Trích dẫn
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương - Nhà xuất bản tổng hợp TP.H-C-M
Ngân (Kim) Đăng (Hỏa) Giá (Mộc) Bích (Thổ) Câu (Kim)
Yên (Hỏa) Mãn (Thủy) Tự (Thổ) Chung (Kim) Lâu (Mộc)
Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu (Hỏa) Sài (Mộc) Thấp (Thủy)
Viết gọn lại là:
Ngân đăng giá bích câu.
Yên mãn tự chung lâu
Hán địa siêu sài thấp
Sự đồng âm khác nghĩa của âm Hán Việt trong bài thơ trên có thể dịch ra theo một nghĩa khác của bài thơ trên:
# Ngân đăng giá bích câu
Ngọn đèn bạc làm lạnh bức tường vàng.
Có thể hiểu nội dung của nó là giá trị giả, thấp kém đã thay thế cho giá trị thật, cao quí.
# Yên mãn tự chung lâu
Lửa đã cháy ngập trong toà lâu đài.
Có thể hiểu là sự nguy nan của quốc gia Văn Lang có nguyên nhân từ bên trong không thể cứu vãn.
# Hán địa siêu sài thấp
Đất nhà Hán đã nghiêng tràn đến chỗ thấp nhất.
Sự đô hộ của nhà Hán đã hoàn tất trên lãnh thổ Văn Lang xưa.
Bạn đọc nếu biết về luật thơ ngũ ngôn tứ tuyệt thì sẽ nhận thấy rằng nó thiếu một câu cuối. Người viết tôi mạo muội thêm vào một câu cuối cho đủ khổ thơ là:
Viêm (Hỏa) Thủy (Thủy) Lạc (Mộc) Kim (Kim) Âu (Thổ).
Bởi những lý do trên mà: Hành Thủy và Hỏa đã sai lạc với nguồn gốc của nó.
Và như vậy, bài thơ tứ tuyệt đủ sẽ là:
Ngân đăng giá bích câu.
Yên mãn tự chung lâu
Hán địa siêu sài thấp
Viêm Thủy lạc kim âu.
Câu thứ tư này không lạc vận với 3 câu trên và trùng với nội dung ban đầu của nó với đủ Ngũ hành. Điều này được diễn tả như sau:
Ngân (Kim) Đăng (Hỏa) Giá (Mộc) Bích (Thổ) Câu (Kim).
Yên (Hỏa) Mãn (Thủy) Tự (Thổ) Chung (Kim) Lâu (Mộc).
Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu (Hỏa) Sài (Mộc) Thấp (Thủy).
Viêm (Hỏa) Thủy (Thủy) Lạc (Mộc) Kim (Kim) Âu (Thổ).
Nội dung của toàn bộ bài thơ được giải mã có thể hiểu rằng: Những giá trị giả đã thay cho những giá trị thật - Khi mà nước Văn Lang đã suy sụp từ bên trong và bị nhà Hán chinh phục. Nhưng giá trị tri thức vĩ đại của đất nước này - mà một trong những nền tảng căn bản của nó là bảng nạp âm 60 hoa giáp - đã phải thay đổi ở hai hành Thủy Hỏa.
Nhiều khi tôi tự hỏi, có phải vì để đạt mục đích mà con người thường hay bất chấp thủ đoạn?
Sau khi đọc bài viết trên, tôi thấy tác giả không có được sự thật, cái chân thật cần có đôi khi ở con người. Tác giả bóp méo vô tội vạ và thêm thắt tất cả những gì ông ta có thể hầu để nêu cao giả thuyết của ông. Đã là giả thuyết, thì cứ việc chứng minh một cách minh bạch, mạch lạc chứ có đâu chỉ vài ba câu suy diễn cá nhân vớ vẫn rồi xác định như chẳng thể nào khác hơn được.
Chúng ta sẽ phân tích những điều tác giả viết và có phải người ta không thể “tìm ra một cái đúng từ một cái sai”?
Trích dẫn
Yên (Hỏa) Mãn (Thủy) Tự (Thổ) Chung (Kim) Lâu (Mộc)
Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu (Hỏa) Sài (Mộc) Thấp (Thủy)
Viết gọn lại là:
Ngân đăng giá bích câu.
Yên mãn tự chung lâu
Hán địa siêu sài thấp
Đây là một bài ca quyết chữ Hán để dễ ghi nhớ ngũ hành nạp âm của lục thập hoa giáp mà phần nhiều những người nghiên cứu Tử Vi hay lý học Đông Phương đều có thể biết; do đó, nó mới có những hành như: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ như trên mà những chữ đó được viết bằng những bộ: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thuộc 214 bộ thủ chữ Hán để mà viết rồi nhớ.
銀燈架壁鈎 - Ngân (Kim) Đăng (Hỏa) Giá (Mộc) Bích (Thổ) Câu (Kim)
煙滿寺鍾樓 - Yên (Hỏa) Mãn (Thủy) Tự (Thổ) Chung (Kim) Lâu (Mộc)
漢地燒柴濕 - Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu (Hỏa) Sài (Mộc) Thấp (Thủy)
Như đã có nói qua, bài ca quyết này để ghi nhớ thứ tự ngũ hành nạp âm của lục thập hoa giáp và nó là như vầy:
Giáp Tí – Ất Sửu (Kim) Giáp Ngọ – Ất Mùi
Bính Dần – Đinh Mão (Hỏa) Bính Thân – Đinh Dậu
Mậu Thìn – Kỷ Tỵ (Mộc) Mậu Tuất – Kỷ Hợi
Canh Ngọ – Tân Mùi (Thổ) Canh Tí – Tân Sửu
Nhâm Thân – Quý Dậu (Kim) Nhâm Dần – Quý Mão
Giáp Tuất – Ất Hợi (Hỏa) Giáp Thìn – Ất Tỵ
Bính Tí – Đinh Sửu (Thủy) Bính Ngọ – Đinh Mùi
Mậu Dần – Kỷ Mão (Thổ) Mậu Thân – Kỷ Dậu
Canh Thìn – Tân Tỵ (Kim) Canh Tuất – Tân Hợi
Nhâm Ngọ – Quý Mùi (Mộc) Nhâm Tí – Quý Sửu
Giáp Thân – Ất Dậu (Thủy) Giáp Dần – Ất Mão
Bính Tuất – Đinh Hợi (Thổ) Bính Thìn – Đinh Tỵ
Mậu Tí – Kỷ Sửu (Hỏa) Mậu Ngọ – Kỷ Mùi
Canh Dần – Tân Mão (Mộc) Canh Thân – Tân Dậu
Nhâm Thìn – Quý Tỵ (Thủy) Nhâm Tuất – Quý Hợi
Thế nên, thực chất trong bài ca quyết chữ Hán là bài thơ tứ tuyệt (4 câu 7 chữ) chứ không phải chỉ có (5 chữ) như sau:
子午銀燈架壁鈎,
辰戌烟滿寺鍾樓。
申寅漢地燥柴濕,
六甲輪流不外求。
Tí Ngọ : Ngân Đăng Giá Bích Câu
Tuất Thìn: Yên Mãn Tự Chung Lâu
Dần Thân: Hán Địa Thiêu Sài Thấp
Lục giáp luân lưu bất ngoại cầu.
Có chỗ ghi câu cuối là: Lục giáp chi trung bất ngoại cầu và Nạp âm ngũ hành thử trung cầu.
Nay xét:
Ngân 銀 bộ 金
Đăng 灯 bộ 火
Giá 架 bộ 木
Bích 壁 bộ 土
Câu 鉤 bộ 金
Yên 煙 bộ 火
Mãn 滿 bộ 水(氵)
Tự 寺 bộ 土
Chung 鍾 bộ 金
Lâu 樓 bộ 木
Hán 漢 bộ 水(氵)
Địa 地 bộ 土
Thiêu 燒 bộ 火
Sài 柴 bộ 木
Thấp 溼 bộ 水(氵)
Nghĩa là có lý do hợp lý để hình thành lên bài thơ với những bộ thủ ở trên. Thế mà, tác giả Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh lại dùng "sự đồng âm khác nghĩa của âm Hán Việt" mà nghĩa Nôm chẳng ra Nôm, nghĩa Việt chẳng ra Việt và Hán thì không biết có biết cái chi chi ... để rồi đòi hạ bút "mạo muội thêm vào một câu cuối cho đủ khổ thơ" như vầy:
Viêm (Hỏa) Thủy (Thủy) Lạc (Mộc) Kim (Kim) Âu (Thổ)
Nếu dùng từ Hán cho những chữ trên thì có như sau:
Viêm 炎 bộ (Hỏa)
Thủy 水 bộ (Thủy)
Lạc 樂 bộ (Mộc)
Kim 金 bộ (Kim)
Âu (Thổ) - không có chữ Hán hay chữ Nôm đọc là "Âu" nào lại viết bằng bộ Thổ ...
Như vậy, tác giả “tìm ra một cái đúng từ một cái sai” ư? Không thể, và vì vậy tác giả cứ vô tư gọt chân cho vừa giày và cho chữ Âu là viết với bộ (Thổ).
Nói đúng ra, tác giả có biết là bài thơ đó là "thất ngôn tứ tuyệt" chứ không phải chỉ có là "ngũ ngôn tứu tuyệt" đâu và người ta có cả câu cuối; vậy mà, tác giả cứ cho là "Bạn đọc nếu biết về luật thơ ngũ ngôn tứ tuyệt thì sẽ nhận thấy rằng nó thiếu một câu cuối."
Buồn cười, tác giả coi thường bạn đọc quá!