Lá số và cuộc đời của Diễn viên sân khấu Ngọc Hương
Luận đoán Thiên Cơ
Sinh năm Nhâm Ngọ
Ngày 25 tháng 10 Giờ Dần
Dương nữ, Mộc mệnh, Thổ ngũ cục.
KHÁI LUẬN MỆNH – THÂN - CỤC
Mệnh Mộc lập tại Dậu thuộc Kim là khắc nhập, nên buổi sơ sinh cho đến tuổi chớm vào đời gặp nhiều bất ổn về gia cảnh của mẹ cha ( tuổi Ngọ thuộc Hoả, mệnh Mộc lập tại Kim là phải ly hương, tự lập). Nhờ mệnh Vô chính diệu đắc tam Không, hội Khoa Lộc, Khôi Việt, Tả Hữu, Thai, Toạ và Đào, Hồng, Hỉ, Dưỡng phùng « Nhật xuất lôi môn » Thêm vào đó Thân cư Quan Lộc tại Sửu thuộc Thổ hợp với Thổ ngũ cục có Tả, Hữu, Quang, Quý, đắc địa ngộ Hoá Khoa là gặp quý nhân và gặp nhiều may mắn trên lĩnh vực ca kịch.
NHÌN QUA NHỮNG CUNG NỔI BẬT
Cung Mệnh : Mệnh Vô chính diệu đắc Tam Không, nhờ có Đào, Hồng, Hỉ, giúp tiền Cái hậu Mã và ngộ Khôi, Việt, Khoa, Lộc thành thử Ngọc Hương duyên dáng và được khán thính giả ái mộ. Hiềm vì Lộc bị triệt nên tiền bạc tuy dồi dào nhưng tụ tán thất thương, nhất là dưới tuổi 35, khi vận chưa ảnh hiểu nhiều vào Cục và Thân. Từ 36 tuổi trở đi Triệt giảm khả năng án ngữ, bấy giờ Thái Dương sẽ tỏ tạng, các quý và cát tinh Khôi, Việt, Tả, Hữu cũng đến lúc phát huy tinh lực dồi dào hợp với Khoa, Lộc, Thai, Toạ, đưa đến cho Ngọc Hương cuộc sống dư giả về tiền bạc và danh vọng, cũng không gặp nhiều thăng trầm như buổi đầu ( Tài bạch cũng được Khoa, Lộc (tồn), Tả, Hữu, Thai, Toạ hội chiếu đắc « Nguyệt lãng Thiên môn », phùng Nguyệt Đức).
Cung Phu quân : Lập tại cung Mùi có Quang Quí đắc gia hội Thai, Toạ, Khoa, Khôi, song Lộc, Tướng, Ấn và Nhật Nguyệt tịnh minh phùng Đào, Hỉ, Thiên Nguyệt Đức. Thân lại cư cung Quan lộc là cung giao huy trực tiếp với cung Phu : danh vọng và thân thế gia đình của Ngọc Hương đều khởi sắc từ ngày lấy chồng, và cũng do chồng hướng dẫn và phát huy năng khiếu độc đáo về ca diễn đồng thời tạo cho nàng vầng hào quang ngày càng sáng chói trên trên sân khấu miền Nam (đặc điểm tốt đẹp của Khôi, Quang Quí, Tả Hữu, Thai, Toạ, song Lộc). Tuy nhiên chỉ vì Tả, Hữu chiếu cung Phu ngộ Thiên Không cho nên Ngọc Hương phải chịu làm kẻ đến sau và có Quang Quí cho nên người chồng phải nhiều tuổi hơn mình mới có hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên, Mộc mệnh cho nên hạnh phúc vẫn gặp nhiều sóng gió.
Cung Phúc đức : lập tại cung Hợi thuộc Thuỷ sinh phù cho Mộc Mệnh, có Thái Âm toạ thủ là cách « Nguyệt lãng Thiên môn » Phùng Khôi, Việt, Thiên Nguyệt Đức hội Quang Quí, song Lộc ngộ Đào, Mộc, Hỉ, Lâm quan. Nhờ cung Phúc rât hợp với Mộc mệnh đồng thời tạo năng khiếu nghệ thuật cho Ngọc Hương từ trong huyết thống ( thân sinh của Ngọc Hương là nghệ sĩ nổi danh thời trước).
Cung Thiên di : Lập tại Mão thuộc Mộc là tương hợp với mệnh Mộc, có Thái Dương toạ là cách « Nhật xuất phù tang », phùng song Lộc, Đào, Hồng, Hỉ, Quang, Quí, Thanh Long, Lưu Hà là một bước ra đường được người đưa kẻ đón, là danh vọng ngày càng lừng lẫy. Hiềm vĩ bị Triệt là hành Kim án ngữ tại cung Mộc làm cho vầng Thái Dương bị mây che ám, khiến cho tuổi thơ Ngọc Hương gặp nhiều lận đận, nếu không làm con nuôi người khác thì cũng bị khắc với một trong song thân. Ngày càng lớn, Triệt giảm khả năng án ngữ, trả ánh sáng lại cho Thái Dương, và cũng ngày càng lớn, khả năng án ngữ của Triệt bị mất dần ánh sáng của Thái Âm ở Phúc Đức mới chiếu sang Thiên Di, song Lộc và Quang Quí giao huy được với nhau, dang vọng của Ngọc Hương mới chiếu sáng trên vòm trời ca kịch.
NHÌN QUA CÁC ĐẠI TIỂU HẠN
Ngọc Hương lúc còn nhỏ rất thông mình đĩnh ngộ được nhiều người mến là nhờ mệnh Vô chính diệu đắc tam không, ngộ Hồng, Đào, Dưỡng, Hỉ, phùng Khoa, Lộc, Khôi, Việt. Nhưng phải chịu long đong gia cảnh chỉ vì Hồng Đào chiếu mệnh ngộ Kiếp, Không và Dưỡng ngộ Tuần, nếu không làm con người khác tất nhiên phải khắc cha, thì mới tránh khỏi nạn yểu vong vào những năm tiểu hạn nhi đồng ở Tật Ách (3 tuổi), và Nô bộc (7 tuổi). Tuổi này khắc cha vì sinh ban ngày, Thái Dương miếu địa bị Triệt và trực diện với mệnh là gốc đại hạn từ sơ sinh cho đến năm 14 tuổi.
Đại hạn từ 15 – 25 tuổi, gốc ở cung Huynh Đệ. Đây là hạn Sát Phá Tham hãm ngộ Tuần, chẳng những không hợp mà còn hợp với mệnh Vô chính diệu, thêm vào đó còn có Mã, Sinh, Vương, Khốc, Khách, Xương, Hỉ, phùng Cáo, Phụ đã giúp Ngọc Hương gặp nhiều may mắn sớm gặt hái thành cồng trên lĩnh vực sân khấu. Đẹp nhất trong đại hạn này là năm 19 tuổi, tiểu hạn đến cung Phụ Mẫu có Long, Phượng, Hổ, Cái, hội Quan Phúc quý nhân và Tướng Ấn ngộ Khoa. Năm này Ngọc Hương về đoàn Thủ đô và gặp Thu An, tên tuổi Ngọc Hương vụt sáng trong những vở hát đặc sắc : Sầu quan ải, Chiếc áo ân tình, Tiếng trống sang canh…của Thu An. Tiếp theo đó, năm 20 tuổi, tiểu hạn đi vào Mệnh ( vô chính diệu đắc Hồng, Đào, Hỉ, ngộ « Nhật xuất phù tang » hội Khoa, Lộc, Tả, Hữu, Khôi, Việt, Thai, Toạ) tiếng hát Ngọc Hương từ sân khâu lan tràn sang địa hạt đĩa nhựa và Đài phát tranh truyền đi khắp nơi, thu hút nhiều cảm tình của khán thính giả bốn phương. Năm 21 tuổi, tiểu hạn trùng phùng với đại hạn tại cung Huynh đệ, Mã ngộ Khốc, Khách, Sinh, Vượng, và Xương, Hỉ phùng Cáo, Phụ ( Sát Phá Tham lạc hãm ngộ Tuần trở nên tốt đẹp đối với mệnh Vô chính diệu) Ngọc Hương bước lên ngôi vị danh vọng tột đỉnh trên lĩnh vực ca kịch miên Nam, để rồi đế năm 22 tuổi, tiểu hạn vào cung Phu, lưu đại hạn đến cung Phụ mẫu. Năm này, Quang, Quí, Khoa,Lộc, Thai, Toạ phùng Quan Phúc, Long Phượng, Hổ, Cái, Quyền, Ngọc Hương cùng chồng lập đoàn Hương Mùa Thu, danh vọng và tiền bạc thật dồi dào cùng lên một lúc.
Thế rồi đến năm 23 tuổi, tiểu hạn đến cung Tử tức, gặp Tử Phủ Vũ Tướng, những chính diệu này không hợp với gốc đại hạn Sát Phá Tham và mệnh Vô chính diệu gặp Hình, Diêu ngộ Tuế, Kị, Kình, Đà. Lưu đại hạn vào Mệnh có Không Kiếp, tiểu hạn có Hoá Quyền, các hung tinh phá tán, chẳng những tiền bạc mà cho đến vấn đề dang dự cũng bị tổn thương. Đến năm 24 tuổi, tiểu hạn vào cung Tài bạch có Cơ, Cự, Đồng lạc hãm ngộ Linh, Hoả, Kiếp, Không, Toái, Sát, Tử, Tuyệt xâm nhiễm. Hạn lại đi vào cung Tị thuộc Hoả, Hoá Khoa và Thái Âm không chiếu sáng được, một mình Lộc tồn và Thiên giải không hoá giải nổi khiến cho Ngọc Hương bị hao tán tiền bạc vào những tháng đầu năm.
Đại hạn 25 – 34, gốc 10 năm này ở cung Phu quân tuy gặp nhiều phúc và quý tinh như đã luận ở trên, nhưng cung này thuộc Thổ bị mộc Mệnh khắc, lại gặp Thiên Không, hội lưỡng Kiếp, Tử Vi bị Tử, Tuyệt xâm nhiễu, thành thử danh vọng gặp nhiều nỗi thăng trầm, tiền bạc cũng tụ tán thất thường. Gặp những năm khởi sắc như Ngọ (1966) Mùi (1967) được Long, Phượng, Mã, Cái, Khốc, Khách, Sinh, Vượng, và song Lộc ngộ Nhật Nguyệt, Hồng, Đào, Hỉ, Thiên Nguyệt Đức, vừa phù lên thì tiếp theo thì năm Thìn (1968) bị Hoá kị, Tuế, Hình, Diêu, Tang, Đà phá tan. Đến năm Dậu (1969) Linh, Kiếp, lưỡng Không xâm nhiễu Tả Hữu cùng Cự Đồng lạc hãm, nhờ có Quang, Quí, Thai, Toạ phùng Thiên giải, Hoá Khoa hoá giải nhiều tai hoạ và giúp Ngọc Hương sinh con gái được mẹ tròn con vuông cũng là điều đáng mừng. Qua năm Tuất (1970) gặp hạn Kình, Hình, Cô, Quả, Tang, Điếu, Tuế, Hư khiến trong gia đình gặp nhiều buồn lo, nếu không sẩy thai thì trong họ cũng có tang khó. Sang năm Hợi, hạn gặp song Lộc ngộ Nhật Nguyệt tịnh minh phùng Khôi, Việt, Quang, Quí tuy có hanh thông vận hội hơn những năm qua, nhưng Hoả Linh ngộ Tuyệt, khiến cho bao nhiêu tiền bạc sắp vào trong tay, bị tiểu nhân đố kị phá tán. Làm cho những dự đính lớn lao của Thu An, Ngọc Hương ( vì năm nay tiểu hạn giao huy ở cung Phu quân cho nên ảnh hưởng đến vận hạn của chồng) tan thành mây khói. Để rồi qua năm Tý (1972) tổ chức của Thu An lại tiếp tục dựng đồ án ( vì có Long, Phượng, Hổ, Cái) nhưng vẫn bị cản trở ( Đà, Kị ngộ Hình, Diêu, Thương sứ, La võng) khiến cho những dự định, những lời hưa đều nằm trong ảo giác. Vào những tháng cuối năm, Ngọc Hương cố vươn lên, cố tình phục vụ nghệ thuật, đi công tác với đoàn Lý Dạ Hương, rốt cuộc cũng gặp nhiều thị phi khẩu thiệt, lời tiểu nhân đố kị tài năng, và điều quan trọng là xa rời bàn tay phù thuỷ của Thu An thì chiếc đèn thần Ngọc Hương không thể chói sáng (bởi Thân cư Quan lộc có Quang, Quí, Tướng, Ấn ở Phu quân hội Tả Hữu, Thai Toạ ngộ khoa).
Đến năm Quý Sửu (1973) tiểu hạn vào cung mênh, vì năm Quý cho nên Kình, Đà lưu niên chiếu vào gốc đại hạn ở Phu quân, 2 hạn hội đủ lưỡng Không, lưỡng Kiếp, Hoả, Linh, Tử, Tuyệt hợp nhau phá tán khiến cho Thu An, Ngọc Hương hết sức cố gắng khôi phục lại bảng hiệu Hương Mùa Thu với nhiếu sáng kiến độc đáo cũng không vượt nổi hoàn cảnh (Kình, Đà, lưỡng Kiếp, lưỡng Không) bi đát hiện tại của sân khấu nói chung. Chỉ khởi sắc ở Thủ đô mấy ngày rồi đành phải tan rã trong những ngày lưu diễn. Trong tháng 11 sắp đến đây, Ngọc Hương còn phải cẩn thận kẻo tiêu nhân vẫn còn lăm le phá hoại hạnh phúc gia đình nữa. Tháng Chạp sẽ gặp cơ hội tốt cho công việc làm ăn và dịp tốt để phục vụ nghệ thuật, gia đình về ăn Tết vui vẻ hơn năm vừa rồi.
LUẬN ĐOÁN TIỂU HẠN NĂM GIÁP DẦN ( 1974)
Tiểu hạn vào cung Huynh đệ, lưu đại hạn cũng trùng phùng tại đây. Tuy có gặp Sát Phá Tham hãm nhưng có Tuần làm cho bọn hung tinh này sinh phò cho mệnh Vô chính diệu. Vào những tháng cuối năm sẽ gặp nhiều may mắn bất ngờ, lại có dịp tạo lập lại đoàn Hương Mùa Thu. Tháng Giêng phòng hao tai, đừng tin bạn, cho mượn tiền hoặc chơi hụi hàng phải cẩn thận kẻo nhầm lẫn hoặc mất tiền. Tháng 2 vẫn phải đề phòng bạn bè, đừng tin cả bạn trai lẫn bạn gái, đừng đi xe 2 bánh để ngã xây xát chân tay. Tháng 3 có người bàn chuyện làm ăn với chương trình quy mô, vẫn nằm trong dự định nhưng cứ xúc tiến. Tháng 4 cẩn thận giữ gìn hạnh phúc gia đình. Tháng 5 tiền bạc dễ chịu, lại có quý nhân bàn vẽ làm ăn có quy mô, vẫn nằm trong dự định nhưng cứ xúc tiến. Tháng 6 phòng ốm đau vào những ngày đầu tháng, cuối tháng gặp vài cơ hội tốt trên lĩnh vực nghệ thuật. Tháng 7 nên xúc tiến việc làm ăn với quý nhân. Tháng 8 công việc có thể thành hình đấy. Tháng 9 công việc gặp nhiều khả quan, cả hai vợ chồng đều nhẫn nại chịu đựng hoàn cảnh. Tháng 10 nhiều cơ hội tốt đến tay, thành hay bại là do sự hoà hợp của vợ chồng. Tháng 11 công việc đã đi đến kết quả, nhưng có thể vì một chút nóng nảy có thể đổ vỡ. Tháng Chạp, mọi việc làm ăn cũng như dự định của chương trình quy mô đã thành hình, nhưng lại có một vài lủng củng trong hạn phúc gia đình, nhất là giữa hai vợ chồng cần phải thông cảm để tránh sóng gió có thể rạn nứt con thuyền hạnh phúc. (Cô, Quả ngộ Tham, Đà)
KHHB 74 B1 ( ngày 20/2/1974)