Jump to content

Advertisements




SỰ BUỒN BỰC LÀM THAY ĐỔI NÃO BỘ THẾ NÀO


145 replies to this topic

#61 BanBiThu

    Hội viên mới

  • Banned
  • 98 Bài viết:
  • 21 thanks

Gửi vào 13/07/2018 - 16:34

CÓ NGHĨA LÀ : TRI + NHẬT= TRÍ : Đứng dưới ánh sáng mặt trời soi rõ mới nhìn thấy rõ ràng mọi thứ mà biết nó là cái thứ gì. ĐỨNG TRONG BÓNG TỐI MÀ NHÌN ĐƯỢC thì là BỐ THÁNH.
TUỆ = TÂM+ TUỆ( chổi) : NGHĨA LÀ quét sạch hỷ nộ ái ố dục lạc... đi Thì TÂM sáng như GƯƠNG.SOI VÀO ĐẤY biết MÌNH LÀ AI.
LOẠI NGU thì không biết cái ma toi khỉ gió gì cả,GIỐNG NHƯ SAU: Năm 1980 Kỳ thi Ngữ Văn,Có câu :KHỔ TẬN CAM LAI. Vì chưa có phổ cập INTERNET nên BỌN NGU ĐÃ BỊ ĐÁNH TRƯỢT Vì "CẢ GAN" THÍCH NGHĨA : CAM LAI là MỘT GIỐNG CAM.BỌN NGU LẠI ĐẺ RA BỌN NGU F1.BỌN F1 NÀY "DELTA" KHÔNG BIẾT LÀ CÁI GÌ VẬY MÀ VẪN CỨ LÀ CÔ CẬU CỬ,BỌN NGU KIA NGHIỄM NHIÊN THÀNH ÔNG BÀ CỬ.Thời gian nước chảy,mây trôi.BỌN F1 LẠI phối kết hợp tạo ra F2.TUY NHIÊN do THOÁI HÓA... NGU ĐÃ ĐẾN CỰC ĐIỂM==>TIẾN HÓA THÀNH MỘT GIỐNG LOÀI TƯỞNG NHƯ ĐÃ TUYỆT CHỦNG CÓ TÊN KHOA HỌC lÀ:..... CU LY.
DO VẬY NGU ĐÃ KHÔNG CỨU ĐƯỢC.. SAO CỨU ĐƯỢC CU LY?
BÊN TRÊN TÔI ĐỌC: PHÁT MINH BÓNG ĐÈN ĐIỆN EDISON... À NGÀY XƯA CON TRAI CẢ ÔNG THÍCH CA ĐÃ ĐI PHÍA SAU, MỖI BỮA ÔNG THÍCH CA ĐI , Y LIỀN ĐI ĐẰNG SAU LẤY CHÂN XÓA ĐI, MỤC ĐÍCH: ĐỂ THIÊN HẠ MÙ ĐƯỜNG tưởng tượng MỘT BƯỚC LÊN TIÊN,MỘT BƯỚC THÀNH PHẬT. VÌ THẾ Y mặc dù là THỊ GIẢ KỀ CẬN BÊN PHẬT nhưng đọa vào địa ngục không ngày trở ra.
TIẾP TỚI ÔNG ANAN KINH SÁCH THUỘC LÀU,NHƯNG ĐỘNG CÁI GÌ CŨNG HỎI .TUY BIẾT MÀ CHẲNG HIỂU NÊN GỌI LÀ NGU.CHỨNG ALA HÁN cuối cùng,không được tham dự ĐẠI HỘI KINH ĐIỂN
====> CHUYỆN ĐÃ SẢY MẤY NGHÌN NĂM,MÀ VẪN KHÔNG RÚT KINH NGIỆM THÌ LÀ "TU NGU".

#62 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 13/07/2018 - 16:55

Hôm nay được thêm một ngày tốt lành. Được hai lần cười thật thoải mái

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#63 BanBiThu

    Hội viên mới

  • Banned
  • 98 Bài viết:
  • 21 thanks

Gửi vào 14/07/2018 - 00:15

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


ĐANG Ý ĐỊNH CHƯỞI :ĂN CHÁO ĐÁI BÁT .Thì phía dưới có Ông minhminh Chưởi rồi.NHÌN XUỐNG THẤY KHÔNG CÓ ĐỦ SỐ BÀI VIẾT.NÊN VIẾT LUÔN TẠI ĐÂY.TRÁNH CÃI VÃ VỚI BỌN NGU.BỞI VÌ MÔ-TÍP BỌN NÀY SẼ GÁY LÁO KIỂU NHƯ: ĐƯA RA MỘT LÁ SỐ VỚ VẨN BẢO ĐOÁN THỬ,...TÀI XỈU NGU DỐT.
-ĐỂ T.AO BẢO CHO MẤY THẰNG NGU NGHE NÀY:
THỦ TỤC NHẬP MÔN KHI XƯA LÀ : 3 Nén bạc trắng,1 Mâm xôi vò,1 Con gà sống thiến luộc,3 lá trầu không,1 quả cau,1 thẻ nhang.
ĐỘI MÂM ẤY LÊN ĐẦU BỐ MẸ ĐI CÙNG.LÊN NÚI CẦU THẦY.
ĐẾN NƠI NGƯỜI LÀM CHA MẸ CẤT LỜI NHỜ VẢ.NGƯỜI THẦY CHẤP THUẬN CHO RA LỄ NHẬP MÔN.
PHẢI TUYÊN THỆ ƯỚC(Đứa nào phản bội lời thệ ước này,NẶNG...GIẾT KHÔNG THA.KẺ LÀM THẦY.....PHẢI TỰ TAY XỬ LÝ),MỖI MỘT PHÁI -MỘT MÔN QUY.
KẺ LÀM TRÒ SÁNG PHẢI LÀM VIỆC THƯỜNG NHẬT,ĐỐN CỦI,NẤU CƠM,..XONG VIỆC MỚI ĐƯỢC HỌC MÔN THUẬT.
RÈN TÂM LUYỆN TÍNH HƠN 10 NĂM TRỜI THÀNH CÔNG ,HẾT 3 NÉN BẠC (thừa thiếu kẻ làm thầy phải bù vào không được đòi hơn).
MỚI ĐƯỢC RA ĐỜI HÀNH ĐẠO.PHẠM VÀO QUY CỦ VẪN CÓ NGƯỜI ĐẾN HỎI TỘI ĐỪNG MƠ TRỐN THOÁT.
(3 nén bạc khi xưa là cả một HỌ TỘC mới góp lại dùng vào việc gấp,Một gia đình nghèo gom cả đời, thế mới có câu HY SINH ĐỜI BỐ CỦNG CỐ ĐỜI CON).
Ngày xưa nghiêm ngặt là như vậy.CHƯỞI TIÊN HIỀN KHÁC GÌ CHƯỞI TỔ BỐ M.ÀY LÊN.ĐÚNG LOẠI THẦN KINH NẶNG,KÈM THÓI MẤT DẠY ĐÃ ĂN VÀO XƯƠNG TUỶ.
CÒN KHÔNG ĐƯỢC VÀO MÔN PHÁI VÌ TƯ CHẤT QUÁ NGU CHỨ CÒN GÌ PHẢI THẮC MẮC ?.
CHO NÊN MẤY THẰNG NGU CỨ VIỆC CHƯỞI CHÊ CHÁN ĐI,TIÊN HIỀN RA CÁT BỤI CẢ RỒI KHÔNG NGHE ĐƯỢC.
-TRỜI SẤM SÉT MƯA TO,RA ĐỨNG GÀO LÊN :LÃO THIÊN,VÌ SAO t*o NGU,ĐƯA BÍ KÍP CHO t*o.VÌ SAO?.
ĐỨNG TRÊN CAO BÁM VÀO CỘT THU LÔI.T.AO TIN RẰNG CHÚNG M.ÀY SẼ CÓ CÂU TRẢ LỜI THÍCH ĐÁNG.
-VÌ ĐÃ MẤT CÔNG HỌC NHƯ THẾ,TRÍ TUỆ HƠN NGƯỜI ...CÓ THẰNG ĐIÊN NÀO ĐEM RA LÀM TRÒ MUA VUI TRÊN MẠNG ẢO.GIÚP NHƯNG CON LỢN NGU,MINH CHỨNG SỰ THẬT CHO NHỮNG CON LỢN NGU?.NHỮNG LOÀI QUỶ MA VỚI NHỮNG PHÁT NGÔN TỞM LỢM GIẢ TRÁ?.


#64 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 14/07/2018 - 09:00

Chửi bới cũng chẳng làm thay đổi được điều gì.
Do vậy, hãy tự mình thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng đêm.


Bây giờ mới là tháng Năm thiếu, chưa đến tháng Bảy lễ Vu Lan Bồn, nhưng cảm hứng thật hoan hỷ từ cuộc giải giải cứu "12 chú heo rừng và một chú heo đầu đàn" khiến tôi liên tưởng đến Tôn giả Manda Galỳayana ( Đức Mục Kiền Liên ) - Thần Thông Đệ Nhất, ngài vẫn không cứu được mẹ bằng phép thần thông.
(nguồn :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)

.....

Tôn giả Manda Galỳayana với Lễ Vu Lan Bồn

Trong hàng Thánh chúng, Mục Kiền Liên không những là vị thần thông đệ nhất, bản tính rất năng động mà còn là một vị hiếu đạo hơn hết. Một hôm nhớ mẹ, Ngài vận dụng thần thông đi khắp mọi nơi để tìm mẹ. Ngài thấy mẹ đang ở chốn địa ngục, ốm yếu gầy còm và vô cùng đói khát. Ngài đem một bát cơm đến dâng lên mẹ là bà Thanh Đề, mừng quá bà dùng tay trái che bát và tay phải bốc cơm đưa vào miệng. Nhưng than ôi! Cơm thành than đỏ, bà không thể nào ăn được. Mục Kiền Liên rơi nước mắt lòng buồn vô hạn, Ngài vận dụng đủ mọi phương tiện để cứu mẹ nhưng không có kết quả.

Trở về bạch sự tình và hỏi lý do, Đức Phật nói:

· Mục Kiền Liên! Lúc sanh tiền mẹ ông đã hủy báng Phật pháp, chửi mắng chư Tăng, bà không tin nhân quả luân hồi. Đặc biệt bà rất bỏn xẻn, chẳng bao giờ bà bố thí cho ai, kể cả bố thí cho con kiến một hạt gạo. Từ đó sau khi chết bà phải chịu các quả báo như thế. Ông tuy là người con hiếu đạo, muốn đền đáp thâm ân nhưng sức của cá nhân có hạn, dù có thần thông một mình ông cũng không thể giải cứu nghiệp lực của bà Thanh Đề. Ông hãy đợi đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng mãn hạ thiết lễ Vu Lan nhờ chư Tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát khỏi cảnh địa ngục.

Theo như lời Phật dạy, ngày rằm tháng bảy Ngài sắm sửa trai diên, dâng cúng mười phương Tăng và nhờ thần lực của chư Tăng chú nguyện. Quả như vậy, với đạo nghiệp tấn tu ba tháng, chư Tăng không những giúp cho bà Thanh Đề, mà nhiều người khác trong ngày đó cũng thoát khỏi địa ngục. Kinh Vu Lan và ngày Lễ Vu Lan còn gọi là ngày rằm xá tội vong nhân có từ đó. Vu Lan Bồn có nghĩa là mở sợi dây treo ngược cho nguời có tội, Trung Quốc còn gọi là Giải đảo huyền.


......

Thích ý :

"12 chú heo rừng và một chú heo đầu đàn" đang mắc kẹt trong hang động nào có khác bà mẹ của Tôn giả Manda Galỳayana đang bị quả báo trong ngục tối.

Các chuyên gia lặn hang động giỏi bậc nhất thế giới thì nào khác gì Tôn giả Manda Galỳayana - Thần Thông Đệ Nhất,
nhưng một mình các chuyên gia vẫn không giải cứu được "12 chú heo rừng và một chú heo đầu đàn" mà phải có sự chung tay góp sức của hàng ngàn con người đồng một lòng cứu giúp thì nào có khác " nhờ thần lực của chư Tăng chú nguyện. Quả như vậy, với đạo nghiệp tấn tu ba tháng, chư Tăng không những giúp cho bà Thanh Đề, mà nhiều người khác trong ngày đó cũng thoát khỏi địa ngục "

Phật Pháp vẫn luôn luôn hiện hữu quanh chúng ta đâu phải là cách nay hơn 2.500 năm.

HÃY TỰ MÌNH THẮP LÊN CHO DÙ CHỈ LÀ MỘT NGỌN NẾN.

Thanked by 4 Members:

#65 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5105 thanks

Gửi vào 14/07/2018 - 12:18

Lược Khảo về Sự Tích và Ý Nghĩa Lễ Vu Lan

Nguyễn Phúc Bửu Tập

Thế Kỷ 21, 09/97, USA

[indent]

Mỗi năm, sau lễ Phật đản, người Việt Nam thiết lễ Rằm Tháng Bảy rất lớn, còn gọi là lễ Xá tội vong nhân theo câu ca dao "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân." Phật giáo Bắc Tông (Ðại Thừa) thiết lễ Vu Lan; lễ này không thấy trong tập tục Nam Tông. Bài này tìm hiểu sự tích lễ Vu Lan, khởi thủy tại Ấn Ðộ. Lễ Vu Lan theo đạo Phật vào Trung Hoa, đã trở thành một ngày hội lớn từ thành thị đến thôn quê. Tại Ðại Hàn, Ðài Loan và Việt Nam, cho đến bây giờ hàng năm dân chúng không quên ngày Rằm Tháng Bảy. Riêng tại Nhật Bản là nơi các tập tục Phật giáo, cho tới cưới thế kỷ Hai mươi vẫn còn giữ nguyên vẹn truyền thống, lễ Vu Lan được tổ chức rất trọng thể. Kéo dài bốn ngày, bắt đầu ngày mười ba, mãn ngày mười sáu tháng Bảy. Chúng ta sẽ khảo sát các chi tiết của ngày lễ Phật đẹp đẽ này. Chúng ta cũng sẽ tìm cách giải thích nguyên do của buổi lễ tôn giáo đại chúng này trong phần sau bài.
Lễ Bon Vu Lan tại Ấn Ðộ.

Vì sao có lễ Bon Vu Lan? Trước khi Thích Ca khai sáng ra đạo Phật, người Ấn đã thiết lễ Bon, mà người Phật Bắc tông Ðông Á và Ðông Nam Á gọi là lễ Vu Lan. Ðạo Bà La Môn ở Ấn Ðộ tin rằng người chết có nhiều ràng buộc với người đang sống, và bổn phận người sống là phải thờ cúng người đã khuất núi. Vì lẽ đó mà đạo dạy là những kẻ vô thừa tự không sinh con cái nối dõi để tiếp tục thờ cúng tổ tiên, sẽ bị phạt tội rất nặng, bị đày xuống địa ngục. Ngày trước, ở Ấn Ðộ, người Bà La Môn đến tuổi trưởng thành phải đi tu học các nghi lễ cúng tế để phục vụ cộng đồng. Nhưng qua thời kỳ thụ huấn, y phải trở lại gia đình, lấy vợ, sinh con nối dõi. Y phải có con thừa tự, để đến lúc chết khỏi bị đọa đày ở địa ngục.
Lúc Thích Ca dựng lên đạo Phật, tông đồ của ngài đã từng sống trong niềm tin Bà La Môn. Những người từ bỏ gia đình để đi tu theo tăng đoàn phải có một cách để tự thuyết phục đi tu theo đạo Thích Ca không phạm tội vô thừa tự, vì tổ tiên sẽ được cứu rỗi bằng lễ Vu Lan.
Ðịnh nghĩa từ Vu-lan: Cho đến bây giờ các học giả đạo Phật đều thỏa thuận là chữ "vu-lan-bồn," phiên âm từ chữ "ura-bon-e," xuất xứ từ tiếng Phạn Sanskrit "ullambana," một hình thức đọc gọn chữ "avalambana," có nghĩa là treo ngược. Tiếng Trung Hoa dịch nghiã là "đảo huyền," treo ngược chân lên trời, đầu xuống đất, là một hình phạt vô cùng tàn khốc áp dụng cho các tội đồ. Người Trung Hoa phiên âm từ "ura-bon-e" thành từ "vu-lan-bồn," nói tắt là "vu-lan." Lễ Vu Lan trở thành một chức năng của tập tục thờ cúng tổ tiên, rất quan trọng trong nền văn minh của Trung Hoa và các nước lân cận chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa.
Học giả người Nhật Bunyu Matsuda sưu khảo trong đại tập Huyền Anh Diễn Nghĩa là một bộ kinh Phật gồm 25 tập, 449 quyển của đại sư Huyền Anh sống dưới đời Tùy, phiên âm và diễn dịch tất cả từ ngữ trong kinh điển nhà Phật từ tiếng Ấn Ðộ sang tiếng Trung Hoa. Trong tập số 13, chữ vu lan bồn được phiên âm và giải thích cặn kẽ. Ðại sư Huyền Anh viết: từ ura-bon mà ta dịch là vu lan bồn là một hình thức phiên âm sai lạc; phải viết đúng là ullambana mới có nghĩa là "đảo huyền."
Lại nữa, vào đời Thịnh Ðường, ở phủ Khai Phong, đại sư Tông Mật lại đưa ra một nhận định khác, khi ông viết phần Luận của cuốn Vu Lan Bồn Kinh. Ông viết: ullam không hẳn là tiếng Phạn, từ này gốc ở Trung bộ Á châu, nơi đạo Phật theo con đường Lụa hoằng dương vào Trung Hoa. Chữ ullam có thể hiểu và dịch là đảo huyền, nhưng chữ bana phiên dịch ra Hán ngữ là bồn, phải hiểu là một con thuyền hay một tấm ván, tấm bè làm khay, một cái chậu đựng thức ăn. Vậy toàn bộ chữ ullambana dịch sang Hán ngữ, phải được hiểu là "cứu giúp một con thuyền bị lật ngược, hay là quay lại cho ngay một tấm bè hay một cái khay, một cái chậu, bị lật ngược." Ðại sư Tông Mật giải thích là ngay trong bản kinh Ullamba Sutra (Vu-lan-bồn Kinh) cũng có đoạn nói đến cái khay. Ðức Phật dạy muốn báo hiếu chuộc tội cho cha mẹ, phải thành tâm "dâng đầy khay thức uống và hương hoa phẩm vật" cho các bậc tôn trưởng cầu xin họ giúp lời cầu nguyện.
Ý kiến phân giải của đại sư Tông Mật được đại sư Ðạo Thế là người trước tác bộ Pháp Uyển Châu Lâm yểm trợ. Tác phẩm này dày 100 cuốn, là một công trình hệ thống hóa hai mục Kinh và Luận trong Tam tạng kinh điển nhà Phật. Trong phần trích dịch Kinh Ullambana Sutra cũng có đoạn nói tới lời đức Phật dạy phải dâng "đầy khay" hương hoa quả phẩm cho tăng chúng để xin giúp lời cầu nguyện cho tổ tiên được siêu thoát.
Học giả Bunyu Matsuda còn dẫn thêm là tài liệu trong bốn cuốn kinh khác, "Vu-lan-bồn Kinh sơ, Vu-lan-bồn Kinh sơ hiếu hành châm, Thích Thị yếu lãm và Fan-i-ming i-chi (?)", để yểm trợ lời giải thích của Tông Mật. Công trình nghiên cứu bác học của thế hệ mới, đặc biệt là trường Nhật bản sung túc phương tiện trí óc và nhu cụ làm cho ta phấn khởi về tương lai của một nền Phật học hàn lâm. Tuy nhiên nếu đọc thật kỹ tài liệu trình bày hai ý kiến của hai vị đại sư Huyền Anh và Tông Mật cùng giải thích từ ngữ "vu lan bồn," ta có thể kết luận không sợ sai lạc nhiều là hai ý kiến có vẻ không tương phản, mà còn hỗ trợ nhau. Người học Phật bước đầu nghiêng về phía giản tiện, hãy dùng chữ "Vu Lan" để gọi ngày lễ "Rằm Tháng Bảy."
Lễ Vu Lan qua Kinh Phật Ullambana Sutra và một số kinh .

Mandgalyayana (viết theo Sanskrit; Moggallana, Pali; tiếng Hán phiên là Mục Kiện Liên, đọc tắt là Mục Liên, còn gọi là Ðại Mục Kiện Liên) là một nhân vật lịch sử, sống cùng thời với đức Phật. Ông ta là một vị giáo chủ có năm trăm đệ tử, xin quy y theo đức Phật, và được đức Phật xem là người đệ tử "thần thông bậc nhất." Kinh chép khi đắc đạo, trở thành la-hán, ông phóng nhãn quan xuống địa ngục tìm mẹ, thấy mẹ bị đọa đày vì kiếp trước bà mẹ làm lắm điều bất thiện. Ông lấy bình bát của ông đựng đầy cơm dâng mẹ. Bà mẹ cầm lấy ăn, tức thời cơm hóa ra lửa hồng tuôn vào mồm bà mẹ. Ông đau đớn đến trình đức Phật, được dạy là bà mẹ của ông kiếp trước nặng dày nghiệp chướng, phải chờ đến ngày Rằm Tháng Bảy, thiết đại lễ thỉnh đức Phật và tăng giới mười phương đến góp lời cầu nguyện và phù trợ mới có thể giúp mẹ ông giải tội. Ông hỏi lại đức Phật là nếu trong đại chúng ai có lòng hiếu thảo muốn chuộc tội cho cha mẹ có thể thiết lễ xin giải tội cho cha mẹ như ông được chăng. Ðức Phật phán rõ: "Mỗi năm, vào ngày Rằm Tháng Bảy, người con Phật phải tưởng nhớ cha mẹ tổ tiên (...) tìm cách đền công ơn dưỡng dục (...) bằng cách thiết lễ, lập đàn cầu nguyện chư Phật và chư tăng ra ơn cứu độ," thì cha mẹ tổ tiên được cơ hội xóa bỏ bớt tội lỗi từ muôn kiếp trước.
Ông Mandgalyayana làm đúng theo lời Phật dạy, và bà mẹ của ông được siêu thoát. Tăng đoàn và tín đồ Phật giáo noi theo gương ông và từ đó lễ Bon Vu Lan trở thành một lễ Phật.
Kinh điển nhà Phật, ngoài bộ kinh Ullambana Sutra, còn nhiều bộ kinh khác giải thích lễ Bon Vu Lan trong thời kỳ Phật giáo hưng thịnh tại Ấn Ðộ. Theo một số người học Phật, Kinh Mahapari nirvana Sutra, (Kinh Ðại Niết bàn), Quyển 16, kể chuyện đức Phật lúc đi truyền giáo có lần gặp một bộ lạc sống bằng cách giết người ăn thịt. Bộ lạc này được đức Phật cải quy và họ theo Phật quy y, nhưng họ không quen làm việc chăn nuôi, trồng trọt nên sống rất đói khổ. Ðức Phật răn dạy đệ tử trong vùng phải bố thí thực phẩm giúp đỡ họ. Lâu dần thành ra tập tục cúng lễ Bon Vu Lan.
Một cách giải thích khác lễ Bon Vu Lan là ông A Nan Ðà, người cháu và người đệ tử trung kiên nhất của đức Phật. Ông A Nan Ðà thường tiếp xúc với một ngạ qủy đói khát, bị phạt nuốt than lửa trong miệng, nên mỗi khi xin được thực phẩm trong bình bát, ông đem thực phẩm chia cho quỷ đói. Người đời sau bắt chước phép hành thiện của ông A Nan Ðà mà có lễ Bon Vu Lan.
Một nguyên nhân khác nữa giải thích lễ Bon Vu Lan tại Ấn Ðộ lấy dẫn chứng trong bổn Luật kinh Vinaya của trường Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ). Kinh ghi rõ lời dạy của đức Phật cho tì kheo đương thời là mỗi khi đi xin thực phẩm trở về chùa phải để dành một bát đầy thực phẩm cúng cho loại vong hồn Hariti. Hariti là một con quỷ cái chuyên giết người hút máu, bị kẻ thù rượt chém nên đánh lạc đứa con trai. Ðức Phật cứu đứa bé, dấu vào áo và đem trả cho người mẹ. Harati cảm kích, lại được Phật cảm hóa, bèn xin quy y, xin bỏ lệ giết hại người và xin chịu đói khát để đền tội. Phật dạy phải lấy lòng từ bi cấp dưỡng, và do đó có lệ Bon Vu Lan.
Lễ Vu Lan tại Trung Hoa

Phật giáo Ðại thừa ở Trung Hoa bắt đầu thiết lễ Vu Lan dưới thời Nam Bắc triều vào thế kỷ thứ Sáu. Tài liệu cũ nhất tìm thấy trong Phật Tổ thống chí ghi là lễ được thiết vào ngày Rằm Tháng Bảy năm 538 TL. Vua Vũ đế nhà Lương đến lễ Phật tại Ðông Ðài Tự và dâng lễ Vu Lan. Nhưng lễ Vu Lan ngày đó chỉ dành cho vua chúa và qúy tộc thiết lễ trong các ngôi chùa lớn, chưa phải là một dịp hội hè của dân gian. Phải chờ đến hai trăm năm sau, dưới triều Ðường Thái Tôn mới thấy trong Thích Thị ký cổ lược ghi rõ ngày lễ Vu Lan, tháng Bảy năm 766 TL, được thiết trong triều có lễ rước Kiệu Phật vào cung đình, và sau đó đem trưng bày Xá lợi tại Quảng An Môn cho dân chúng chiêm ngưỡng. Từ ngày đó lễ Vu Lan mới thành ra một ngày lễ cho đại chúng tham gia. Ðồng thời, ý nghiã của ngày Vu Lan cũng thay đổi như ta sẽ thấy ở sau.
Khoảng giữa thế kỷ thứ Tám, vào đời Ðường, có một vị pháp sư Ấn Ðộ tên là Amoghavajra, tinh thông giáo lý nhà Phật, muốn đạo Phật tập quán nhiều hơn vào truyền thống xã hội Trung Hoa tôn trọng việc thờ cúng tổ tiên, nên thay đổi ý nghĩa của ngày Vu Lan, làm thành ngày lễ hướng về tất cả vong hồn những người đã chết vì loạn lạc, chiến tranh, chết không có con cái thờ tự, chết vì nghèo đói; danh từ Phật gọi chung là ngạ quỷ. Cũng vào thời kỳ này gọi là Thịnh Ðường, đạo Phật trở nên cực kỳ hưng thịnh, cho nên cách thiết lễ Vu Lan cũng đổi thay. Ðến rằm tháng Bảy, trong mọi gia cư và tại chùa, dân gian xây đàn, làm chay để cúng vong hồn; đồng thời ngoài cộng đồng, nơi các chùa lớn lại có tục lệ tổ chức chưng bày các bảo vật thờ tự đức Phật, như là di tích của đức Phật (ví dụ, Xá lợi là di vật nhục thân của đức Phật đựng trong bình đá, bình ngọc) đem từ Ấn Ðộ sang, hoặc là các bổn kinh chép bằng chữ Sanskrist hay Pali, khắc trên đá, đẽo trên gỗ, chép trên lá cót, lá gồi...) cho dân chúng được phép chiêm ngưỡng. Ðồng thời nhà chùa lại khuyến khích các gia đình giàu có tham gia cuộc triển lãm bằng cách chưng bày các của riêng trân châu dị bảo cho khách thập phương từ xa đến thưởng ngoạn. Khách đi xem trong tỉnh, ngoài tỉnh đến dựng lều ở trên đất chùa, và tổ chức các buổi ca vũ, hát tuồng, thi đua tranh tài võ nghệ, thi đua khoe tài nấu nướng các món chay làm lễ cúng Phật và thết đãi người đồng đạo. Từ đó mà có ý nghĩa thiêng liêng "Ðại hội Vu Lan," xá tội cho những linh hồn chết bị nghiệp đày đọa và cởi mở cho những linh hồn sống vui tươi, hành thiện.
Ðại sư Amoghavajra hiểu rõ là đạo Phật từ Ấn Ðộ vào Trung Hoa phải vượt qua cái điều chướng ngại căn bản là truyền thống luân lý Trung Hoa từ lúc mới khai sáng, dựa trên nền tảng hiếu đạo: Nguyên thủy, đạo Phật dạy xuất thế, từ chối gia đình để hướng tới giải thoát nghiệp. Từ chối vợ con tức là chối bỏ cái sứ mệnh nối dõi giòng họ để cúng giỗ; từ chối gia đình tức là bỏ cha mẹ không nuôi dưỡng. Người Trung Hoa khó lòng mà chấp nhận giáo lý nhà Phật chủ trương như vậy.
Ðể giải quyết chướng ngại đó, đạo Phật phải tập quán vào xã hội vĩ đại của Trung Hoa bằng ba phương cách. Thứ nhất là dịch thuật và diễn giải các bộ kinh Phật liên hệ đến chữ hiếu, đã có sẵn rất nhiều trong kinh điển Sanskrist và Pali vừa mới du nhập vào nước Tàu, để chứng minh là giáo lý Phật cũng nặng chữ hiếu không kém truyền thống Trung Hoa. Phương cách thứ hai là thiết lập một số kinh điển mới do các đại sư Ấn Ðộ và Trung Hoa rút ý trong kinh điển nhà Phật viết ra, chú trọng vào hiếu để. Phương cách thứ ba còn siêu việt hơn nữa. Chữ hiếu cổ truyền của người Trung Hoa chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình: cha mẹ ông bà. Chữ hiếu của nhà Phật bao gồm người sống và người chết: những người đã chết trong bao nhiêu đời trước (tổ tiên), rộng hơn nữa là những người đã chết cô quả không người cúng tế, và chính ngay những người đang sống vì trả nợ kiếp trước. Chữ hiếu theo quan niệm nhà Phật bỏ cái quan niệm cá nhân và gia đình để bao trùm hoàn vũ, lại còn đi vào chiều sâu thời gian. Ý niệm hiếu để của đạo Phật vượt lên bậc siêu đẳng, đáp ứng với nhu cầu hướng thiện và hướng linh của con người.
Ta thử lược qua kinh điển để dẫn chứng cụ thể những điều nói trên. Ðời Hậu Hán, An Thế Cao (An Shih-Kao) dịch trước tiên hai bộ kinh liên hệ đến chữ hiếu: Kinh Thi-Ca-Việt Lục Phương Lễ, và kinh Phụ Mẫu Ân Nan Báo. Tiếp theo đời Ngũ đại, đại sư Tân Pháp Tư dịch bộ kinh Phật Thuyết Thiện Sinh Tử. Hai bộ kinh căn bản của trường Phật giáo Nguyên thủy là Trường A Hàm và Trung A Hàm, được dịch ra Hán văn từ thế kỷ Bốn và Năm cũng nhắc lại lời dạy của đức Phật về chữ hiếu.
Thế nhưng muốn đề cập đến vấn đề hiếu để trong đạo Phật, ta phải đọc đến hai bộ kinh căn bản là bộ Kinh "Bồ Tát Thiện Tử" nói đến một người con có hiếu tên là Thiện Tử và bộ Kinh "Vu Lan Bồn" do đại sư Pháp Phong dịch dưới đời Tây Tấn, nói đến sự tích Mục Kiện Liên, một vị đại đệ tử của đức Phật.
Kinh Bồ Tát Thiện Tử do một nhà sư vô danh dịch ra Hán văn dưới đời Tây Tấn, được chùa Trung Hoa xem là bổn kinh, nhưng thật sự là trích ra trong Truyện Tiền Thân của đức Phật (Jataka). Thiện Tử (Sanskrit là Syama; Pali, Sama) là một vị bồ tát đã tình nguyện đầu thai làm con một cặp vợ chồng đui mù đã phát nguyện từ bỏ đời sống phù du nơi thành thị, đến ở một hang núi để tu tập. Ðứa con lớn lên rất có hiếu với cha mẹ và đem cha mẹ vào ở trong một hang núi để thực hiện điều nguyện ước. Một hôm Thiện Tử đội chiếc áo da nai xuống suối lấy nước. Nhà vua đi săn qua đó, tưởng lầm là thú, bắn mũi tên độc vào chàng trai. Thiện Tử nằm chờ chết, không oán hận nhà vua, cho là mình chết vì nghiệp, nhưng tiếc thương vì còn cha mẹ già không ai nuôi dưỡng. Ông và bà cụ già mò đến xác Thiện Tử. Người cha ôm đầu con truyền hơi thở, người mẹ đặt miệng vào vết thương cố hút chất độc ra. Trong cơn đau đớn họ nguyện cầu đức Phật cứu độ. Tức thì Phật Quán Thế Âm hiện ra, chữa lành vết thương cho Thiện Tử, và đồng thời cứu cha mẹ Thiện Tử khỏi mù loà. Cuốn kinh kết luận bằng lời dạy của đức Phật là hiếu để sẽ thắng mọi điều khổ ải. Câu chuyện này rất phổ thông trong dân gian Trung Hoa. Chuyện Thiện Tử còn được nhắc lại trong hai bổn kinh là "Lục Ðộ Thập Kinh" và "Pháp Uyển Châu Lâm." Thầy Huyền Trang (Ðường Tam Tạng) cũng có thuật lại chuyện Thiện Tử trong sách "Ðại Ðường Tây Vực Ký".
Sang đời Tống, chuyện Thiện Tử được hoàn toàn Trung Hoa hóa, trở thành một trong hai mươi bốn mô hình của Nhị Thập Tứ Hiếu và Thiện Tử được đổi tên là Yến Tử, chi tiết câu chuyện được đặt vào một cảnh vực Trung Hoa hơn.
Chuyện hiếu của Mục Liên tả trong kinh Vu Lan Bồn lại càng phổ thông hơn trong các nước Á Ðông theo Phật giáo Ðại Thừa. Kinh Vu-lan-bồn do đại sư Ấn độ Pháp Phong (Dharmaraksha, Ðàm-ma-la-sát, phiên âm chữ Nho) dịch vào cuối đời Tây Tấn. Bổn kinh này liên hệ trực tiếp với lễ Vu Lan, nội dung của bổn kinh lại còn trình bày rõ ràng hơn quan niệm của đạo Phật về chữ hiếu, ta đã nói ở đoạn trên.
Ý niệm xuất thế của đạo Phật, bỏ nhà đi tu, không trọn hiếu đạo với cha mẹ, được Kinh Vu Lan giải tỏa và người Trung Hoa cùng với các dân tộc khác ở Á Ðông đã nồng nhiệt chấp nhận phương cách giải thích như vậy. Ở Trung Hoa ngày đó, sự tích Mục Kiện Liên được phổ cập quanh năm trong nhân gian, không những trong chùa vào ngày lễ lạc, mà ở khắp mọi nơi, trong nhà thành câu hát ru em, ngoài chợ thành bài vè cho người hát xẩm, tạo nên một loại văn chương gọi là biền văn. Ðầu thế kỷ Hai mươi, khi khám phá ra các động thờ Phật tại Ðôn Hoàng (Tân Cương) ngừơi ta tìm được nhiều bổn biền văn này, như là "Mục Kiện Liên biền văn," "Mục Kiện Liên Lục Khởi" và bộ "Ðại Mục Kiện Liên Minh Cứu Mẫu Kiến Văn tịnh độ." Các tài liệu này đều được trước bạ trong sách "Ðôn hoàng trích yếu lục" của chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc ấn hành tại Bắc Kinh năm 1931. Các bổn chánh đã bị người Âu châu chiếm đoạt, đem giữ tại Bibliothèque Nationale de Paris và British Museum.
Sự tích Mục Liên được kể rõ với đầy đủ chi tiết trong ba tài liệu nói trên, và từ ngày đó làm đề tài cho nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật tại Trung Hoa. Quan trọng hơn hết là một tác phẩm nghị luận (được kinh điển nhà Phật xếp vào bộ Luận) của đại sư Tông Mật. Nơi đây ta cần nói rõ hơn là ông xuất thân từ quý gia vọng tộc, từ nhỏ học đạo Khổng rất uyên thâm, và trở thành một bậc chân tu theo đạo Phật. Ông dựa trên Kinh Vu Lan để lập luận, so sánh chữ hiếu giữa đạo Khổng và đạo Phật. Theo ông, đạo Phật không khác đạo Khổng, đặt vấn đề hiếu đạo lên hàng đầu. Kinh Phật từ Ấn Ðộ sang "gồm có Kinh (là lời dạy của đức Phật) và Luật là giới hạnh của người tu Phật. Kinh đề ra nguyên tắc và trí huệ; Luật đề ra phép tắc để hành trì. Luật có cả hàng vạn điều, nhưng điều căn bản là hiếu đạo." Ông dẫn chứng bổn kinh Phạm Võng (được xem là kinh Luật căn bản của Phật giáo Ðại thừa): "Khi đức Phật giác ngộ dưới cây Bồ đề, Ngài công bố luật Pratimoskha (tùy thuận giải thoát) cho người tu đạo bồ-tát, và luật này dựa trên nền tảng hiếu đạo."
Tông Mật cho rằng Nho giáo dạy chúng ta sống xứng đáng để thanh danh lại cho con cháu đời sau, nhưng chính Phật giáo lại dạy ta điều nhập thế là truyền bá lòng từ bi nhân ái cho thế hệ hiện tại đang sống chung quanh ta. Nho giáo dạy lễ nghi, chẳng hạn ngày giỗ ngày Tết phải sát sanh để làm giỗ tổ tiên; đạo Phật hiếu sinh hơn, dạy ta cầu nguyện nhưng không sinh sát. Tông Mật còn đi xa hơn, đề quyết là đức Phật ngày xưa bỏ ngôi đi tu chính là vì "muốn báo hiếu cho cha mẹ, không muốn cha mẹ kiếp kiếp bị trầm luân."
Lập luận dựa trên kinh Vu Lan để trình bày quan điểm của đạo Phật đối với chữ hiếu, như Tông Mật và các nhà học Phật thời bấy giờ chắc chắn đã tháo gỡ được rất nhiều các mối dè dặt của giới nho sĩ đối với đạo của Thích Ca. Do đó mà vào đời Thịnh Ðường, lúc đạo Phật thâu hút toàn bộ nhân dân Á Ðông và Trung Hoa, người ta đã thiết lễ Vu Lan như là một ngày hội chánh, đầy ý nghiã tôn giáo và xã hội.
Lễ Vu lan và lễ Trung nguyên.

Một điều thường gây thắc mắc cho người học Phật là sự trùng hợp giữa lễ Vu Lan và lễ Trung Nguyên. Xã hội nông nghiệp Trung Hoa buộc người nông dân lam lũ suốt năm trừ ra ba dịp nghỉ ngơi giải trí: đầu năm có lễ Thượng Nguyên, giữa năm có lễ Trung Nguyên, và cuối năm lễ Hạ Nguyên. Một số nhà nghiên cứu về văn minh Trung Quốc khẳng định nguồn gốc của ba buổi lễ trên xuất từ đạo Lão, hướng mọi hoạt động nhân sinh về thiên nhiên. Vào dịp đầu năm, người nông dân vui sống hội hè đình đám suốt tháng giêng; vào cuối năm lại nô nức nghênh tiếp năm mới. Người Tàu thiết lễ Hạ Nguyên vào rằm tháng Mười. Giữa tháng Bảy là thời kỳ nắng bức nhất trong năm, cũng là lúc nông dân gặt hái mùa màng vừa xong, nên có cơ hội tổ chức hội hè đình đám làm lễ Trung Nguyên. Khí trời nắng ấm, người Tàu đi từ làng này sang thôn khác thăm viếng họ hàng và bạn bè, biếu xén qùa cáp. Lễ Trung Nguyên thành ra một cơ hội thắt chặc đời sống gia tộc và cộng đồng.
Lúc đạo Phật vào Trung Hoa, sẵn có tính cách linh động tập quán, lại gặp môi trường thuận tiện là người Trung Hoa rất chuộng thực tế, ghép ba buổi lễ trên thành ra ba ngày lễ Phật: Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Lễ Vu Lan thành ra trùng hợp với lễ Trung Nguyên. Nhà chùa ngày đó rất giàu có, cung cấp cảnh trí cho sinh hoạt cộng đồng trong dịp Trung Nguyên, và vào ngày rằm thiết lễ Phật nơi chánh điện. Tập tục này từ Trung Hoa theo đạo Phật sang Nhật Bổn, ngày Trung Nguyên gọi là Chugen, lễ cúng cô hồn, ta sẽ nói ở sau.
Lễ Vu Lan có từ Ấn Ðộ hay xuất khởi tại Trung Hoa?

Ðọc kỹ những tài liệu ở trên về gốc tích lễ Vu Lan ở Ấn Ðộ và Trung Hoa do các học giả mới của trường Ấn Ðộ và trường Nhật Bổn trình bày, người học Phật như chúng ta không thể tự kiềm chế để đặt câu hỏi là lễ Vu Lan đã thật có tại Ấn Ðộ từ ngày xa xưa trước Thích Ca chăng, hay là lễ Vu Lan chỉ là một sản phẩm do nhu cầu hoằng dương đạo Phật lúc đạo Phật vào Trung Hoa. Vế thứ nhất của câu hỏi "trước Thích-ca có lễ Vu-lan không" có lẽ rất hợp lý, vì tại các quốc gia sống trong văn minh Ấn Ðộ và cùng thờ đạo Phật như Miến Ðyện, Thái Lan, Cam Bốt, Lào, Nam Dương... không thấy thiết lễ Vu Lan. Tuy nhiên điều thắc mắc này dễ giải đáp. Tập tục thờ cúng người khuất vãn đã có trong kinh Vệ Ðà, trước đức Phật cả nghìn năm, tất nhiên phải được tiếp tục trong thời Phật giáo ở Ấn Ðộ, và vẫn tồn tại cho đến ngày nay tại Ấn Ðộ.
Vế thứ hai của câu hỏi, ta thử đặt lại cho gọn và dễ hiểu: Kinh Ullambana Sutra do đức Phật thuyết, được dịch qua tiếng Hán, hay chỉ là sản phẩm của tín đồ đức Phật khi đi truyền giáo sang Trung Hoa?
Nếu ta căn cứ trên bổn tài liệu về thư mục quan trọng nhất của kinh điển Phật giáo do đại sư Bunyo Nanjio soạn thảo Catalogue Chinese Translation of The Buddhist Tripitaka, Oxford 1883, Kinh Ullambana Sutra được ghi là đã chép qua văn tự dưới thời Phật giáo Nguyên thủy và sau, được dịch qua Hán ngữ. Nhưng có ba điểm nghi vấn mà các học giả trường Ðại thừa Nhật Bổn nêu lên, đề nghị phải nghiên cứu lại. Thứ nhất là về niên lịch và xuất xứ của cuốn kinh và cá nhân của dịch giả. Kinh điển nhà Phật được tổng kê vào nhiều bổn tổng thư mục (catalogue), và cuốn kinh Ullambana Sutra được tìm thấy trong bổn tổng thư mục Xuất Tam tạng Ký tập, Quyển IV, ấn hành vào khoảng thời gian 445-518 TL. Không có tên dịch giả, chỉ ghi đơn sơ một giòng: "Không thấy danh tánh dịch giả." Cuốn tổng thư mục tiếp theo Lịch đại tam bửu ký ghi cuốn kinh, lại có tên người dịch là đại sư Dharmaraksa (Ðàm-ma-la-sát, còn gọi là Pháp Phong), sống dưới đời Tây Tấn. Chỉ một tín hiệu là hai bổn tổng thư mục gần như đương thời mà một bổn có tên dịch giả, một bổn không, cũng đủ để cho đời sau nghi ngại.
Ðiểm nghi vấn thứ hai do chính cuốn kinh tạo nên. Từ ullambana được dịch là vu-lan-bồn. Ullam có nghiã là đảo huyền, treo ngược, phiên âm thành vu-lan, nhưng từ chữ bana qua chữ bồn (là chiếc thuyền, chiếc khay đựng thực phẩm) tuy có lời giải thích của đại sư Tông Mật và những điểm dẫn chứng, ta vẫn thấy khó thỏa mãn được điều đòi hỏi suy luận duy lý.
Ðiểm nghi vấn quan trọng hơn hết là nội dung bổn kinh. Ngoài bổn Vu Lan Bồn Kinh do Dharmaraksa dịch, ta còn tìm thấy trong đại tập Pháp Uyển Châu Lâm một bản dịch thứ hai với tựa đề Báo Ân Phụ Mẫu Kinh, không có tên dịch giả. Phần đầu của hai bổn dịch không thấy điểm nào khác nhau. Duy phần kết của bổn dịch hai Báo Ân Phụ Mẫu Kinh chấm dứt ở chỗ ông Mục Kiện Liên sau trai giới vào hạ ba tháng (từ rằm tháng Tư cho đến rằm tháng Bảy), dâng thực phẩm hương hoa cho tăng đoàn xin giúp lời cầu nguyện, và nhờ vậy bà mẹ được xóa tội đọa đày. Bổn dịch thứ nhất, Kinh Vu Lan bổn Kinh, dài hơn bổn thứ hai, có thêm đoạn ông Mục Kiện Liên cầu xin đức Phật cho tất cả cha mẹ tổ tiên của chúng sinh đang bị đọa đày, nếu có con cái hiếu thảo biết dâng lễ Vu Lan cầu xin chuộc tội, cũng sẽ được xóa tội. Ðức Phật đã phán quyết y theo lời xin.
Như vậy, các dữ kiện vừa trình bày trên dẫn đến kết luận là Kinh Vu Lan Bồn nhất định đã được đức Phật thuyết vào thời kỳ nguyên thủy. Vì nhu cầu hoằng pháp phải thích ứng vào bổn tính chuộng thiết thực của người Trung Hoa, phần phụ lục chi tiết ở đoạn sau đã được thay đổi khi phiên dịch tại Trung Hoa.
Lễ Vu Lan tại Nhật Bổn

Nước Nhật Bổn ngày nay đứng vào hàng đầu trong kỷ nguyên văn minh hậu kỹ nghệ, được sắp hạng tối ưu trong các lãnh vực tiền phong như điện toán, tín hiệu... Và cũng không có một dân tộc nào như người Nhật, đi mau và đi trước nhưng vẫn giữ tối đa nếp sống cổ truyền đã có từ mấy nghìn năm trước.
Lễ Vu-lan tại Nhật gọi là lễ Bon, viết tắt chữ urabon, còn viết là urambon. Trước Thế-chiến II, Vu-lan Bon là ngày lễ công lập, công sở và trường học đóng cửa, nhân công được nghỉ việc ăn lương. Hai ngày lễ quan trọng nhất trong năm là ngày Nguyên đán và ngày Vu Lan Bon. Tưởng cần nhắc lại là nước Nhật đang dùng dương lịch nhưng vài địa phương và trong các chùa vẫn giữ âm lịch. Tục lệ khuyến khích những người đi làm ăn xa gia đình trong dịp Nguyên đán và Vu Lan phải trở về nhà sum họp và dâng lễ cúng tổ tiên. Vì vậy mà vào hai dịp lễ lớn đó các phương tiện chuyên chở tư nhân hay công cộng đều tấp nập kèn kẹt từ cuối tháng Sáu cho đến giữa tháng Bảy.
Cho đến ngày nay, trong các cộng đồng truyền thông đặc biệt ở vùng quê, dân chúng chuẩn bị lễ Vu Lan Bon từ ngày mồng một tháng Bảy. Trong mỗi gia cư người Nhật đều có một bàn thờ Phật gọi là Budsudan. Ðầu tháng Bảy, người ta đặt trước bàn thờ Phật một chiếc bàn vong Shoryodana, trên bàn vong đặt bài vị để đón tiếp hương linh người qúa vãn. Ngày mồng Bảy gọi là ngày Nanoka Bon, gia chủ hay người trưởng tộc đi mở cửa mả (tức là quét dọn, làm cỏ) và làm lễ tại ngôi mộ gia tiên, và từ ngôi mộ về đến nhà trải một giây vải trắng gọi là bommichi để chỉ lối cho người chết trở lại nhà. Trên lối đi nhiều nơi còn treo đèn lồng ở mỗi khúc rẽ cho vong hồn khỏi lạc, và mỗi gia cư tứ bề thắp đèn lồng treo quanh máng xối. Nhiều gia đình ý tứ hơn, đem cúng cả ngựa, cả xe kết bằng rơm, hoặc bằng giấy, bằng hoa quả để cho người chết dùng làm phương tiện trở lại nhà. Ngày 13 gọi là ngày "đón vong hồn" (Mukac Bon), ngoài mộ và trên bàn vong chưng đầy hoa đẹp gọi là Bonbana. Lúc xế chiều, đốt đèn ngoài cửa tiếp đón vong hồn. Lửa này giữ cho đến ngày 16, gọi là ngày "tiễn đưa vong hồn" (Okuri Bon). Tại một vài địa phương lại còn có tục lệ nhảy múa Vu Lan gọi là Bon odori, chào mừng tổ tiên trở lại nhà sum họp với con cháu mỗi năm một lần. Sau Thế chiến II, để phát triển kỹ nghệ du lịch, lệ nhảy múa Bon odori được tổ chức rất đẹp và trọng thể.
Như trên đã nói, người Trung Hoa theo tập tục Ấn Ðộ thiết lễ Vu Lan, biến đổi thành ra buổi lễ chuộc tội cho tổ tiên riêng mỗi gia đình. Về sau, ý niệm từ bi của đạo Phật phát triển mạnh, lễ Vu Lan hướng về người chết nói chung, không riêng trong gia đình.
Người Nhật đem lễ Vu Lan vào nước Nhật dưới thời nữ hoàng Suiko và phát huy rõ hơn cái ý niệm từ bi hiếu sinh của đạo Phật. Chồng của nữ hoàng Suiko là Thánh Ðức Thái Tử trị vì từ năm 574 tới năm 622 TL. Ông là người phát huy đạo Phật lớn mạnh tại Nhật, đưa Phật giáo lên làm quốc giáo. Năm 606, nữ hoàng chỉ dụ cho tất cả chùa chiền trong nước thiết lễ Vu Lan, và tiếp tục mỗi năm. Người Nhật cũng theo đạo Phật Trung Hoa thiết lễ Trung Nguyên, gọi là Chugen, nhưng biến đổi có quy tắc hơn. Tại Nhật, lễ Vu Lan Bon được phân biệt hai phần: lễ cúng tổ tiên trong gia đình, và lễ cúng cô hồn. Lễ cúng cô hồn có tên là Segaki-e, có nghiã là dâng thực phẩm cho linh hồn bị phiêu bạt đói khát, là một ngày lễ Phật riêng biệt, thường không có ngày nhất định, nhưng về sau thiết vào dịp Vu Lan, lấy một ngày trong bốn ngày urabon làm lễ.
Giữa thế kỷ Mười chín, Thiên hoàng Minh Trị canh tân nước Nhật. Công cuộc duy tân và kỹ nghệ hóa buộc phải giản dị hóa các hội hè đình đám, nên lễ urabon và sagaki-e ngày nay biến thành lễ chung.
Nước Nhật phú cường hiện tại có khuynh hướng trở lại đời sống tinh thần và tôn giáo. Ta hãy nghe giáo sư Kenneth Chen, viện Ðại học Princeton, nói về lễ Vu Lan tại Nhật ngày nay ("Buddhism, The Light of Asia," Barron, New York 1978, người viết phỏng dịch trang 263). "Trong mỗi gia đình, dân chúng chưng dọn bàn thờ, dâng cúng hoa quả và thức ăn đặc biệt cho vong hồn. Chiếu trải ra giữa sân, đặt các món ăn như mì sợi, chè kê, canh bí ngô, canh dưa gang, cá hấp. Ðúng ngày mười ba, lại cúng một món chè trôi nước đặc biệt để tiếp đón khách vong hồn mới về. Ngày hôm sau mười bốn, cúng chè khoai và cà hấp trộn mè. Ngày mười lăm hay mười sáu cúng tiễn, có cơm đùm lá sen, và chè bọc nhân đậu. Mỗi ngày, hương đèn trên bàn thờ không để lụi, luôn luôn châm thêm hương hoa trà nước. Vào ngày mười ba, khi bắt đầu lễ, người trong nhà đi viếng và thắp đèn trên mộ, đồng thời thắp đèn ở cổng nhà, hàm ý dẫn đường cho vong hồn biết lối trở lại nhà hưởng cúng phẩm. Ngày mười lăm cúng tiễn, cũng thắp đèn gọi là đèn tạm biệt tiễn đưa vong hồn. Tại các làng xóm gần sông lạch và hồ biển, thường có người chết vì sông nước, lại có lệ sắm các thuyền bé tí hon, đặt cúng phẩm lên trên và thắp đèn đem thả xuống giòng nước. Cái hình ảnh đèn thắp trên cổng nhà, tiếp với ánh sáng le lói trên con thuyền tí hon dưới sông trôi xa theo ngọn nước, tiêu biểu cho cái ý niệm gắn liền người sống thực tại với người đã ra đi vào cõi hư vô."
Bài sưu khảo nhỏ bé này chỉ hoàn tất khi bổ túc được việc tìm hiểu lễ Vu Lan tại Việt Nam. Nếu chúng ta thử đặt qua bên cái mặc cảm sô-vanh, chúng ta phải nhận thức là các tài liệu nghiên cứu xã hội và tôn giáo của quê hương ta rất nghèo nàn. Suốt một thế kỷ sống dưới sự đô hộ của người Pháp, tiếp theo là một cuộc chiến tranh huynh đệ triền miên, có mấy đủ phương tiện và thì giờ để tìm học cặn kẽ những sinh hoạt tôn giáo như vấn đề nhỏ nêu ra ở đây là lễ Vu Lan. Ở Hà Nội hiện nay có một viện Nghiên cứu Khoa học Xã hội (chắc phải có phần cho tôn giáo), ở ngoài nước các phương tiện chất xám và vật chất càng đầy đủ hơn, ta hy vọng trong tương lai sẽ được đọc và học một tác phẩm khảo cứu tường tận về lễ Vu Lan Việt Nam.

Nguyễn Phúc Bửu Tập
Thế Kỷ 21, 09/97, USA

[/indent]

Thanked by 5 Members:

#66 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 22/07/2018 - 18:58

NẰM MỘNG THẤY BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Tâm Trí


Hỏi: Gần đây tôi thường mộng thấy Bồ Tát Quán Thế Âm hào quan chói rực cưởi trên lưng một con rồng trắng. Sáng dậy tôi lại cảm thấy nhẹ nhàng bay bổng rất là an lạc. Chẳng biết đây có phải là điềm lành ứng mộng hay là do công phu thọ trì Bạch Y Thần chú của mình nay đã đến hồi thành tựu?

Đáp: Khi một vị thầy thuốc muốn trị “thân bệnh” thì cũng phải bắt mạch xem bệnh rồi mới dám cho thuốc. Muốn nói Pháp thì cũng cần phải “quán cơ” mới “đậu giáo”. Nghĩa là phải quán chiếu xem xét căn cơ của đối tượng nói Pháp xem là căn cơ trình độ ngang cỡ nào rồi lúc đó mới được nói Pháp. Nếu nói Pháp không đúng với căn cơ ngang bằng với trình độ của đối tượng thì liền bị chống đối hoặc là bị nạn vấn ngay. Tôi chưa có dịp trao đổi với đạo hữu nhiều nên đáng lý ra tôi không nên trả lời câu hỏi này ở đây. Nhưng thiết nghĩ đây cũng là cơ hội để giải đáp thắc mắc cho những người hữu duyên. Thôi thì như vậy nhé:

- Nếu đạo hữu là một người mộ đạo, thích thờ cúng trong nhà (thờ Phật hay là thánh thần), có đọc tụng kinh điển nhưng không thích nghiên cứu đi sâu vào thâm nghĩa của kinh, khi nghe giảng kinh lại hay buồn ngủ (hoặc là không buồn ngủ nhưng không thích nghe hoặc là nghe không hiểu), không thích lý luận nhiều, thì xin chỉ xem trả lời ở Phần 1.

- Nếu đạo hữu là một người mộ đạo, thích nghe giảng kinh, thích tìm hiểu và nghiên cứu đi sâu vào thâm nghĩa của kinh, dám “Văn-Tư-Tu”. Nghĩa là dám học Kinh Văn, học xong rồi dám Tư Duy Quán Chiếu xem là lời Pháp có đúng hay không rồi sau đó mới Tu theo hay là Thực Hành theo lời Pháp, thì xin xem trả lời ở Phần 2.

PHẦN 1:
Nằm mộng hay là ao ước được gặp được Phật và các vị Bồ Tát là chuyện bình thường của các Phật tử với tấm lòng mộ đạo. Tôi không dám lạm bàn đây là điềm lành ứng mộng hay là do công phu thọ trì Bạch Y Thần Chú của đạo hữu đã đến hồi thành tựu vì thật sự tôi không có khả năng này. “Hành tàn hư thật tại gia tri. Họa phúc nhân do cánh vấn thùy”. Nghĩa là có chứng đắc hay không chứng đắc thì tự mình mình biết không nên hỏi ai hết vì người ngoài không thể biết được. Họa hay phước thì cũng do nơi mình (chiếu theo luật Nhân Quả). Tuy nhiên, nếu nói về cái nhìn của khoa học thì khi cơ thể mình khỏe mạnh, tinh thần ổn định, không bị khủng hoảng tâm lý (stress) thì thường có được nhiều giấc ngủ an lành. Ngược lại, nếu tinh thần suy nhược, hay ưu tư sầu muộn, cơ thể bệnh hoạn thì lại hay bị mất ngủ và giấc ngủ thường gặp ác mộng. Nếu nằm nghiêng một bên làm tay bị tê hoặc là ngực bị đè ép thì cũng thường nằm thấy ác mộng. Những điều chúng ta nghe thấy và bị thâm nhiễm trong sinh hoạt hàng ngày và được ghi lại vào A Lại Gia Thức hay cũng gọi là Tàng Thức thì tối đến chúng ta cũng thường nằm mơ thấy những sự việc này. Cũng ở điểm này, khoa học cũng đã chứng minh là thân không rời tâm và tâm không rời thân giống như cái nhìn của Phật Giáo.

Kết hợp với cái nhìn của khoa học và của Phật Giáo, tôi chỉ xin có lời khuyên như vậy:

- Thường nằm mộng thấy Phật, thấy Bồ Tát nghĩa là có được giấc ngủ an lành, không bị ác mộng là một điều tốt. Tuy nhiên, nếu đạo hữu chỉ thấy Bồ Tát Quán Thế Âm giống như hình vẽ của họa sĩ thì xin không nên tự đắc về vấn đề này vì đó cũng có thể là sự nhập nhiễm khi mình nhìn hình tượng quá lâu, ví như khi ta xem một bộ phim với ấn tượng sâu đậm rồi đêm về nằm mộng đến bộ phim này. Nói vậy không phải là tôi bác bỏ công phu tu tập của đạo hữu. Nhưng tôi chỉ gợi ý cái nhìn của sự việc ở một góc độ khác.

- Theo như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm thì khi hành giả có sự công phu tu tập cao, khi thiền định bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài Thiên Quang có ngàn đức Phật vây quanh, hay có thể thấy mình ở trong hoa sen báu, hay là có thể thấy được cảnh giới toàn là vàng ròng vv.v.. Nếu hành giả không tham đắm trong những cảnh giới này thì không sao, mỗi ngày sự tu tập lại càng tăng tiến. Bằng ngược lại nếu hành giả tham đắm những cảnh giới đó, cho là mình đã chứng bậc thánh liền bị đọa lạc vào đường ma.

Như vậy cho dù nằm mộng là do bị nhập nhiễm thì xin đạo hữu cũng đừng thối thất trên con đường tu học của mình. Mà nếu nằm mộng do công phu thật sự của mình thì cũng xin đừng nên khoe khoang tự đắc về điều này. Vì Ma Vương sẽ nương vào đó mà phá hoại đường tu của đạo hữu.

PHẦN 2:

Nếu đạo hữu là một người dám “Văn-Tư-Tu”, nêu ra thắc mắc với mục đích vấn đạo chứ không phải là để được khen, thì dám hỏi theo như trong giấc mộng Bồ Tát hiện ra với hình tướng như thế nào và Bồ Tát nói gì với đạo hữu? Nếu đạo hữu nói là Bồ Tát Quán Thế Âm nhìn giống như các hình tượng hay là các tranh vẽ trong bộ áo Hồng Kông tha thướt, không nói gì mà chỉ bay lượng vòng vòng thì cho phép tôi được hỏi thêm một câu nữa là theo sự hiểu biết của đạo hữu thì Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện ở cõi Ta Bà của chúng ta như thế nào? Hình dáng của Bồ Tát Quán Thế Âm ra sao? Nếu câu trả lời là chỉ biết Bồ Tát qua các hình tượng ở các chùa thì cho phép tôi được nói thẳng, dù là sự thật mất lòng, là đạo hữu chưa hề biết đến Bồ Tát Quán Thế Âm. Mà nếu chưa biết đến Bồ Tát thì làm sao dám chắc đó là Bồ Tát? Chắc chắn khi nói đến đây thì đạo hữu lòng đang hậm hực vì nó đang đụng chạm đến tín tâm của mình. Nhưng xin đạo hữu hãy bình tâm và cùng nhau tham cứu thêm về giáo lý nhà Phật nhé:

- Khi đạo Phật được truyền sang các nước, tùy theo quốc độ mà các tổ và các nghệ nhân hay họa sĩ phát họa hình tượng của chư Phật và Bồ Tát. Ví dụ điển hình là các hình tượng của Phật ở các nước như là Trung Quốc, Nepal, Thailand, Myanmar, Sri Lanka, Cambodia, điều có nét đặc trưng văn hóa riêng của nước đó. Thế nên các hình tượng nhìn không đồng nhất. Phật Giáo Việt Nam được truyền từ Trung Hoa cho nên trang phục của các vị Phật, Bồ Tát hay là Hộ Pháp điều mang nét văn hóa của Trung Hoa. Ví dụ như ngài Di Lạc, Quán Âm, Thế Chí, Địa Tạng, Vi Đà hộ pháp, Tiêu Diện hộ pháp vv.v.. Nhìn thấy Bồ Tát qua bộ áo Hồng Kông rồi nằm mơ thấy Bồ Tát trong bộ áo Hồng Kông, tại sao đạo hữu không nằm mơ thấy Bồ Tát trong bộ áo của Việt Nam, Nepal hay là của các nước khác? Chỉ riêng ở điểm này, thì đã không lấy gì làm chắc chắn là đạo hữu đã thấy được Bồ Tát.

- Theo như trong kinh Pháp Hoa và kinh Thủ Lăng Nghiêm thì Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện ở cõi ta bà qua 32-ứng-hóa-thân. Nếu cần thân Người, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân cùng phi nhân vv.v.. để độ thoát, ngài liền hiện ra mà vì đó nói pháp. Thế chẳng lẽ với bao nhiêu thân tướng, Bồ Tát lại hiện hoài một thân phụ nữ trong giấc mộng với bộ áo Hồng Kông hay sao? Nếu chỉ biết Bồ Tát bằng hình dáng của một người phụ nữ trong bộ áo của Hồng Kông thì xem như là đạo hữu chưa thật sự biết đến Bồ Tát vậy.

- Bồ Tát Quán Thế Âm thì thường được nhiều người nhắc đến vì lòng đại từ đại bi của ngài. Thế nên đa số các hình tượng được tạo tạc thành một người phụ nữ để ví ngài như là một người mẹ hiền thương chúng sanh như là thương con một. Tuy nhiên, đạo Phật là Bi-Trí-Dũng, chứ nào phải chỉ có Từ-Bi. Nếu cần thể hiện sự Uy-Dũng để độ cho chúng sanh khó điều khó phục thì ngài liền hiện ra các thân tướng hung dữ như là đại tướng Dạ Xoa để độ cho các chúng sanh này. Ở các chùa thường có hình tượng của Tiệu Diện hộ pháp mặt đen với lưỡi dài cả thướt, đầu có sừng, miệng có răng nanh, tay cầm binh khí. Đạo hữu có biết đấy là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm hay không? Hình tượng Tiêu Diện là để thể hiện sự Uy-Dũng của Bồ Tát. Có bao giờ đạo hữu nằm mơ thấy Bồ Tát qua hình dáng của ông Tiêu Diện hay không?

- Trong kinh Kim Cang Phật dạy rằng: “Nhược dĩ sắc kiến ngã. Dĩ âm thinh cầu ngã. Thị nhơn hành tà đạo. Bất năng kiến Như Lai”. Nghĩa là nếu có kẻ tìm cầu mong được thấy Phật bằng âm thanh hay sắc tướng, qua 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp, muốn đến chiêm ngưỡng lễ bái ông Phật bằng xương bằng thịt, biết đi, biết đứng, biết nói biết cười, thì kẻ đó đang làm việc tà đạo, không bao giờ biết được thật tướng của Như Lai. Như vậy, đi tìm cầu gặp ông Phật bằng xương bằng thịt ở ngoài đời, Phật còn rầy những kẻ đó là làm chuyện tà đạo nói gì là trong giấc mơ.

- Kinh Bát Nhã nói rằng: “Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã ba La Mật Đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” - Ở đoạn này ý nói là một Bồ Tát phải xa lìa các mộng tưởng điên đảo thì mới có được cứu cánh niết bàn. Ba đời 10 phương chư Phật nương vào Bát Nhã Ba La Mật Đa mà có được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cái mà chúng ta thấy trong giấc ngủ gọi là “Mộng”. Cái mà chúng ta thấy lúc thức tỉnh gọi là “Tưởng”. Cả mộng và tưởng điều là không thật vì tất cả điều do Vọng Tâm sanh khởi chứ không phải là của Chơn Tâm. Chúng ta đem cái giả, cái hư ảo mà cho là thật vậy chẳng phải là điên đảo hay sao?



Đến đây thì tôi tin chắc là đạo hữu cũng đã có câu trả lời cho mình rồi. Tôi xin mượn lời Phật dạy trong kinh Thủ Lăng Nghiêm để kết thúc phần trả lời này: “A-nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền-định như thế, đều do Sắc-ấm và tâm công-dụng giao-xen, nên hiện những việc đó; chúng sanh ngu mê, không biết suy xét tự lượng, gặp nhân duyên ấy, mê không tự biết, bảo là lên bậc thánh, thành tội đại vọng ngữ, phải đọa vào ngục Vô Gián. Sau khi Như Lai diệt-độ rồi, các ông nên nương theo lời dạy, khai thị nghĩa nầy trong đời mạt pháp, không để thiên ma được dịp khuấy phá; giữ gìn che chở cho chúng sinh thành đạo vô thượng.”

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 4 Members:

#67 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5105 thanks

Gửi vào 23/07/2018 - 12:34

Nói ngôn ngữ của mấy ông thiền sư là "Phùng Phật sát Phật,phùng ma sát ma".
Sát ma dể, sát Phật khó.

#68 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 25/07/2018 - 09:20

Thơ Vô Ngã

Ta tụng ngàn năm Quán Thế Âm
Chúng sanh ta khóc nỗi mê lầm
Ngàn năm Quỳnh nở trong đêm vắng
Rung động Ba Ngàn Cõi viễn thâm

.....................

Xưng tán ngàn năm Quán Thế Âm
Ngàn năm xưng tụng Đại Bi Tâm
Núi xanh đáp lại lời vi diệu
Vọng lời ấn chứng : NHỮ VIÊN TÂM

( Trích trong bài Kiếp Xưa, tập Gối Gốc Mai, thơ Vô Ngã )

Đêm qua một đóa Quỳnh mới nở, tỏa hương thơm ngát cả khu vườn.

#69 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 29/07/2018 - 08:58

ÁP LỰC VẬT CHẤT ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI VỪA TỪ TRẦN
Chuyển ngữ : Nguyên Phong

Trong những lần trước, chúng ta đã tìm hiểu về đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đã chết rồi hồi sinh (Near death experience). Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu về những áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần.

Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp khi chết sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng cấi trống nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống mãi mà cũng không no. Có một điều này ám chỉ những vong linh còn nhiều dục vọng, vẫn thèm khát cái thú vui vật chất nhưng vì không còn thể xác để thỏa mãn nên bị dục vọng hành hạ biến thành một loài quỷ đói. Theo các sách vở viết về thế giới bên kia thì đay là một cõi được cấu tạo bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên tử cõi trần nên muốn sống một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đay phải biết loại bỏ đi những phần tử nặng trược tích tụ trong kiếp sống ở cõi trần như dục vọng, sự quyến luyến, lòng ham ăn uống hay đòi hỏi xác thịt.

Vì trước sau ai cũng phải đến đó nên sự hiểu biết về cõi giới này là một điều rất cần thiết. Nếu khi du lịch qua xứ lạnh, người ta chuẩn bị y phục ấm để khỏi bị lạnh thì sự chuẩn bị để qua cõi này cũng đòi hỏi một sự chuẩn bị cẩn thận. Dĩ nhiên sự giải thoát khỏi các áp lực vật chất không phải dễ vì trong mấy chục năm sống ở cõi trần, người ta đã trầm mình trong dục lạc, muốn cở bỏ đâu phải trong một thời gian ngắn như vài ngày hay vài tháng mà được. Thông thường vào lúc tuổi già bóng xế, các thú vui vật chất sẽ giảm bớt đi nhiều. Khi răng long, rụot yếu thì tự nhiên con người không ham thích ăn uống nhiều như khi còn trẻ nữa. Cũng như thế, khi sức khỏe suy yếu bệnh tật, con người sẽ không còn thèm muốn các thú vui vật chất như trước và sự suy giảm tự nhiên này sẽ giúp người ta giải thoát lần lần khỏi các áp lực vật chất. Tuy nhiên chết là điều không ai có thể biết trước được nên người ta không thể chờ đợi đến khi già mới bắt đầu lo mà phải biết chuẩn bị ngay từ bây giờ. Cuốn Tử Thư Tây Tạng (Bardo Thodol - Tibetan Book of the Dead) đã ghi nhận: "Đời sống ở cõi trần và cảnh giới bên kia cửa tử có thể so sánh với đời sống của con tằm trong vỏ kén tối tăm và con bướm trong không gian rộng rãi. Muốn sống thảnh thơi tự do, con bướm phải biết vất bỏ cái kén để bay lên không trung. Cũng như thế, muốn được thảnh thơi ở cảnh giới bên kia cửa tử, vong linh phải biết xả bỏ các dục vọng vật chất, các khoái cảm xác thân. Còn giữ những gánh nặng này thì có khác gì con bướm khi thoát xác tằm nhưng vẫn mang vỏ kén trên lưng, làm sao có thể bay bổng cho được". Theo cuốn sách này, những người chết quá trẻ, nhất là những ng ời chết bất đắc kỳ tử, thường đau khổ rất nhiều. Sở dĩ họ khổ vì chưa già, chưa bệnh tật, nên các dục vọng vẫn còn mạnh, tạo áp lực khiến họ không thể siêu thoát. Nói một cách khác, họ chưa hề chuẩn bị để giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất nên cứ quanh quẩn ở cõi trần, sống trong trạng thái u mê đau khổ. Bị ám ảnh bởi cái chết và tâm trạng lúc từ trần nên thần trí họ không thể sáng suốt để vượt ra khỏi các áp lực này. Sự thèm khát mà không được thỏa mãn, đói mà không thể ăn, khát mà không thể uống, bị dục vọng hành hạ khổ sở có khác gì một cảnh âm ti địa ngục đâu! Chỉ khi nào các áp lực vật chất này tiêu tan hết thì vong linh mới có thể siêu thoát được. Tóm lại hạnh phúc của con người ở thế giới bên kia cửa tử tùy thuộc rất nhiều về sự giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất này. Cuốn Revelations của nhóm Les Amis de Chamfleury đã ghi nhận rất nhiều trường hợp về những áp lực vật chất mà danh từ Phật giáo gọi là "Cận tử nghiệp", chúng tôi xin trích dịch một trường hợp tiêu biểu như sau:

Bác sĩ Otto Kunz Làm việc tại bệnh viện thành phố Annecy, Thụy Sĩ. Ông bà Kunz Có một người con trai duy nhất tên là Jo đanh theo học đại học Geneve năm thứ hai. Vào tháng 4 năm 1952, cô thư ký của bác sĩ Kunz Nhận được thư của một người tên là Bernard Piquet viết cho bác sĩ nhưng vì bất cẩn cô xếp lầm bức thư này vào một chồng hồ sơ bệnh lý dày cộm trên bàn thư bị thất lạc. Hai tuần sau đó, cậu con trai của bác sĩ đi bơi và chết đuối trong hồ Geneve. Đến cuối tháng sau khi dở hồn sơ bệnh lý, bác sĩ Kunz Tìm thấy bức thư thất lạc, nội dung báo trước cái chết của cậu con trai Jo và yêu cầu bác sĩ tiếp xúc với người viết thư. Đại khái bức thư như sau: "Thưa bác sĩ, tôi được giao phó một công việc rất khó khăn mà tôi không biết phải xử trí ra sao. Việc này đã gây cho tôi nhiều bối rối nên tôi mạo muội viết thư này cho bác sĩ mặc dù chúng ta chưa hề quen biết. Tôi thấy trước tại ngịa địa thành phố Annecy một ngôi mộ mới của một cậu con trai tên là Jo Kunz, con của bác sĩ. Cậu vừa thi xong kỳ thi năm thứ hai đại học rồi đi tắm và bị chết đuối. Đây không phải là lần thứ nhất tôi biết trước được những việc sẽ xảy ra nhưng tôi không bao giờ can thiệp vào những việc này. Tuy nhiên lần này tôi nhận được lời yêu cầu phải thông báo tin này cho bác sĩ trước khi sự việc xảy ra nên tôi rất ngần ngại vì sợ bác sĩ cho rằng tôi đang toan tính việc gì chăng! Tôi suy nghĩ rất kỹ và sau cùng quyết định viết thư này để xin bác sĩ liên lạc vói tôi qua địa chỉ và số điện thoại sau....".

Là người hoàn toàn tin tưởng vào khoa học, bác sĩ Kunz Rất ngạc nhiên vì lá thư đến trước khi chuyện xảy ra nên ông vội điện thoại cho ông Bernard Piquet. Trong cuộc tiếp xúc, bác sĩ Kunz Được biết ông Piquet không những là một người có địa vị trong xã hội mà còn là một nhà thần limh học chuyên nghiên cứu về cõi giới bên kia cửa tử. Oâng Piquet cho biết có rất nhiều vong linh sống vất vưởng , không nơi nương tựa, không người giúp đỡ, vì còn quá nhiều quyến luyến với cỗi trần nên không thể siêu thoát. Nhiệm vụ của ông là liên lạc, giúp đỡ và hướng dẫn những vong linh này để họ có thể thích hợp với đời sống ở cõi bên kia. Bác sĩ Kunz Không tin tưởng ở những điều mơ hồ viển vông mà ông Piquet nói nhưng nể ông này là người có địa vị trong xã hội nên chỉ nói vỏn vẹn:

- Thưa ông Piquet, những điều ông nói hay lắm, nhưng ông có thể giúp đỡ tôi điều gì? Ông muốn xin chúng tôi điều gì chăng?

- Bác sĩ đừng hiểu lầm. Tôi không muốn xin xỏ một điều gì cả, nhưng cậu Jo, con của bác sĩ, đang cần sự giúp đỡ của bác sĩ vì cậu đang vô cùng đau khổ.

Nghĩ ông Piquet có ý xấu, bác sĩ nổi giận:

- Ông muốn gì thì cứ nói thẳng ra, con tôi đã chết rồi, xin đừng gợi lại những điều đau đớn đó nữa. Làm sao tôi có thể giúp đỡ con tôi được?

Ông Piquet bình tĩnh trả lời:

- Thưa bác sĩ, tuy đã chết nhưng cậu Jo không siêu thoát vì đang bị ám ảnh bởi tâm trạng khủng hoảng lúc chết, do đó cậu rất đau khổ. Tôi cố sức đỡ giúp cậu nhưng vô hiệu. Có lẽ chỉ bác sĩ mới có thể giúp đỡ được cậu Jo mà thôi vì ngày thường cậu rất phục bác sĩ.

- Tại sao ông biết điều đó?

- Đó là việc của tôi. Tôi vẫn thường liên lạc vớ thế giới bên kia cửa tử...

- Ông liên lạc bằng cách nào?

- Chúng tôi có nhiều phương tiện không thể kể hết được, nhưng cách giản dị nhất là qua trung gian của một đồng tử (Medium).

Bác sĩ Kunz Rất khó chịu vì ông không tin những trò cầu hồn, cầu cơ, hay tiếp xúc qua đồng tử nên ông lạnh lung nói thêm và câu rồi chấm dứt buổi nói chuyện. Chiều hôm đó ông kể cho vợ nghe. Bà Kunz Vô cùng xúc động nên thúc dục ông phải tiếp xúc lại với ông Piquet:

- Chuyện này lạ lắm. Làm sao một người như ông Piquet lại biết trước cái chết của jo được? Nếu cô thư ký Gina không xếp lầm bức thư vào hồ sơ bệnh lý và nếu anh không mở hồ sơ ra coi lại thì chuyện này sẽ ra sao? Biết đâu ông Piquet chẳng nói thật, mình cứ tiếp xúc xem ông ta muốn gì và nếu ông ta bày trò bịp bợm thì ta cứ việc gọi cảnh sát.

Lúc đầu bác sĩ Kunz Không nghe, nhưng vì bà vợ thúc giục mãi nê n ông đ ành nhờ ông Piquet tìm cách cho ông liên lạc với Jo. Ông Piquet đề nghị một buổi cầu hồn qua trung gian của một đồng tử. Bác sĩ Kunz Chấp thuận với điều kiện buổi tiếp xúc phải được tổ chức tại trường đại học y khoa Geneve, dưới sự chứng kiến của một nhóm bác sĩ bạn thân của ông. Không những thế, buổi tiếp xúc còn được thu vào băng để làm tài liệu kiểm chứng. Ông Piquet nhận lời và buổi cầu hồn được tổ chức vào cuối tuần lễ đó. Một người đồng tử (Medium) được đưa đến và ông Piquet hướng dẫn buổi tiếp xúc dưới sự kiểm soát gắt gao của một hội đồng bác sĩ y khoa.

Lần thứ nhất cậu Jo nhập vào đồng tử, cô này ú ớ không sao nói được, cứ khua tay khua chân lia lịa một lúc rB Bi thôi. Ông Piquet cho biết cậu Jo không tỉnh táo và đang xúc động mạnh nên không nói được gì. Ông đề nghị mọi người hãy cầu nguyện để sự rung động này có thể ảnh hưởng đến thần trí cậu Jo khiến cậu tỉnh táo hơn. Sau khi chờ cho mọi người cầu nguyện xong, ông Piquet yêu cầu cậu Jo trở lại. Lần này cô đồng ú ớ một lúc như người bị sặc nước, cứ lấy tay chỉ vào cổ họng như muốn nói mà không sao nói được. Tay chân cứ giẫy giụa như người đang bị chết đuối một lúc rồi thôi. Bác sĩ Kunz Bán tính bán nghi không biết có nên tin hay không. Xem cử chỉ của cô đồng, ông thấy có cái gì quen thuộc mà không sao tả được. Ông Piquet giải tán buổi cầu hồn và hẹn sẽ tiếp tục ở một hôm khác. Trong khi chờ đợi, ôn g yêu cầu ông Kunz Tổ chức một buổi lễ cầu nguyện cho cậu Jo tại thánh đường địa phương. Buổi cầu nguyện diễn ra rất long trọng và trang nghiêm dưới sự chủ lễ của vị giám mục và có rất đong bạn bè của Jo. Vài hôm sau, một buổi cầu hồn được tổ chức tại đại học Geneve. Lần này cậu Jo nhập vào đồng tử nhưng cũng như lần trước, cô này ú ớ không nói được mà cứ chỉ tay vào cổ họng. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:

- Xin Thượng Đế toàn năng hãy giúp chúng con nghe được tiếng nói của Jo. Đó là điều an ủi lớn đối với chúng con. Chúng con yếu đuối thấp hèn, không thể là gì hơn được mà chỉ biết quỳ mọp dưới chân ngài để cầu xin. Gia đình bác sĩ đã mất cậu Jo yêu quý, xin ngài cho phép họ ti ếp xúc được với Jo trong chốc lát. Cầu xin ngài làm thế nào cho nỗi đau khổ của chúng con đưa chúng con đến gần ngài. Chúng con không phiền muộn hay trách móc vì biết đó là ý ngài. Chúng con chỉ xin ngài hãy chăm lo cho linh hồn của Jo. Chúng con hy vọng và tin tưởng ở lòng thương yêu cao cả của ngài. Xin ngài hãy dìu dắt và hướng dẫn chúng con...

Ông quay ra phía những người quan sát gần đó:

- Này các bạn, các bạn phải cầu nguyện một cách chân thành. Cậu Jo cần nhận được những rung động thanh cao, dồi dào của tình thương phát xuất từ trái tim của quý vị. Chỉ có tình thương mới có thể đưa linh hồn cậu thoát khỏi các áp lực vật chất mà thôi.

Những người ngồi quan sát bàn tán không biết có nên tin những lời ông Piquet hay không. Chỉ riêng bà Kunz Nước mắt đầm đìa khóc lớn:

- Này Jo, nếu quả thật là con thì hãy cho mẹ biết mẹ sẽ giúp con.

Tự nhiên cô đồng ngồi yên một lúc rồi thốt lên một câu ngắn:

- Khổ quá, khổ quá...

Cả hai ông bà Kunz Đều giật mình vì giọng cô đồng nói y hệt như giọng cậu Jo. Bà Kunz Xúc động khóc ầm lên nhưng ông Piquet cản lại:

- Xin quý vị hãy bình tĩnh, đừng làm cậu Jo thêm đau khổ. Quý vị hãy cầu nguyện chân thành vì chỉ có sự chân thành mới có thể giúp được Jo trong lúc này mà thôi. Xin quý hãy tự xét lòng mình xem có thanh khiết hay không, vì chỉ có sự thanh khiết mới có thể rung động và ảnh hưởng đến thần trí đang đau khổ của Jo. Chúng ta nên yên lặng và nghĩ đến Thượng Đế vì chỉ có ngài m i có thể giúp được chúng ta trong lúc này. Tuy một vài người trong quý vị có lòng thương Jo nhưng vẫn chưa đủ mà cần có sự hòa hợp của nhiều người để tạo ra được một mãnh lực vươn lên cõi trên cảnh tỉnh Jo. Quý vị đừng nghĩ rằng Jo đã chết. Cậu không hề chết như quý vị nghĩ đâu mà chỉ đi qua một cõi giới khác mà thôi. Quý vị có thể chuyển đến cho Jo những tư tưởng thân ái, những tình cảm chân thành vì chỉ những thứ này mới làm cho Jo thoát được tình trạng u mê hiện nay. Càng than khóc quý vị càng làm Jo thêm đau khổ và càng đau khổ, thần trí Jo càng u mê, quyến luyến, hoảng hốt, không ích lợi gì cả.

Mọi người cố gắng cầu nguyện nhưng cô đồng ngồi im mà không trả lời. Sau cùng ông Piquet giải tán buổi cầu hồn. Ngay sau đó hội đồng bác sĩ họp nhau bàn tán, đa số cho rằng ông Piquet đã lừa gạt họ vì họ chưa thấy có một bằng chứng nào là cậu Jo đã trở lại. Bác sĩ Kunz Tỏ ra siêu lòng trước lập luận của bạn bè nhưng bà Kunz Quả quyết rằng giọng của cô đồng đúng là giọng nói của Jo và bà muốn tiếp tục thêm một lần nữa. Bác sĩ Kunz Cho ông Piquet biết ý định. Ông này trả lời:

- Tôi không thể giúp thêm gì vì người duy nhất có thể làm việc này chính là bác sĩ. Tôi đề nghị bác sĩ hãy chủ tọa buổi hướng dẫn kỳ tới.

Hai tuần lễ sau, buổi cầu hồn lại được tổ chức. Lần này chính bác sĩ Kunz Hướng dẫn và cậu Jo trở về nhập xác đồng tử. Cô đồng cứ nấc lên như người bị sặc n=C 6ớc. Bác sĩ Kunz Lên tiếng:

- Hãy cố gắng lên Jo. Ba biết con bị sặc nước nhưng hiện nay con xác thân của con không còn nữa. Cái xác hiện con đang sử dụng chỉ là xác của một người khác cho con mượn. Cái xác này không hề hề hấn gì và con có thể nói năng dễ dàng. Quanh đây đều là những người thân yêu, ai cũng thương con và ai cũng muốn nghe con nói lên vài lời...

Tự nhiên đồng tử ngưng lại, cố gắng thốt lên một câu:

- Nhưng con không nói được.

Ông Kunz Vội lên tiếng:

- Con hãy can đảm lên, nói cho ba biết có vật gì đang ở trong cổ họng của con?

Cậu Jo cố gắng cử động cái lưỡi. Từ trước đến giờ cậu cứ ú ớ như không nói được, nhưng bây giờ thì cậu cố gắng cử động lưỡi liên tiếp như muốn nhả một vật gì ra.

Ông Kunz Tiếp tục:

- Con thân yêu, hiện nay con không bị ngộp nước nữa đâu. Cái thể xác trước kia của con đã bị hư hại và được đem đi chôn cất rồi. Con hãy quan sát kỹ xem, bây giờ con không ở thẻ xác cũ nữa mà ở một thể mới, tốt đẹp và hoàn hảo hơn. Con hãy thoát ra sự chi phối của thể xác cũ. Con hãy cầu nguyện, hãy quên đi tai nạn thương tâm vừa qua, cha mẹ và người quanh đây sẽ giúp con. Con hãy thở đều cho thoải mái. Con đã ra khỏi hồ nước, con thấy không? Chung quanh con toàn là ánh sáng đẹp đẽ, con thấy thân thể nhẹ nhàng không? Con hãy can đảm lên...

Cậu Jo vẫn khua tay múa chân như người đang bơi. Ông Kunz Nói tiếp:

- Con không còn ở dưới nước nữa mà đang ở trong trường đại học. Con hãy thở một hơi thật dài. Tất cả những thứ trong cổ họng con đã thoát ra ngoài cả rồi, cứ bình tĩnh thở đều, không có gì ngăn cản con hết...

Cậu Jo đưa tay sờ ngực và cố gắng nói nhưng vẫn chưa nói được, sau cùng cậu khóc tấm tức. Ông Kunz Tiếp tục:

- Con cứ khóc đi, không sao hết. Khóc cho trút hết nỗi đau khổ rồi con sẽ thấy thoải mái hơn.

Cậu Jo khóc một lúc rồi đưa tay ôm cổ. Ông Kunz Vội hướng dẫn:

- Này Jo, hiện nay con không còn ở dưới nước nữa. Con đang ngồi gần cha mẹ và con hãy bình tĩnh. Con đã được vướt lên khỏi hồ nước rồi...

Cậu Jo bật lên một câu:

- Cha mẹ ơi rong rêu bám đầy vào miệng con ghê gớm quá!

- Con cứ bình tĩnh, mọi việc đã qua rồi. Hiện nay con đan g ở bên cha mẹ, không có gì có thể làm hại con nữa đâu. Nàu Jo, ngày trước con hát hay lắm, con hãy hát một bài cho cha mẹ nghe đi.

Cậu Jo bật cười thành tiếng, hát một bản nhạc thịnh hành rồi thăng. Lúc đó ông Piquet mới lên tiếng giải thích:

- Cháu Jo từ trần quá sớm, cháu còn quyến luyến cha mẹ, tiếc cuộc đời còn đẹp nên không muốn từ bỏ cõi trần. Do đó cháu cứ bám víu vào thể xác nên thần trí bị u mê. Cái áp lực vật chất này rất kinh khủng cho những ai muốn bám víu vào cõi trần nên người chết cứ bị ám ảnh bởi hoàn cảnh khi chết. Dĩ nhiên họ rất đau khổ. Vấn đề là phải biết hướng dẫn cho cháu biết chấp nhận sự chết để được siêu thoát. Muốn như thế, cháu cần phải hiểu biết về đời s1ng ở cõi bên kia, loại bỏ những quyến luyến thì mới có thể tiêu diêu tự tại được. Các ông bà nên biết có rất nhiều người chết vẫn ở trong trạng thái lúc chết từ năm này qua năm nọ mà không siêu thoát. Họ không sống ở cõi trần, không sống ơ cõi chết mà cứ ở giữa hai cõi. Chính cái hoàn cảnh không sống mà cũng không chết này làm họ u mê đau khổ. Muốn giúp họ chỉ có một cách duy nhất là cầu nguyện thật chân thành để sự thương yêu của quý vị tạo ra một mãnh lực soi sáng tâm tư đang hồ đồ của người vừa mới chết. Các sự than khóc, kêu gọi ồn ào chỉ làm tâm tư người chết đã bối rối lại còn hoang mang thêm, không ích lợi gì hết. Do đó một đám tang phải được cử hành trong sự chân thành cùng cầu nguyện. Quý vị nên biết cõi giới bên kia cửa tử không phải là một cảnh thiên đ àng hay địa ngục như người ta thường diễn tả, mà là một cảnh giới rất sáng, một thứ ánh sáng tràn đầy yêu thương của đấng sáng tạo. Tại đây người ta có dịp hồi quang phản chiếu, ý thức thực của mình để quyết định cho đời sống ở kiếp sau. Đời sống bên này rất yên lành, thoải mái vì chỉ có các tư tưởng rung động thanh cao, không hề bị ô nhiễm bởi các dục vọng vật chất. Muốn thích hợp với đời sống, con người cần biết loại bỏ các ràng buộc vật chất như lòng tham lam, ích kỷ. Chác Jo hiện nay vẫn còn bị ám ảnh nhiều bởi tâm trạng lúc chết nhưng tôi tin cháu sẽ hiểu biết và siêu thoát.

Sau buổi tiếp xúc, các bác sĩ tro ng hội đồng Y khoa đã họp nhau bàn thảo về trường hợp này. Đa số tỏ ra nghi ngờ vì họ chưa thấy một bằng chứng rõ rệt nào rằng người nhập xác đồng chính là cậu Jo. Bác sĩ Kunz Cũng bối rối không biết có nên tiếp tục nữa không nhưng bà Kunz Thì hoàn toàn tin tưởng, bà nói:

- Nghe tiếng nói tôi biết đó chính là Jo, không ai có lối nói như vậy ngoài Jo. Hơn nữa, bài hát đó vẫn là bài Jo thường hát, người ngoài không thể biết được. Các ông nghi ngờ ông Piquet đã đánh lừa chúng ta, nhưng ông ta làm thế để làm gì? Cho đến nay, ông Piquet chưa hề đòi hỏi hay lợi dụng chúng ta một điều gì.

Thanked by 1 Member:

#70 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 31/07/2018 - 14:53

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Con Thuyền Không Bến


Không ai biết được đường về
Nếu chưa từng nếm não nề khổ đau
Không ai thấy được Đạo mầu
Nếu chưa trải nghiệm khổ sầu, đắng cay
Nào ai hiểu kiếp mộng say
Nếu chưa chạm trán một giây vô thường!!

Chưa vào bịnh viện sao lường
Phút kề sinh tử chiếc giường bao nhiêu?
Mấy ai thấu rõ tình yêu
Dấu sau nồng ấm lắm điều khổ tâm...
Tình, tiền, danh, lợi.. nghìn năm
Kiến bò miệng chén, kiếp tằm trói trăn...

Ai chưa xuyên suốt hồng trần
Thì thôi.. cứ tiếp đánh vần mộng mơ..
Khi con sóng dập bơ phờ..
''Hoát nhiên đại ngộ'', bên bờ khổ, vui..
Đời là trường học người ơi!
Phúc cho ai tỉnh mà bơi ngược dòng...

Như Nhiên - Thích Tánh Tuệ



Thanked by 1 Member:

#71 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5105 thanks

Gửi vào 31/07/2018 - 23:07

"Phúc cho ai tỉnh mà bơi ngược dòng…"

Tỉnh mà lội ngược dòng thì lội xuội tay luôn chưa tớí bến, Đức Phật nói "Hồi đầu thị ngạn" , bờ thì đông tây nam bắc trên dưới mười phương đều là bờ nếu tỉnh thức thấy bản tánh thì chẳng còn lội trong dòng thức nghiệp chứ đâu có kêu lội ngược dòng hihihi

Phúc cho ai tỉnh mà bơi về bờ.


PS: Lão hư không hủ chìm thì thích bơi trong hư không hay chìm trong hủ hihihi

Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 31/07/2018 - 23:10


#72 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 01/08/2018 - 09:04

Đúng rồi, uống như hũ chìm là đúng, là vì "hũ dầu bị vỡ thì chìm xuống nước, còn dầu nổi lên trên mặt nước"

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#73 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5105 thanks

Gửi vào 01/08/2018 - 09:43

Vậy là lão làm thợ lặn uống nước pha dầu rùi hihi
Tui mớí xem Hotel Transylvania 3, cười vui quá trời, cuối phim Ma Cà Ròng cứu Lão Van Helsing , Lão Helsing hỏi sau bao nhiêu kiếp quýnh nhau sao lại cứu lão thì Ma Cà Ròng nói: "We are all fundamentally the same".

Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 01/08/2018 - 09:48


#74 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2950 thanks

Gửi vào 01/08/2018 - 09:50

ủa Hotel Transylvania 3 đã có rùi à, tui lâu rồi không xem, chắc chắn sẽ xem phim này nhưng nước lũ dìa rồi, tui sẽ đi chơi một chuyến đã rồi tính sau.

#75 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5105 thanks

Gửi vào 01/08/2018 - 10:11

Phim ra được 2-3 tuần rồi. Nhạc chơi hay lắm, trong phim có đoạn dùng âm thanh để điều khiển quái vật đánh nhau .






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |