Jump to content

Advertisements




Các giải Nobel IG Tử Bình đáng ghi nhớ!


26 replies to this topic

#16 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 30/01/2016 - 04:38

Bài trên là "Giải Nobel IG Tử Bình số 1 - Về Điều Hậu" còn bài sau đây là:


Giải Nobel IG Tử Bình số 2 - Về xác định Thân vượng hay nhược :

Có nội dung : "Thân nhược nếu trong Tứ Trụ không có Kiêu Ấn".

Luận án bảo vệ thành công giải "Nobel IG Tử Bình số 2" như sau:

Sau đây là ví dụ số 1 (vua Càn Long) trong cuốn Trích Thiên Tủy:

“1 - Càn tạo: Tân mão - đinh dậu - canh ngọ - bính tý

Bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn/ tân mão/ canh dần/ kỷ sửu/ mậu tý.

Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương,
nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng; rất cần tý ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy (Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ)“.

Ngay từ câu: “ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng;“ đã đủ cho chúng ta hiểu rằng tác giả đã kết luận Tứ Trụ này có Thân nhược chỉ vì ngũ hành thiếu Thổ“ (tức không có Kiêu Ấn trong Tứ Trụ). Đây là một kết luận cực kỳ sai lầm khi xét Thân vượng hay nhược.

Vậy thì vì sao tôi kết luận về việc tác giả chỉ dựa vào Tứ Trụ này không có Thổ mà kết luận Thân nhược là một sai lầm trầm trọng? Bởi vì muốn xác định chính xác Tứ Trụ này có Thân vượng hay nhược là một điều không hề đơn giản chút nào cả. Nhưng nếu đã biết tất cả các thông tin về đương số thì khi dựa vào các vận của đương số rồi so sánh với thực tế đã qua của đương số xem xấu tốt ra sao thì chúng ta có thể dễ dàng biết được Thân là vượng hay nhược.

Cụ thể như ví dụ này là một vị vua đầy quyền lực và phú quý thì đa số các vận phải là hỷ dụng thần là cái chắc. Vậy thì ta thử xem các vận: “Bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn“ có hàng Can đều là Thủy, Mộc và Hỏa là Thực Thương, Tài tinh và Quan sát còn Chi chủ yếu là theo phương Đông Nam là Mộc và Hỏa cũng là Tài và Quan sát. Vậy thì còn nghi ngờ gì nữa Thủy, Mộc và Hỏa phải là hỷ dụng thần của Tứ Trụ này nên Thân phải vượng!

Muốn kiểm tra thêm thì xét tiếp 2 vận sau là “Tân mão/ canh dần“ thì thấy ngay rằng Tân và Canh là Tỷ Kiếp và là kỵ thần đều bị Bính vượng ở đại vận hợp và khắc nên Tân và Canh thành vô dụng. Do vậy 2 vận này từ kỵ thần chuyển thành vận không còn là kỵ thần nữa, thêm chi vận là Dần Mão nên Mão mộc trong Tứ Trụ từ Tử Tuyệt vượng lên thành Lâm quan và Đế vượng tương đương với gặp vận hỷ dụng thần Giáp Ất. Cho nên 2 vận này mặc dù là kỵ thần nhưng đã trở thành vận hỷ dụng thần.

Thử xét 2 vận tiếp là “kỷ sửu/ mậu tý“ xem sao? Ta thấy can là Kỷ và Mậu là Kiêu Ấn là kỵ thần vì sinh cho Thân vượng. Cho dù Mậu và Kỷ nhược ở đại vận nhưng vì trong Tứ Trụ không lộ Giáp Ất để chế ngự nên là một điều xấu, nhất là vào các năm mà Mậu và Kỷ vượng ở lưu niên nên 2 vận này có thể coi là vận kỵ thần, nó phù hợp với cái tuổi 80, 90 là đúng thôi.

Một người mới qua nhập môn Tử Bình cứ theo các buớc xét này đều có thể dễ dàng xác định được Tứ Trụ này có Thân vượng. Vậy thì tại sao tác giả lại không thể xác định được là Thân vượng ?

Cho nên tác giả kết luận Thân nhược chỉ vì trong Tứ Trụ không có Kiêu Ấn (Thổ) là một sai lầm trầm trọng.

Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược theo phương pháp của tôi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ trên ta thấy Bính và Ngọ bị khắc gần hay trực tiếp bởi Tý còn Tân, Canh và Dậu đều bị khắc gần hay trực tiếp bởi Đinh. Do vậy ta phải khoanh tròn 5 can chi bị khắc gần hay trực tiếp này để biết chúng không còn khả năng sinh hay khắc các can chi khác.

1 – Tân có 9đv bị Đinh khắc gần giảm 1/3đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 9.2/3.3/5đv = 3,6đv.
2 – Đinh ở trong vùng tâm có 6đv bị Tý khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv còn 5,4đv.
3 – Canh ở trong vùng tâm có 10đv bị Đinh khắc gần giảm 1/3đv còn 10.2/3đv = 6,67đv.
4 – Bính ở trong vùng tâm có 3đv bị Tý khắc trực tiếp giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,5đv.
5 – Tý có 7đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 2/5đv còn 7.3/5đv = 4,2đv.
6 – Ngọ ở trong vùng tâm có 3đv bị Tý khắc gần giảm 1/3đv còn 3.2/3đv = 2đv.
7 – Dậu có 9đv bị Đinh khắc trực tiếp giảm 1/2đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 9.1/2. 3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão có 3đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,5đv.

Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân có 12,97đv lớn hơn Thực Thương,Tài và Quan Sát trên 1đv nên Tứ Trụ này có Thân là vượng, đúng như tôi đã luận ở trên.

Vì Thân có 3 can-chi còn nắm lệnh nên được thêm 1 can-chi thành 4 can-chi nhưng bị khắc gần và trực tiếp 3 can chi nên bị giảm mất 1 can-chi (bị khắc gần và trực tiếp 4 can-chi thì mới bị giảm 2 can-chi) còn lại 3 can-chi. Quan Sát có 3 can-chi bị khắc gần và trực tiếp 2 can-chi nên bị giảm mất 1 can-chi còn 2 can-chi (ở đây Thân không lớn hơn Quan Sát 5đv nên không được thêm 1 can-chi). Do vậy Quan Sát có 2 can-chi còn Thân có 3 can-chi nên dụng thần vẫn có thể lấy Quan Sát là Đinh (vì Đinh vượng hơn Bính), nếu ở đây Thân và Quan Sát có số can-chi bằng nhau thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương (đây là lý thuyết mà tôi đã tìm ra để xác định dụng thần khi thế lực của Thân và Quan Sát tương đương với nhau).

(Thân vượng mà luận theo Thân nhược thì rõ ràng tác giả đã luận bậy bạ rồi vì hỷ dụng thần lại luận là kỵ thần.)

...............................................................................

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 04/12/2015 - 14:12, said:
Tôi đã tuyên bố:

"Bất kể người nào dù là VIP hay VỊT mà chê, khinh bỉ hay kết luận về một ai sai mà không chứng minh được người đó sai thì được coi là loài "Súc Sinh"".

Sửa bởi VULONG777: 30/01/2016 - 05:00


#17 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 31/01/2016 - 17:39

Giải Nobel IG Tử Bình số 3 - Về Nhật can không có Căn Gốc

Có nội dung : "Nhật can không có căn gốc hay căn gốc bị xung phá thì Thân cực nhược phải Tòng Tài hay Quan Sát".

Luận án bảo vệ thành công giải "Nobel IG Tử Bình số 3" như sau:

Sau đây là ví dụ số 344 trong cuốn Trích Thiên Tủy:

“344 - Đinh Sửu - Nhâm Dần - Bính Thân - Nhâm Thìn

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Bính hỏa sinh đầu mùa xuân, hỏa hư mộc nộn (non yếu), mộc nộn gặp kim, kề gần tương xung, gốc rễ bị nhổ tận cùng, Thân kim lại gặp thổ sinh, thế Sát càng vượng, thành cách Tòng Sát, dụng Tài là tuyệt diệu. Chi năm Sửu thổ, sinh kim hối hỏa, cho nên xuất thân nhà quan, sớm đăng khoa giáp. Vận đến tây bắc kim thủy, làm quan tuần phủ, tuy gặp thổ vận, nhưng vẫn được kim để hóa, cho nên không có hung hiểm vậy”.

Không cần phải phân tích “Đông Tây Nam Bắc” làm gì cả mà chúng ta thấy ngay rằng trong Tứ Trụ có ngũ hợp của Nhâm trụ tháng với Đinh trụ năm hóa Mộc thành công.

Vậy thì còn 1 mình Nhâm trụ giờ thất lệnh mà “thành cách Tòng Sát, dụng Tài là tuyệt diệu” sao được ?

Hơn nữa Nhâm trụ giờ đã thất lệnh còn bị Thìn cùng trụ khắc trực tiếp thì Thủy còn đâu nữa để mà Tòng ?

- Nhâm trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Thìn (vì đất của các con đê có nước không mà vẫn chế ngự được các dòng sông hung dữ ?) thì làm sao mà khắc được Nhật can Bính ?
- Bính không bị khắc gần hay trực tiếp nên mới khắc trực tiếp được Thân cùng trụ. Do vậy Thân bị khắc trực tiếp thì làm sao khắc được Dần bên cạnh ?
- Dần không bị khắc gần hay trực tiếp mới khắc được gần Sửu bên cạnh.
Ta thấy Mộc và Hỏa là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp vượng mà nhiều lại không hề bị khắc còn Thổ, Kim và Thủy là Thực Thương, Tài và Quan Sát đều ít và thất lệnh còn bị thương tổn nặng (do đều bị khắc gần và trực tiếp) thì làm sao thắng được Tỷ Kiếp và Kiêu Ấn mà còn đòi thành cách Tòng Sát, dụng Tài là tuyệt diệu” cơ chứ ?

Xét về hành vận ta thấy các vận Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất” có các can là Thổ Kim còn phương là Kim Thủy đều là Thực Thương, Tài và Quan Sát mà đẹp thì rõ ràng Thân của Tứ Trụ này phải vượng (vì nếu tòng Sát thì vào vận Thực Thương là Mậu, Kỷ khắc Nhâm phải xấu chứ ?).

Xét thêm 2 vận Đinh Dậu/ Bính Thân” ta thấy mặc dù can là kỵ thần Tỷ Kiếp nhưng may có Bính thấu lộ trong Tứ Trụ vượng ở đại vận hợp Đinh và khắc Bính còn chi theo phương Kim là Tài nên hỷ dụng thần đều vượng. Do vậy mặc dù là vận kỵ thần đã trở thành vận hỷ dụng thần phù hợp với thực tế của đương số. Điều này càng khẳng định Tứ Trụ này Thân phải vượng.

Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược theo phương pháp của tôi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ tính toán ta thấy Thân có 6đv lớn hơn Thực Thương, Tài và Quan Sát trên 1đv nên Thân của Tứ Trụ này là vượng đúng nhưtôi đã luận ở trên. Thân vượng mà Kiêu Ấn nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Sửu trụ năm.

Rõ ràng Nhật can chỉ có 6đv không hề có Tỷ Kiếp trợ Thân hay Kiêu Ấn sinh cho mà Thân vẫn vượng thì cần gì phải có căn hay gốc.

Qua ví dụ này chúng ta thấy tác giả luận quá là “Kinh” từ Thân vượng mà luận thành Thân cực nhược phải tòng Sát mới “Khủng” chứ, theo tác giả chỉ vì Nhật can không có Căn Gốc hay Căn Gốc bị xung phá (“gốc rễ bị nhổ tận cùng”) có đáng tin hay không ?

Với ví dụ 233 (Trích Thiên Tủy) Quan Sát chỉ có 2 can chi nắm lệnh còn không thể Tòng Quan Sát được nữa là ở đây Quan Sát chỉ có 1 can thất lệnh mà tác giả dám kết luận Tòng Sát nữa thì quả là quá "Kinh Khủng" !


...............................................................................

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 04/12/2015 - 14:12, said:
Tôi đã tuyên bố:

"Bất kể người nào dù là VIP hay VỊT mà chê, khinh bỉ hay kết luận về một ai sai mà không chứng minh được người đó sai thì được coi là loài "Súc Sinh"".

Sửa bởi VULONG777: 31/01/2016 - 17:59


#18 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 09/02/2016 - 19:48

Giải Nobel IG Tử Bình số 4 - Về Hình, Hại và Tự hình

Có nội dung : "Vứt bỏ các khái niệm Hình, Hại và Tự hình ra khỏi môn Tử Bình".

Luận án bảo vệ thành công giải "Nobel IG Tử Bình số 4" như sau:

Trong Chương 8 - Địa Chicủa cuốn “Trích Thiên Tủy” có viết:

- Cái nghĩa của việc tương hình thật không lấy chi làm nhất định, như hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ, gọi là tự hình, vốn là địa chi gặp địa chi, cùng đồng khí cớ sao lại tương hình?
- Tý hình mão, mão hình tý, vốn là tương sinh, dần thân tương hình tất gặp xung sao còn lại đi tương hình? Tuất hình mùi, mùi hình sửu đều ngũ hành thuộc thổ khí thì không thể nào tương hình được. Dần hình tỵ cũng là tương sinh, dần thân tương hình, tất gặp xung hà tất lại còn tương hình hay sao?
- Lại còn nói tý mão nhất hình, dần tỵ thân nhị hình, sửu tuất mùi tam hình, gọi là tam hình, lại còn có tự hình, đều là ngụy luận hẵng nên vứt bỏ.
- Xuyên tức là hại, lục hại là do lục hợp mà có, tức xung thần hợp với ta, gọi là lục hại, như tý hợp sửu mà gặp mùi xung, sửu hợp tý mà gặp ngọ xung. Cho nên nói tý mùi tương hại, chẳng không tương khắc, sửu ngọ dần hợi tương hại, đều là tương sinh, cớ sao lại tương hại? vả lại tương hình, tương hại vốn đã không lấy chi đủ làm bằng chứng, thật lầm lỗi lớn, đến như tương phá cũng như thế cả, không tương hại tức tương hình, lỗi lầm do không thuộc ở kinh, nên tước bỏ vậy.


Sau đây là ví dụ số 40 trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” của tôi:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy :

Năm 1963 là năm Quý Mão thuộc đại vận Nhâm Ngọ và Quý Mùi (tức tiểu vận). Ta xét đại vận Nhâm Ngọ, vì điểm hạn ở đại vận Quý Mùi quá thấp (ở đây 2 tuổi chưa khởi đại vận nên phải lấy tiểu vận thay đại vận chứ không được lấy trụ tháng làm đại vận thứ nhất như các phần mềm trên các trang web vẫn lấy).

1 - Mệnh này Thân vượng mà Kiêu Ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Thìn trụ giờ.
2 - Dụng thần Ất vượng ở lưu niên có -1đh.
3 - Nhật can Canh thai ở lưu niên có 0đh.
4 - Ngọ đại vận hại Sửu trụ năm có 1đh, tự hình Ngọ trụ tháng và Ngọ trụ ngày mỗi lực có 1đh.
Sửu trụ năm bị hại, vì vậy nó không hình hay hại được các chi khác, còn mặc dù 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận nhưng chúng vẫn hình, tự hình hay hại được với các chi khác. Do vậy 2 Ngọ trong tứ trụ tự hình với nhau có 0,5đh, Ngọ trụ tháng hại Sửu trụ năm có 0,5đh và Ngọ trụ ngày hại Sửu trụ năm có 0,25đh.
Thìn trụ giờ hại Mão thái tuế có 1đh.
5 - Quý lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. Ngọ đại vận có 2 cát thần có -2.0,25đh. Mão lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh.
6 - Đất ven đường trụ ngày có Canh được lệnh nên khắc được kim trong cát trụ tháng có 1đh.

Tổng số là 4,75đh. Số điểm này chấp nhận được, vì nó phù hợp với thực tế của tai họa quá nặng này.
Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của tự hình và hại. Vì vậy ta phải giải cứu về tự hình và hại.

Trong Tứ Trụ có Thìn trụ giờ hại Mão thái tuế nên hạn dễ xẩy ra vào tháng Thìn.
Có 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận và Thân (Kim) nhược sinh vào tháng Ngọ, Hỏa quá vượng, vì vậy tai họa cũng dễ xẩy ra vào tháng Ngọ”.

Qua ví dụ này ta thấy tai họa này chủ yếu do các điểm về Hình, Hại và Tự hình gây ra (chiếm tới 5,25đh). Nếu như vứt bỏ khái niệm Hình, Hại và Tự hình như tác giả thì tổng số sẽ là -0,25đh thì làm sao có thể gây ra hạn được ? Khi đó tác giả dựa vào đâu để dự đoán cho tai họa này

Ở đây không thể lấy xung khắc của ngũ hành như tác giả đã lấy để giải thích khái niệm về Hình, Hại như vậy được, mà phải lấy thực tế để giải thích thì mới đúng. Ví dụ Tý hợp với Sửu là lục hợp đại diện cho vợ chồng của một gia đình mà Mùi là một người thứ 3 bên ngoài đến xung Sửu làm cho lục hợp của Tý với Sửu bị tan, tức gia đình này bị tan vỡ. Dĩ nhiên là sự tan vỡ này do Mùi xung Sửu (xung này được gọi là Tứ Hành xung) nên Tý và mùi dĩ nhiên thành kẻ thù của nhau nên người ta đã gọi trường hợp này là hại nhau, điều này không liên quan gì tới Tý và Mùi mang hành khắc nhau hay tương sinh, tương sót gì cả (Thổ và Thủy).

...............................................................................

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 04/12/2015 - 14:12, said:
Tôi đã tuyên bố:

"Bất kể người nào dù là VIP hay VỊT mà chê, khinh bỉ hay kết luận về một ai sai mà không chứng minh được người đó sai thì được coi là loài "Súc Sinh"".

Sửa bởi VULONG777: 09/02/2016 - 20:17


#19 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 21/02/2016 - 06:25

Giải Nobel IG Tử Bình số 5 - Về “âm dương đồng sinh đồng tử”,

Có nội dung : Vứt bỏ khái niệm “dương sinh âm tử, âm sinh dương tử” ra khỏi môn Tử Bình.

Luận án bảo vệ thành công giải "Nobel IG Tử Bình số 5" như sau:

Trong “Chương 9 - Can Chi Tổng Luận” tác giả có viết :

“...Từ đó cho thấy, âm dương đồng sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy.

Qua đoạn này chúng ta thấy tác giả đã khẳng định “âm dương đông sinh đồng tử”, có nghĩa là tất cả các can chi âm có cùng một trạng thái với các can chi duơng cùng hành với nó. Ví dụ như Giáp và Dần trường sinh ở Hợi và Tử ở Ngọ thì Ất và Mão cũng phải trường sinh ở Hợi và Tử ở Ngọ chứ không phải Ất và Mão trường sinh ở Ngọ và Tử ở Hợi như tất cả các cuốn sách Kinh Điển khác viết.

Vậy “âm dương đồng sinh đồng tử” hay “dương sinh âm tử, âm sinh dương tử” cái nào là đúng còn cái nào là sai ?

Ví dụ số 25 trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” của tôi có thể chứng minh được điều này. Bởi vì người có Tứ Trụ này chết năm 1996 vì chẩy máu não mà Tứ Trụ có 2 Đinh ở trạng thái Quan Đới có 8đv còn 2 Tân ở trạng thái Suy có 5đv nếu theo “dương sinh âm tử, âm sinh dương tử”. Ngược lại nếu theo “âm dương đồng sinh đồng tử” thì 2 Đinh sẽ ở trạng thái Suy có 5đv còn 2 Tân sẽ ở trạng thái Quan Đới có 8đv. Đây là một điều kiện thuận lợi để có thể chứng minh được theo quan điểm nào là đúng qua phương pháp tính điểm hạn của tôi.


Ví dụ 25 :

Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần theo phương pháp của tôi.

Nếu theo “dương sinh âm tử, âm sinh dương tử” thì :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Theo sơ đồ tính toán trên thì Tứ Trụ này có Thân nhược mà Quan Sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kỷ tàng trong Mùi trụ tháng.

Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm 1996 :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Năm 1996 là năm Bính Tý thuộc đại vận Giáp Thìn, tiểu vận Nhâm Tý và Tân Hợi. Ta xét tiểu vận Nhâm Tý.
1 – Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Mệnh này Thân nhược mà quan sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải lấy kiêu ấn là Kỷ tàng trong Mùi trụ tháng.
2 – Trong tứ trụ có tam hợp Hợi Mão Mùi không hóa (vì Dậu xung cách ngôi với Mão hay chỉ có 1 trụ năm Đinh Dậu TKĐX với trụ giờ Tân Mão không thể phá được tam hợp Hợi Mão Mùi được).
Vào đại vận Giáp Thìn có :
Tam hợp Hợi Mão Mùi trong tứ trụ hóa Mộc có 1,5đh.
Lục hợp của Dậu trụ năm với Thìn đại vận hóa Kim.
Tới lưu niên Binh Tý có :
Ngũ hợp của Bính lưu niên với 2 Tân trong tứ trụ.
Nếu sử dụng giả thiết 131/25 thì bán hợp của Tý lưu niên và Tý tiểu vận với Thìn đại vận hóa Thủy có 0,75đh (vì có Nhâm tiểu vận dẫn hóa và lực hợp của 2 Tý với Thìn đại vận có 2.7,67đv lớn hơn lực hợp của Dậu với Thìn chỉ có 5,0đv).

VìThìn và Tý ở tuế vận đều hóa Thủy và có hợp thiên can của Bính với Tân liên kết giữa tứ trụ với tuế vận nên phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm (giả thiết 7/9).
Kỵ thần Mộc có 1,29đv được thêm 5,12đv của Mùi trụ tháng, 2đv của Hợi trụ ngày thành 8,41đv. Thổ có 5,12đv bị mất hết. Thủy có 2đv cũng bị mất hết.
Nếu sử dụng giả thiết 10/6 thì hành Hỏa (quan sát) trong tứ trụ vẫn là kỵ 1 nhưng tĩnh (vì 2 Đinh không động) nên không phải tính thêm điểm vượng của tuế vận, vì vậy dụng thần không thay đổi.
3 - Trụ năm Đinh Dậu TKĐK với trụ giờ Tân Mão có 0,5đh +0,05đh (vì Đinh được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
4 - Dụng thần Kỷ tàng trong chi Mùi trụ tháng, vào năm Bính Tý chi Mùi đã hóa Mộc nên có 1đh (vì Kỷ không cùng hành với Mộc cục - giả thiết 38/25).
Dụng thần Kỷ tuyệt ở lưu niên có 1đh.
5 - Nhật can Tân vượng ở lưu niên có -1đh và Tân nhập mộ ở đại vận nên có 1đh (vì Thân nhược).
6 – Bính lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có 0,25đh và khắc 2 Tân trong tứ trụ, vì vậy mỗi lực có 0,75.1/4đh = 0,19đh. Mỗi Tân thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên có -0,5đh nhưng bị khắc mất 19%đh, vì vậy mỗi Tân chỉ còn -0,5.81%đh = -0,41đh.
Giáp đại vận có 3 cát thần nên có -3.0,25đh.
Tổng số là 3,86đh. Số điểm này quá thấp không thể chấp nhận được.

Người này chết vì chẩy máu não, mà não thuộc về đầu và thần kinh.... Chúng được đại diện bởi hành Mộc. Khi Mộc vượng quá hay suy nhược quá hoặc bị khắc nặng đều dễ bị các bệnh về Mộc. Ở đây Mộc là kỵ thần khi vào đại vận Giáp Thìn có tam hợp Hợi Mão Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Mộc đã vượng đến năm Bính Tý có bán hợp của Thủy cục phải sinh được cho Mộc (vì nước mưa rơi xuống đất làm cho cây phát triển được), vì vậy Mộc quá vượng mới gây ra bệnh ở não (đầu).

Nếu sử dụng giả thiết 118/25 thì hành Mộc có 1đh nên mỗi chi của Thủy cục sinh cho Mộc cục là 0,6đh (chi tiểu vận chỉ là 0,3đh), nên Thủy cục sinh cho Mộc cục 0,6.2đh + 0,3đh = 1,5đh.
Tổng số là 5,23đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Các nguyên nhân gây ra hạn này bởi các điểm hạn của TKĐX, Thủy sinh cho Mộc và Hỏa khắc Kim. Do vậy ta phải dùng Thổ và Kim, nhất là Thổ để giải cứu.
Mặc dù có Hỏa (Bính) khắc Kim (Tân) nhưng Hỏa và Kim ở trong tổ hợp, vì vậy có thể Hỏa và Kim không có khả năng sinh hay khắc các hành khác (?). Chỉ còn Thủy cục sinh cho Mộc cục mà tiểu vận Nhâm Tý chỉ có từ 4/2 tới 7/8 thuộc các tháng là Dần, Mão, Thìn, Tị và Ngọ nhưng Thủy cục chỉ có thể sinh cho Mộc cục ở các tháng Dần và Ngọ (vì Thủy không tử tuyệt ở các tháng này), còn Mộc cục chỉ có thể nhận được sự sinh của Thủy cục ở các tháng Dần, Mão, Thìn và Tị (vì Mộc không tử tuyệt ở các tháng này). Do vậy tai họa chỉ có thể xẩy ra vào tháng Dần và nó cũng là tháng mà Hỏa vượng khắc Kim ở tử tuyệt, vì vậy Kim không thể chế ngự được Mộc (?). Điểm hạn ở tiểu vận Tân Hợi chỉ là 4,84đh, vì vậy tai họa chắc chắn phải xẩy ra ở tiểu vận Nhâm Tý.

Có Bính khắc Tân mà Bính đại diện cho máu, tim..., còn tam hợp trong tứ trụ hóa Mộc, Mộc cục còn được Thủy cục sinh cho, Mộc là cực vượng, vì vậy người này bị chẩy máu não (vì Mộc đại diện cho đầu, thần kinh, gan...).
Nếu 2 Tý không phá được Kim cục thì không có 0,75đh của Thủy cục và 1,55đh của Thủy cục sinh cho Mộc cục, có thêm -0,5đv của Kim cục, nhưng nó bị giảm 50%đv (bị khắc bởi 2 Đinh), nó còn -0,5.1/2dp = -0,25đh, thêm -1đh can của 2 đinh và 0,5đh do điểm hạn của TKĐX được tăng gấp đôi (vì các địa chi của TKĐX hóa cục có cùng hành với chi của chúng và TKĐX có trước 2 hóa cục)....., tổng số là 2,1đh. Số điểm này không thể chấp nhận được.

Qua sơ đồ tính điểm hạn trên ta thấy Thân nhược là hợp lý vì khi đó Thủy, Mộc và Hỏa đều là kỵ thần nên :
1 - Vào đại vận Giáp là Mộc là kỵ thần (nhưng rất may là không những Giáp không gây ra 1 điểm hạn dương nào cả mà lại còn có điểm hạn âm của 3 cát thần là -3.0,25đh).
2 - Lưu niên Bính là Hỏa cũng là kỵ thần.
3 - Thủy cục là kỵ thần sinh được cho Mộc cục cũng là kỵ thần.
4 – Dụng thần Kỷ tàng trong Mùi trụ tháng đến vận Giáp hóa Mộc nên dụng thần có 1 đv và dụng thần Kỷ Tử Tuyệt tại lưu niên Tý cũng có 1 đh.
5 – Vì Thân nhược nên Nhật can Tân nhập Mộ đại vận Thìn có 1đh.

Nói chung vào năm Bính Tý của đại vận Giáp Thìn tổ hợp của các can chi giữa Tứ Trụ với tuế vận là quá xấu, hầu như toàn gây ra các điểm hạn dương nên tổng số điểm hạn quá cao mới có thể gây ra tai họa này.

Còn nếu theo: “âm dương đồng sinh đồng tử” thì :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ trên ta thấy Thân của Tứ Trụ này là vượng mà Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát là Đinh ở trụ năm.
Nếu Thân vượng thì rõ ràng các hành Thủy, Mộc và Hỏa ở đây phải là hỷ dụng thần nên mọi điều sẽ phải trái ngược với sơ đồ tính điểm hạn ở trên.
Cụ thể Thủy cục, Mộc cục và Thủy cục sinh cho Mộc cục đều mang dấu âm còn thêm Thân vượng nên dụng thần Đinh có nhập Mộ ở đại vận cũng không có 1 đh....
Tổng điểm hạn chắc chắn là có dấu âm hay quá thấp nên năm 1996 nó không thể gây ra một tai họa nào cả.

Từ đây chúng ta có thể khẳng định rằng “âm dương đồng sinh đồng tử” là sai hoàn toàn, một điều không thể chấp nhận được.

..............................................................................

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 04/12/2015 - 14:12, said:
Tôi đã tuyên bố:

"Bất kể người nào dù là VIP hay VỊT mà chê, khinh bỉ hay kết luận về một ai sai mà không chứng minh được người đó sai thì được coi là loài "Súc Sinh"".

Sửa bởi VULONG777: 21/02/2016 - 06:50


#20 Lutuannghia

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 301 Bài viết:
  • 160 thanks

Gửi vào 21/02/2016 - 08:08


Sách Tam Mệnh Thông Hội tập 1 của Vạn Dân Anh có một câu rất hay :

" Đại để NGŨ HÀNH dụng PHÁP , tổng VÔ CHÂN THỰC , SINH TỬ SUY VƯỢNG , diệc GIẢ DANH NHĨ ".



#21 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 21/02/2016 - 14:33

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Lutuannghia, on 21/02/2016 - 08:08, said:

Sách Tam Mệnh Thông Hội tập 1 của Vạn Dân Anh có một câu rất hay :

" Đại để NGŨ HÀNH dụng PHÁP , tổng VÔ CHÂN THỰC , SINH TỬ SUY VƯỢNG , diệc GIẢ DANH NHĨ ".

Xin lỗi Lutuannghia!
Bạn có thể làm ơn giải nghĩa câu này và cho một vài ví dụ để chứng minh điều mà bạn kết luận là "rất hay" này được không ?

#22 Lutuannghia

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 301 Bài viết:
  • 160 thanks

Gửi vào 21/02/2016 - 15:04

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 21/02/2016 - 14:33, said:



Xin lỗi Lutuannghia!
Bạn có thể làm ơn giải nghĩa câu này và cho một vài ví dụ để chứng minh điều mà bạn kết luận là "rất hay" này được không ?

Quả thực thấy bạn rất nhiệt tình và say mê Tử Bình,tôi rất thán phục .

Thấy bạn có vẻ rất "chắc tay " khi luận các ví dụ , tôi cũng mê lý thuyết Tử Bình nhưng đọc đến đây thì "tắc tị". Rồi còn nhiều nữa mà không biết hỏi ai ?

Nay mạo muội đưa lên , nếu có thể ,xin bạn cho đôi lời về đoạn đó . Hay là tôi dốt ,hay là man thư để còn biết đường "quay đầu " ?



#23 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 21/02/2016 - 16:58

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Lutuannghia, on 21/02/2016 - 15:04, said:

Quả thực thấy bạn rất nhiệt tình và say mê Tử Bình,tôi rất thán phục .

Thấy bạn có vẻ rất "chắc tay " khi luận các ví dụ , tôi cũng mê lý thuyết Tử Bình nhưng đọc đến đây thì "tắc tị". Rồi còn nhiều nữa mà không biết hỏi ai ?

Nay mạo muội đưa lên , nếu có thể ,xin bạn cho đôi lời về đoạn đó . Hay là tôi dốt ,hay là man thư để còn biết đường "quay đầu " ?

Bạn tự trích dẫn ra một câu trong cuốn "Tam Mệnh Thông Hội tập 1" của Vạn Dân Anh rồi khen "rất hay" mà tôi thì lại không hiểu câu đó nên đành phải nhờ bạn giải thích... vậy mà bạn lại quay ngược lại bảo tôi giải thích giúp bạn chính đoạn mà bạn trích ra đó là sao ?



#24 Lutuannghia

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 301 Bài viết:
  • 160 thanks

Gửi vào 21/02/2016 - 17:06

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 21/02/2016 - 16:58, said:



Bạn tự trích dẫn ra một câu trong cuốn "Tam Mệnh Thông Hội tập 1" của Vạn Dân Anh rồi khen "rất hay" mà tôi thì lại không hiểu câu đó nên đành phải nhờ bạn giải thích... vậy mà bạn lại quay ngược lại bảo tôi giải thích giúp bạn chính đoạn mà bạn trích ra đó là sao ?



Thôi vậy , tôi tìm hướng khác , chúc bạn toại nguyện !

#25 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 22/02/2016 - 04:46

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Lutuannghia, on 21/02/2016 - 17:06, said:

Thôi vậy , tôi tìm hướng khác , chúc bạn toại nguyện !

Quả thực là tôi không hiểu bạn muốn gì ở tôi ?

#26 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 27/02/2016 - 04:38

Giải Nobel IG Tử Bình số 6 - Về “Thần Dẫn” “Tham Hợp Quên Xung”

Có nội dung : “Vướt bỏ tính chất “Thần Dẫn” “Tham Hợp Quên Xung” ra khỏi môn Tử Bình”.

Luận án bảo vệ thành công giải "Nobel IG Tử Bình số 6" như sau:

Sau đây là ví dụ số 19 trong cuốn “Trích Thiên Tủy” :

19 - Canh tuất - ất dậu - giáp dần - canh ngọ

Bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần/ tân mão.

Tứ trụ can thấu lưỡng canh, mùa thu kim đương thịnh, địa chi hội hỏa cục, tuy chế sát có công, mà khắc tiết nhật chủ không nên có. Với lại canh kim khí uy mãnh một phương, lấy hỏa khí khắc chế cái uy của nó, sao bằng tiết khí nó mà sinh phù nhật chủ. Hóa khí đó có cộng năng làm ích lợi cho nhật chủ; còn lấy hỏa chế khắc kim khí thì nhật chủ bị tiết khí sinh hỏa. Do đó mà suy luận, không nên hội hỏa cục, nếu hội hỏa cục trở lại làm kỵ thần. Đại vận Mậu Tý lưu niên Canh Thìn (30 tuổi) đại khôi thiên hạ. Tý vận xung phá hỏa cục, xung khứ ngọ vượng thần dẫn thông (để hóa Kim) canh kim, làm lợi ích nhật chủ; thìn niên thuộc thấp thổ có thể tiết khí hỏa, củng phò tý thủy đủ sức sinh bồi nhật chủ vậy”.

Qua bài luận này chúng ta thấy tác giả viết“địa chi hội hỏa cục”, có nghĩa là tác giả đã khẳng định 3 chi Dần, Ngọ và Tuất trong Tứ Trụ này đã tạo thành tam hợp và đã hóa Hỏa thành công.

Sau đây là sơ đồ mô tả mối liên hệ giữa các Can Chi trong Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận của năm Canh Thìn (30 tuổi) theo phương pháp của tôi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy Tứ Trụ này có Thân nhược (đúng như tác giả đã xác định) mà Quan Sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn nhưng trong Tứ Trụ không có nên phải lấy đến dụng thần thứ 2 là Tỷ Kiếp là Giáp tàng trong Dần trụ ngày.

Qua sơ đồ diễn tả trên của tôi, rõ ràng chúng ta không hề thấy Bính, Đinh hay Hỏa cục của các Thiên can làm thần dẫn đâu cả (mà các cuốn sách Kinh Điển vẫn thường viết), vậy mà tác giả vẫn kết luận tam hợp Dần Ngọ Tuất trong Tứ Trụ hóa được Hỏa.

Điều này khẳng định tác giả đã vứt bỏ tính chất “Thần Dẫn” ra khỏi môn Tử Bình.


Tiếp chúng ta thấy tác giả viết : “Đại vận Mậu Tý lưu niên Canh Thìn Tý vận xung phá hỏa cục mà theo các cuốn Kinh điển về Tử Bình vẫn viết: “Tham Hợp Quên Xung”, vậy thì thử hỏi tại sao Tý ở đây không “Tham Hợp” với Thìn lưu niên (thường gọi là bán hợp) mà lại đi xung với Ngọ trụ giờ đang “Tham Hợp” (ở trong tam hợp) ?

Từ đây chúng ta khẳng định tác giả đã vứt bỏ tính chất “Tham Hợp Quên Xung” ra khỏi môn Tử Bình.

Sửa bởi VULONG777: 27/02/2016 - 04:48


#27 VULONG777

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 375 Bài viết:
  • 180 thanks

Gửi vào 27/02/2016 - 05:24

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VULONG777, on 27/02/2016 - 04:38, said:

Giải Nobel IG Tử Bình số 6 - Về “Thần Dẫn” “Tham Hợp Quên Xung”

Có nội dung : “Vướt bỏ tính chất “Thần Dẫn” “Tham Hợp Quên Xung” ra khỏi môn Tử Bình”.

Luận án bảo vệ thành công giải "Nobel IG Tử Bình số 6" như sau:

Sau đây là ví dụ số 19 trong cuốn “Trích Thiên Tủy” :

19 - Canh tuất - ất dậu - giáp dần - canh ngọ

Bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần/ tân mão.

Tứ trụ can thấu lưỡng canh, mùa thu kim đương thịnh, địa chi hội hỏa cục, tuy chế sát có công, mà khắc tiết nhật chủ không nên có. Với lại canh kim khí uy mãnh một phương, lấy hỏa khí khắc chế cái uy của nó, sao bằng tiết khí nó mà sinh phù nhật chủ. Hóa khí đó có cộng năng làm ích lợi cho nhật chủ; còn lấy hỏa chế khắc kim khí thì nhật chủ bị tiết khí sinh hỏa. Do đó mà suy luận, không nên hội hỏa cục, nếu hội hỏa cục trở lại làm kỵ thần. Đại vận Mậu Tý lưu niên Canh Thìn (30 tuổi) đại khôi thiên hạ. Tý vận xung phá hỏa cục, xung khứ ngọ vượng thần dẫn thông (để hóa Kim) canh kim, làm lợi ích nhật chủ; thìn niên thuộc thấp thổ có thể tiết khí hỏa, củng phò tý thủy đủ sức sinh bồi nhật chủ vậy”.

Qua bài luận này chúng ta thấy tác giả viết“địa chi hội hỏa cục”, có nghĩa là tác giả đã khẳng định 3 chi Dần, Ngọ và Tuất trong Tứ Trụ này đã tạo thành tam hợp và đã hóa Hỏa thành công.

Sau đây là sơ đồ mô tả mối liên hệ giữa các Can Chi trong Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận của năm Canh Thìn (30 tuổi) theo phương pháp của tôi :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua sơ đồ ta thấy Tứ Trụ này có Thân nhược (đúng như tác giả đã xác định) mà Quan Sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn nhưng trong Tứ Trụ không có nên phải lấy đến dụng thần thứ 2 là Tỷ Kiếp là Giáp tàng trong Dần trụ ngày.

Qua sơ đồ diễn tả trên của tôi, rõ ràng chúng ta không hề thấy Bính, Đinh hay Hỏa cục của các Thiên can làm thần dẫn đâu cả (mà các cuốn sách Kinh Điển vẫn thường viết), vậy mà tác giả vẫn kết luận tam hợp Dần Ngọ Tuất trong Tứ Trụ hóa được Hỏa.

Điều này khẳng định tác giả đã vứt bỏ tính chất “Thần Dẫn” ra khỏi môn Tử Bình.


Tiếp chúng ta thấy tác giả viết : “Đại vận Mậu Tý lưu niên Canh Thìn Tý vận xung phá hỏa cục mà theo các cuốn Kinh điển về Tử Bình vẫn viết: “Tham Hợp Quên Xung”, vậy thì thử hỏi tại sao Tý ở đây không “Tham Hợp” với Thìn lưu niên (thường gọi là bán hợp) mà lại đi xung với Ngọ trụ giờ đang “Tham Hợp” (ở trong tam hợp) ?

........................................................................

Bổ xung thêm phần chứng minh lực hợp của bán hợp Tý với Thìn mạnh hơn lực hợp của lục hợp Dậu với Thìn :

Cách tính lực hợp của Tý đại vận và Dậu trụ tháng với Thìn lưu niên như sau :

Dậu có :
- 9 đv (điểm vượng của Dậu tại lệnh tháng Dậu)
- 6 đv (điểm vượng của Dậu tại lệnh đại vận Tý)
- 3 đv (điểm vượng của Dậu tại lệnh lưu niên Thìn).2 (điểm vượng của Dậu tại lưu niên được nhân gấp đôi).

Lực hợp của Dậu trụ tháng với thái tuế Thìn chính là điểm vượng trung bình của 4 đại lượng này là :

(9 + 6 + 3.2).1/4 đv = 5,25 đv

Tý có :
- 10 đv tại lệnh đại vận Tý
- 3 đv (tại lệnh lưu niên Thìn).2 (điểm vượng tại lưu niên được nhân gấp đôi)

Lực hợp của Tý đại vận với Thìn lưu niên chính là điểm vượng trung bình của 3 đại lượng này là:

(10 + 3.2).1/3 đv = 5,33 đv

Ta thấy chỉ cần 1 lực của Tý đại vận hợp với Thìn lưu niên cũng lớn hơn lực hợp của Dậu trụ tháng với Thìn lưu niên nên Tý hợp được với Thìn (không cần tính thêm lực hợp của Tý tiểu vận với Thìn lưu niên).

Điều này khẳng định Tý đại vận đã hợp được với Thìn lưu niên.


..................................................................................

Từ đây chúng ta khẳng định tác giả đã vứt bỏ tính chất “Tham Hợp Quên Xung” ra khỏi môn Tử Bình.

Sửa bởi VULONG777: 27/02/2016 - 05:29







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |