Jump to content

Advertisements




lá số của cháu giống ngô thì nhâm mà sao đen đủi vậy


2 replies to this topic

#1 kinhduong

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 225 Bài viết:
  • 189 thanks

Gửi vào 30/06/2011 - 22:35

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trích dẫn

Cây Tre


Sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần giờ Thìn
Mệnh khắc Cục nhưng nhờ Sinh phùng vượng địa.


Thế Âm Dương

Tử Vi: Tại mão hãm
Phá Quân: Tại hợi hãm đắc Tuần
Thái Dương: Tại Tí hãm
Thái Âm: Tại dần hãm

Phân Kim

Cả 1 thế trận này các sao chính đều hãm hay bình trừ Thiên Lương, nên yếu tố tự Hóa đóng vai trò quyết định.

Mệnh Thiên Lương thuộc dòng Phá Quân nên vị trí của Phá Quân và Thái Âm quyết định thành bại cuộc đời. Xét dòng Tử Vi trước, Thái Dương cư Tí như Nhật trầm thủy để, giống như triều đình nhà Lê đương thời giềng mối đổ nát, đã có vua còn có chúa, trung với ai đây. Tử Vi tại Mão như vua Hiển Tông bị chúa Trịnh Tham Lang tước hết quyền hành.

Trong khi đó, Thái Âm hãm tự Khoa, Phá hãm gặp Tuần phản vi kỳ. Chính nghĩa rõ ràng thuộc về dòng Phá Quân giống Tây Sơn vậy đó, mà Thiên Lương nương theo dòng Phá Quân để đi trong cái bối cảnh thế trận loạn lạc này thì thức thời vụ giả vi tuấn kiệt vậy. Thân có Âm tự Khoa sáng suốt để nhận định thời cuộc mà không xu thời, mà Thái Âm lúc này lại Nhị Hợp Phá Quân, nên cái chí hướng theo Tây Sơn chắc đã có từ lâu nên khi Nguyễn Quang Trung ra bắc thì Ngô Thời Nhậm quy thuận và dốc lòng phò tá.

Nói cho có bối cảnh ví dụ vậy, chứ bản đồ Tử Vi nhỏ xíu làm sao bao quát bối cảnh chính trị thời đại được, cũng như không thể chia tam hợp Mệnh là ta và tam hợp Di là địch tại vì cái nào cũng là ta hết.

Tóm tắt sự thành bại sẽ có ở lá số này:

Mấu chốt:

Thiên Thời: Phá Quân ngộ Tuần phản vi kỳ

Địa Lợi: Âm hãm tự Khoa để sáng suốt nhận định thời cuộc

Nhân hòa: Thiên Lương độc miếu và một đám tinh đẩu ngon lành theo phò tá.

Quý Cách:

Mệnh Cách: Thiên Lương cư ngọ ngộ Văn Xương hóa Khoa, Tam Kỳ giao hội có Tuế Hổ Phù củng, Tả Hữu, Quyền Lộc chiếu.

Thân Cách: Cơ hóa Quyền, Âm tự Khoa, Long Phượng chiếu lại ăn Song Hao dần thân đúng tuổi dần.

Quan Cách: Đồng hãm hóa Lộc, giáp Khôi Việt, Thai Tọa thủ chiếu nhất là Tam Thai tượng là Tam Công lại thêm Phụ Cáo thì có phen đeo ấn phong hầu.

Tổng hợp lại, với các bộ sao như vậy thì phải ngồi ngôi Tam Công hoặc tệ lắm cũng là Đại Tư Đồ, Đại Trủng Tể (Chức quan to thời Tây Sơn, cở thủ tướng, phó thủ tướng), nhưng tại sao chỉ ngồi tới ngôi Tả Thị Lang? Chức vụ cao nhất cụ thể thì không rảnh để tra sách, nhưng ngày xưa CT đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì thấy hình như tuy Ngô Thời Nhiệm là một yếu nhân của lịch sử nhưng chưa giữ chức to, nếu nhớ không lầm thì chỉ đến Thượng Thư hay Học Sĩ gì đó, phụ trách ngoại giao. Dầu là chức Thượng Thư đi thì vẫn không là gì hết nhất là trong nền chính trị Tây Sơn: Quân đội và Hoàng thân quốc thích cầm quyền. Chức Thượng Thư theo quan chế thời Tây Sơn thì thua xa Thượng Thư thời Nguyễn. (Thượng thư tức hàm Bộ Trưởng)

Thời Tây Sơn, trên Thượng Thư còn có Tam Công, Đại Tư Đồ, Đại Tư Khấu, Đại Tư Lệ, Đại Tư Nông, Đại Tư Mã, Thái Úy...nói chung là các chức quan của thời chính trị quân phiệt trung ương phân quyền. Nên quyền lực chảy đến chức Thượng Thư thì đâu còn bao nhiêu.

Thời Nguyễn không có lập tể tướng tam công, nên chức Thượng Thư to kinh khủng lắm, có thể nói là to nhất trong các triều đại Việt Nam vì nền chính trị nhà Nguyễn là trung ương tập quyền và vai trò của hoàng tộc trong chính trị tương đối yếu, trên Thượng Thư chỉ có vài đại thần trong Cơ Mật Viện thôi.

Đến đây thì chúng ta có thể thấy rằng chức của Ngô Thời Nhiệm tiên sinh trong triều Tây Sơn cũng không phải là chức lớn, có thể chỉ tương đương với chức của Nguyễn Công Trứ thôi, khó có thể gọi là hiển vinh đúng theo những quý cách mà Mệnh, Thân và Quan của ông có.

Như vậy thì phải có phá cách.

Ngô Thời Nhiệm xuất thân từ dòng dõi thư hương họ Ngô Thời nên cung Phúc Đức của ông thể hiện rõ những nét của con nhà thư hương.

Chính bản thân ông cũng thừa hưởng tiếng tăng của dòng họ và phụ thân. Khi đặt tên ông là Nhiệm, phụ thân Ngô Thì Sĩ đã đặt kỳ vọng rất nhiều, chữ Sĩ khi thêm một nét ở trên đầu thì thành chữ Nhiệm, nghĩa là con hơn cha nhà có phúc vậy. Mệnh nhị hợp cung Phụ Mẫu, đủ cách rồng bay phượng múa, 2 cung Nhị hợp này có đủ Thanh Long, Long Trì, Hóa Kỵ, Lưu Hà thành cách Long Vân Tế Hội phản ánh rõ nét sự kế thừa của bố và gia tộc mà tiến thân trên đường hoạn lộ cả về tài năng lẫn tiếng tăm.

Năm 17 tuổi, đang trong vận cung Phụ đã đổ đầu thi Hương
Năm 21 tuổi sang vận cung Phúc Đức, đường khoa bảng tiến lên 1 bước cao hơn, đỗ Sĩ Vọng. Không rõ Sĩ Vọng là khoa gì, vì Khoa Chế ngày xưa rất phức tạp, đổi tên hoài nhưng nội dung không khác bao nhiêu, không biết có chuyển đổi tương đương thi Hội được không. Năm 27 tuổi đỗ tiếp Tiến Sĩ cũng trong vận cung Phúc Đức có Long Phượng, Xương Khúc, Song Hao Dần Thân toàn là Thông Minh Khoa Bảng cách.

Nhờ Lương Xương Khoa Quyền Lộc Tả Hữu, thân thêm Thái Âm cũng hóa Khoa nên Ngô tiên sinh có tài năng xuất chúng kiêm quân sự lẫn chính trị ngoại giao. Năm 1788 nếu không có kế của Tiên Sinh chủ động rút chủ lực ta về Biện Sơn, Tam Điệp thì chắc không có cái thế chuẩn bị cho đại thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu của vua Quang Trung.

Lúc đó, quân Thanh mới sang, nhuệ khí tràn đầy, hơn hẳn ta về quân số lẫn uy thế chính trị vì mang tiếng đưa vua Lê Chiêu Thống về nước mà. Cũng nên nhắc lại là lòng người Bắc Hà khi ấy không phục nhà Tây Sơn, trong lòng sĩ phu Bắc Hà chỉ biết có nhà Lê. Khi Ngô Thời Nhiệm ra làm việc cho nhà Tây Sơn, ông đã bị cả dòng họ tẩy chay. Với 1 lòng người như vậy thì nếu Ngô Văn Sở, tổng binh Tây Sơn tại Bắc Hà, theo kế của Nguyễn Văn Dụng dốc binh để đánh thì thế nào cũng gặp cảnh ngoại xâm nội phản mà thua trận thôi, khi thua trận đầu, uy thế quân Thanh sẽ càng lớn hơn nữa, có thể làm nhụt nhuệ khí chiến đấu của toàn quân, thêm vào đó tuyến phòng thủ Bắc Hà bị tan nát thì địch sẽ Nam Tiến như nước vỡ bờ, chúa Nguyễn trong Nam sẽ thừa cơ khởi binh đánh tới, Tây Sơn sẽ rơi vào thế Lưỡng Đầu Thọ Địch, cả 1 cục diện sẽ sụp đổ.

Như vậy mới thấy kế của Ngô Thời Nhiệm chủ động rút quân, tuy đơn giãn nhưng rất sâu sắc, có thể ảnh hưởng toàn bộ cục diện chiến tranh. Đó là cái đầu óc chiến lược của Cơ Lương, cái hiểu biết vừa rộng vừa sâu của Xương hóa Khoa, cái nhìn của Âm tự Khoa.

Hiến kế lớn an bề xã tắc, công to dường ấy, tài giỏi dường ấy, nhưng sau này khi vua Quang Trung băng hà, vai trò chính trị của Ngô Thời Nhiệm lại trở nên mờ nhạt vì nền chính trị cách mạng thời Quang Trung dần dần chuyển sang chính trị quý tộc quân sự thời Quang Toản. Triều đình Tây Sơn chia ra năm phe bảy phái, quyền hành chính trị do ngoại thích Thái Sư Bùi Đắc Tuyên lủng đoạn, phe tướng tá thì chia hai hệ, hệ Vũ Văn Dũng với Trần Văn Kỷ, hệ Trần Quang Diệu với Bùi Thị Xuân. Còn Ngô Văn Sở là Tổng Binh Bắc Hà năm xưa, xếp cũ của Ngô Thời Nhiệm thì bị Vũ Văn Dũng dìm xuống nước chết. Thử hỏi một kẻ sĩ Bắc Hà trong một triều đình đặt tại Huế chia năm xẻ bảy như vậy, Vua Quang Trung người tin cẩn mình đã băng hà thì còn ai biết tài Ngô Thời Nhiệm mà sử dụng. Xếp cũ thì bị hãm hại, tuy rằng sử không nói, nhưng mình cũng có thể ngầm hiểu là Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm là 1 cánh, thì xem như cánh của Ngô Thời Nhiệm gãy rồi, vua Cảnh Thịnh thì còn thơ ấu.

Từ đây ta có thể tạm rút ra nhận xét là dưói thời Cảnh Thịnh, Ngô Thời Nhiệm tiên sinh bị thất thế bị nghi kỵ, phần vì là người Bắc, phần là vì người Tài nên dẫu có làm quan cũng không có quyền lực chi tương xứng với tài năng. Chứ nếu ông là người có thực quyền thì với tài năng đó, đâu có khiến cho triều đình Tây Sơn sụp đổ sớm vậy.

Xét lại các phá cách trong lá số của Ngô Tiên Sinh, ta thấy có 2 nét chính ảnh hưởng đến đường công danh và cái chết của tiên sinh vào năm 1803 khi Bắc Hà thất thủ.

Thứ nhất ảnh hưởng đến công danh bất như nguyện là sao Hóa Kỵ ám hợp rất kỵ cho bộ Xương Khúc gặp phải. Thiên Lương cư Ngọ hội Văn Xương vị chí Tam Thai, cung Quan cũng có sao Tam Thai nhưng quan vị thực tế chẳng đến đâu, có phải vì Hóa Kỵ?

Sao Hóa Kỵ có 1 ảnh hưởng cực kỳ mạnh trong lá số của Ngô Tiên Sinh dù rằng Hóa Kỵ tại mộ địa và đã gặp Thanh Long nhưng ảnh hưởng xấu vẫn rất lớn.

Vì Tiên Sinh sinh vào khoảng Thượng Huyền, cung Quan an tại Tuất và sinh Tháng 9 nên ảnh hưởng của Hóa Kỵ trên đường quan lộc là rất lớn, hay bị người ta nghi kỵ và nhất là làm hoen ố sao Văn Xương đang rất đẹp tại Ngọ mà ảnh hưởng chủ yếu là trên đường Quan Lộc (cung Tuất). Đúng là "Nhất tiện quá cửu quý" vậy. Đây là phá cách nặng nhất.

Nét thứ 2 là Kình Dương thủ mệnh tại Ngọ, giáp biên có Liêm Tướng Hình Kỵ, tương tự như cách Hình Tù Giáp Ấn, rất may là Thiên Tướng đã bị Triệt nên không còn là Ấn nữa, chứ nếu không thì khó tránh khỏi cảnh "Quan to thì họa càng to".

Ngẫm nghĩ thực tế cách này thì cũng đúng, Liêm Trinh hóa Kỵ tại cung Phụ, Tướng Hình tại Huynh ôm lấy cung Mệnh. Dòng họ của Ngô Thời của Tiên Sinh có truyền thống trung với nhà Lê, anh em của tiên sinh là Ngô Thì Chí còn tham gia phe phò Lê chống Tây Sơn nữa. Bản thân tiên sinh thì bị khai trừ ra khỏi dòng tộc. Với một lí lịch nhà Lê như thế thì tiên sinh làm sao tránh khỏi cảnh bị nghi kỵ trên quan trường! Nếu tiên sinh làm quan Tam Công, có thực quyền trong tay, khi ấy biết đâu các phe phái khác lại moi móc cái lí lịch nhà Lê của dòng họ và anh em ra để kết án tiên sinh mưu phản thì sao?

Dĩ nhiên, chuyện qua rồi, ngồi đọc lại mà nghiền ngẫm thì mới thấy cái thế trời ơi đất hỡi, chứ có ai đưa một lá số tương tự cho CT xem thì bảo đảm là nhìn không ra!

Khi vào vận 54-63 (1799-1808) đánh dấu 1 sự xuống dốc của triều đại Tây Sơn. Năm 1801 Cảnh Thịnh chạy ra Bắc đổi niên hiệu là Bảo Hưng. Năm 1802 Bắc Thành thất thủ, nhà Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn. Các võ tướng Tây Sơn đều bị xử tử, riêng các quan văn thì chỉ bị mang ra Văn Miếu đánh đòn rồi tha, có người được phục chức trở lại như Phan Huy Ích, riêng Ngô Thời Nhiệm vì có thù oán riêng với Đặng Trần Thường, đang là Phó Tổng Trấn Bắc Thành của Gia Long, nên bị Đặng Trần Thường đánh đến chết. Ngô Thời Nhiệm là quan văn duy nhất của nhà Tây Sơn bị giết sau khi Tây Sơn sụp đổ.

Vận này tại cung Hợi là tuyệt địa của mệnh Hỏa, Cục Kim vốn khắc mệnh, đến Vận Hợi bị Bệnh nhưng ngộ Tuần nên không thực Bệnh mà có lực làm tiêu hao mệnh Hỏa vốn dĩ đã rất yếu tại cung Hợi. Chính Tinh chủ vận đều là Kim Thuỷ đều tác hại cho hỏa mệnh tại đây. Về phần sao thì có Linh Tinh hãm địa là khắc tinh của Cơ Lương làm thành bộ Linh Xương Vũ còn thiếu Đà nhưng có Kình tại mệnh bổ túc vào nên không tránh khỏi họa hình trượng tù ngục mà chết, chết rất thảm vì có Kiếp Sát. Cái nét của Kình Dương khi chết cũng rất kiêu hùng. Lúc đó Đặng Trần Thường ngông nghênh đánh Ngô Thời Nhiệm và ra câu đối:

"Ai công hầu, ai khanh tướng, trên trần ai, ai dễ biết ai."

Nghe ý câu đối thì biết là Đặng Trần Thường muốn xả giận rửa nhục thôi chứ chưa có sát khí, chỉ có ngạo khí. Vì ngày xưa lúc Đặng Trần Thường còn hàn vi, cũng bị Ngô Thời Nhiệm xem thường, nên bây giờ Đặng Trần Thường làm nhục lại.

Phan Huy Ích lúc đó cũng bị đòn chung, Phan Huy Ích chắc cũng nhận ra ý tứ của Thường nên khuyên Ngô Thời Nhiệm nên chịu trận đừng trả lời cho xong, nhưng Ngô Thời Nhiệm đối lại là:

"Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, thế thời thế, thế thời phải thế."

Nghe ý tứ thì cũng đã rõ là Ngô tiên sinh ngạo khí cũng chẳng kém ai. Lâm thời thế bại trận thì phải chịu vậy thôi, chứ nếu Tây Sơn thắng thì coi chừng "Ai sẽ dễ biết ai." Câu đối trên cơ của người bại trận này dĩ nhiên là làm Đặng Trần Thường tức giận thêm mà đánh đòn cho đến chết. Cái họa Kình Dương cư Mệnh gặp hạn Linh Tinh là vậy chăng?

"Tam phương hữu xung sát, hạnh nhất Tuần nhi khả bằng"
Ân Quang-Thiên Quý, Thiên Quan, Tứ Đức cũng không giải nổi hạn này chăng? Mệnh Hóa Khoa là đệ nhất giải thần mà? Có lẻ vì năm 1803 là năm Quý Hợi? Tiểu Hạn năm Hợi tại cung Mùi cũng quay về gặp Hóa Kỵ.

Hết
Theo tôi năm sinh của Ông Ngô Thời Nhậm còn nghi ngờ chưa nói đến ngày tháng và giờ. Cũng theo bài trên, CT2004, Ông Ngô Thời Nhậm sinh năm Bính Dần (1746). Ông đổ tiến sĩ khóa Ất Mùi 1775 cái nầy thì không sai, nhưng trong bài viết Ông đổ tiến sĩ năm 27 tuổi thì không phải năm Ất Mùi. Theo tài liệu tôi biết thì Ông Ngô thời Nhiệm đổ tiến sĩ năm 29 tuổi. Cũng tài liệu đó thì trong vụ án năm Canh Tí (1780) thì Ông Ngô thời Nhiệm đúng 34 tuổi. Hai sự kiện nầy ghi đúng năm thì năm sinh của Ông Ngô thời Nhiệm sẽ là năm 1747. (đời xưa kể tuổi là kể năm AL, sinh ra kể 1 tuổi liền). Trong cuộc đời Ông Ngô thời Nhậm có 2 sự kiện đáng lẽ phải thể hiện trong lá số mà CT2004 không nói ra = giết 4 ông cha (tự tử (a); bị Đặng Trần Thường căng nọc ra mà đánh tại Văn Miếu (nhưng không phải đánh chết - như trong bài) , sau đó Ông uất ức mà chết. (a) Người đời bĩu môi : sát tứ phụ nhi thị lang, trung yên vấn hiếu (giết 4 cha như thị lang, trung thì có đó rồi, hiếu đâu?)
CT rất cám ơn bác TLê đã đặt ra nghi vấn. Về ngày giờ sinh, CT lấy theo Vietshare, CT nghĩ rằng dòng dõi NTN là nhà Nho nên có sự ghi chép cẩn thận, nhưng cũng không loại trừ khả năng đời sau làm lại cho đẹp, tạm thời CT tin vào khả năng thứ 1. Phần 27 tuổi là do CT tính lộn (tính nhẫm), sinh năm 1646 đỗ TS năm 1675 thì tính tuổi ta là đúng 30 tuổi. Về 2 điểm lớn mà bác đặt ra. Về điểm a> Giết 4 cha, CT chưa đọc được tài liệu này. Nhưng tin là có chuyện. Lúc xem lá số NTN, điểm băn khoăn lớn nhất là chữ Trung tuy chưa biết đạo Hiếu ra sao. Vì nếu theo quan niệm Nho Gíao xưa thì "Trung thần bất sự nhị quân", "Bang hữu đạo, cốc. Bang vô đạo, cốc. Sỉ giả" (Luận ngữ: Nước có đạo cũng ăn lương, nước vô đạo cũng ăn lương. Điều xấu hổ), thì NTN tiên sinh trước làm quan nhà Lê, nhà Lê đãi không bạc, sau làm quan Tây Sơn, khi Tây Sơn mất nước lại không chết theo Tây Sơn mà ra đầu hàng cùng với Phan Huy Ích, rồi sau đó chịu nhục như ta thấy. Thì chữ Trung của Ngô tiên sinh thật sự có vấn đề. Nhưng khi đứng trên quan niệm hiện đại thì lại ngừơi ta lại có 1 cái nhìn khác nhất là những người có công chống ngọai xâm, nên trong lúc viết dù rất muốn đặt vấn đề chữ Trung của NTN tiên sinh với chữ Trung của Lý Trần Qúan và Ngô Tùng Châu. Cả ba đều là văn nhân cùng thời. Nhưng lại nghĩ mình không phải sử gia và cũng không biết phải đứng trên lập trường nào để đánh giá, và nhất là khi chưa có đủ tư liệu (Viết theo trí nhớ) mà kết án danh nhân vội vã qua 1 lá số tử vi thì lại sợ mắc sai lầm, nên phần đó CT không viết đến. Nhưng quả thật là đã suy nghĩ rất nhiều về Kình Dương tại mệnh và Hóa Kỵ tại Phụ. Về điểm b> Theo tư liệu CT đã đọc thì NTN bị Đặng Trần Thừơng đánh chết.

lá số của cháu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


cháu hỏi lá số này công danh thế nào ạ? giống nhau đến 90% mà cháu thấy công danh của mình lập lờ lắm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(

#2 JB6462

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 52 Bài viết:
  • 31 thanks

Gửi vào 06/07/2011 - 06:42

Một điều đơn giản là tử vi chỉ để xem cho vui chứ làm sao trúng được? Nếu trúng thì mấy chục ngàn lá số giống Obama sao phải ngồi chơi xơi nước! Mấy thầy có thể nói vì mồ mã khác, nếu vậy anh chị em sanh đôi cùng năm tháng ngày giờ, cùng cha mẹ, cùng mồ mã thì tính sao? Nói đến đó thì thầy số có thể nói: vì DƯƠNG ĐỨC khác nhau. Nhưng vì sao đương đức lại khác nhau vậy cà? Thí dụ cái giờ ngày tháng năm sanh đó thì có thiên lương ở ngọ, vậy thì cũng thiên lương ở ngọ mà kẻ là lương tâm của trời đất, còn kẻ là dâm loạn xxx không chán như buna? Hể là chiếc xe thì phải chạy trên bờ, chiếc ghe thì ở biển, đừng nói là vì tại bị được chiếc ghe tốt thế mà ở trên xa lộ tốc hành của Mỹ nên cũng...như không!

#3 DIMATTEO

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 321 Bài viết:
  • 276 thanks

Gửi vào 09/07/2011 - 19:09

Bạn ui! Số cụ Ngô thì Nhậm cũng đen như Mực mà!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Có phải tốt đẹp gì đâu!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn








Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |