Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
QuachNgocBoi, on 14/12/2015 - 20:17, said:
[6]...[7]...[6]...[5]
[5]..................[4]
[4]..................[3]
[3]...[2]...[1]...[2]
Giá tiền Ngũ Quỷ hiệu Phi Phù
Lục vị vi Hao hựu Tử Phù
Thất Sát vi Lan Hư Hao Phá
Tấn tam thoái ngũ Thư Hùng cư.
yếu tố giải họa chính tác động lên Kình Đà là sao Giải Thần.
Nhưng sao Phượng Các nó chính là sao Giải Thần đấy, trước môn Tử Vi Đẩu Số chỉ có 1 sao là Giải Thần thôi, nhưng một sao lại có nhiều tính chất độc lập nên mà cổ nhân khi thiết lập môn Tử Vi Đẩu Số mới tách sao này thành 2 sao riêng biệt để phân lập nhóm tính chất may mắn, hoa lệ, đẹp đẽ, dịu dàng, điềm vui mừng gắn với lễ nhạc và văn chương, chủ cái lầu gác, đường đi,... rồi đem gán cho 1 sao và đặt tên nó là Phượng Các. Còn để cho Giải Thần chuyên chủ về nhóm tính chất giải trừ, tháo gỡ, tách ra, làm tan đi, thông suốt, suôn sẻ,... với tác dụng chuyên cứu giải tai nạn.
Nguyên nhân đặt tên nó là Phượng Các lại xuất phát từ sao Long Trì. Cái sao Long Trì này vốn ban đầu chính là sao Quan Phù, nhưng cũng có các nhóm tính chất khác biệt cho nên được tách làm 2 sao, cho nhóm tính chất may mắn, hanh thông, biến hóa, vui mừng gắn với lễ nhạc văn chương, chủ cái sân, cái giếng, cái hồ,... gán cho 1 sao rồi đặt tên nó là Long Trì, bởi vì bắt đầu từ năm Tý thì Thái Tuế khởi tại Tý và cái sao ấy (Phù - Trì) khởi tại Thìn là chỗ tú Giác tú Cang có cầm tinh là con rồng nên mới lấy tên Long đặt cho nó. Đã có Long thì cái sao cặp đôi với nó khởi ở đối cung mà lại đi nghịch chiều được tách ra từ Giải Thần cần đặt tên là Phượng để tạo thành bộ Long Phượng là cặp hình tượng các linh vật cao quý may mắn. Đối với phần còn lại của sao Niên Phù (tên cổ của sao Quan Phù, còn gọi bằng tên khác nữa là Ngũ Quỷ Phi Phù) có nhóm tính chất chủ việc quan, việc công đường, hành chính, thưởng phạt, luật lệ,... thì đặt tên là Quan Phù.
Việc tách sao này là có chủ ý rất rõ ràng, thí dụ như nói hạn gặp Long Phượng với cát tinh thì thường cưới xin hoặc có con cái, những việc hỉ, việc vui mừng... thì phải dùng các tên ấy để nói cho rõ ý nghĩa, chứ không thể nói là hạn ấy gặp Quan Phù với Giải Thần được vì nó rất tối nghĩa, chẳng ai mà hiểu được những cái việc vui kia thì liên quan quái gì đến cái việc công đường luật lệ hành chính với giải trừ tháo gỡ cả, cái việc cưới xin là tác hợp đôi lứa mà lại nói hạn gặp sao chủ giải tán cởi bỏ là Giải Thần thì nó chối tỉ, chẳng ai chấp nhận được. Ấy thế mà trên lá số thì vẫn nghiễm nhiên xuất hiện 2 bố Quan Phù với Giải Thần ở trong hạn, bởi vì Quan Phù luôn luôn đồng cung với Long Trì còn Phượng Các luôn luôn đồng cung với Giải Thần mà. Đó chính là ý nghĩa của việc tách nhóm tính chất của 1 sao thành 2 sao chủ mỗi sao một nhóm tính chất độc lập, nhằm làm rõ ý tượng muốn đề cập.
Thế sao Long Trì có khả năng hóa giải họa của Kình Đà hay không?
Thưa, hoàn toàn KHÔNG THỂ, bởi vì Quan Phù (Long Trì) rất sợ gặp Kình Đà (tên cổ của Kình Dương là Dương Nhận), cái thằng Dương Nhận chủ tranh đoạt, cạnh tranh mà gặp Quan Phù (Long Trì) chủ việc quan, hình luật, thì luôn gây ra các sự kiện xui xẻo như dính đến kiện tụng, tranh cãi ở công đường, gây ra tai hối (tai nạn hối hận),...
Quan Phù (Long Trì) mà gặp sao Thiên Thương (tên cổ là Thiên Hao) thì gây ra chuyện vì dính đến quan tụng mà hao tán, bị hình phạt, đặc biệt rõ nét khi gặp thêm Thiên Hình.
Quan Phù (Long Trì) mà gặp Sát hung tinh tụ tập thì mắc nạn tù ngục như Công Dã Tràng chính là vì vậy.
Quan Phù (Long Trì) mà gặp Thiên Hình với Địa Kiếp thì mắc nạn bị tiểu nhân ghen ghét hãm hại, đẩy vào cảnh kiện tụng hoặc khiến cho rơi vào vòng lao lý, cũng chính là vì vậy.
Thế sao Giải Thần có tượng linh vật riêng hay không mà tôi lại phải dụng tượng con Phượng?
Nó có tượng riêng, đó là con Giải Trãi, là một loài thú thần thoại có sừng nom vừa giống con bò rừng, vừa giống con huơu con dê, loài này rất biết phân biệt phải trái, hễ ai tranh chấp cãi cọ thị phi thì nó liền xông ra húc cái bên sai trái. Trong truyện Tây Du Ký có nhắc đến con vật này đoạn thuật về con khỉ sáu tai biến làm Tôn Ngộ Không giả, đánh nhau khắp nơi từ âm ti cho đến thiên đình, cũng từng nhờ con thú này ra phân biệt ai là hàng xịn còn kẻ nào là hàng nhái, con Giải Trãi tuy biết được rõ kẻ giả mạo nhưng sợ con khỉ sáu tai kia pháp thuật cao cường nên không dám nói ra,...
Trong môn Tử Vi Đẩu Số có nhiều sao được tách ra nhằm phân lập nhóm tính chất hay không?
Thưa có, rất nhiều là đằng khác, nhưng trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển, nhiều sao đã bị lược bỏ đi vì một phần để đơn giản hóa cho gọn, một phần là do người đời sau tùy tiện bỏ đi vì không hiểu rõ tác dụng của nó.
Tôi thí dụ sao Tuế Phá, còn được gọi với tên khác là Đại Hao (tên này ngày nay ai học môn Phong Thủy sẽ biết ngay vì bây giờ vẫn dùng), lại còn có tên khác là sao Lan Can (ai học môn Thất Chính Tứ Dư, Quả Lão Tinh Tông thì biết sao này). 3 cái tên đều chỉ 1 sao, cũng có thể gọi là 3 sao cùng chung 1 chỗ, cũng có thể gọi là 3 sao được tách ra đại diện cho các nhóm tính chất riêng mà mỗi sao đại diện cho một nhóm.
Cái tên Phá với Hao thì dễ hiểu vì tính chất hao phá, hao tán, yếu thế,... cho nên việc tách ra không mang nhiều ý nghĩa, bỏ cái tên Hao đi vẫn có thể hiểu được nó nếu dùng tên Tuế Phá và hiểu hết tính chất ý nghĩa của nó. Cái tên Lan Can vốn mang nghĩa cái hàng rào, cái lan can,... để đại diện cho nhóm tính chất ngáng trở, ngăn chặn, cô lập, yếu thế,... bỏ cái tên Lan Can đi thì vẫn có thể tạm chấp nhận được nếu hiểu kỹ ý nghĩa và tính lý của sao Tuế Phá còn có tác dụng ngăn cản, cản trở. Nhưng bở đi rồi thì khiến cho hậu học sẽ bị mất một căn cứ rất khó để nhận ra sự hữu dụng và cần thiết của nó.
Cái hữu dụng đáng quý ấy là cái gì? Thưa, là cái rất quan trọng để hóa giải trường hợp Mã ngộ Không Vong.
Ai học Tử Vi cũng biết rằng "Mã ngộ Không Vong chung thân bôn tẩu" tức là cả đời phải bôn ba lang bạt, không yên vị, không ổn định về tinh thần lẫn vật chất. Nhưng hầu như không có ai biết được yếu tố gì có thể hóa giải được trường hợp này. Trong khi các sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư và Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập có viết sờ sờ ra rằng
"Phàm Mã ngộ Không Vong hữu Lan hữu an tắc vi cát, tắc hữu đình chỉ, vô Lan giả tắc vi tán Mã" nghĩa là Hễ mà Mã gặp Không Vong có "Lan" có yên cương thì là cát, thì có sự ngừng lại, còn nó mà không có "Lan" thì là ngựa chạy tán loạn lung tung. Sách viết rõ vậy đấy, nhưng vì hầu như không ai biết đã từng có cái sao Lan Can cho nên chẳng ai hiểu được cái chữ "Lan" trong câu ấy để ám chỉ là cái gì, thành ra đã bỏ qua một ý nghĩa rất quan trọng là khi mà Thiên Mã bị Không Vong án ngữ - nếu như có sao Lan Can thì sẽ như ngựa được có yên cương quản chế mà dừng lại không chạy tán loạn nữa.
Ngày xưa tôi từng nghe ai đó hoặc đã từng đọc ở sách nào đó (giờ tôi không nhớ rõ chi tiết), đã nói rằng "Đại Hao có thể giải Không Vong", thì ngay khi ấy tôi cũng bĩu môi mà cho rằng nói như thế là nhảm nhí. Nhưng về sau tôi suy ngẫm kỹ thì nói như vậy cũng có lý nhưng buộc phải hiểu Đại Hao mà người ta nhắc đến là tên gọi khác của sao Tuế Phá đồng thời ám chỉ Lan Can, và phải hiểu rằng cái tính hóa giải ở đây là nói cho trường hợp Mã gặp Không Vong.
Nếu mà đã thuộc cách an sao, thì sẽ rút ra một hệ quả rất quan trọng là những người tuổi Dần, Thân, Tị, Hợi sẽ được miễn nhiễm sự bôn ba lang bạt nếu như Mệnh Thân gặp cách Mã ngộ Không Vong, bởi vì 4 tuổi này nghiễm nhiên là Tuế Phá - Lan Can đã đồng cung với Mã nên dù có Không Vong án ngữ thì đã tự có sẵn yếu tố hóa giải sự bôn ba ấy rồi.
Điều này tôi đã kiểm nghiệm lại đúng rất nhiều trên các lá số thực tiễn, mọi người cũng có thể tự mình kiểm tra lại để đối chứng lý luận và thực tiễn.
Mọi người thử suy ngẫm xem lý do tại đâu mà sao Quan Phù lại được đặt tên như vậy và trước đó thì nó được đặt tên là Ngũ Quỷ (Phi Phù)?
Phải lần lại từ xuất phát điểm ban đầu.
Năm Tý thì Thái Tuế đóng tại cung Tý, đếm từ đó với số vị là 1 thuận chiều tới cung Thìn thì có số vị là 5, tại đó đặt một giả tinh (sao quy ước) rồi dùng tính chất sinh khắc của ngũ hành kết hợp với số vị của nó để mà đặt tên.
Cung Thìn có chứa khí Thổ, khắc khí Thủy ở cung Tý, mà theo kiến thức tiết học ngũ hành thì ta biết rồi "khắc ngã giả vi Quan Quỷ". Cho nên đặt tên cho cái giả tinh tại Thìn là Ngũ Quỷ, với Ngũ là chỉ số vị = 5, còn Quỷ là do tính tương khắc.
Sau dựa vào tính chất báo hiệu, dấu hiệu, liên quan tới công vụ hành chính, công đường,... của nó gắn liền với tính chất của Thái Tuế mà gọi nó là Phi Phù (chữ Phi nghĩa là bay, là phát tán... còn chữ Phù nghĩa là dấu hiệu, tín hiệu, phù hiệu,...).
Kế đó, vì sao này an theo đơn vị thời gian Năm (niên) cho nên lại còn gọi nó là Niên Phù.
Sau điều chỉnh lại thành tên gọi Quan Phù dùng ổn định trong hầu hết các môn thuật số. Với chữ Quan vừa thể hiện được bản chất tương khắc ngũ hành, vừa thể hiện được ý nghĩa liên đới đến việc quan, công vụ, công đường,...