04/22/2018
Đã từ rất lâu tôi không viết gì. Không phải vì tôi không thích viết mà bởi lẽ tôi thấy chẳng có gì đáng viết, chẳng có gì đáng nói, chẳng có gì đáng trao đổi và mỗi một lần phát biểu một ý tưởng nào đó cũng là mỗi một lần hoài công phát biểu, cố gắng nói một cái gì đó không cùng, một cái gì vô hình, vô lý và vô ý niệm...
Tài năng Việt Nam hiện hay đang có gì? Xem các chương trình “game show” thì thấy nở rộ nhiều tài năng, thần đồng nhưng hầu hết ở những lĩnh vực thiếu tính thực tế. Nhân tài đất Việt đã đi chệch đường rầy.
Hôm nay, tôi muốn làm sống lại một con người, một thần đồng, một thiên tài bị lãng quên: PHẠM CÔNG THIỆN – người đã ghé thăm Việt Nam năm 1941 và bỏ đất nước này ra đi vào năm 1970. Một ngôi sao vụt sáng trên bầu trời Việt.
Ông là một thần đồng ngôn ngữ học, văn thơ, dịch thuật, triết gia, tư tưởng Phật học… Tôi đánh giá ông là một thiên tài vì ông là thanh niên dám đảo lộn tư tưởng, đột phá tư duy, là người đã đánh thức, đã làm sống dậy cả một thế hệ thanh niên Việt Nam miền Nam thời bấy giờ. Ông đã thổi một luồn gió mới vào Việt Nam, là người đã làm cho những thiên tài, những tư tưởng gia vĩ đại nhất từ khắp nơi trên thế giới có mặt tại Việt Nam: , , , , Henrry Miller, Rimbau…rất nhiều và rất nhiều.
Nói về tài năng ngôn ngữ học, thời nay chẳng mấy ai có thể so bì được với Phạm Công Thiện... Ngay từ nhỏ, Phạm Công Thiện đã nổi tiếng là biết nhiều ngoại ngữ, mới 13-14 tuổi đã đọc thông viết thạo Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, Hà Lan, Ba Lan… Ngoài ra, ông còn biết 2 thứ tiếng linh thiêng khác là Sanskrit (một cổ ngữ Ấn Độ) và Pali. Năm 16 tuổi, ông xuất bản cuốn từ điển Anh ngữ tinh anh. Sự thiên tài của ông là làm cho những ngôn ngữ ấy sống tại Việt Nam với những tác phẩm “kinh thiên động địa”, hoàn toàn khác xa với thứ thiên tài ngôn ngữ biểu diễn, nên lưu ý là ông tự học trong hoàn cảnh chiến tranh và công nghệ chưa phát triển.
Nói về văn thơ, ông phủ nhận ông là một nhà văn, nhà thơ nhưng phải nói rằng văn thơ của ông bay bổng, rất có chất lửa, truyền cảm hứng mạnh mẽ và tôi chưa thấy một nhà văn nào viết hay được như vậy. Năm hơn 18 tuổi, ông đã xuất bản một cuốn sách làm chấn động cả miền Nam thời đó: Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, chấn động theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Năm 25 tuổi, ông là giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả các của . 27 tuổi, ông giữ chức trưởng phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện đại học. Tại đây, ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng. Ông cũng là giáo sư triết học Tây phương của Viện Ðại học Toulouse, Pháp; giáo sư ở “College of Buddhist Studies” tại Mỹ.
Về dịch thuật, tương tưởng và các sáng tác khác của ông tôi có ngôn từ nào để diễn tả, tư tưởng ông vượt xa thời đại và đứng trên mọi nguyên tắc. Nhưng ông cũng là một con người kỳ quặc, coi thường danh vọng, bằng cấp, bỏ học giữa chừng ở một đại học nổi tiếng tại Pháp, dám nói những giáo sư hàng đầu là chẳng biết gì và nói như một lũ vẹt. Tôi chỉ muốn làm sống lại tài năng chứ không phải là cái kỳ quặc, ngạo mạn tuổi trẻ của ông. Có một điều đặc biệt là ông luôn đề cao tiếng Việt, con người Việt và đất nước Việt. Hãy đọc một vài trích đoạn của ông.
”Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử không cần phải đọc Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằng tất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHÁY, CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.” (trích Ý thức mới trong văn nghệ và triết học)
“Tôi thường mang tiếng là giỏi sinh ngữ, thực sự thì tôi khinh bỉ những kẻ nào biết nhiều thứ tiếng. Tôi vẫn nghĩ rằng chữ Việt là chữ khó đọc nhất, vì chữ Việt không có văn phạm và ngữ pháp, không có ngày nào tôi không dở Tự điển Việt Nam của Hội Khai Trí Tiến Đức và quyển Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị để học từng chữ A, từng chữ B, tôi chịu khó học lại từng dấu hỏi, dấu ngã để nhìn lại những nét mặt quen thuộc của bà con làng xóm mà từ bao nhiêu năm lang bạt kỳ hồ tôi đã bỏ quên một cách ngu dại. Đối với tôi, tiếng Việt còn giữ lại một niềm bí ẩn nào đó mà cả đời tôi cũng không thể nào khoét sâu vào được. Có lẽ khi sắp chết thì niềm bí ẩn kia sẽ hiện nguyên hình…” (trích Tôi là ai)
Tư tưởng siêu việt “Quán Thế Âm Bồ Tát là sự huyền bí của sự toàn diện và sự toàn diện của sự huyền bí của đời sống con người và của cái gì vượt lên trên con người và của cái gì vượt ra khỏi mặt đất và vượt ra khỏi không gian vô tận và thời gian vô tận và vượt ra ngoài cả tư tưởng vô tận của trí huệ tỉnh thức”
Một bài thơ của Phạm Công Thiện:
HIU HẮT QUÊ HƯƠNG
“Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông.”
(trích Ngày Sanh Của Rắn. Bài thơ đẹp rực rỡ như một buổi sáng mùa hè trên đồi thông Nha Trang)
Tôi không đủ thời gian và tâm tư để viết một tiểu luận hay một tiểu thuyết, tuyển tập về Phạm Công Thiện, và nếu có thì cũng chẳng mấy ai đọc vì đối tượng của tôi chủ yếu là thanh niên Việt Nam. Viết mấy dòng này tôi ngỡ đã quá dài với họ, tôi chỉ viết đôi dòng cho những ai có duyên đọc.
Phạm Công Thiện quả là một thiên tài hiếm có nhưng thế hệ của tôi và các thế hệ sau này chẳng mấy ai biết gì về ông. Tôi hi vọng sau bài viết này, có một vài người nào đó tò mò tìm hiểu Phạm Công Thiện là ai? Các tác phẩm của ông là gì? Và vì sao ông là một thiên tài như thế?
Tác giả: Nguyễn Hữu Lâm
Phạm Công Thiện (1/6/1941 - 8/3/2011) là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật giáo Việt Nam với pháp danh Nguyên Tánh. Bút danh khác: Hoàng Thu Uyên. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ.
Nhưng từ vài năm trước đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm 1970, ông đã cộng tác với các báo và tạp chí Bông Lúa, Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ. Từ những năm cuối thập niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số trường tại Sài Gòn... Ðầu năm 1964, ông chuyển ra sống để an dưỡng sau một cuộc "khủng hoảng tinh thần." Tại đây ông quy y ở chùa Hải Ðức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn.
Phạm Công Thiện sinh năm 1941 tại Mỹ Tho, rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Đức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, giữ chức giáo sư Phật Giáo viện College of Buddhist Studies. Từ đó về sau, ông ở Mỹ và tiếp tục viết sách - phần lớn là nghiên cứu về đạo Phật. Ông qua đời ngày 8/3/2011 (mồng 4 tháng 2 năm Tân Mão) tại thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Tác phẩm
Thơ, văn, tiểu luận
- Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền tông (Tân Ý Thức, Nha Trang, 1964)
- Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (An Tiêm, Sài Gòn, 1965; in lần thứ 4, 1970)
- Trời tháng Tư (An Tiêm, Sài Gòn, 1966)
- Ngày sanh của rắn (Hoa Nắng, Paris, 196?; An Tiêm in chính thức tại Sài Gòn, 1966; Trần Thi in lần mới nhất, California, 1988), thơ.
- Im lặng hố thẳm (An Tiêm, Sài Gòn, 1967 và 1969; Phạm Hoàng, 1969)
- Hố thẳm của tư tưởng (An Tiêm, Sài Gòn, 1967; Phạm Hoàng in lần thứ 3, 1970)
- Mặt trời không bao giờ có thực (An Tiêm, Sài Gòn, 1967; Phạm Hoàng in lần thứ 2, 1969)
- Chỉ còn tiếng thơ trên mặt đất — Trở về Rainer Maria Rilke (1969)
- Henry Miller (Phạm Hoàng, Sài Gòn, 1969)
- Bay đi những cơn mưa phùn (Phạm Hoàng, Sài Gòn, 1970)
- Ý thức bùng vỡ (Đồng Nai, Sài Gòn, 1970)
- Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988)
- Sự chuyển động toàn diện của tâm thức trong tư tưởng Phật giáo (1994)
- Triết lý Việt Nam về sự vượt biên (1995)
- Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc (Viện Triết lý Việt Nam và Triết học Thế giới, California, 1996)
- Khơi mạch nguồn thơ thi sĩ Seamus Heaney, Giải Nobel Văn Chương 1995 (Viện Triết lý Việt Nam và Triết học Thế giới, California, 1996)
- Làm thế nào để trở thành một bậc bồ tát sáng rực khắp bốn phương trời (1998)
- Tinh tuý trong sáng của đạo lý Phật giáo (1998)
- Trên tất cả đỉnh cao là im lặng (Trần Thi, California, 1988; Văn hóa Sài Gòn tái bản, TP. H.C.M, 2009), thơ.
- Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử (2000)
- Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu: Triết học là gì? (2000)
- Đối mặt với 1000 năm cô đơn của Nietzsche (2000)
- Tự do đầu tiên và cuối cùng (An Tiêm, Sài Gòn, 1968), dịch của
- Về thể tính của chân lý (Hoàng Đông Phương, Sài Gòn, 1968), dịch của
- Triết lý là gì? (An Tiêm, Sài Gòn, 1969), dịch của Martin Heidegger.
- Tôi là ai? Đây là người mà chúng ta mong đợi!, dịch của
- Rèn luyện tâm thuật huyền linh (1991), dịch của .
- Anh ngữ tinh âm tự điển (Hoàng Long, Mỹ Tho, 1957)
- Dialogue (Lá Bối, Sài Gòn, 1965), viết chung với , , , và bằng tiếng Anh và tiếng Pháp.
#phamcongthien
#suutam