác sĩ Thái Minh Trung

Sửa bởi hongtiem: 09/01/2014 - 10:55


#3 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 09/01/2014 - 11:02


Định mệnh và nghiệp quả

( tiếp theo)


Tha thứ là giải thoát khỏi định mệnh

Hiểu được lực nhân quả tương tác ở nội tâm thì ta mới hiểu được tại sao các vị lãnh tụ tôn giáo kêu gọi sự tha thứ. Nếu không có tha thứ thì không ai có thể trở về cái vị trí an lạc ban đầu được. Ý nghĩa cứu thế của Chúa Jesus là Ngài tự nguyện tha thứ những người hại Ngài, như một gương sáng giúp nhân loại vượt qua được sự vay trả đời đời của hận thù. Thù qua ghét lại có thể coi như là tội nguyên thủy của loài người. Tha thứ mới là phép mầu nhiệm thật sự. Phép mầu này ít ai nhận thấy được vì nó trong sáng trong sự khiêm nhượng tột bực chớ không phải là sự màu mè hào nhoáng của Superman hay điệp viên 007 làm được những điều phi thường.

Hiểu như thế Chúa cứu thế không đến với ta từ hành tinh khác mà Chúa sẽ hiện diện trong chính ta nếu ta thực hiện được sự tha thứ trong đời ta. Khi sống trong khiêm nhượng và tha thứ thì ta như con nhộng xé được cái vỏ của ngạo mạn để trở thành con bướm muôn màu. Ta không đợi đến khi chết mới được Chúa rước. Khi ra khỏi được cái vỏ của ngạo mạn thì ngay trong giây phút đó ta thấy Chúa hiện diện trong lòng ta.

Phật thì khuyên ta nên hỷ xả, có nghĩa là bỏ qua trong sự vui vẻ. Ở dưới biển, có một loài cua thích sống trong vỏ sò (hermit crab), khi cua lớn lên thì nó phải vui vẻ bỏ cái vỏ sò nhỏ để tìm cái lớn hơn chọn làm nhà. Hỷ xả cũng như thế, là từ bỏ sự nhỏ mọn để nhìn thấy sự rộng lượng. Hỷ xả là một phương pháp trị cái bịnh của ngã (cái tôi). Nếu ta cứ bám vào tiền tài, sắc đẹp, danh lợi thì cái lòng tham và sân của ta càng ngày càng lớn. Khi cảm thấy ta được càng nhiều (sở đắc) thì ngạo mạn càng tăng theo. Sự đời vô thường làm cho ta không bao giờ giữ được mãi mãi những gì mình muốn vì thế lòng tham ngày càng tăng trưởng. Khi có ai tước đoạt những gì ta đang được thì ta sanh lòng bực tức sân hận.

Tham và sân là nguyên nhân chính của lo âu. Tham có thể hiểu theo nghĩa rộng là muốn đem về cho ta vì sợ để lâu thì ta sẽ hết được phần lợi đó. Sân là sự bực bội khi gặp hoàn cảnh nghịch ý ta. Bề mặt bạo động của sân là chửi bới đánh lộn, còn mặt thụ động là "tự ái", hờn dỗi để bụng. Bụt dạy ta nên thấy cái vô thường của cuộc đời để lúc được thì không tham và lúc mất thì không sân. Ta phải tập hạnh hỷ xả thì mới phát triển từ bi được. Ta không thể nào thương được người mà ta không tha thứ!

Tại sao tôn giáo nào cũng khuyên con người bố thí? Ta có thể hiểu tham, sân, si trên lý thuyết nhưng chỉ có hành động thực hiện sự ban cho mới giúp ta nhận thức rõ những hạn chế của ta. Thí dụ như khi cho mà ta thấy còn quyến luyến vật ta muốn cho thì lúc đó mới chợt nhận ra mình còn lòng ham muốn. Khi bớt lòng ham muốn đem về cho mình rồi thì mình mới thông cảm kẻ khác được. Đây là cách bố thí nhận thức của người có căn cơ cao. Người căn cơ thấp thì áp dụng bố thí trao đổi chớ không phải bố thí nhận thức. Bố thí trao đổi là bố thí để được hưởng phước lộc. Ta cho để lấy lòng đấng nào đó mà ta thờ phụng. Ta bố thí để được Chúa hay Phật ban phước lành hay phù hộ. Chỉ có bố thí nhận thức mới giúp ta phát triển tâm linh được.

Thực tập tâm tĩnh lặng

Làm người ai cũng muốn thay đổi cuộc sống cho nó tốt đẹp hơn. Khi thay đổi không được hay không dám thay đổi thì ta đổ thừa cho số phận hay định mệnh. Hoàn cảnh rất khó thay đổi khi ta duy trì tập quán, thói quen cũ. Nếu ta bị tiểu đường mà không chịu bỏ cái sở thích ăn đồ béo ngọt (tham) thì bịnh làm sao mà hết được. Một số người thì mong có phép lạ để được cứu khỏi hoàn cảnh khổ. Có nghĩa là họ muốn ăn cho ngon miệng sau đó thì cầu xin phép lạ không bị tiểu đường. Nếu phép lạ không đến thì họ sẽ có hai phản ứng. Phản ứng thứ nhất là mất hết niềm tin ở một đấng nào đó mà họ tin tưởng. Thí dụ người công giáo mất niềm tin ở Chúa cứu thế, còn phật tử thì mất niềm tin nơi Phật Bà Quan Âm hay Phật A Di Đà. Phản ứng thứ hai là mang mặc cảm tự ti vì một số người nghĩ rằng họ bị tội nhiều quá hay nghiệp nặng quá nên không được cứu rỗi.

Nói về sân hận, khi ta không thay đổi ý mà ráng kềm chế miệng lưỡi hay thân thể thì mặc dù ta không tạo nghiệp dữ nhưng cảm thấy rất khổ sở, gò bó khó chịu. Khi ta nuôi dưỡng những suy nghĩ bực bội sân hận chắc không có phép lạ nào giúp cho ta an tâm để ngủ ngon được. Nói theo nhân quả, ta tạo một động lực nhân thì cái phản lực quả sẽ núp chờ đâu đó. Rồi sự căng thẳng nội tâm ngày càng tăng dần đến một lúc ta hết đè nén nổi và gây ra nghiệp qua lời nói hay hành động. Đó là lúc cái phản lực xảy ra ngoài thế giới vật chất để làm dịu bớt cái lực tư tưởng của sân hận đang bị đè nén. Tuy nhiên đa số không trở về được cái trạng thái yên tịnh an lạc ban đầu vì lý do dễ hiểu là khi ta chửi mắng người ta ghét thì có bao giờ họ chịu để cho ta yên thân đâu. Sớm muộn gì họ sẽ tìm cách trả đũa. Đó là cái vòng lẩn quẩn của nghiệp vay trả.

Tâm lý học cho ta thấy rõ sự lý luận và tranh luận không làm giảm được tham và sân. Khi lý luận ta hiểu được mọi chuyện nhưng những hiểu biết đó không có khả năng thăng hoa (sublimation) được tham và sân thành những tình cảm tốt đẹp hơn. Đôi khi tranh luận đúng sai nhiều còn tạo thêm sân nữa. Những nghiên cứu chụp hình não bộ cho ta thấy rằng khi lý luận ta chỉ xài vỏ não bộ (cortex) và không liên kết được với những miền sâu hơn trong não bộ, nơi tình cảm xuất phát. Hiện tượng này phân tâm học gọi là hợp lý hóa (rationalization). Khi ta dùng lăng kính hợp lý hóa trong cuộc sống thì dễ sanh ra thành kiến chia rẽ con người. Thí dụ ta nghĩ màu đen là màu của tội lỗi vì thế người da đen là kẻ xấu.

Chỉ có khi ta tập tâm tĩnh lặng thì ta mới có khả năng hiểu qua sự cân bằng của trí tuệ và tình cảm. Cái hiểu này toàn diện hơn là cái hiểu qua suy luận. Suy luận thường hay trừu tượng và chỉ giúp ta hiểu được một khía cạnh nhỏ của cuộc đời. Những bậc thánh nhân đều phải trải qua giai đoạn thực tập tâm tĩnh lặng rồi mới thấy được ánh sáng của chân lý. Chúa Jesus đã vào sa mạc để cầu nguyện trong tĩnh lặng. Chỉ khi Ngài cảm nhận được ánh sáng của Thượng Đế thì Ngài mới đủ can đảm chịu cái chết đau đớn trên thập tự. Đức Phật Thích Ca đã ngồi với tâm tĩnh lặng dưới cây bồ đề 49 ngày. Nhờ thế Ngài mới hiểu được ý đồ lừa bịp của ma vương Maya, chiến thắng ma vương và giác ngộ được chân lý. Có lẽ lúc Phật còn tại thế, người dân thời đó có nhiều mê tín trong việc tôn thờ nên Bụt gọi Ánh sáng chân lý là Phật tánh chớ không gọi là Thượng đế. Hiểu theo Phật giáo, Thượng đế không phải là Cha mà là Chân lý tối cao.

Hiểu bằng ý thức khi tâm tĩnh lặng rất khác với cái hiểu của suy nghĩ. Những nghiên cứu đo điện từ não bộ (EEG) cho thấy rằng khi tâm tĩnh lặng thì những làn sóng não thay đổi rõ rệt, từ dạng sóng (beta waves: 15- 45 Hz) trở thành dạng sóng (alpha waves: 8-12 Hz) và (theta waves: 3-7 Hz). Sóng thường thấy ở những người suy nghĩ lăng xăng, còn sóng và được thấy khi ta thư giãn. Sóng còn được gắn liền với khả năng sáng tạo. Hình fMRI scan cho thấy khi tâm tĩnh lặng, máu dồn về những vùng của não bộ tạo cảm giác thoải mái hạnh phúc và có sự liên kết hài hòa giữa vỏ não và những vùng sâu hơn của não. Nói một cách khác, tâm tĩnh lặng đồng bộ hóa (synchronize) nhiều vùng trong não bộ giúp ta liên kết được nhiều mạch thần kinh và nhờ đó mà mở rộng tầm nhận thức ra.

Tóm lại

Định mệnh có hay không là do ta. Khi ta biết tập những phương pháp mở rộng nhận thức tâm linh thì cái khả năng ta thay đổi cuộc đời rất cao. Nếu ngược lại ta thụ động đổ thừa cho số mạng hay ngồi đó chờ một phép lạ xảy ra thì lúc đó định mệnh có thật vì ta không tận dụng khả năng thay đổi cuộc sống của ta. Nói một cách khác, nếu ta tin có ma thì sẽ gặp ma, ta tin có Phật hay Chúa thì sẽ gặp những đấng mà ta tin.

Nếu có người ở trình độ thấp thì tin vào định mệnh cũng có cái lợi của nó là lòng tin đó giúp họ chấp nhận những biến cố xấu và trải qua những đau khổ cuộc đời dễ dàng hơn. Họ không than trời trách phận hay sanh lòng ganh ghét hoặc hận thù vì "đó là số mệnh của mình".

Tuy nhiên nếu ta có trình độ cao thì nên tập những phương pháp giúp tâm tĩnh lặng vì đó là phương pháp nhanh và gọn để "chuyển nghiệp" dẫn ta đến hạnh phúc ngay trong đời này. Phương pháp này cũng giúp ta hiểu các tôn giáo một cách sáng tạo chớ không kẹt vào chữ nghĩa văn tự nữa.

Bất kỳ độc giả ở tôn giáo nào, khi mỗi người trong chúng ta phát triển được ý thức tâm linh qua tâm tĩnh lặng thì ý thức này sẽ cộng hưởng với nhau. Rồi một ngày nào đó nó sẽ trở thành ý thức tâm linh cộng đồng (collective spiritual consciousness) làm xoay chuyển xã hội vật chất. Chúng tôi hy vọng sẽ có một ngày ý thức tâm linh cộng đồng sẽ phát triển đến độ mà con người sẽ nhận thức rằng những tôn giáo đều hướng về một con đường chung: đó là con đường tâm linh (spiritual way). Lúc đó con người sẽ sống hạnh phúc an bình ở một kỷ nguyên mới.

Bác sĩ Thái Minh Trung

#4 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 11/01/2014 - 08:59

TÌNh YÊU THEO QUAN ĐIỂM NHÀ PHẬT

- Này người trẻ, bạn có biết Phật dạy như thế nào về tình yêu? Tôi đã may mắn tham dự một buổi pháp thoại của Thiền sư Nhất Hạnh về tình yêu: mối quan hệ giữa yêu thương và hiểu biết, tình yêu từ bi hỉ xả, tình yêu và tình dục. Ông gọi đó là “yêu thương theo phương pháp Phật dạy”.
Trước khi bắt đầu bài thuyết pháp của mình tại Tổ Đình Trung Hậu - Vĩnh Phúc, Thiền sư Nhất Hạnh đã mời các bạn trẻ ngồi lên trên, để có thể nghe thật rõ. Ông muốn nói về tình yêu, bản chất tình yêu nhìn từ góc độ Phật giáo.

Miệng mỉm cười, ông đã kể một câu chuyện tình yêu, giản dị thôi nhưng hàm ý sâu sắc: Có một chàng trai ở vùng California - Mỹ, rất đẹp trai, học giỏi, tốt nghiệp một trường đại học nổi tiếng, có nhiều bạn gái xinh đẹp. Chàng trai sống với mẹ, người mẹ biết trong các cô gái ngưỡng mộ con mình, có một cô gái không xinh nhất, cô không trắng, không cao lắm nhưng được chàng trai đặc biệt chú ý. Ngạc nhiên, người mẹ hỏi con trai: Vì sao con lại thích cô gái ấy, cô ta đâu có gì nổi bật?Cô ấy hiểu con - chàng trai trả lời đơn giản.

Chàng trai học ngành công nghệ thông tin nhưng rất hay làm thơ. Mỗi lần chàng đọc thơ, cô gái nọ lắng nghe rất chăm chú và có những nhận xét sâu sắc, trong khi những cô gái xinh đẹp kia không để ý gì đến. Chàng trai đã chọn người yêu không vì vẻ đẹp bề ngoài, mà bởi sự lắng nghe và thấu hiểu.

“Đạo Phật cũng dạy như vậy, có hiểu mới có thương, tình yêu phải làm bằng sự hiểu biết”, Thiền sư kết luận.

Muốn thương phải hiểu

Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ. Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc. Không hiểu, không thể thương yêu đích thực. Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu.

Mỗi người có những nỗi niềm, những khổ đau, bức xúc riêng, nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt, khổ đau. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời.

Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thưòng xảy ra.

Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ “đói” thương, “đói” hiểu. Họ thơ thẩn, lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó.

Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình.

Chọn người hiểu và thương mình - hãy nhớ - đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời.

Bốn yếu tố của tình yêu: Từ bi hỉ xả

Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả.

“Từ” là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày.

“Bi” là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.

Như vậy, “từ bi” theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. “Từ bi” trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải “tu tập”. Cần nhiều thời gian, để quan sát, để lắng nghe, để thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.

“Hỉ” là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.

“Xả” là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/ anh, em/ anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc.

Này người trẻ, bạn nghĩ về tình yêu của mình đi, có “từ bi hỉ xả không”? Bạn hãy can đảm tự hỏi mình rằng “Người yêu ta có hiểu niềm vui nỗi khổ của ta không? Có quan tâm đến an vui hàng ngày của ta không? Người ấy có nâng đỡ ta trên con đường sự nghiệp không?...” Và tự hỏi lại mình, liệu bạn có đang thành thực với tình yêu của mình?! Liệu tình yêu của bạn đã đủ “từ bi hỉ xả”?!

Tình dục và tình yêu

Phật giáo quan niệm như thế nào về tình dục trong tình yêu? Không phải ngẫu nhiên mà vị thiền sư tôi được hạnh ngộ bắt đầu vấn đề này bằng cách bàn về “thân tâm” trong truyền thống văn hoá Á Đông.

Trong truyền thống văn hoá ta, thân với tâm là “nhất như”, tức là nếu ta không tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu nhau là giữ gìn cho nhau, kính trọng nhau. Khi sự rẻ rúng xem thường xảy ra thì tình yêu đích thực không còn.

Thân thể ta cũng như tâm hồn ta. Có những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn, chúng ta chỉ chia sẻ với người tri kỉ. Thân thể ta cũng vậy, có những vùng thiêng liêng và riêng tư, ta không muốn ai chạm tới, ngoài người ta yêu, ta tin, ta muốn sống trọn đời, trọn kiếp.

Trong tình yêu lớn và cao quý, bất cứ lời nói và cử chỉ nào cũng phải biểu lộ sự tương kính. Người con trai phải tôn trọng người con gái mình yêu, cả thân thể lẫn tâm hồn. Người con gái biết giữ gìn, cũng là biết làm người yêu thêm tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau.

Bạn muốn thương yêu theo phương pháp Phật dạy chăng? Hãy hiểu, thương và tương kính người yêu của mình, cũng chính là đem hạnh phúc đến cho người và cho mình vậy!
(Dân trí)

Sửa bởi hongtiem: 11/01/2014 - 09:00


Thanked by 3 Members:

#5 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 09:19


BẢN CHẤT HÔN NHÂN THEO TINH THẦN PHẬT GIÁO


Đại Đức Thích Thiện Minh dịch


- Hôn nhân - Vấn đề lớn của con người

Hôn nhân và gia đình cũng là một vấn đề lớn được Phật Thích Ca giảng dạy trong kinh điển. Giáo lý của ngài mặc dù đặt trọng tâm trên nền tảng giải thoát, xuất ly thế gian, nhưng đệ tử của ngài đa phần còn đời sống tại gia, vì thế cho nên ngài phải có bổn phận giảng dạy cho họ sống đúng theo chánh pháp để có hạnh trong gia đình.

Trước khi thành Phật, ngài cũng phải trải qua một đời sống thế tục, có vợ, có con và ngài đã làm tròn bổn phận đối với họ. Ngài sống rất hạnh phúc với Da Du Ðà La, chưa bao giờ ngài làm cho hiền thê phiền lòng và ngược lại. Khi xuất gia thành chánh quả ngài trở về hoàng cung tiếp độ phụ hoàng, hiền thê và con thơ giác ngộ chánh pháp của chư Phật. Ðây là một món quà vô tiền khoáng hậu mà chưa có một người con, người chồng, người cha nào trên thế gian này thực hiện được.

Bản chất của tình yêu không phải là một chuyện xấu. Trong giáo lý của Ðức Phật, ngài không có bác bỏ vấn đề nam nữ yêu nhau, nhưng ngài dạy từ lúc yêu thương đến lúc chung sống nhau phải phù hợp với đạo lý của con người. Ngài dạy người nam và người nữ sống bên nhau phải có hạnh phúc. Hạnh phúc theo giáo lý của nhà Phật là phải có 5 giới và đồng thời ngài dạy người chồng phải có 5 bổn phận đối với người vợ, người vợ cũng vậy.

-Hôn nhân là bổn phận trong cuộc sống đời thường

Theo quan điểm nhà Phật, hôn nhân không phải là thánh thiện cũng không xấu xa. Phật giáo không xem hôn nhân như là một bổn phận tôn giáo mà cũng không phải một lễ ban phước được an bài nơi cõi Trời. Người bi quan nói rằng trong lúc một số người tin rằng hôn nhân là do trời sắp đặt, những người khác lại nói nó cũng đã được ghi vào sổ ở cõi Âm ty địa ngục! Hôn nhân là một bổn phận cá nhân và xã hội, nó không phải là bắt buộc. Người đàn ông hoặc người phụ nữ có quyền tự do kết hôn hoặc ở độc thân. Ðiều này không có nghĩa là Phật giáo chống lại hôn nhân. Không ai trên thế gian này nói hôn nhân là điều tồi tệ, cũng chẳng có tôn giáo nào chống lại hôn nhân.

Thực tế, tất cả mọi sinh vật thành hình là do kết quả của đời sống tình dục. Giữa nhân loại, tập tục hôn nhân đã xảy ra, qua đó xã hội loài người đảm bảo được sự tồn tại và mặc nhiên lớp trẻ cần được quan tâm chăm sóc. Sự kiện này dựa trên sự tranh cải cho rằng trẻ con được sanh ra do bởi dục lạc, chắc chắn cha mẹ chúng phải có trách nhiệm giáo dưỡng, ít nhất cho tới khi chúng trưởng thành. Và hôn nhân đảm bảo rằng trách nhiệm này cần được hậu thuẫn và thực thi.

Một xã hội phát triển qua một mạng lưới của những mối quan hệ có mối liên kết và hỗ tương lẫn nhau. Mỗi mối quan hệ là một sự cam kết chân thành để hỗ trợ và bảo vệ những người khác trong một nhóm hoặc một cộng đồng. Hôn nhân đóng một vai trò quan trọng trong mạng lưới của những mối quan hệ đem lại sự hỗ trợ và bảo vệ. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp cần phải nuôi dưỡng và phát huy dần dần từ sự hiểu biết chứ không phải bốc đồng, từ lòng chân thành thật sự chứ không phải là sự thỏa mãn nhất thời. Tập quán hôn nhân mang lại một nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển văn hóa, một sự kết hợp đầy thú vị giữa hai cá nhân được chăm sóc và thoát khỏi cô đơn, mất mát và sợ hãi. Trong hôn nhân, người này phát huy một vai trò kết hợp hài hòa, đem lại sức mạnh và dũng khí cho người kia, mỗi người thể hiện sự nhận thức đầy thông cảm và giúp đỡ người khác trong việc chăm sóc và cung cấp cho gia đình. Ðừng có ý tưởng cho là đàn ông hoặc đàn bà là kẻ trên, kẻ dưới, người này kết hợp hài hòa với người kia, hôn nhân là một sự kết hợp bình đẳng, dịu dàng, bao dung, và an vui.

Trong nhà Phật, người ta có thể tìm thấy tất cả những lời khuyên cần thiết để người ấy có thể sống một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Mọi người đừng bỏ qua lời dạy của đấng Giác Ngộ nếu thật sự muốn có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Trong những bài pháp của ngài, Ðức Phật có nhiều lời dạy khác nhau cho những cặp vợ chồng và cho những ai đang có ý định lập gia đình. Ðức Phật đã dạy rằng: "Nếu một người đàn ông có thể tìm được một người vợ, người phụ nữ thích hợp và hiểu biết và người phụ nữ có thể tìm được một người đàn ông thích hợp và hiểu biết, cả hai thật sự là may mắn."

Qua những gì đã chứng nghiệm về tình cảm mà người nam và người nữ dành cho nhau, Ðức Phật dạy rằng Ngài chưa bao giờ thấy bất cứ đối tượng nào trong thế gian này lại thu hút sự chú ý của người nam hơn là hình ảnh người nữ.

- Phát khởi tình yêu chân thật

Có nhiều khuôn mẫu tình yêu khác nhau, và chúng được thể hiện khác biệt nhau như tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh đệ, tình cảm, tình dục, tình yêu vị kỷ, và tình yêu vô lượng.

Nếu người ta chỉ phát huy tính nhục dục hoặc tình yêu ích kỷ đem lại cho người khác thì loại tình yêu này không thể bền vững. Trong mối quan hệ thương yêu chân thật, một người chồng chỉ quan tâm tới những khía cạnh tình yêu xác thịt, luôn nghĩ đến một người phụ nữ trẻ đẹp hơn. Loại tình yêu đó là tình yêu của lòng tham dâm.

-Tình yêu cần được phát khởi một cách chân thành

Nếu một người đàn ông thật sự phát huy tình yêu như là một sự biểu hiện mối quan tâm của con người với một con người, người này sẽ không đặt nặng vẻ đẹp bên ngoài và sự thu hút về thể xác của người phối ngẫu của mình. Vẻ đẹp và sự hấp dẫn của người phối ngẫu sẽ ở trong trái tim và tâm (hồn) của người bạn đời. Người vợ theo giáo pháp Ðức Phật thì họ sẽ không bao giờ bỏ bê người chồng của mình thậm chí khi anh ta già cả, nghèo khó hoặc bệnh tật.

"Tôi có một nỗi lo sợ rằng một cô gái tân thời muốn trở thành nàng Juliet để có một tá chàng Romeo. Cô ta thích phiêu lưu trong tình yêu ... Người con gái tân thời mặc quần áo không phải để bảo vệ thân thể khỏi nắng mưa, gió rét, nhưng để thu hút sự chú ý. Cô ta nâng cao bản chất bằng cách tô điểm thân xác và trông có vẻ khác thường." - (Gandhi)

-Tình dục - Một biểu hiện của tình yêu

Bản thân tình dục không phải là "xấu xa". Nhưng sự cám dỗ và tham ái của nó đã quấy rầy sự an lạc của tâm, và như thế không dẫn đến sự phát triển tâm linh. Trong tình huống lý tưởng, tình dục là kết quả của một mối quan hệ tình cảm sâu sắc, ở đây cả hai bên cho và nhận bình đẳng.

Khi một con thú hoang muốn tình dục, nó tỏ "tình yêu" của nó, nhưng sau khi thỏa mãn tình dục, nó liền quên đi cái "chữ tình". Ðối với loài thú, tình dục chỉ là bản năng cần thiết đưa đến sự sinh sản. Nhưng con người có nhiều hơn để dâng hiến trong khái niệm của tình yêu. Bổn phận và trách nhiệm là những thành phần quan trọng để duy trì sự hài hợp, đoàn kết , và hiểu biết trong một mối quan hệ giữa nhân loại.

Tình dục không phải là thành phần quan trọng nhất đối với hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân. Những người đã trở thành những kẻ nô lệ cho tình dục chỉ làm tan mất tình yêu và lòng nhân đạo trong hôn nhân. Ngoài điều đó ra, người phụ nữ phải ngừng ngay ý nghĩ xem mình như là một món đồ vật của lòng ham muốn của người đàn ông. Biện pháp khắc phục này nằm trong tay của phụ nữ hơn của người đàn ông. Cô ta phải từ chối việc trang điểm, cải tạo bản thân quá mức chỉ để làm hài lòng người đàn ông, ngay cả người chồng mình. Nếu cô ta muốn trở thành một người bình đẳng với một người đàn ông. Cô ta phải làm sao để giá trị của mình được giữ nguyên bản sắc, củng cố và nâng cao, và không bị trở thành một biểu tượng tình dục. "Hôn nhân luôn chỉ cốt để thỏa mãn lòng ham muốn thì không phải hôn nhân. Nó là tính dục." - ( Gandhi )

Thật sự tình yêu là sản phẩm của tình dục, nhưng điều trái ngược tương tự đúng như vậy: Tình dục là một biểu hiện của tình yêu. Trong cuộc sống hôn nhân hạnh phúc lý tưởng, cả tình yêu lẫn tình dục không thể tách rời nhau.

Qua những gì đã chứng nghiệm về những tình cảm mà người nam và người nữ dành cho nhau, Ðức Phật dạy rằng ngài chưa bao giờ thấy bất cứ đối tượng nào trong thế gian này lại thu hút sự chú ý của người nam hơn là hình ảnh người nữ. Cùng lúc ấy sự thu hút chính đối với người phụ nữ là hình ảnh người nam. Theo tự nhiên có nghĩa là, người nam và người nữ đem lại cho nhau lạc thú trần tục. Họ không thể đạt được hạnh phúc này ở những đối tượng khác. Khi chúng ta quan sát cẩn thận, chúng ta nhận thấy rằng trong tất những sự việc đem lại khoái lạc, không có đối tượng nào khác có thể làm thỏa mãn ngũ căn cùng một lúc ngoài hình ảnh của người nam, và người nữ.

Người Hy Lạp cổ đã biết được điều này khi họ nói rằng, khởi thủy của người nam và người nữ là một, họ bị tách rời và hai phần được chia sẻ ra đó liên tục tìm kiếm để tái hợp lại.

Theo tự nhiên, ngoài bổn phận, trách nhiệm lao động, học tập, làm việc hàng ngày những người trẻ tuổi thích được hưởng thụ những niềm lạc thú trần tục mà chúng có thể là những điều tốt lẫn xấu. Những điều tốt như là thưởng thức âm nhạc, thi ca, khiêu vũ múa hát, thức ăn ngon, mặc đẹp... và những theo đuổi tương tự thật sự không gây nguy hại cho cơ thể. Chúng chỉ làm cho chúng ta xao lãng không thấy được bản chất mong manh và bấp bênh của sự hiện hữu vật chất và do đó làm cho con người chúng ta không thể cảm nhận được bản chất thật của bản Ngã.

Ngũ quan và những cảm giác của người trẻ tuổi hết sức nhạy bén và tinh anh, họ rất thích được thỏa mãn ngũ căn. Hầu như mỗi ngày, họ dự tính và suy nghĩ về những phương cách để thỏa mãn dục lạc, lòng tham. Bởi chính ngay bản chất của cuộc sống, người ta chẳng bao giờ hoàn toàn thỏa mãn với bất cứ những khoái lạc mà chúng ta đã trải qua và kết quả bởi ham muốn đã liên tục chỉ tạo nên những sự khắc khoải và lo âu.

Khi một người không còn khát khao dục lạc và không tìm kiếm sự thoải mái xác thân cùng với người khác phái. Nhu cầu lập gia đình không còn phát sinh. Khổ và lạc thú trần tục cả hai là kết quả của lòng ham muốn, chấp thủ và cảm xúc. Nếu chúng ta cố gắng kiểm soát và đè nén những cảm xúc của mình bằng cách bắt chước những phương sách xa rời thực tế, không thành thực với bản thân thì chúng ta chỉ tạo nên những băng hoại trong thâm tâm của mình, nhấn chìm bản thân trong sự khổ đau, mâu thuẫn. Do đó, chúng ta phải biết làm cách nào để điều khiển và kiểm soát sự đam mê dưới biểu hiện của Tính dục trong con người chúng ta. Không cư xử tệ bạc hoặc sử dụng sai trái sự đam mê này, chúng ta có thể huấn luyện, chuyển hoá lòng tham, nhu cầu, ham muốn vật dục của chúng ta nhờ vào nội lực của bản thân cùng với sự hiểu biết đúng đắn.
( GiacngoOnline)

Thanked by 5 Members:

#6 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 14/01/2014 - 10:50

ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN

có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

Nguyễn Trọng Tạo - 1992



Sửa bởi hongtiem: 14/01/2014 - 11:16


#7 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 15/01/2014 - 11:20

NÓI VỚI CON CUỐI NĂM

Tác giả: Lưu Quang Vũ

Sông chiều ngút khói
Gió rạp mình cả dại
Sau lưng Hà Nội sương mờ
Thành phố vừa trải qua
Những trận bom hủy diệt
Lòng cha giờ dập nát
Những xác người máu loang
Biết nói gì với con
Đôi mắt trẻ đen tròn ngơ ngác thế
Cuộc chiến đã mấy chục năm trời
Con mới gần ba tuổi
Tia nắng sớm mong manh chùm lá mới
Đêm của đời gió bão đã dài lâu
Con bi bô với bàn ghế cỏ cây
Tập gọi tên các sự vật trên đời
Tập tin lời người lớn
Cha làm sao nói được
Những khổ đau lầm lạc trên đường
Các ác đen xì trong mỗi quả bom
Mang mặt đẹp nói cười khôn khéo
Con hát ngọng nghịu
“vịt dắt tay gà đi chơi”
Áp trán vào gò má thơ ngây
Cha bỗng thấy chẳng còn gì đáng sợ
Cha dạy con mến thương tất cả
Rồi tự con sẽ biết căm thù
Cha dạy con tin yêu từ ngọn cỏ
Rồi mai sau con sẽ nghi ngờ
Con sẽ trả lời những câu hỏi đời cha
Con cũng sẽ đặt nhiều câu hỏi mới
Lòng cha dẫu héo khô cành mận dại
Nhựa âm thầm buốt trắng những chùm hoa
Con ơi con hãy tha thứ cho cha
Cha chẳng thể nào sống cùng mẹ được
Đời cha nắng gắt
Mẹ con cần mật ngọt của đồng vui
Con khôn lớn trên đời
Hãy yêu thương mẹ
Và hãy hiểu cho cha

Tết hòa bình đầu tiên
Đất nước nghèo xơ xác
Cha cũng chẳng đủ tiền
Mua cho con áo đẹp
Chiều bên sông gió rét
Con lặng nhìn tít tắp bãi ngô xa
- Bên kia sông là gì hở cha?
- Bên kia sông có đường đất đỏ
Có ruộng mía trổ cờ trắng xoá
Những vườn đầy quả ngọt những đồng hoa.
- Có bươm bướm không cha?
- Có, có rất nhiều bươm bướm
Con thì thầm trong hơi thở mạnh
- Sông rộng thế làm sao sang được?
Cha ôm con vào lòng, con bé bỏng của cha
- Bên kia sông có nhiều bướm nhiều hoa
Rồi cha con ta sẽ tìm được con đò
Đi sang bên ấy...



Thanked by 4 Members:

#8 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 01/02/2014 - 16:05

NGÀY XUÂN KỂ CHUYỆN BÓI KIỀU


Như mọi người đã biết, Truyện Kiều của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, là một kiệt tác của nhân loại, và với kiệt tác ấy đã đưa Nguyễn Du trở thành Danh nhân Văn hoá thế giới. Trước đây, trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, có người đã từng nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn nước ta còn”. Trên 200 năm qua, kể từ khi tác phẩm ra đời, Truyện Kiều đã dần đi sâu vào đời sống văn hoá của người Việt Nam và chắc chắn sẽ còn mãi mãi trường tồn cùng dân tộc. Để khai thác giá trị và cũng để tôn vinh tác giả, tác phẩm, nhân dân ta đã sáng tạo ra nhiều cách tiếp cận để thưởng thức như Lẩy Kiều, Tập Kiều, Ngâm Kiều, Vịnh Kiều, Đố Kiều v.v. Bói Kiều cũng không ngoài mục đích ấy.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi gặp chuyện chẳng lành, trong lòng có sự thắc mắc lo nghĩ, người ta vẫn có thể tìm đến Truyện Kiều, thành tâm xin quẻ Bói Kiều để hỏi cát hung, hoạ phúc, tìm sự an ủi, tìm lời khuyên thích hợp. Trong các môn bói toán thịnh hành xưa nay như Bốc dịch, Nhâm độn, Bát môn, Tử vi, Tứ trụ, Thái ất, Bói Kiều.v.v.. thì Bói Kiều là một môn thuần văn hoá Việt, đã được lưu truyền trong dân gian hàng trăm năm nay. Bói kiều đã thực sự là một nét văn hoá tâm linh đáng yêu của người dân Việt Nam kể cả trong nước cũng như ở nước ngoài.
Trong lời Tựa viết năm 1898 cho bản “Đoạn Trường Tân Thanh” của Kiều Oánh Mậu, cụ Đào Nguyên Phổ đã từng nói: “Ôi! Sao mà lại có văn hay làm say lòng người đến thế? Còn một điều mà tôi thấy làm lạ hơn nữa là người đời dùng để bói, thì thấy ứng nghiệm như thần mà xem tựa Linh kinh Quỷ Cốc.”
Có một điều rất kỳ lạ là có khá nhiều câu Kiều lại rất linh ứng với những sự kiện lịch sử xảy ra sau khi Truyện Kiều ra đời. Đơn cử:
Câu số 1954: “Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai”.
(ứng việc đất nước ta bị chia cắt làm đôi sau Hiệp định Rơ-ne-vơ năm 1954).
Câu số 83: “Đau đớn thay phận đàn bà”.
(ứng với ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3), mặc dù thời của Cụ Nguyễn Du thì ngày Quốc tế Phụ nữ chưa có.
Câu số 1972: “Liệu mà cao chạy xa bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi”.
Nội dung câu này rất trúng khi nói về tình hình cách mạng Miền Nam giai đoạn 1972 ta đang trên đà thắng lớn, chính quyền Nguỵ Sài Gòn muốn cầu xin Mỹ tiếp tục ở lại miền Nam, nhưng do thua quá đau trên khắp các chiến trường, đế quốc Mỹ buộc phải quyết định rút quân khỏi Miền Nam ngoài sự mong đợi của chính quyền Sài Gòn. Mà với sự kiện này, Nguyễn Văn Thiệu đã gào lên thất vọng trước báo chí và trước công chúng là: “Mỹ đem con bỏ chợ”. v.v..
Xin Kể một số câu chuyện Bói Kiều làm dẫn chứng.
Ngô Đình Diệm bói Kiều, Nguyễn Thái Học bói Kiều, Tướng Nguyễn An bói Kiều trên đỉnh Trường sơn.v.v…
1- Ông Ngô Đình Diệm, Tổng thống chính quyền Nguỵ Sài Gòn, là một người rất hay bói Kiều. Khi cây cột cờ trước Dinh Độc Lập đột nhiên bị gãy đổ, ông cho gọi một thầy bói thân tín vào dinh xin quẻ Kiều, ông bói nhằm câu:
“Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu”
Thầy bói thưa với ông Ngô Đình Diệm là có khả năng Dinh Độc Lập sẽ bị ném bom, vì nàng Kiều đã báo là “khoảng trên”, có nghĩa là tấn công từ phía trên không trung, nhưng cũng chỉ thả 3,4 quả bom rồi thôi chứ không nhiều, sau đó thực tế diễn ra hoàn toàn đúng như vậy. Lần đó dinh Độc Lập bị ném bom, anh em Diệm Nhu thoát nạn.
Lại một lần khác, khoảng cuối tháng 10 năm 1963, thấy tâm trạng bất an, linh tính như mách bảo điều gì, ông Diệm lại nhờ thầy bói Kiều: Lần này bốc được mấy câu:
“Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Dang tay vùi liễu dập hoa tơi bời”.
Thầy bói run sợ ấp úng thưa với ông Diệm: Bẩm cụ, phen này thì cực kỳ nguy khốn. Sợ lại có đảo chánh. Lần này thì khó lòng thoát nổi, bọn chúng sẽ bắt xử Cụ tại trận mà không cần toà án phán xét. Ông Diệm hỏi tại sao và căn cứ vào đâu mà thầy nói vậy?
Thầy bói lập cập thưa: Dạ, nàng Kiều đã nói rõ rồi, “Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời”, nghĩa là Cụ có trốn xuống hầm ngầm dưới đất hoặc chạy lên trời bằng máy bay lên thẳng cũng không thể thoát, người đến bắt cụ là một sĩ quan cấp tá.
Sao thầy biết là cấp tá? Dạ, vì nàng Kiều đã báo “Tú bà” lái lại tức là “Tá bù”, và họ không cần tra hỏi cụ, cứ thế hành hạ đánh đập và thủ tiêu luôn, nên con xin Cụ hãy hết sức đề phòng. Nghe vậy, ông Diệm tái mặt hoảng sợ. Đến tháng 11 năm 1963 thì sự việc diễn ra đúng y như vậy.
2. Ông Nguyến Thái Học bói Kiều: Ông Nguyễn Thái Học là lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Thái học cùng cô Giang và các đồng chí của mình rút về miền xuôi tìm kế sách tiếp tục cuộc chiến đấu. Một đêm xuân đầu năm 1930 trời lạnh, trong nhà một cơ sở cách mạng ở tỉnh Hải Dương. Xót xa vì việc nước chưa thành, chí nam nhi chưa toại, nghĩ tới những ngày sắp tới với bao khó khăn chồng chất, trằn trọc không sao ngủ được, ông cùng các đồng chí của mình thức dậy pha trà ngồi uống và bói quẻ Kiều đầu năm tiêu khiển.
Mọi người mời ông bói trước. Nguyễn Thái Học nhận lời ngồi xếp bằng, vẻ mặt trịnh trọng, hai tay ấp quyển Kiều vào ngực khấn:
“Hải Dương tỉnh, Nam Sách huyện, Hùng Thắng xã; Canh Ngọ niên, Chính nguyệt sơ nhất nhật, tôi là Nguyến Thái Học quê làng Thổ Tang, phủ Vĩnh Tường… Kính lạy chư vị trong truyện xin cho tôi bói một quẻ Kiều, lấy 4 câu về trang bên tả, có lành ứng lành, có dữ ứng dữ…”
Khấn xong, ông mở quyển Kiều và đọc to 4 câu bên trang tả:
“Thân ta ta phải lo âu
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này
Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi.”
Nghe vậy, tất cả đều buồn. Biết rằng chặng đường sắp tới sẽ cực kỳ gian khổ hiểm nguy. Mọi người chia tay và mỗi người đi về một phía. Nhưng không ngờ mấy ngày sau gần như tất cả đều bị sa vào tay giặc. Không lâu sau đó, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của ông bị đưa lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Ông hi sinh nhưng đã để lại tấm gương trung liệt sáng ngời vì nước quên thân, được các thế hệ người Việt tôn vinh, đời đời kính trọng.
3. Tướng Nguyễn An bói Kiều: Tướng Nguyễn An, nguyên Phó Tư lệnh Đoàn 559, tác giả cuốn sách: “Bói Kiều trên đỉnh Trường Sơn”. Trong cuốn sách đó ông kể nhiều câu chuỵên bói Kiều rất thú vị. Xin trích nêu vài trường hợp:
-Có một số lính trẻ, có văn hoá lại lập nhiều thành tích, Bộ đang dự định gọi về miền Bắc học, sau đó chuyển đi đào tạo sỹ quan ở nước ngoài, số này đã cử người đến xin thủ trưởng bói cho một quẻ để biết lành dữ: được câu:
“Chế khoa gặp hội trường văn
Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày”
Câu Kiều đẹp quá, anh lính trẻ liền nhẩy cẫng lên chạy về báo cho các bạn là tất cả sẽ được toại nguyện.
-Lại có cô Thanh niên xung phong ở chiến trường sắp cưới chồng là Bộ đội Trường Sơn đến xin quẻ, bắt được câu:
“Cung nga thể nữ theo hầu.
Rằng: Vâng lệnh chủ rước chầu vu quy”.
Linh quá, nghiệm quá, có thể nói là rất đẹp và lại rất phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Cô hết sức cảm động cám ơn thủ trưởng.
-Cánh lính trinh sát trước khi đi làm nhiệm vụ cũng thường xin bói một quẻ để biết trước tình hình, rất mừng khi bói được câu:
“Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây”.
Thủ trưởng động viên: Thế là êm rồi, chập tối vào, quá nửa đêm ra an toàn. Ai cũng vui vẻ.
Có một chuyện rất thật là tôi có một người bạn ở Nam Đàn, Nghệ An, vợ anh ta đi buôn bán thường một vài ngày mới về nhà. Có lần sau 2 ngày không thấy vợ về, anh thấy sốt ruột, linh tính như mách bảo có chuyện chẳng lành, vội vàng tìm thầy xin bói một quẻ Kiều. Khi mở ra được câu:
“Màu hồ đã mất đi rồi,
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma”.
Thầy bói lắc đầu. “Hỏng”. Anh buồn vô hạn. Hôm sau quả nhiên nhận được tin vợ bị chết vì tai nạn trên đường, vốn liếng đều mất sạch.
Lại có chuyện nhà nọ có con đi làm ăn ở nước ngoài, nghe tin có vụ tai nạn làm mấy người Việt bị thiệt mạng, nóng ruột liền đi bói quẻ Kiều xem sao, được câu:
“Thôi con, còn nói chi con,
Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người”.
Sau quả nhiên tin từ nước ngoài báo về cho biết cháu đã bị mất trong vụ tai nạn ấy. Còn nhiều và nhiều ví dụ nữa nhưng khuôn khổ bài viết có hạn nên xin phép tạm dừng việc bói.
Kính thưa quý vị và các bạn! Là những người con đất Việt, hơn nữa lại được sinh ra tại xứ Nghệ, quê hương của Đại thi hào, mỗi khi nâng quyển Kiều trên tay, lòng ta không khỏi bồi hồi xúc động tưởng nhớ, biết ơn và tự hào về Cụ. Từ một tác phẩm không tên tuổi của người Tàu, Cụ đã chuyển thể và nâng nó lên thành một kiệt tác hàng đầu của nhân loại, được bạn đọc trên toàn thế giới ca ngợi.
Giở đọc bất cứ trang nào ta cũng thấy thấm đẫm tính nhân văn, sự đau xót cảm thông chia sẻ của tác giả với mỗi mảnh đời bất hạnh. Ta tìm thấy ở đó những triết lý cuộc đời, sự an ủi, có khi như là những lời khuyên bổ ích.
Chính vì tính triết lý nhân văn sâu sắc ẩn chứa trong Truyện Kiều, mỗi khi có dịp bói Kiều cho con cái trong nhà, ta có thể vận dụng và tìm thấy những lời khuyên răn thích hợp nhằm bồi đắp tâm hồn con trẻ, cho các cháu biết và hiểu về “Luật nhân quả” của cuộc đời, biết chia sẻ, cảm thông và sẵn sàng giúp đỡ người khác khi có cơ hội. Hãy tích cực gieo “Nhân lành” để sau này được hái “Quả ngọt”. Biết vun trồng chữ “TÂM” ngay chính ở trong lòng mình như lời Cụ dạy:
“Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”.

(Nguồn: Blog Quang Đạo - Chủ nhiệm Câu lạc bộ Dịch học -Lý số Nghệ An)



#9 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 03/02/2014 - 10:40

HOA ĐÀO TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ Y HỌC

Mùa xuân ở nước Việt ta, nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán, là lúc muôn hoa rộ nở, hồng tía khoe tươi. Giống như hoa mai vàng ở miền Trung và miền Nam, hoa đào mầu hồng thắm ở miền Bắc nổi bật giữa các loài hoa và được chưng bày khắp mọi nhà, nó tạo cho ngày Tết một màu sắc, một phong vị đặc biệt, và nghiễm nhiên trở thành loại hoa Tết chính thống của dân tộc.

Tục lệ chơi hoa đào ngày Tết ở xứ Bắc đã có từ lâu đời, vì chẳng những hoa đào có màu hồng rực rỡ là mầu “hỉ tín”, rất phù hợp với không khí vui tươi, tràn trề hy vọng của những ngày đầu năm mới mà người xưa còn tin là cây đào trị được ma quỉ. Tích xưa kể rằng, dưới gốc cây đào già nơi núi Độ Sóc có hai vị thần Trà và thần Lũy cư ngụ, họ giữ trọng trách cai quản đàn qủi, qủi nào làm hại dân gian thì ra tay trừng phạt ngay. Mỗi khi Tết đến, lợi dụng cơ hội các vị hành khiển trông nom việc dưới thế phải lên chầu trời để trình tấu mọi việc thế gian, bọn qủi liền ra quấy phá. Do đó, vào dịp này người ta thường trưng một cành đào trong nhà, để bọn qủi tưởng là nơi hai vị thần Trà thần Lũy trấn giữ, sợ, không dám bén mảng.

Cây đào thực sự là một loại cây có ích cho cuộc sống, cả tinh thần lẫn thể chất. Rất xứng đáng là biểu tượng của mùa Xuân, của chính khí, của tình yêu và sức khỏe.

"Thiền sư Linh Vân tu đạo trên núi Vi Sơn, ngồi tham thiền trong rừng đào, bỗng một cơn gió thổi đến, hoa đào rơi rụng, ngài bỗng ngộ ra ánh sáng của đạo từ những cánh hoa đào rơi. Thế là Thiền sư đứng dậy, giũ những cánh hoa đào trên người rồi bước ra khỏi vườn đào..."


Giai thoại về hoa đào

Truyền thuyết thần thoại có liên quan đến hoa đào sớm nhất là câu chuyện Khoa Phụ đuổi theo mặt trời.

Khoa Phụ là người khổng lồ, sinh trưởng ở vùng cực Bắc, nên quanh năm không thấy được mặt trời mọc trên biển cả tối tăm. Ông muốn chạy đuổi theo mặt trời. Cuối cùng cũng đuổi kịp mặt trời ở phía Tây, trên núi Yêm Tư. Nhưng ông bị ánh nắng còn sót lại của mặt trời làm cho bị thương, miệng khô khát nước và muốn tìm nước để uống. Ông liền uống một hơi cạn nước sông Hoàng Hà và Vị Thủy, mà vẫn không hết khát.

Thế là Khoa Phụ đi về hướng Bắc để tìm một cái đầm lớn, nhưng phía trước vẫn mờ mịt. Ông đã ngã quỵ trên đường và chết vì cơn khát. Trước khi chết, Khoa Phụ suy nghĩ, sau này có lẽ cũng có người đuổi theo mặt trời như mình. Để người đó không đến nỗi không có nước uống mà chết khát như ông, ông bèn ném cây gậy thần trong tay lên không trung. Gậy thần của ông lập tức biến thành một rừng đào.

Khoa Phụ biết rằng những anh hùng chinh phục mặt trời sau này, có thể nhờ vào những quả đào trong rừng đào này, mà không lặp lại bi kịch của mình để mất đi mạng sống, nên ông yên tâm nhắm mắt.

Trong thần thoại lại có truyền thuyết rằng: Biển lớn ở phía Đông có ngọn núi Đào Đô, trên núi có một cây đại thụ gọi là Đào Đô, khoảng cách giữa những cành cây là ba ngàn dặm. Ở trên cây có một con gà trời, mỗi ngày lúc mặt trời mọc lên từ trên biển đông thì con gà trời trên cây đào gáy vang, thế là bầy gà từ khắp nơi cũng gáy theo, "hùng kê nhất thanh thiên hạ bạch" (gà trống gáy lên một tiếng thì trời sáng), mọi người trên mặt đất đang ngủ, nghe tiếng gà gáy thì biết rằng một đêm đã qua, bình minh đã đến.

Núi Đào Đô còn gọi là núi Độ Sóc, cây đào to lớn uốn khúc cả ngàn dặm ở phương Đông bắc chính là Quỷ Môn quan. Canh giữ Quỷ Môn quan là hai vị thần có tên là Thần Trà và Uất Lũy. Hai vị thần này đều là những cao thủ bắt quỷ. Hàng ngày, họ đi khắp nơi để kiểm tra các loài quỷ, khi thấy ác quỷ tác oai tác quái hại người thì họ dùng dây lau trói chúng lại, bắt lên núi cho hổ ăn thịt.Vì thế bọn hung thần ác quỷ đều sợ hai vị thần này. Vào thời Hoàng Đế, người dân treo trước cửa hai miếng gỗ đào, trên đó vẽ hình hai vị Thần Trà và Uất Lũy để trừ ác quỷ. Đây chính là nguồn gốc của phong tục treo câu đối tết và hình tượng hai vị môn thần ở trước cửa khi đón năm mới, được lưu truyền từ mấy ngàn năm nay ở Trung Quốc và nhiều nước ở châu Á.


Người đời sau lấy giấy thay gỗ viết lên những chữ câu chúc tốt lành và trừ khử tai họa, thay thế cho hình tượng của Thần Trà và Uất Lũy, nhưng ý nghĩa cũng giống như vẽ bùa để giữ bình an và xua đuổi vận xấu. Vì vậy câu đối tết còn gọi là "đào phù", là do có nguồn gốc như thế.

Người Trung Quốc thời cổ đại rất sùng bái cây đào, cho nên trong dân gian, kiếm làm bằng gỗ đào, gậy đào, trái đào, lá cây đào đều trở thành những bảo bối để trừ tà.

Có truyền thuyết cho rằng ở nơi tiên cảnh, cây đào tiên phải trải qua ba ngàn năm mới có quả, nên trở thành báu vật, ai ăn vào sẽ được trường sinh bất tử. Tây Vương Mẫu thường bày yến đào tiên ở Dao Trì để cùng chư tiên thưởng lãm. Đông Phương Sóc đã từng ba lần hái trộm đào tiên đem về cho vua Hán Vũ Đế để tăng cường tuổi thọ (Hán Vũ cố sự).

Má đào phai hết bởi xuân qua
Nếu lại đâm thì liền luống hoa
Yến sở Dao Trì đà có hẹn
Chớ cho Phương Sóc đến lân la.
Phương Sóc lân la, đã hở cơ
Ba phen trộm được há tình cờ
Có ai ướm hỏi Tây Vương Mẫu
Tin khá tin thì ngờ khá ngờ.

(Nguyễn Trãi - Hoa đào - Quốc âm thi tập)

Mỗi lần Xuân đến, hoa đào nở rộ, các con sông tan băng, nước chảy âm ỉ được gọi là "đào hoa tấn" (con nước hoa đào), cũng gọi là "đào hoa thủy", nên sau này nhà thơ Đỗ Phủ có câu:
"Xuân ngạn đào hoa thủy.
Tuyết phàm phong thụ lâm"
(Dòng nước hoa đào đến bến xuân.
Rừng cây phong trông như những cánh buồm tuyết).

Hoa đào là tượng trưng của mùa Xuân, không có hoa đào thì cũng không có mùa Xuân. Ở Trung Quốc, vào thời cổ đại, mỗi năm vào tháng trọng xuân thì hoa đào nở khắp núi, và cũng chính là mùa của các thanh niên nam nữ rộn ràng với chuyện yêu đương.

Sách Chu Lễ viết:
"Trọng xuân lệnh hội nam nữ, bôn giả bất cấm".
(Vào tháng trọng xuân, cho phép nam nữ gặp gỡ, không cấm qua lại với nhau).
Đây là nói khi hoa đào nở, chính là lúc nam nữ tự do yêu đương.

Trong Thi kinh có bài:
"Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa, chi tử vu qui, nghi kỳ thất gia"
(Đào hoa tốt tươi, cánh hoa rực rỡ, con cái vu quy, lập thành gia thất).
Đó là do người Trung Quốc thời cổ đại có tập tục xem mùa xuân hoa đào nở là tượng trưng cho tình yêu và hôn nhân.

Có nhiều truyền thuyết về tình yêu liên quan đến hoa đào nở vào những ngày tháng đầu xuân.

Thời Hán Minh Đế, năm Vĩnh Bình, có hai thư sinh là Lưu Thần và Nguyễn Triệu, lên núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc đường. Tình cờ gặp được một rừng đào, họ hái những trái đào để ăn. Ăn xong thì cả hai người đều cảm thấy khỏe mạnh hơn trước. Men theo dòng suối giữa rừng đào đi lên phía trên thì gặp hai thiếu nữ tuyệt sắc. Hai nàng dẫn hai người về nhà, và mối lương duyên đã khiến hai nàng tiên trở thành vợ của họ.

Nhưng cuộc sống tiên cảnh trong rừng đào không làm vơi được nỗi nhớ quê nhà của hai chàng họ Lưu và họ Nguyễn. Hai chàng tìm cách về lại quê nhà. Và rốt cuộc, họ cũng trở về nơi trần thế. Nhưng chốn quê xưa giờ đây đã thay đổi hoàn toàn, không có người nào nhận ra họ. Một trăm ngày ở rừng đào nơi tiên cảnh bằng một trăm năm ở thế giới thực của nhân gian, còn rừng đào nơi tiên cảnh cũng đã thành thế giới mộng ảo không bao giờ quay lại được. Người phàm nếu như ngẫu nhiên đi lạc vào cõi tiên, sau khi trải qua cuộc sống thần tiên giống như trong giấc mơ, rồi cũng phải trở về thế giới thực tại ban đầu. Tiên cảnh cũng giống như một câu chuyện tình yêu không có hồi kết, để lại cho con người nỗi nhớ nhung thương cảm vô bờ.

Người đánh cá Vũ Lăng trong "Đào Hoa Nguyên Ký" của Đào Uyên Minh cũng không thể nào quay lại rừng đào nơi ông đã ngẫu nhiên đi lạc vào, cũng giống như ai đó cũng có thể giữ được tình yêu ngày xưa đã đánh mất.


Cảnh đào nguyên hoa cỏ tươi tốt và đầy hương thơm đó cho ta biết rằng, ở nơi lạ lẫm xa xôi ấy tràn đầy lạc thú; nhưng thông qua Vũ Lăng, nhà thơ Đào Uyên Minh cũng muốn nói cho ta biết cái nơi đầy lạc thú ấy là nơi tuy có thể thấy được, mà không thể tìm lại được. Con người bất luận là ai, cuối cùng cũng sẽ giống như Vũ Lăng, sẽ trở về thế giới thực thuộc về mình.

Tích niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

(Ngày này năm trước, trong cánh cửa này.
Khuôn mặt giai nhân cùng với hoa đào ửng đỏ.
Người cũ giờ không biết ở phương nào.
Nhưng hoa đào vẫn cười với gió đông như thuở trước).
(Thôi Hộ - Đề đô thành nam trung)

Trong vườn đào ngẫu nhiên phút chốc gặp nhau, mến thương như thế nào chẳng rõ, nếu không phải là một chút rạo rực, một chút tin yêu, một chút chấp trước?

Cho dù Thôi lang có thể trở lại tìm được cánh cửa năm xưa. Cho dù trước cửa hoa đào vẫn nở như vậy, nhưng người dưới hoa bây giờ ở đâu? Khi dòng nước hoa đào tỏa hương thơm thoang thoảng chảy đi, thì cái khoảng trời riêng ấy biết tìm ở nơi đâu?

"Tằng hận hồng tiên hàm yến tử.
Thiên liên tố phiến nhiễm đào hoa"
(Từng hận lá thư hồng mà con chim én đã ngậm.
Thương tiếc cho cánh cửa nhiễm sắc trắng của hoa đào).

Nếu tình yêu giống như con chim én bay từ cây này sang cây khác thì ai có thể giữ được nó? Chính vì không có ai có thể giữ được con chim én, không cho bay đi, nên mới thương tiếc cho hoa đào rơi rụng trên cánh cửa chăng? Trong thời ly loạn, có bao nhiêu người lưu lạc tha hương, một mình than thở cho cuộc tình dang dở?

Tình yêu cũng giống như hoa đào, có người vì hoa đào mà mê muội, cũng có người nhờ hoa đào mà giác ngộ.

Thiền sư Linh Vân tu đạo trên núi Vi Sơn, ngồi tham thiền trong rừng đào, bỗng một cơn gió thổi đến, hoa đào rơi rụng, ngài bỗng ngộ ra ánh sáng của đạo từ những cánh hoa đào rơi. Thế là Thiền sư đứng dậy, giũ những cánh hoa đào trên người rồi bước ra khỏi vườn đào, làm một bài kệ rằng:

"Tam thập niên lai mịch kiếm khách.
Cửu hồi lạc diệp hựu trừu chi.
Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu.
Trực đáo như kim canh bất nghi".
(Ba mươi năm nay kiếm khách mải miết đi tìm.
Trải qua chín lần lá rụng rồi nảy nụ.
Từ sau khi thấy hoa đào rơi rụng cho đến nay.
Lòng ta đã không còn nghi hoặc nữa).

Vì ngộ mà tin, vì tin nên ngộ, và không còn bị trói buộc bởi những thị phi cuộc đời.

Những người lãng tử cùng những kiếm khách đa tình say túy lúy, bên bờ dương liễu hay dưới ánh trăng tàn đêm gió lạnh, có hay chăng?

Trong truyền thuyết của văn hóa Trung Quốc, Hoa Thần Đào được phong cho Tức phu nhân. Bà là vợ của Tức hầu nước Sở thời Xuân Thu, họ Quỳ nên cũng gọi là Quỳ Tức. Trong cuộc chính biến đoạt quyền ở triều đình, Sở Văn Vương tiêu diệt nước của Tức hầu và muốn lấy Quỳ Tức làm vợ, nhưng bà chung thủy một lòng, không vì quyền thế của Sở Văn Vương mà thay lòng đổi dạ. Một ngày nọ nhân cơ hội Sở Văn Vương đi săn, bà âm thầm xuất cung, chạy trở về với Tức hầu. Trong tình hình hoàn cảnh chính trị thay đổi, tình yêu của bà và Tức hầu cũng giống như những cánh hoa đào rơi rụng. Tức hầu tự sát, bà cũng vì tình mà chết theo đúng vào khoảng tháng ba, lúc hoa đào nở rộ khắp nơi. Thế là người nước Sở gọi Tức phu nhân là Đào Hoa phu nhân, lập miếu thờ, tôn bà làm Hoa Thần Đào.

"Tịch mịch ứng thiên tuế,
đào hoa tưởng nhất chi"
(Dù cô đơn vắng vẻ ngàn năm,
lòng vẫn tưởng nhớ một nhánh hoa đào).

Dù cho hoa đào có vạn đóa thì cũng có người một mình thương tiếc một nhánh hoa đào, trong căn nhà nhỏ, dưới một đêm mưa. Cái phút chốc và cái vĩnh hằng, yêu và chết, cũng đều giống như đóa hoa đào bé nhỏ bay trong mưa gió.


Hoa đào: Dược liệu quý trong y học

Ngày nay, chúng ta biết rằng cây đào (Prunus persica (L.) Batsch.) có nguồn gốc ở vùng Bắc Trung Quốc và Mông Cổ, được trồng ở nhiều nước ôn đới và cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, đào được trồng phổ biến ở trung du và miền núi Bắc Bộ để làm cảnh và làm thuốc.

Do trồng trọt lâu đời nên người ta đã tạo ra nhiều giống đào khác nhau như : đào bích có hoa màu đỏ thẫm, nhiều cánh xếp sít nhau; đào phai có hoa màu hồng, cây có nhiều hoa; đào bạch có hoa màu trắng, cây ít hoa. Ngoài ra, còn có loại đào ăn quả với hoa màu hồng nhạt, một lớp cánh, nên gọi là hoa đơn. Người ta thường ghép những mầm đào bích vào gốc đào phai để có hoa to, màu thẫm hơn. Chưng những cành đào tươi thắm vào dịp Tết Nguyên đán là một thú vui, một tập tục văn hóa của người Bắc Bộ.

Những bộ phận của cây đào được dùng làm thuốc là hoa đào, lá đào, cành đào, quả đào, nhân hạt đào, nhựa đào, rễ đào. Trong đó, nhân hạt đào (đào nhân) là vị thuốc thường dùng của Đông y. Hoa đào và lá đào thường được dùng trong các bài thuốc kinh nghiệm dân gian.

Theo Đông y, hoa đào có vị đắng, tính bình, không độc, tác dụng lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện. Thường được dùng để chữa các chứng bệnh như thủy thũng, cước khí, đàm ẩm, tích trệ, đại tiểu tiện bất lợi, kinh bế, tâm phúc thống (đau vùng tim), mụn nhọt…Ngày dùng 3-5g hoa khô, hãm nước sôi hoặc sắc uống.

Một số bài thuốc có dùng hoa đào như sau:

- Chữa phù thũng, đại tiện táo bón: Dùng hoa đào 3-5g hãm nước sôi hoặc sắc uống. Có thể dùng cánh hoa đào tươi 4g, gạo tẻ 100g, cả hai thứ trên nấu thành cháo loãng, để ăn, cách ngày làm một lần.

- Chữa sỏi đường tiết niệu: Hoa đào, kim tiền thảo, hạt mã đề, lượng bằng nhau. Rửa sạch, sấy khô, tán bột. Cho vào hũ sạch để bảo quản. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần dùng 8-10g, hòa với nước sôi khoảng 5 phút, uống trước bữa ăn.

- Chữa các vết nám trên da mặt: Hoa đào 10g, hoa sen 15g. Hai thứ phơi khô, tán nhỏ, chia 3 phần. Mỗi lần dùng một phần, cho vào trong cốc thủy tinh rồi pha nước sôi vào như pha trà. Ngâm khoảng 5 phút, uống trước bữa ăn.

- Chữa mụn trứng cá trên mặt: Hoa đào, hoa dành dành, hai thứ lượng bằng nhau, rửa sạch, sấy khô, trộn đều rồi tán vụn. Hòa với nước vo gạo hoặc với mật ong để bôi lên các nốt mụn trứng cá trên mặt. Có thể hòa đều vào ghi-xê-rin để làm thuốc bôi . Sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh hướng dẫn dùng hoa đào và nhân hạt bí đao với liều lượng bằng nhau, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô, tán bột mịn, hòa với mật ong mà bôi.

- Chữa mụn lở ở da, chảy nước mủ vàng, rất ngứa: Hoa đào lượng vừa đủ dùng, rửa sạch, sấy khô, tán nhỏ. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần dùng 6g, hòa với nước đun sôi để còn ấm, uống sau khi ăn.

- Chữa các loại ung nhọt: Lấy hoa đào lượng vừa đủ dùng, rửa sạch, sấy khô, tán nhỏ, ngâm vào giấm. Dùng nước thuốc này bôi lên các nốt ung nhọt. Ngày bôi 2-3 lần.

- Phụ nữ muốn có được làn da trắng trẻo, nhu nhuận, mịn màng, có thể dùng bài thuốc Ngọc nhan tán sau đây: Hoa đào 200g, đông qua nhân (nhân hạt bí đao) 250g, bạch dương bì (vỏ cây bạch dương) 100g. Các vị đều rửa sạch, sấy hoặc phơi khô, tán bột, trộn thêm một chút đường trắng rồi đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê sau bữa ăn.

Cũng có thể dùng hoa đào tươi 120g ngâm với 500ml rượu trắng, sau 7 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 10ml.

- Đào nhân được lấy từ hạch quả đào bằng cách đập vỡ vỏ, lấy nhân ở trong (thực ra đây mới là hạt đào), đem phơi hoặc sấy khô để dùng.

Đào nhân có vị đắng, ngọt, tính bình, tác dụng phá huyết, khử tích trệ, nhuận táo, hoạt trường, lợi tiểu. Nếu dùng sống, chữa kinh nguyệt bế tắc, sinh hòn cục, bụng dưới đầy, đau, vấp ngã ứ huyết. Nếu dùng chín, có tính hoạt huyết, chữa đại tiện khó do huyết táo. Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc. Thường phối hợp với các vị thuốc hồng hoa, ngưu tất, tô mộc, mần tưới, nghệ vàng, mỗi vị 8-15g, sắc uống chữa kinh nguyệt không đều, kinh bế, đau bụng. Phụ nữ có thai không nên dùng đào nhân.

- Lá đào có vị đắng, tính bình, tác dụng làm tan ứ, giảm đau, lợi tiểu. Ngày dùng 15-30g tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước để uống. Dùng ngoài, lấy lá sắc nước hoặc vò nát, lấy nước tắm chữa ghẻ, sưng, ngứa, chốc lở; xát và ngâm chữa đau chân.

- Nhựa đào dùng chữa tiểu đường, tiểu ra dưỡng trấp. Chữa tiểu đường: Nhựa đào 20g, rửa sạch, tán nhỏ, uống với nước sắc râu bắp và địa cốt bì (mỗi thứ 30g). Chữa tiểu ra dưỡng trấp: Nhựa đào 12-15g, rửa sạch, tán nhỏ, uống với nước sắc dây tơ hồng 30g.

Như vậy, cây đào thực sự là một loại cây có ích cho cuộc sống, cả tinh thần lẫn thể chất. Rất xứng đáng là biểu tượng của mùa Xuân, của chính khí, của tình yêu và sức khỏe.

Đinh Công Bảy - Tổng Thư ký Hội Dược liệu TP.H-C-M (Giacngo.vn)

#10 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 05/02/2014 - 15:29

Ý XUÂN

Có một triết gia đã từng nói: “Đôi mắt của bạn bao giờ cũng giới hạn bởi những điều bạn đang là”. Với ý nghĩa đó nên mỗi chúng ta có một cách nhìn khác nhau. Cách nhìn đó chính là sự nhận thức cảnh quan xung quanh chúng ta. Sự nhận thức này là yếu tố để đánh giá cấp bậc cũng như nói lên nghiệp lực của mỗi chúng ta đang thọ nhận. Hay nói cách khác đó chính là sự chiêu cảm của nghiệp lực mà ta đã và đang nuôi dưỡng trong kiếp sống này. Cuộc sống của chúng ta có được thăng hoa về nhận thức hay không là nhờ vào sự chuyển hóa của nội tâm và nghiệp lực. Ở đây chúng tôi xin lấy hình ảnh mùa Xuân để nói lên ý nghĩa và nội dung bài viết này. Thi sĩ Bùi Giáng có hai câu thơ rằng:

“Người nằm xuống cho ngàn năm vang bóng

Người bước qua ngôn ngữ rụng hai lần”

Ý tưởng luôn thể hiện song song với cuộc sống, nhận thức luôn đi đôi với hành động. Điều này nói lên giá trị của tầm hiểu biết và cảm nhận của mỗi một chúng ta qua quá trình huân tập. Chính vì lẽ đó mà biết bao nhiêu cách nhìn và ngôn từ nói về mùa Xuân. Cũng là mùa Xuân ấy nhưng nó được đánh giá qua nhiều dòng suy tư khác nhau, qua nhiều sự cảm tác khác nhau. Phải chăng đây chính là sự phơi bày của nghiệp thức. Nghiệp thức của chúng ta như thế nào thì cảnh vật xung quanh ta sẽ hiện diện như thế ấy. Bởi vậy Nguyễn Du từng nói:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Một tâm hồn thi sĩ trong cơn khát khao và nóng nhiệt thì khi mùa Xuân về họ sẽ nhìn mùa Xuân với sự hốt hả, thương tiếc cho viễn cảnh bi quan của sự kiện này. Vì vậy, người thi sĩ có thể chết vì Xuân và cái mình đang yêu chìu tha thiết. Khi mùa Xuân đến người ta biết mùa Xuân sẽ đi, mùa Xuân còn non rồi sẽ già, họ cố ghì giữ nhưng quy luật không cho phép họ đạt được điều đó nên đành bất lực, vô vọng và đau khổ. Như sự nhân định của thi sĩ Xuân Diệu đã từng hốt hoảng thốt lên:

“Xuân đang đến nghĩa là Xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ già
Và Xuân hết nghĩa là tôi cũng chết”

Có những tâm hồn, khi nhìn mùa Xuân đi qua người ta cảm thấy hối tiếc, vì đó là tất cả những gì đẹp nhất của thiên nhiên ban tặng cho họ. Cái đẹp đó được người ta cảm nhận cố định trong không gian và thời gian. Nghĩa là ý thức của họ không chấp nhận sự thay đổi của vạn hữu, dù sự thực đang diễn ra trước mắt họ. Cho đến những tâm hồn đang trong cơn khổ lụy, đang ôm một nỗi u uất trong đau thương, họ không muốn xa lìa nỗi khổ đó của mình thì dù là Xuân hay hạ cũng chẳng ý nghĩa gì. Chế Lan Viên, một nhà thi sĩ có một cảm tính rất cao, cũng vì vậy khi đang cơn tiếc nuối mùa thu, ông ta chỉ muốn ghì giữ mùa thu thế nhưng định luật xoay vành không cho phép điều đó. Ông đã nói lên những vành thơ hầu mong mượn chiếc lá thu để “chắn nẽo Xuân” về:


"Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi Xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với của hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẽo Xuân sang.”
Chế Lan Viên

Dù cảm nhận mùa Xuân như thế nào, dù mùa Xuân hiện diện ra sao nó vẫn không chối bỏ được quy luật tồn sinh của Vũ Trụ được. Dưới con mắt của người học Phật thì đó chỉ là một mùa trong bốn mùa, luôn xoay vành và biến chuyển theo định luật vô thường mà tồn tại và hủy diệt. Mỗi khi chúng ta thiết lập nhãn thức và ý thức trên cảnh vật xung quanh, trên sự hiện diện của các pháp thì điều đó sẽ mất đi theo lý duyên sinh mà thôi. Nếu niềm vui của ta được xây dựng trên sự tươi đẹp và sức sống của mùa Xuân thì nó dễ dàng chia tay chúng ta khi mùa Xuân ra đi. Có một lần, nhân dịp mùa Xuân về, vua Lý Thái Tổ (niên hiệu Thông Thụy) đến thăm Thiền Sư Thiền Lão, khi hỏi thăm về cuộc sống trong chốn thiền môn thì được thiền sư đáp rằng:

“Sống ngày nay biết ngày nay
Còn Xuân thu trước ai hay làm gì!”

Qua câu thơ này chúng ta thấy cuộc sống của Ngài quả là tự tại. Chúng ta vì sống trong sự đối đãi của trần thế, trong sự phân biệt nên không nhận chân ra được mặt thực của cuôc đời. Sự ngộ nhận này khiến chúng ta luân lưu, thăng trầm trong sinh tử và bị cuốn theo thịnh suy của vạn vật. Do đó phiền não cứ vây quanh chúng ta triền miên và bất tận. Đối với thiền sư họ có thể vượt lên trên cái biến chuyển và thăng trầm đó, quý Ngài luôn có một cuộc sống thực tại an lạc. Chính vì có một cuộc sống thực tại và an lạc nên trong quý Ngài lúc nào cũng có mùa Xuân, mùa nào cũng là mùa Xuân. Niềm vui và an lạc trong quý Ngài không phải từ pháp hữu vi đem đến, không vì sự hưng suy của vạn vật mà có. Khi chúng ta còn trẻ, mỗi lần Xuân về luôn rộn ràng trong lòng, khát khao và mong đợi. Có thể là vì nhiều lý do khác nhau nhưng tựu trung vẫn cảm thấy vui và bị cuốn hút bởi mùa Xuân. Vua Trần Nhân Tông đã nhận chân ra được điều này nên viết lên bài thơ rằng:

Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không,
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng.
Chúa Xuân nay đã thành quen mặt,
Nệm cỏ ngồi yên ngắm rụng hồng
Xuân Muộn – Trần Nhân Tông

Như vậy, mùa Xuân là gì trong mỗi người chúng ta, phải chăng đó chỉ là một mùa trong bốn mùa, là quy luật của càn khôn, Đông qua thì Xuân đến, hè tàn thì Thu sang. Nếu chúng ta sống trong sự chọn lựa và so sánh thì niềm vui của chúng ta sẽ mất đi khi Xuân tàn, nỗi buồn và băng giá sẽ ập đến khi Thu sang Đông về. Ở mỗi chúng ta cần thiết sự an lạc tự tại vĩnh cữu, xây dựng trong ta một mùa Xuân miên viễn. Dù Xuân đến hay Xuân đi, dù mùa hè hay Đông chúng ta vẫn luôn an lạc trong giải thoát, luôn tận hưởng hương vị của Đạo. Điều này đòi hỏi mỗi chúng ta cần có chánh kiến. Chánh kiến giúp chúng ta có cái nhìn không bị thiên lệch, đánh tan được mọi cố hữu, cố chấp và huyễn ảo. Nếu được như vậy trong mỗi chúng ta luôn ngự trị một sự tự tại an lạc xuyên suốt thời gian và không gian. Mùa Xuân ấy chính là mùa Xuân không phải của hoa tươi, không phải của ngoại cảnh, không phải của thời tiết tạo nên mà đó chính là thể tánh tròn sáng như câu thơ dưới đây của Thiền Sư Thiền Lão đã dạy:

“Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân"
Thiền sư Thiền Lão


Xuân bất diệt

Ta ghé lại giữa trùng dương ảo mộng

Lê bước hài hoa lác đác theo sau

Chừ ngoảnh lại ngắm mai vàng bên núi

Mới hay chăng Xuân có tự bao giờ.



Xuân bất diệt Xuân thắm tình đạo vị

Xuân thanh cao Xuân huyền diệu lung linh

Ấy hương Xuân trong vô cùng miên viễn

Trong vô vi trong ý đạo nhân tình.

(nguồn: www.ducquanam.com)

Thanked by 3 Members:

#11 Dominique

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 88 Bài viết:
  • 138 thanks
  • LocationEgg.Family

Gửi vào 05/02/2014 - 16:07

Chúc Hongtiem nhận được nhiều yêu thương như suối như nguồn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#12 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 696 Bài viết:
  • 1417 thanks

Gửi vào 05/02/2014 - 18:36

Mưa Rừng

Mưa rừng ơi! Mưa rừng hạt mưa nhớ ai mưa triền miên
Phải chăng mưa buồn vì tình đời,
Mưa sầu vì lòng người Duyên kiếp không lâụ
Mưa từ đâu mưa về làm muôn lá hoa rơi tả tơi
Tiếng mưa gió lạnh về lùa ngoài mành
Lá vàng rơi lià cành
Gợi ta nỗi niềm riêng
Ôi! ta mong ước xa xôi, những đêm mãi cô đơn gửi tâm tư về đâủ
Mưa thương ai ? Mưa nhớ ai ?
Mưa rơi như nhắc nhở mưa rơi trong lòng tôi
Mưa rừng ơi! Mưa rừng
Tìm đâu hỡi ơi bóng ngày xưa
Mỗi khi mưa rừng về muộn màng,
Bóng chiều vàng dần dần tàn
Lòng thương nhớ nào nguôi

ps: Như Quỳnh hát bài này hay thiệt là hay

Thanked by 3 Members:

#13 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 05/02/2014 - 23:19

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Dominique, on 05/02/2014 - 16:07, said:

Chúc Hongtiem nhận được nhiều yêu thương như suối như nguồn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hongtiem cảm ơn lời chúc của chị, chúc chị năm mới với nhiều may mắn, bình an. Hi vọng mọi chị em phụ nữ ngoài việc hoàn thành tốt bổn phận của mình trong gia đình và ngoài xã hội đôi khi hãy tự giành cho mình những khoảng lặng, dù là ít ỏi đủ để khơi dậy những mạch nguồn cảm xúc của tình yêu thương, sự lạc quan và niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai tốt đẹp hơn.

Mến tặng chị cùng chị em bài thơ:

KHAI BÚT GIAO THỪA

Anh thấy không, rét mướt đã qua rồi
Mục thời tiết truyền hình đang báo ấm
Trời đã hửng, mở nụ xuân chầm chậm
Theo tay người hồng lại sắc đào hoa

Sẽ hết dần cóng buốt những ngày qua
Em đi đến bù xù khăn quấn cổ
Anh xa xót nắm bàn tay lạnh gió
Ủ hơi tình mạch nóng chạy sang nhau

Đông trễ tràng nhưng rét đã qua mau
Để xuân đến đúng lập trình trời đất
Lại nồng ấm như mùa xuân thứ nhất
Nắng rộn ràng trên cánh thắm đào, mai

Bao năm rồi kỷ niệm chẳng hề phai
Chưa kịp cũ cả niềm vui, nỗi khổ
Tình yêu ơi vẫn đằm đằm thương nhớ
Phút giao thừa, sau cha mẹ là anh

Phút Giao thừa nước mắt lại long lanh.
Mừng đến đích những mùa xuân em có
Chân đã chạm phù sa đồng châu thổ
Thì tin yêu mãi mãi cả cuộc đời.

Nguyễn Thị Mai



Thanked by 1 Member:

#14 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 05/02/2014 - 23:28

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

pth77, on 05/02/2014 - 18:36, said:



ps: Như Quỳnh hát bài này hay thiệt là hay


Thanked by 2 Members:

#15 hongtiem

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 2031 thanks

Gửi vào 06/02/2014 - 16:31

TẾT NÓI VỀ TRÀ TRONG THƠ

Ở Việt Nam, trà là thứ không thể thiếu từ xưa trong mỗi nếp nhà. Uống trà cùng bằng hữu bên mái hiên thì không gì sánh bằng, có cúc vàng bên dậu, có mướp nở trên giàn, có sao thưa sáng tỏ, có ngõ nhỏ xôn xao, có ao nhà hương ngát, có vằng vặc trăng soi... để ngâm vịnh mấy câu ca, trao nhau ân tình bên chén trà toả hương sen; hương sói; hương nhài thì thật là tiên cảnh.

Trà uống để tiêu khiển, để hưởng nhàn thường nhật, để lòng mình lắng lại những suy tư, chiêm nghiệm cuộc đời, sống chậm để sống sâu sắc hơn, có ý nghĩa hơn trong khi dòng đời đang hối hả, không những thế, trà còn dùng trong việc ngoại giao, tế lễ, cúng tổ tiên, cúng Phật.
Viên Chiêu, thiền sư đời Lý Nhân Tông đã từng viết:
Tiễn chân ai bước đường xa
Miệng cười đưa một bình trà tặng nhau

Trà là hình ảnh quen thuộc như cây đa đầu làng, con đò bến sông, trà không thể thiếu trong sinh hoạt, dù đời sống hiện đại có nhiều thức uống nhưng không thể thiếu quán chè xanh bên đường. Trà trở thành nếp sống văn hóa, đã đi vào lòng dân tộc. Các cụ ngoài Bắc uống trà và ngâm mấy câu thơ:
Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà liên tử ngâm nôm Thúy Kiều

Thi nhân uống trà để cảm thương cho số phận người kỹ nữ trong “Tỳ bà hành” - tiếng đàn trên sông của Bạch Cư Dị:
Khách trọng lợi, kinh đường ly cách
Mải buôn trà sớm tếch ngàn khơi
Thuyền không đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
(bản dịch của Phan Huy Thực)

Trà là nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhà văn, nhà thơ. Trà đã góp cho truyện ngắn “Chén trà trong sương sớm” của nhà văn Nguyễn Tuân một thành công lớn. Trà cũng là để cho thi nhân gửi ý, trao tâm:
Tình ngàn năm vẫn thế
Chỉ có oán hận sầu
Trà ngàn năm vẫn thế
Bát ngát mùi bể dâu.

Thiên hạ ví hoa với mỹ nhân đã nhiều, ông Tú làng Vị Xuyên lại gián tiếp ví trà với mỹ nhân. Mỹ nhân hơn trà chỗ biết nói, trà hơn mỹ nhân ở chỗ biết toả hương, ngọt giọng, mềm môi, lắng đọng lòng người... thật khó mà phân định nặng nhẹ, nhưng giống nhau ở chỗ được nâng niu, trân trọng, cảm nhận và thưởng thức... Nâng chén trà, ít ai uống vội vàng, uống một hơi như người cày đồng về nhà, khát nước, “kéo gáo” bên chum nước mưa, mà thường uống khoan thai, chậm rãi để lắng nghe hương vị của trà: Trà có vị đậm đà? Có hương thơm? Trà lài hay trà sen? Trà ngâu hay trà sói? Trà Lâm Đồng hay trà Bắc Thái? Mạn Hảo hay Ô long... Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đi tìm cái thú thanh cao không kém trong một “Áng hương trà”:
“Hương biếc tràn quanh nắp đậy hờ
Ấm sành nho nhỏ khói lên tơ
Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm
Ai biết mình sen rụng xác xơ”...
(Qua áng hương trà)

Nhà thơ Quách Tấn tiễn bạn ra đi:

“Hương trà chưa cạn chén
hàn ôn
Thuyền đã buông theo tiếng
sóng dồn
Ngắm vợi mây thu ùn
mặt biển
Gác chuông thành cổ đọng
hoàng hôn”.
Vần thơ khiến người trong cuộc bịn rịn tấc lòng, không muốn chia tay nhau. Còn uống chén trà trong sương sớm (Bình minh sở trảm trà) lại là cái thú của người dậy sớm, tận hưởng vẻ đẹp rực rỡ của một buổi bình minh. Uống trà cũng như uống rượu, ít khi người ta chịu uống một mình (độc ẩm). Mà dẫu có độc ẩm thì cũng tìm bạn nơi chính mình (là hai), với vầng trăng tình tứ nữa (là ba). Trong mỗi cuộc trà, tùy theo số người “đối ẩm” mà có tên gọi khác nhau: “Song ẩm” (hai người, có chén tống, chén quân) “tam, tứ ẩm” hay “quần ẩm” (ba, bốn người...).
Các làng quê miền Trung người ta cũng trồng trà, hái trà non một tim hai lá trong sương sớm, bứt nụ trà để biến chế dành cho ngày tết. Các khu vườn, cây trà cao ngang tầm người, thường gọi cây chè, lá dày lớn màu xanh đậm và láng, trổ hoa 5 cánh trắng, nhỏ bằng cúc áo, khi nở, nhụy vàng thơm nhè nhẹ. Ngày hè, ven đường quốc lộ thường có quán nước chè xanh, chè nấu trong nồi đất, múc bằng chiếc gáo dừa, ánh vàng sóng sánh thoảng hương thơm, ngọt chát. Nâng chiếc bát chiết yêu uống từng hớp nhỏ, ngọt ngào tình đất, rưng rưng tình người. Dừng chân bên quán nước, người lính trẻ Quang Dũng uống bát trà xanh nóng làm vơi cơn khát, dịu bớt nhọc nhằn. Tiếp tục hành quân lên đường, nhưng vẫn còn vướng đọng bóng giai nhân:
Tiền nước trả em rồi nắng gắt
Đường xa choáng váng núi và mây
Hồn lính vấn vương vài sợi tóc
Tôi thương mà em đâu có hay
(Quang Dũng )

Trà đã đưa nhà thơ Tùy Anh trong những ngày viễn xứ, trở về với nếp sống Cố đô Huế bên bóng dáng mẹ hìền, bát nước chè xanh đầy hương vị quê hương, với tình mẫu tử thiêng liêng cao như trời, rộng như biển, không thể phai mờ trong khung trời kỷ niệm !
Bát nước chè xanh
Mẹ dành cho mỗi sáng
Con thường uống cạn trước khi đến trường...
Con đã xa khung trời kỷ niệm
mỗi lần nhớ bát nước chè xanh
Nhớ về mẹ có đôi mắt trìu mến
Vẫn còn in trong bát nước long lanh...
(Tùy Anh )

Xuân về trong ba ngày tết, nâng tách trà nhớ lại xuân xưa, bên quê nhà với muôn vàn kỷ niệm, chắp cánh dư âm từ tiềm thức trở về chốn cũ quá vãng, mãi còn ngân vang trong lòng người viễn xứ, uống trà đàm đạo để sống lại với hồn quê hương sông núi. Cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, lại ung dung tự tại, cuộc đời nhàn hạ vui thú với gió trăng:
Khi vườn sau, khi sân trước
Khi điếu thuốc, khi miếng trầu
Khi trà chuyên năm ba chén
Khi Kiều lẩy một đôi câu.

Đại văn hào Nguyễn Du thưởng thức trà với tâm sự:
Khi hương sớm lúc trà trưa
Bàn lan điểm nước đường tơ họa đàm
Các nhà Nho, dù có một cuộc sống đơn giản mấy đi chăng nữa, vẫn không thể thiếu trà trong cuộc sống thường nhật. Trà giúp các nhà Nho có thêm chất liệu cho cuộc sống tinh thần, làm lòng mình thêm lắng dịu, bù đắp giá trị tinh thần cho nếp sống thanh đạm:
Mai sớm một tuần trà.
Canh khuya dăm chén rượu
Mỗi ngày mỗi được thế
Thầy thuốc xa nhà ta ...

Lê Quý Đôn quan niệm về nghệ thuật uống trà “Một chén lòng sạch bong, hai chén lòng phơi phới, đến chén thứ bảy thì dưới hai cánh tay như có cánh thổi lên làn gió mơ màng..”. Có người cho rằng uống như vậy thì hơi nhiều, nhưng chén trà của các cụ là chén mắt trâu, chén hạt mít. Uống trà là một thú vui tao nhã, ý nghĩa thật mênh mông, tâm hồn thăng hoa đến bất tận.
Nhấp ngụm trà thơm khà một tiếng
Trăng vàng rớt xuống đáy ly nghiêng
Quỳnh hoa hương ngát đầy cõi mộng
Có phải ta vừa lạc chốn tiên ...

Người ta có thể uống trà một cách im lặng và nhiều khi sự im lặng đó ẩn chứa nhiều điều. Trà đồng nghĩa với sự sảng khoái, tỉnh táo, tĩnh tâm để mưu điều thiện, tránh điều ác.
Trong sự gấp gáp nhịp sống đô thị hôm nay mấy ai uống trà cầu kỳ, nghiêm cẩn như pha trà bằng nước mưa, nước giếng mà Nguyễn Tuân đã miêu tả? Ai đi thuyền hứng nước lòng lá sen, ủ trà trong từng bông búp sen chưa nở? Ai mỗi sáng đun nước bằng than hoa, tiểu đồng hầu trà, chỉ vài ba chén mắt trâu thay cho bữa sáng? Tìm được một nơi thanh tịnh, bỏ lại phía sau bao ưu phiền, nhọc nhằn, toan tính để thưởng ngoạn chén trà cùng tâm tình “trà tam rượu tứ” kể không phải dễ... Có còn không một phòng thưởng thức trà mà khi bước qua cửa, ẩm khách “lội” qua dòng nước, “dẫm” qua hàng sỏi để gột rửa, giũ sạch bụi trần dư tạp để bước vào không gian trầm mặc của trà thất mà cứ ngỡ lạc vào “cửa thiền”?

Nhẹ nâng một chén trà Thiền
Bình tâm nhìn khói ưu phiền thoảng bay
Cuộc đời - một giấc mộng say
Trăm năm nhìn lại... Mới hay...
Vô thường !
(Thiền trà - Thiện Hùng)

Trà là tri âm, tri kỷ: Ta-hương trà-bóng trăng nữa là ba. Nhưng cũng có khi trà mang đến cho ta tình huynh đệ giữa những người cùng sở thích, âu đó cũng là một hạnh phúc:
Cứ ngỡ trọn đời chỉ mình ta
Cô liêu quạnh bóng giữa hương trà
Đâu ngờ men đắng đưa người đến
Huynh đệ sum vầy một tiếng ca
(Tri âm trà )
Cũng có khi không cần phải tìm kiếm đâu xa những tri âm hay tri kỷ. Người hiểu ta, thương ta, lo lắng cho ta như là mẹ, bao dung như là chị, nũng nịu với ta như là em gái, người mà bình đẳng với ta trong mọi lo toan gánh nặng cuộc đời , hành trình trọn kiếp, người mà xa thì ta nhớ mong, gần thì ta hờn giận... đó là vợ ta vậy. Tác giả Tràm Cà Mau đã cho ta cảm nhận một buổi trà ban mai như vậy:
Cùng em nâng chén trà hương
Khi ngày mới chớm khói sương mịt mờ
Trăm năm thu ngắn một giờ
An vui hạnh phúc bên bờ thần tiên

Thơ ca về trà đã nhiều, thơ về trà cụ (dụng cụ pha trà) cũng không kém phần phong phú: ”nhất thuỷ nhì trà tam pha tứ ấm” Thái Bá Tân có những câu thơ thế này:
Để uống trà thơm bên gốc bách
Rửa chén hàng ngày trong suối tiên.
Là người sành uống trà, chắc ai cũng từng nghe nói:
Thứ nhất Thế Đức gan gà
Thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần

Thế Đức, Lưu Bội và Mạnh Thần là 3 loại ấm pha trà làm bằng đất Tử sa, ngoài ra màu ấm và khay ấm phải là “ấm da tru, khay gỗ gụ”.

Chỉ là một chén trà thôi mà biết bao triết lý nhân gian lắng đọng: Trà kinh-Trà luận-Trà đạo-Trà thiền... để rồi chúng ta lại có dịp thưởng thức những thi phẩm bất hủ, triết lý nhân gian qua mỗi chén trà.
(ST)

Thanked by 3 Members:





Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |