Jump to content

Advertisements




Quan Lộc Cách


  • Bạn không thể gửi trả lời cho chủ đề này
No replies to this topic

#1 tyty

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 180 Bài viết:
  • 30 thanks

Gửi vào 28/04/2011 - 19:11

Tên sách: Mệnh Lý Chỉ Yếu (Chỉ ra những điểm quan trọng của mệnh lý)
Tác giả: Đoàn Kiến Nghiệp
Chương 12, trang 159-164

QUAN LỘC CÁCH

Người xưa luận Lộc cách thường lấy nguyệt lệnh phùng Lộc thành cách Kiến lộc, nhật chi tọa lộc thành Chuyên lộc, thời chi gặp lộc thành Quy lộc, tất cả chẳng phải là Quan Lộc cách, Quan Lộc cách là do tác giả tự mình chủ trương. Lộc, chính là địa chi bản khí tụ về, có thể gọi là lãnh địa mà ta chiếm hữu, giống như Lộc thần hội cục, đông đúc lớn mạnh mà kết thành một thế lực hoặc một đảng, phái, tức là giống như mình có một lãnh địa khá lớn rồi tự mình thành chúa tể một phương. Bởi vì khi thành cách đó, đa số đều có chức vị khá cao, cho nên gọi thành Quan Lộc cách.

Quan Lộc thành cách, trước tiên cần Lộc thần đóng ở chi giờ, cùng hợp hội thành Lộc cục, nếu không có hội cục hợp cục thì cần Lộc thần kết đảng thành thế, không phùng xung khắc; kế đến, trong trụ bất thấu Quan Sát, bất phùng Thương Thực. Quan Sát khắc lộc phá cách bất thành, Thương Thực tiết lộc chuyển thành luận Tiết tú cách, chẳng thành Lộc cách được. Quan Lộc cách hỷ gặp Ấn sinh, Tỉ Kiên cũng tốt.

Quan Lộc cách thành cách có thể nắm giữ chức vị to lớn, quyền uy đều không thua kém người có Quan Sát thành cách. Say đây chọn vài ví dụ để giảng.

Ví dụ 12.1

Ất Mùi / Đinh Hợi / Ất Sửu / Kỷ Mão

Mậu Tý - Kỷ Sửu - Canh Dần - Tân Mão - Nhâm Thìn - Quý Tị - Giáp Ngọ

Đây là mệnh của Từ Hi thái hậu - Diệp Hách Na Lạp thị (Yehe NaLa). Giờ sinh chẳng phải giờ Hợi mà là giờ mão, giờ phùng qui lộc cùng với nguyệt lệnh, niên chi hợp thành Lộc cục, biến thành Quan Lộc cách. Cho nên tâm ý của bà hừng hực, ham muốn quyền lực rất mạnh, cuối cùng trở thành triều đại độc tài, hại nước hại dân.

Nhật chủ tọa chi Sửu thổ, tuy là Quan khố song Quan tinh bất thấu, bất hoại cách, nhưng sửu thổ bị Lộc cục phá hoại, Quan tinh mất đi bảo hộ khó mà sinh tồn nên khắc chồng rất nặng nên vua Hàm Phong sớm băng hà. Nguyệt can lại thấu xuất Thực thần cũng tiết Lộc phá cách, còn Đinh hỏa đóng trên Hợi tự hợp với Nhâm (chú: tự hợp với Nhâm tàng trong Hợi) nên không phá cách; song vì Đinh là tử tinh (sao con cái), nhược cực phùng hợp nên khắc con rất nặng thế nên con là vua Đồng Trị chết sớm. Lộc là quyền thế nên cần sinh, trợ, giúp cho nó. Vận Canh dần, Quan lâm tuyệt nên chồng chết, dần Kiếp giúp Lộc thành ra đưa con là Tải Thuần lên ngôi vua, đổi hiệu là Đồng Trị, ban đầu buông rèm nhiếp chính. Đến vận Tân mão lộc lâm vượng địa, Tử tinh hỏa lâm bại địa, con là vua Đồng Trị chết vì bệnh giang mai vào năm 1875. Lập Tải Điềm làm vua, đổi hiệu thành Quang Tự, cũng vẫn buông rèm nhiếp chính. Vận Nhâm Thìn, Nhâm thủy Ấn tinh tuy là hỷ nhưng Thìn là thủy khố, Hợi thủy nhập mộ, Lộc cục bị tổn thương, cắt đất bồi thường, mang nổi nhục mất nước. Quý tị vận, xung chiến đề cương, nhưng Hợi thủy phá Tị, Thương quan không thể tổn hại được cục, tuy quốc dân hèn kém nhưng chính quyền vẫn ổn định như lúc ban đầu; nhưng vận nhập noãn địa (đất ấm), mộc mọc lớn thì thủy bị tiết nên vô cùng xa xỉ, thổ mộc mạnh mẽ, quốc lực kiệt quệ. Vận Giáp ngọ, Thực thần lâm vượng địa, Hợi thủy không thể phá được, Lộc thần bị tiết, khiến cách cục gặp bại. Đầu tiên là cải cách chính trị gặp chính biến vào năm Mậu tuất, lại gặp Phong trào khởi nghĩa Nghĩa Hòa Quyền, sau đó thì đến Liên quân tám nước (Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Nhật, Ý và Áo) tiến vào Bắc kinh, Mậu thân niên gặp Quan tinh tuổi già mà mất. Quan lộc cách gặp vận Thực thần, tái phùng Quan Sát lưu niên tất gặp hung.

Mệnh này nguyệt lệnh Hợi thủy đại biểu quốc gia, chi giờ Mão lộc đại biểu quyền lực và bản thân, Hợi Mão Mùi hợp cục đại biểu dùng quyền lực ấy thống trị quốc gia, song Hợi thủy Tuần không, trụ đầy thần khí tiết nó nên đại biểu cho cuộc đời làm nước mất nhà tan, cuối cùng thì mang một nước Trung Quốc lớn như thế chà đạp để mất đi giang sơn Mãn Thanh, thật là tai họa.


Ví dụ 12.2

Ất Sửu / Kỷ Mão / Ất Hợi / Quý Mùi

Mậu Dần - Đinh Sửu - Bính Tý - Ất Hợi - Giáp Tuất - Quý Dậu - Nhâm Thân

Mệnh này được chép trong sách Thiên Lý Mệnh Cảo, Vi Thiên Lý cho rằng: "do Tân tàng trong sửu ở chi năm nên Khúc Trực cách đã bị phá, cho nên phải đoán là Thân vượng Tài khinh và chỉ là mệnh bình thường". Tác giả cho rằng lý này (của Vi Thiên Lý) làm sự việc khó giải quyết ở mệnh của Từ Hi đó là tứ trụ này sửu tại niên chi ngõ hầu có thể phá cách, còn Từ Hi sửu tại nhật chi thì càng phá cách hơn nữa, nên tác giả tưởng luận Khúc trực cách là do không thực sự nắm vững mệnh lý, thực ra chính lý phải là: mệnh Từ Hi lộc thần tại giờ có thể thành Quan Lộc cách do Lộc tại giờ tượng trưng cho chính mình; còn trụ này Lộc thần tại nguyệt lệnh, mà Lộc tại nguyệt lệnh thì không thể đại biểu cho chính mình mà chỉ chứng tỏ bản thân vượng tướng, Lộc cục hội thành và bản thân không có quan hệ với nhau cho nên không thể thành Quan Lộc cách, liền lấy Thân vượng Tài khinh để luận mệnh chứ chẳng phải do Tân kim trong sửu phá cách. Ví dụ này cho biết Quan Lộc cách đều khác các cách có ghi trong sách như Khúc trực cách, Viêm thượng cách, Tòng cách cách, Nhuận hạ cách, v.v...vì cần phải có Lộc thần tại chi ngày hoặc chi giờ.


P.s: Trích đoạn sách Thiên Lý Mệnh Cảo (có thể tham khảo sách này trong diễn đàn do bác chindonco đã post lên):

Ất Sửu / Kỷ Mão / Ất Hợi / Quý Mùi

Mậu Dần - Đinh Sửu - Bính Tý - Ất Hợi - Giáp Tuất - Quý Dậu - Nhâm Thân

Cụ này theo đường xuất ngoại làm quan, thông thạo kinh sách, tài lộc phong túc. Sau năm 30 tuổi gia đạo sa sút, may là am hiểu thư pháp nên mài mực viết lách kiếm sống. Khi còn bé đã từng nhờ người phê mệnh, đa số đều phê là Nhân thọ Khúc trực cách để mà kỳ vọng vào tương lai đầy hứa hẹn. Nhân trước kia có người giới thiệu đến thăm nhà tôi hỏi chuyện, tôi nói: "Ất sinh tháng Mão, chi hội đủ mộc cục, Tân tàng trong chi năm sửu nên Khúc trực đã bị phá, chỉ có thể lấy Thân vượng Tài khinh để đoán mệnh. Trước 26 tuổi vận hỏa thổ nên thiếu niên đắc chí, đến khi 31 tuổi vận chuyển phương đông bắc khó tránh khỏi đau khổ trắc trở. Song Nhâm vận rất xấu, không tổn tài lớn thì may mắn lắm rồi. Lại sau vận Tân sống tạm bợ thì đến vận Mùi hóa mộc nguy như đèn trước gió.

Chú thêm: Mệnh của Đoàn Kỳ Thụy: Ất Sửu / Kỷ Mão / Ất Hợi / Nhâm Ngọ với Ất Lộc tại Mão, Kỷ Lộc tại Ngọ, Nhâm Lộc tại Hợi, luân phiên đắc lộc nên vượng khí gắn kết nhau, mộc vượng thủy kiện, ngọ hỏa tiết tú nên cách cục thanh kỳ đứng trên vạn người. Bát tự sai nhau một giờ nhưng thổ nhưỡng khác nhau rất xa, sao giống được như mệnh của Đoàn, đáng sợ thay !


Ví dụ 12.3

Quý Mùi / Giáp Dần / Ất Hợi / Kỷ Mão

Quý sửu - Nhâm tý - Tân hợi - Canh tuất - Kỷ dậu - Mậu thân - Đinh mùi - Bính ngọ

Thư ghi đây là mệnh Lý Hồng Chương, Ất mộc xuân sinh Hợi Mão Mùi hội thành mộc cục, thời gặp quy lộc, không thấy Quan sát không hiện Thương Thực, Quan Lộc cách thành cách cho nên dần được cất nhắc trọng dụng thành mệnh quan Thanh triều (đại quan lạm quyền) thống lĩnh mọi sự từ quân sự, chính trị đến ngoại giao. Mão lộc tuy là quyền thế nhưng vẫn cần Hợi thủy hội cục sinh trợ, song nguyệt lệnh Kiếp tài hợp tiết Hợi thủy làm Hợi thủy không thể chuyên tâm sinh trợ Quan Lộc, đây chính là "tham hợp vong lộc" cũng đúng với vẻ ủy mị, rụt rè, yếu hèn bất lực không nghĩ đến quốc sự tiến thủ tự lập, được chăng hay chớ, chết rồi mà còn lưu tiếng nhơ khắp thiên hạ. Cho nên tứ trụ này Hỉ thần là thủy, Giáp Dần Kiếp tài là Bệnh, kim thành Dụng thần để xung phá Kiếp sinh thủy. Riêng chỉ kị Thương Quan Thực Thần tiết Lộc phá cách.

Hành vận Tân Hợi lưu niên Đinh Mùi, Hợi Mão Mùi làm vượng lộc cục, gia nhập Hàn lâm viện và từ đó về sau bắt đầu đi theo con đường làm quan. Sau khi vận đến đất Tây phương kim phá Kiếp sinh thủy liền nhẹ bước đường mây, liên tục đảm nhiệm trọng trách Tổng đốc Lưỡng Quảng, Tổng đốc vùng Trực Đãi (địa phận hành chính dưới thời Minh-Thanh gồm Bắc kinh, Thiên tân, hầu hết tỉnh Hà bắc, Hà nam và một phần tỉnh Sơn đông), Ngoại vụ đại thần (tương đương Bộ trưởng ngoại giao). Hành vận Bính ngọ, Thương Thực tiết Lộc phá cách, Lưu niên Tân Sửu kiến Sát tinh khắc thân nên bệnh mà mất, việc tử vong này cũng cùng một lý so với mệnh của Từ Hi.


Ví dụ 12.4

Kỷ Hợi / Mậu Thìn / Ất Hợi / Kỷ Mão

Đinh mão - Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi

Ất mộc sinh tháng Thìn, Tài tinh nắm lệnh, Ấn Tỉ đều cường, Tài vô nguyên thần sinh trợ nên suy nhược, tựa hồ có thể nói chẳng phải là quý mệnh. Thực tế, tứ trụ này không cần đến Tài mà là thành cách Quan Lộc đại quý mệnh. Người này là một chuyên gia kinh tế học, trợ lý cho một vị lãnh đạo cấp cao của quốc gia. Dụng thần là Lộc thần ở chi giờ, kị thần là Tài tinh, hỉ thần là Ấn. Vận Ất sửu kị thần thông gốc nên gặp phải trợ ngại rất lớn. Vận Giáp tý Dụng thần đắc địa, vì thế được nâng đỡ trọng dụng một bước nhảy lên nắm giữ chức vụ cao.


Ví dụ 12.5

Kỷ Hợi / Đinh Mão / Ất Mùi / Kỷ Mão

Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi

(sách in lộn thành Kỷ sửu thay vì Ất sửu)

Tứ trụ này trích từ Thiên Lý Mệnh Cảo là mệnh của luật sư nổi tiếng Thượng Hải, Ngô Kinh Hùng. Giờ phùng qui lộc lại có Hợi Mão Mùi hợp Lộc cục, dường như đã thành Quan Lộc cách. Song kiến Đinh hỏa nguyệt can thấu xuất tiết Lộc để sinh Tài. Ở đây không thể so với tứ trụ của Từ Hi thái hậu tuy cũng có Đinh hỏa Thực Thần thấu ra nhưng đóng ở Hợi hợp đi (tác giả chú: mệnh Từ Hi nguyệt can là Đinh hợi, Đinh tương hợp với Nhâm tàng trong hợi), bản trụ tọa bên dưới là Mão mộc sinh hỏa, Thực Thần vượng tướng không thể khử được tất nhiên phá mất Quan Lộc cách, chuyển thành luận Thực thần sinh Tài cách, cho nên mệnh này vô quan chức, dựa vào Thực Thần để sinh sống chỉ có thể là một luật sư nổi danh mà thôi.


Ví dụ 12.6

Đinh Sửu / Nhâm Tý / Nhâm Thân / Tân Hợi

Tân hợi - Canh tuất - Kỷ dậu - Mậu thân - Đinh mùi - Bính ngọ - Ất tị

Các ví dụ trước nhật chủ đều là can Ất mộc kiến Mão thành Quan Lộc, còn ở đây là tác giả tình cờ gặp được một tứ trụ của một vị lãnh đạo cấp cao đương nhiệm. Nhâm thủy sinh vào giữa đông, trụ giờ kiến lộc lại thấy hợi tý sửu hội thành lộc cục, bản thân đóng ở Thân kim sinh trợ hợi thủy và không gặp Quan sát/ Thương thực nên Quan Lộc cách thành cách. Chỉ không hỷ nguyệt lệnh Kiếp Nhận, Thân Tý bán hợp Nhận cục, gọi là "Tỉ Kiếp phân Lộc" hỗn cục thành bệnh. Cho nên tứ trụ này mừng gặp được hỏa thổ xung khắc Tý thủy khử Nhận nhằm làm thanh thuần Lộc cách, mà vận hành Nam phương còn có sự góp sức của Điều hậu; sớm vào vận Tây phương kim địa, Lộc Nhận đều được sinh tuy học vấn tinh thâm, làm quan nhưng chưa vinh hiển; khi vào vận Bính Ngọ, Ngọ hỏa xung Tý nhận và hợp Hợi Lộc gọi là khử trọc lưu thanh (gạn bỏ đi vẩn đục mà lưu lại trong lành tinh khiết) nên một bước lên mây mà được giao trọng quyền. Có thể thấy được Quan Lộc cách gặp Kiếp tài bại Tài đều làm hỗn tạp cách cục, được Đại vận hay Lưu niên khử đi thì thành tốt.


Ví dụ 12.7

Đinh Mùi / Kỷ Dậu / Tân Sửu / Tân Mão

Canh tuất - Tân hợi - Nhâm tý - Quý sửu

Đây là nữ mệnh, Tân sinh tháng dậu, Thiên Ấn phù Thân nên nhật chủ rất vượng, còn Tài Sát đều nhược, nếu dùng Thân vượng dụng Tài để luận thì Tài vô nguyên khí lại bị Không vong, cường Kim khắc nhất định là mệnh nghèo. Nhưng mà Tứ trụ này không chỉ giàu có mà chồng và chị ta đều mang danh chức, còn Quý sửu vận thì thu nhập rất lớn. Thực tế Tứ trụ này cũng là Quan Lộc cách, Lộc phân ra Can Lộc và Chi Lộc, tứ trụ này tuy chi giờ không gặp được Dậu nhưng can giờ Tân cũng là Lộc. Dụng thần là Tỉ kiên Ấn tinh, Tài Quan là kị thần cho nên vận Quý sửu đại cát.

Tóm lại: Sách ghi rằng "Nhật Lộc quy thời không thấy Quan tinh, tượng là thanh vân đắc lộ", chính là nói đến Quan Lộc cách. Quan Lộc cách gặp Quan sát, Thực thương đều phá cách, gặp Kiếp Nhận Tài tinh thành tổn cách; duy chỉ hỷ Ấn tinh sinh trợ, Tỉ kiên giúp đỡ; mừng nhất là được Lộc thần kết đảng thành thế. Lộc cách thành cách mới có thể nắm giữ uy quyền hiển hách; Lộc bị tổn hại thì xem xét xem có thành một cách cục đặc thù nào không; nếu vẫn không thành thì thẩm tra xem Lộc thần có bị hủy hoại hay không, nếu không bị hủy hoại thì xem Lộc như Tài, tuy không thành quý cách nhưng cũng có thể tiểu phú.

(Hết chương 12)

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |