Để nắm được những điểm trọng yếu trong sách này, yêu cầu phải có một nền tảng nhất định về kiến thức của môn Nhân Tướng, vì vậy sách không dành cho người mới tập làm quen với môn này.
Các câu phú được đánh số lần lượt từ 1 đến 267, bên dưới là phần chú giải. Theo lời văn thì sách vốn có vẽ hình nhưng bản của QNB có thì chẳng thấy cái hình nào cả. Cảm phiền độc giả tra cứu thêm ở các sách khác hoặc cùng nhau thảo luận đối với các danh gọi để biết thêm thông tin.
--------------------------------------------------
NHÂN TƯỚNG PHÚ
Tác giả: TRẦN - KHANG - NINH
LỜI DẪN
Nhân tướng phú gồm hai quyển, do Trương Hành Giản, người đời Kim soạn. Hành Giản tự là Kính Phủ, người ở Nhật Chiếu, Doanh Châu. Từng giữ chức Thượng thư bộ Lễ, Hàn lâm học sĩ, Thừa Chỉ thái tử thái phó; được tặng tước Ngân thanh vinh lộc đại phu. Lúc qua đời, được ban thụy Văn Chính. Tiểu sử Hành Giản được biên chép trong Kim sử.
Hành Giản suốt đời làm quan trong phạm vi bộ Lễ, có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Thiên văn, Thuật số. Sử sách có ghi, những tác phẩm về văn chương có tới 15 quyển. Các sách Lễ liệt toản gồm 120 quyển, bao gồm các loại: triều hiến, tang táng, hội đồng. Với các tên sách: Thanh đài, Hoàng hoa, Giới nghiêm, Vi thiện, Tư công, được cất giữ cẩn thận trong nhà, mà không chịu cho lưu hành ngoài đời. Cho nên trong các sách Thiên khoảnh dường thư mục, của Hoàng Ngu Tắc, đều không thấy ghi chép gì về Nhân luận đại thống phú, người đã soạn ra nó. Chỉ riêng trong Vĩnh Lạc đại điền, thì có ghi rõ là Hành Giản soạn. Lại còn viết rõ, Tiết Diên Niên, tự là Thọ Chi chú giải. Cuối bài tựa, có viết: “Hoàng Khánh nhị niên, Hoàng Khánh là niên hiệu của Nguyên Nhân Tông, là triều kế tiếp của nhà Kim. Những lời này không thể sai. Chỉ có điều, những bản khác, bỏ thiếu những dòng này.
Sách này, ghi chép những điều về tướng pháp, nội dung ngắn gọn, rõ ràng. Cho nên, trong bài tựa, Diên Niên cũng nói: Những điều khái quát, thiết yếu, trên dưới ba nghìn từ. Thu tóm hết những điều thiết yếu nhất về tướng thuật. Thứ tự khái lược nhưng rành mạch. Tưởng không phải là những hư ngôn. Sách nói rõ thuật tướng, không một lời rườm rà, khoa trương. Ngoài ra, có chép thêm những lời bàn của nhà Âm Dương học.
Sách được biên soạn dựa trên các sách cổ của Trung Hoa cổ đại nói trên, có lời chú của Diên Niên rõ ràng, tường tận. Khi đã đạt được điều này, người chú chua thêm những kiến giải khác, nhưng không đến nỗi lan man.
Chúng tôi biên soạn cuốn sách này nhằm đem đến cho độc giả vốn kinh nghiệm và tri thức cổ của cổ nhân với ý nghĩa là sách tham khảo, để quý vị độc giả thêm hiểu biết và có cách nhìn về quan niệm nhân thế của người xưa nhất là người Trung Hoa cổ…
*****************
1 – QUÝ TIỆN ĐỊNH Ư CỐT PHÁP
Con người ta, xem quý tiện được quyết định ở phép xem cốt, ở cốt tướng
Phàm con người ta , bẩm khí của trời đất kết tụ ở người mẹ lại mà thành thai. Hiền ngu, quý tiện, đời người ngắn dài, gặp gỡ cát hung, đều do ở xã hội và cốt tướng quyết định. Cốt là vua, là chủ, thịt là bề tôi, là kẻ dưới. Thịt, xương cùng bổ trợ cho nhau một cách hài hòa thì có quý tướng. Các đầu xương mà lộ ra , lồi ra, thịt da vừa mỏng vừa yếu, thì tất ở địa vị thấp hèn. Chính vì vậy, bần tiện, phú quý, đều do hoàn cảnh sống và sinh khí trời cho mang tới, dẫu quỷ thần cũng không thể thay đổi. Bậc hiền thánh cũng chẳng thay đổi được.
Tống Tể Khâu, trong Ngọc quản chiếu thần có nói: Xương khớp giống như vàng đá, cần to lớn, thanh nhã mà không nên cong vậy, cần tròn trặn mà không nên thô lỗ. Người béo không nên đến mức như đeo thêm thịt. Kẻ gầy thì không nên đến độ lộ cả xương khớp. Thịt và xương phải tương xứng với nhau. Khí và sắc phải tương hòa với nhau mới là phúc tướng. Cốt cách lạnh, phát triển không đủ, không chết yểu thì cũng bần hàn. Ở bên trái của nhật giác, ở bên phải của nguyệt giác, mà có xương nổi lên thì gọi là kim thành cốt. Người này có thể lên tới ngôi công khanh. Ấn đường mà xương cũng nổi lên như vậy, chạy mãi tới vùng thiên đình, thì gọi là thiên trụ cốt, nổi lên tới thiên đình cũng cao như vậy, thì gọi là phục tê cốt, đều có thể chiếm ngôi tam công. Tuy có tướng cốt như vậy, nhưng lại cần có các bộ vị khác có phù hợp không, nếu không, tuy có phúc, sống lâu, nhưng không quý. Xương quyền ở gò má, kéo ra tới tận tai, gọi là ngọc lương cốt, chủ về thọ khảo. Từ cánh tay trên cho tới khuỷu tay, gọi là long cốt; tượng trưng cho vua, nên vừa dài vừa lớn, từ khuỷu tay cho hết bàn tay, gọi là hổ cốt, tượng trưng cho bề tôi, lại nên vừa ngắn, vừa nhỏ. Đại phàm cốt tướng, cần phải rắn chắc nhưng nở nang tròn trặn. Cao thẳng mà lại nhịp nhàng. Kiên cố mà không thô lỗ. Đấy mới thực là tướng cốt vững vàng vậy. (1)
(1) Nguyên văn của Nhân luận đại thống phú rất ngắn gọn. Chúng tôi đặt lui vào nhiều và gạch chân. Những lời chú dài hơn nhiều, cụ thể hóa những nhận xét tổng quát của Hành Giản. Vì vậy chúng tôi đặt lui ra lề hơn. Những lời chú này nếu của chính người chú là Diên Niên thì thường ngay sau lời kinh của Hành Giản và không có xuất xứ. Chúng tôi phân biệt nhưng lời chú của những người, những tác phẩm khác nhau này bằng cách trừ ra một hàng (Tất cả các chú thích như thế này, nếu có đều là của người dịch L.V.Đ)
Sách Thanh giám viết: Cần phải biết rằng xương quyền có bốn trường hợp khác nhau: Thứ nhất là nó kéo dài ra phía sau cho đến tận tai, đó chính là điềm sẽ sống lâu. Trường hợp thứ hai là xương quyền, kéo mãi lên thiên thương. Trường hợp thứ nữa là nhô cao hẳn lên, hoặc là quyền kéo về phía râu cằm. Cả ba trường hợp sau, đều trở thành những viên quan giám sát thuộc sứ, là quan lớn thống trị một địa phương.
Sách Tạo thần lục thì chép: Mũi cao, xương quyền đầy đặn, nở nang, chính là cốt tướng của con người đường hoàng, quân tử.
Sách Thông tiên ngữ thì viết: Xương quyền đầy đặn, cao như núi, ngọc chẩm cũng như vậy, thì con người này chính là bậc hiền thần của triều đình.
Thành Hòa Tử thì bảo: “Những xương này tuy đầy đặn, nhưng không được cao nhọn, mặt mày nở nang, nhưng không được đầy thịt. Nếu không, cũng chỉ thành một viên lại, viên quan dung tục, tầm thường. Có người lông mày thưa, đôi mắt đẹp, trong sáng, thần khí thanh cao, tất sẽ trở thành trí thức. Có người da thô, đầy thịt, xương cốt nặng nề, thần khí dơ bẩn, thì chỉ có thể là hạng chân lấm đất, tay đầy bùn. Có kẻ xương cốt nhẹ nhàng, nhưng da thịt mỏng thì sẽ là người thợ. Còn kẻ xương thô, thịt dày thì chắc chắn là người buôn bán. Những kẻ cổt khí đầy đặn, sáng láng, tinh thần thong dong, thì sẽ có một cuộc đời vui vẻ. Cốt đẹp, thịt mỏng, tinh thần lộ ra ngoài, thì đời sống đầy lo buồn.
Mặt thì đen, nhưng thân người thì trắng là quý tướng thứ nhất.
Mặt thô, nhưng người lại nhỏ nhắn là quý tướng thứ hai.
Tay dài chân ngắn, là quý tướng thứ ba.
Người nhỏ, nhưng tiếng lớn là quý tướng thứ tư.
Long cốt vừa to vừa dài, nhưng hổ cốt nhỏ nhắn, là quý tướng thứ năm.
Mặt ngắn nhưng mắt dài, là quý tướng thứ 6.
Không hề có mùi hôi mà lại có mùi thơm là quý tướng thứ 7.
Trên đỉnh đầu, có núm thịt nổi lên là quý tướng thứ 8.
Lưng nổi như mai rùa là quý tướng thứ 9.
Ngồi một mình như dáng núi, là quý tướng thứ 10.
Nếu ngược lại những điều này, thì là những tướng xấu. Ngoài ra tướng xấu còn là: đỉnh đầu nhọn, sơn căn gãy hãm, xương lương tiết chạy ngang, chóp mũi vừa nhọn vừa nhỏ. Một người vừa có bộ mặt với thần sắc khác thường, không có khí thái, nói không ra tiếng, đó chính là một tướng cách thật đê tiện.
Sách Nguyệt ba động viết: Ngọc chẩm, phần trên dưới của hai tai là bách hội. Phía trước hai tai là trán. Phía sau là não. Phía trước của não là tinh đường. Phía sau là ngọc chẩm. Xương ngọc chẩm này được chia ra làm hai mươi mốt loại, nhưng đều là công hầu phú quý cả. Các dạng cụ thể của tướng ngọc chẩm này được trình bày như sau:
Xa trừu chẩm, sách Linh đài bí ngữ nói rằng: tướng này, thuở niên thiếu khốn khó, nhưng đến trung niên thì hưng thịnh, về già thì suy yếu.
Ngưỡng nguyệt chẩm: tính tình cứng rắn, đây cũng là quý tướng.
Phúc nguyệt chẩm: tính tình nhu hòa, cẩn thận, nhưng thiếu quyết đoán.
Bối nguyệt chẩm và phương cốt chẩm: cũng là quý tướng nhưng thấp hơn.
Nhất tự chẩm: tính thành tín, cương trực, quý tướng.
Thập tự chẩm: tính nóng vội, hay nói nhưng không để ý, không kiên định, cũng là quý tướng.
Hồi hoàn chẩm: cũng gọi là xa phúc chẩm, ông nội, cha con đều quý hiền.
Tả triệt chẩm và hữu triệt: sống lâu, được hưởng thừa sự nghiệp của tổ tông, cũng quý tướng nhưng không nhiều.
Tam quan chẩm: trong một nhà thế nào cũng có người này người khác hiển đạt.
Kê tự chẩm: tính tình nóng vội, cực đoan, luôn luôn cho mình là đúng.
Sơn tự chẩm: thành tín, cương trực, cũng có tên là hoàng sơn nhất tự chẩm.
Liên chẩm, cũng có tên là liệt hoàng chẩm: nối liền với xương ngọc đường, quý hiển, trường thọ, tính tình bất thường.
Phẩm tự chẩm: người này thanh nhã, nhiều tài văn chương nghệ thuật, danh giá, tự trọng cao.
Huyền châm chẩm và thùy châm chẩm, còn có ngọc chẩm: đều là tướng sống lâu.
Tử tôn chẩm: được gần với bậc cao quý, có lộc, nhưng không có quan.
Đinh tự chẩm: tính tình khoan hòa, được gần bậc tôn quý.
Yêu cổ chẩm: được tôn quý ngay từ lúc niên thiếu, nhưng tính tình không bình thường, sự nghiệp lúc thành lúc bại, lại hay phản phúc.
Như châu chẩm: được gần người quý hiển, nhưng tính tình viễn vông.
Thượng tự chẩm: chí cao, gan lớn, thành bại thất thường, cũng có một ít quan lộc, quý tướng nhưng không nhiều. (2)
(2) Những loại ngọc chẩm này, chúng tôi vẽ từng loại một theo đúng nguyên bản chữ Hán
Sách Kinh viết: Phàm người ta khi sinh nở ra mà có ngọc chẩm, đều là quý tướng. Như các bậc tăng đạo, nếu có ngọc chẩm, tuy không quý, nhưng sẽ được trường thọ. Phàm người ta, có ngọc chẩm, nghĩa là hậu chẩm cốt, chỉ cần nổi lên thành xương, đều là tướng sống lâu, có tài tiền, có lộc. Nhưng nếu chỗ cao chỗ thấp không đều, thì cũng khó mà có được lộc thọ. Phụ nữ mà có được ngọc chẩm, thì cả đời được tôn quý.
Sách Linh đài bí quyết viết rằng: Ở lúc còn trai trẻ, đầu mà có quý cốt, thường được chia làm 13 loại khác nhau:
Hoa cáo cốt, cốt cách cao quý, tôn trọng quỷ thần, tin tăng đạo.
Phong trì cốt: chủ về văn chương, tính tình ôn thuận.
Liên phong cốt: chủ quý.
Hành sơn cốt: gần được bậc quý hiển, thanh nhàn, hay giao kết với tăng đạo, trong nhà đông đầy tớ, cũng lập được ít nhiều công danh, nhưng không lớn.
Thấu đính cốt: chủ quý nhưng không yên ổn.
Tả toàn giác cốt: chủ có công danh trong nghề võ.
Lưỡng bách hội cốt: chủ về việc kiếm ăn nơi xa, tứ phương tám hướng tiền tài dồn về.
Lưỡng hổ nhĩ cốt, chủ dũng cảm oanh liệt.
Lưỡng ngọc đường cốt: trường thọ, nhưng không thích nghi lúc về già nên tắc hãm.
Về trán cũng chia làm 33 loại khác nhau:
Nhật giác: được gần bậc tôn quý, tổ vinh hiển.
Nguyệt giác: được gần bậc tôn quý, bà nội vinh hiển.
Phục tê: là tướng đại quý.
Phụ chủng cốt, là điềm lăng mộ tổ tiên phong thủy tốt, cố nội có quyền thế.
Thanh lăng cốt: thanh danh hiển diệu mà lại cao quý, nhàn hạ, hay đi lại với bậc tăng đạo.
Phòng tâm cốt: có thể hiển đạt về mặt văn chương, nghệ thuật, thanh danh hiển diệu.
Nội phủ cốt: chủ tài lộc, hiển quý, quan tước hách dịch.
Lưỡng quyết môn cốt, chủ quyết đoán, tính tình cương trực, mãnh liệt.
Lưỡng cửu quá cốt: tính tình cương liệt, nhưng thường tin những điều mê tín.
Lưỡng biên địa cốt: thích nghi với việc phát triển ở nơi xa.
Lưỡng sơn lâm cốt: chủ về việc lập lăng mộ cho tổ tiên.
Trung chính cốt: chủ việc hiển đạt mẹ cùng vợ con, cùng nội ngoại tổ tiên đều được quý hiển.
Ngọc linh cốt: là dự triệu của tính tình cương liệt, tính tình cương trực nhưng cô độc, quyết đoán.
Lưỡng phó mi cốt: vợ con, gia tài không nhiều nhưng thanh cao, quý hiển, danh cao nhưng chức nhỏ.
Lưỡng long giác cốt: tiếp cận được kẻ hiển quý.
Lưỡng cương cốt: tính cách mãnh liệt cứng rắn, không hòa đồng được với người thân, không thích hợp với ngôi cao.
Lưỡng chiến đường cốt: chủ quý, có công về binh nghiệp, dũng cảm.
Tư không cốt: thích nghi với việc bình thường, yên ổn, cuối đời có thể tắc hãm, tỏ lộ ra ngoài thường gặp chuyện dữ.
Thiên trung cốt: thích nghi với ngôi cao, hiển đạt, tiếp cận được quý nhân, tổ tông uy nghi hách dịch, ít gặp rắc rối.
Thiên đình cốt: thích nghi với ngôi cao, không hay gặp chuyện tắc hãm.
Ấn đường: điềm có quan tước, quyết định tính cách của con trai, con gái không hay gặp chuyện phá tán tắc hãm.
Sơn căn cốt: chủ về hôn nhân, tiền của.
Lưỡng quyền cốt: chủ về chức quyền.
Mệnh môn cốt: men theo nghiệp tiền nghiệp.
Lưỡng hiệp cốt: tính cương quyết, thích hợp với việc làm ăn nơi xa.
Lưỡng kiên cốt: chủ về việc mua bán xuất nhập.
Thọ cốt: chủ việc trường thọ, thích hợp với những việc ngay thẳng, không hợp với những việc lộ liễu, tắc hãm.
Lưỡng mệnh môn: thích nghi với cảnh ôn hòa, bình thản, sáng láng, nhuận trạch, tướng tốt lợi.
Vị hạn, địa các: chủ về điền địa, phòng ốc.
Lưỡng kiêm cốt: chủ về xuất nhập, buôn bán, thịnh vượng, tốt.(3)
Lưỡng hổ nhĩ cốt: ở bên dưới hai tai, thì chủ về việc dũng cảm, sống lâu.
(3) Hình như tác giả nhầm: Lưỡng kiên cốt đã nói bên trên.