Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
MinhHuyen, on 23/02/2014 - 23:08, said:
hihi .quẻ địa thuỷ sư ,minhhuyen xin có ý kiến :
Hảo 1
: Sư xuất dĩ luật.Phủ tàng hung.
luật ở đây là không chỉ là hình luật ,mà còn xét luật tự nhiên .của tạo hoá .Tại vì khi tập hợp quân đội chiến tranh , ẩn chưa nguy cơ nhiều mặt,nặng nhất là tổn thất về máu.nước mắt,tài lực ,nên phải xét kĩ lưỡng nhiều yếu tố có nên tiến hành chiến tranh không ( vế này ngay chương 1 binh pháp tôn tử đã bàn đến ,tóm gọn : Biết người ,biết ta .Có rất nhiều cuộc chiến tranh sai ngay từ khâu hoạch định ,mục đích,bất chính nghĩa rút cuộc nhận lại kết cục bi thảm ,Chủ Phủ không nghĩa kho tàng ,mà chính là che phủ ( bị bịt mắt ) .Hào 1 âm nhu ,nằm ở vị trí sơ độn .trước mắt là 1 hào dương ,giống như mới bắt đầu việc chưa thể rõ ràng , nên ham hở mà tiến bước ,giống như mấy anh nông dân chỉ biết nghe theo lời cán bộ tổng động viên đi lính ,hăm hở nghĩ lập công về được địa vị nên gap nguy hiểm trước mặt mà ko biết .tức phủ tàng hung đó ,nên lời chú trên chỉ xét ở 1 một phương diện ,Nếu không vì ko kho tàng ,của cái thì phát động chiến tranh làm gì ,mà nuôi quân ko cần tiền .lương thảo cung cấp thì sao mà đánh được ,nên Hào 1 này Dịch kinh đại toàn ( Nguyễn Văn Thọ ) chú :
Sơ Lục. Sư xuất dĩ luật. Phủ tang hung.
Tượng viết:
Sư xuất dĩ luật. Thất luật hung dã.
Dịch. Sơ Lục:
Xuất quân cần có phép.
Nếu không hung họa sẽ tới nơi.
Lời chú này bao quát được mọi khía cạnh của vấn đề ,Trước khi muốn đổi mới bất cứ cái gì ,thì nên tìm hiểu tại sao những người đã đi trước lại chú giải thế ,sao ko giải theo nghĩa đen của tử phủ trên tinh ôn cố trí tân .chứ ko nên rũ bỏ sạch hết,nên dùng câu này thay câu chú giải trên
Minh Huyền chỉ tạm góp ý hào 1 ,để mọi người bàn luận,Hôm nay MH cũng mới đi xa về ,người khá mệt ,nhưng không nhịn được phải nói lên ý kiến của mình .chẳng biết mọi người hiểu sao là kinh dịch nguyên thuỷ ,chứ càng ngày càng thấy nó sa vào chữ mà quên ý ,lời từ ko bám sát tượng ,mà Văn vương viết lời từ là sợ người sau ko rõ tượng mà chú vô
Chúc mọi người vui vẻ
ý kiến của Minhhuyen về hào 1 quẻ sư rất đáng để bàn luận . Thật ra hiểu như cách cổ điển mà Minhuyen đưa ra không hại gì cho toàn quẻ nhưng javary chú như sau về từ nguyên :
1/ luật có nghĩa là luật lệ nhưng nghĩa đầu là nốt nhạc , nên ông ấy dịch là ra quân phải theo điệu nhạc. Ảnh hưởng thay đổi không lớn nhưng nguyên thủy hơn .
2/ phủ : có nghĩa là " có hay không ?", Dịch là chẳng cũng được như tiếng Việt còn những từ như phủ nhận, phủ quyết ...
3/ tàng/ tang : nghĩa là thiện , tốt nhưng nghĩa ban đầu là nô lệ , tù binh từ đó chuyển sang nghĩa món hàng, kho tàng ( viết khác một chút ) rồi sang nghĩa hiện hành đã nói: thiện, tốt. Cho nên dịch theo trung cổ ( Chiến quốc trở đi ) thì như cổ điển nhưng dịch theo thượng cổ thì phải như Javary đã dịch .
Còn về ý kiến lời xa tượng thì minhHuyen không đọc hay có đọc nhưng không phá chấp được là Tượng có trước nhưng mà là tượng lục quái với tên quẻ đi kèm ; lời quẻ, lời hào là có từ thời Tây Chu.
Để tôi viết tóm gọn lịch sử hình thành từ Bốc Phệ của Chu Dịch cho mọi người rõ khi có thì giờ. Còn bây giờ tôi chỉ nhắc sơ lại lịch sử tư tưởng chú giải Chu Dịch mà nay học giả TQ hay QT nào cũng đồng ý để quí bạn đừng chấp vào cái gọi là tượng .
1/ Chu Dịch có từ thời Tây Chu 2/ Âm Dương có từ Trâu Diễn ( Xuân thu, Chiến quốc) và Thái cực có trong Hệ từ (XTCQ) 3/ Hồng Phạm nói về Ngũ hành có từ Chiến quốc hay Tây Hán 3'/ Đổng Trọng Thư tổng hợp Âm dương với ngũ hành 4/ các tam quái xuất hiện vào thời cuối Chiến Quốc đầu Tây Hán (bản Mã vương Đôi ) 5/ Giảng Chu Dịch theo Hoàng Lão (hữu/ vô) là từ Vương Bật ( Tam Quốc) 6/ Thái cực đồ là từ Bắc Tống (Chu Đôn Di rồi sau đó Thiệu Ung (bói toán) 7/ Khí là của Trương Tái, nhân của Trình Hạo (nhân ở đây không còn là nhân của thầy Khổng ), lý là của Chu Hi (khuếch trương) thới Tống do chịu ảnh hưởng của Phật học 8/ tâm là từ Vương Dương Minh (Minh) rồi Vương Phu Chi (đầu Thanh) cũng chịu ảnh hưởng của phật học .
Các bạn nên tìm đọc Cổ sử biện của nhóm Cố Hiệt Cương nếu biết hán ngữ, nếu không thì đi tìm TQ triết học sử của Hồ Thích, của Phùng Hữu Lan (
cả 2 từng được dịch ra tiếng Việt) và ở VN thì có Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê cũng dùng được (Nho giáo của Trần Trọng Kim thì không bàn về Dịch chút nào nhưng rất hay về lịch sử tư tưởng nho gia ).các sách này hơi bị cổ nên không đủ cập nhật nhưng sách mới hơn thì tôi chỉ biết bằng Pháp ngữ.
TB1: tôi quên ông Nguyễn văn Thọ thì đề nghị trong tứ tượng thì trong thái dương là thiếu dương và Thái Âm là thiếu âm chứ không như cổ điển trong dương tiềm âm và ngược lại.
TB2 : Tượng là để tóm tắt hay để đưa ra 1 hệ thống tư tưởng nào đó .Nên giảng Dịch theo tam quái là chịu ảnh hưởng của hệ thống Bát quái vì vậy không thể là nguyên thủy được .Với lại tôi đã lập lại nhiều lần dùng tượng quên lời thì sẽ làm mất sự phong phú của Chu Dịch nữa vì Chu Dịch là tinh hoa của tư tưởng thời Tây Chu nên nó bàn về chính trị, sách lược, binh pháp, và nhất là cách tiếp thế , xử thế và sửa mình . Cứ chỉ theo cái vũ trụ quan đóng của hệ thống bát quái thì chỉ được cái phần Hình nhi thượng mà mất phần Hình nhi hạ .Nếu bỏ hết lời thì tôi đố các bạn chỉ dùng bát quái (dù thêm âm dương trung chính ) mà giảng được quẻ Tỷ là đồng minh lập hội thề , quẻ Sư là thời chiến và binh pháp, phép dùng người nằm ở bên trong .
TB3: Nói thêm cho rõ: thái cực được đề cập trong hệ từ nhưng không có nói đến bát quái , cho nên Thái cực đồ với thái cực , lưỡng nghi, tứ tượng , bát quái là phát kiến mới.
Và các Dịch truyện , trong đó có Hệ từ , là những lời bàn về Chu Dịch nguyên thủy là của hậu thế nhưng sau này người ta gộp với lời quẻ, lời hào vào thành Kinh Dịch .
Sửa bởi nguy: 24/02/2014 - 04:02