Gửi vào 14/06/2015 - 16:58
Một cách tổng quát, tất cả các chính tinh đều thích cát tinh Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc Long Phượng Hổ Cái Đào Hồng Hỷ Lộc Quyền Khoa hơn Không Kiếp Kình Đà Linh Hỏa Hình Diêu Kỵ. Tuy nhiên, cân phân chi tiết thì có khác biệt. Giữa Lộc Tồn và cát hóa Lộc Quyền Khoa thì nhóm sao dương TPVT SPT thích Lộc Tồn hơn Hóa Lộc. Điều này thể hiện qua dấu vết các câu phú như “Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh”. Tại ngọ chính vị đế tinh với can Giáp Đinh Kỷ có Lộc Tồn. “Tử Vi nam Hợi, nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng”. Giáp Lộc Tồn tại dần Nhâm Lộc Tồn tại hợi. “Tử Phủ đồng cung vô sát, Giáp nhân hưởng phúc chung thân”. Tất nhiên có thêm Lộc Quyền Khoa thì Tử Vi không chê, nhưng tiên quyết là Lộc Tồn, so cả Lộc Quyền Khoa thì Giáp ở dần ưu hơn Canh ở thân vì tuổi Giáp Liêm Lộc Vũ Khoa còn tuổi Canh chỉ có Vũ Quyền. “Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy mỹ cát nhi vô đạo, vi nhân tâm thuật bất chính” cho thấy rõ nhất khi so sánh với Lộc Tồn. Ngộ Dương Đà có nghĩa là không có Lộc Tồn, thì dù có Lộc Quyền đẹp đấy giàu sang phú quý đấy nhưng là người tâm thuật bất chính. Tử Vi cần Lộc Tồn, cần chính vị hơn cả quyền lộc. Đức vua cần được ở đúng vị, tiền quyền tự đến. Điều này tương đồng với Tuế Hổ Phù. Vũ Khúc Liêm Trinh sách không nhấn mạnh đến vị trí Lộc Tồn tùy thiên can như Tử Vi, chúng ta thấy người xưa đâu có quên, hay chỉ quên khi cần quên. Tất nhiên cần nhắc lại, gặp được Lộc Tồn và Khoa Quyền Lộc không sao nào chê, nhưng tùy sao mà cái gì là tiên quyết.
Đến Thiên Phủ Thiên Tướng. Ta biết hai sao này không có tứ hóa. Phú có viết: “Thiên Phủ tuất nhân vô sát tấu. Giáp Kỷ nhân hoạnh phát danh tài” hàm ý Thiên Phủ thích Lộc Tồn, thêm tuổi Giáp Liêm Lộc Vũ Khoa, tuổi Kỷ Vũ Lộc như vậy Thiên Phủ ở tuất có song Lộc. Tuổi Đinh tuy có Lộc Tồn nhưng bị loại vì không có cát hóa, khác với Tử Vi ở ngọ, tuổi Đinh cũng được kể. “Thiên Phủ cư ngọ tuất Thiên Tướng lai triều. Giáp nhân nhất phẩm chi quý”. “Phủ Vũ tý cung, Giáp Đinh nhân tọa, phúc vượng danh ba. Hung lai Tuần Triệt, danh xú nhân khi ư Canh Nhâm tuế, tài phúc trường thành.” thể hiện rõ ảnh hưởng của Lộc Tồn cùng cát hóa.
Cho thấy, với Tử Phủ, rất cần Lộc Tồn và rất sợ Tuần Triệt Không Kiếp. Điều này tương ứng với việc Lộc Tồn cũng không ưa gì Không Kiếp Tuần Triệt. Thiên Tướng không sợ Không Kiếp nhưng rất kỵ Triệt Tuần và Kình Dương. Điều này gián tiếp nói lên Tướng cũng ưa Lộc Tồn. Qua đây có thể thấy thêm tính chính nhân quân tử của Lộc Tồn, và tính bất chính của Kình Đà. Và chúng ta thấy bóng dáng Hóa Kỵ rất mờ nhạt ở đây. Phải chăng TPVT không hề ngại Hóa Kỵ. Tất nhiên, không có vẫn tốt hơn nhất là không có bộ Hình Kỵ. Nhưng nếu có thì TPVT không hề sợ Hóa Kỵ như các sao khác, đơn giản vì Hóa Lộc đối với TPVT cũng không hề thiết yếu như đối với Lộc Tồn. Đã không cần Hóa Lộc thì cũng chẳng sợ Hóa Kỵ. Với Sát Phá, sách vở cũng nhắc đi nhắc lại sự ưu việt của Thất Sát và Phá Quân khi đồng cung hoặc xung chiếu với Lộc Tồn như: “Sát Liêm sửu mùi Ất Kỷ âm nam anh hùng trí dũng” . “Sát Kình ngọ Bính Mậu nhân mệnh nan toàn nhưng tuổi Giáp Kỷ lại là cái thế anh hùng”. “Sát hãm mão dậu tuy mờ ám xấu xa nhưng hợp với tuổi Ất Tân”. “Sát miếu địa dần thân dĩ nhiên quý hiển, nhưng tuổi Giáp Canh Đinh Kỷ mà cung mệnh có cách này thật là tài quan song mỹ”. Phá Quân cũng được cho rằng khi hãm ở tỵ hợi mão dậu mà có Lộc Tồn thì không xấu, tất nhiên phải xa lánh Hóa Kỵ vì Phá hóa được Lộc đương nhiên không thích Kỵ. Tuy nhiên, cần lưu ý Phá Quân khá hợp Không Kiếp, Thiên Tướng không ngại Không Kiếp thì Phá và Tướng tuy có Lộc Tồn tốt hơn nhưng cũng không đến nỗi thiết yếu như Tử Phủ. Thậm chí có người cực đoan cho rằng Phá Quân phá cả Lộc Tồn chứ không cần Lộc Tồn như sách cổ nói. Ngòai ra đến đây sẽ có độc giả thắc mắc sao nói Thất Sát hợp Kình Đà mà ở đây nói hợp Lộc Tồn. Thực ra là ngược lại, chẳng Sát nào muốn gặp Kình Đà, chỉ là Kình Đà chẳng theo được sao nào phù hợp hơn Thất Sát. Nôm na, Kình Đà theo Sát tuy có xấu nhưng cái xấu đó đỡ tệ hơn trường hợp Kình Đà đi theo sao khác rất nhiều. Cho nên, sách vở xưa nay cũng chưa từng đề cao cách cục Thất Sát Kình Đà.
Sang đến bộ sao âm đứng đầu là hai sao Nhật Nguyệt. Do Nhật Nguyệt cùng Tử Phủ tạo thành tứ tượng của môn tử vi nên Nhật Nguyệt giống như Tử Phủ rất nhạy cảm với Tuần Triệt. Tuy nhiên, Tử Phủ không có hãm địa (mặc dù ai cũng hiểu mão dậu là đất hãm của Tử Phủ nhưng với đế tinh chỉ nói bình hòa) và tất cả các vị trí đều ngại Tuần Triệt. Nhật Nguyệt thì không như vậy mà chỉ ngại Tuần Triệt khi miếu vượng, còn nếu hãm địa Tuần Triệt coi như giúp được Nhật Nguyệt đỡ tối hơn. Đối với Lộc Tồn, Nhật Nguyệt đương nhiên thích, điều này không nói rõ qua các vị trí thiên can như Tử Phủ nhưng lại nói gián tiếp trong sách vở khi cho rằng Nhật Nguyệt tối kỵ Kình Đà nhất là khi Nhật Nguyệt hãm địa. Nhưng Nhật Nguyệt còn cần Quyền Lộc, rất cần chứ không hời hợt như Tử Phủ Sát Phá. Và Nhật Nguyệt đều hóa được Lộc thì đương nhiên không thích Hóa Kỵ trừ trường hợp đắc địa sửu mùi. Do không tối cần Lộc Tồn, nên các nhóm sao âm cũng không ngại Không Kiếp Tuần Triệt như Tử Phủ Tướng. Do không tối cần Lộc Tồn, nên nhóm sao âm thích Lộc Quyền Khoa hơn và sợ Hóa Kỵ hơn Tử Phủ Vũ Tướng và Sát Phá.Phải chăng điều tiếng chẳng là gì, điều tiếng là vốn có đối với kẻ có địa vị và sức mạnh ?
Hai nhóm sao âm dương luôn có tính chất riêng biệt. Đơn cử như Đào Hồng. Hồng Loan có thể đi cùng Tử Phủ Vũ Tướng và Sát Phá Tham trong cách cục Hồng Khôi thể hiện sự uy nghi hoành tráng. Nhưng khi Đào Hoa đi kèm Tử Phủ Vũ Tướng trong cách Tử Vi Đào Hồng Không Kiếp thì giảm thọ, đi với Sát Phá Tham trong cách Mộc Suy Tuyệt Vô Chính Diệu thành tử hạn trúc la. Đơn giản vì khi đi với Sát Phá Tham tính Kiếp Sát trong tam hợp Đào Hoa trỗi dậy thành lưỡng sát. Có thể nói Đào hợp cho nhóm sao âm, Hồng hợp cho nhóm sao dương ?