Jump to content

Advertisements




Bên Rặng Tuyết Sơn Phóng Tác: Nguyên Phong


24 replies to this topic

#1 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 06/08/2020 - 13:45

BÊN RẶNG TUYẾT SƠN
Phóng Tác: Nguyên Phong

Bản PDF bên dưới



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

|

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

| <Audio


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Dù là cuốn sách khai thác đề tài tâm linh, nhưng Bên rặng Tuyết Sơn (First News và NXB Hồng Đức ấn hành) được viết bởi lối văn nhẹ nhàng và dung dị. Nhờ đó, độc giả bình thường cũng có thể đọc và chiêm nghiệm theo những triết lý nhân sinh mà tác giả gửi gắm trong cuốn sách của mình.


Ngay trong phần đầu cuốn sách, tác giả Swami Amar Jyoti đã “khuyến cáo” rằng “Cuốn sách này không phải là hồi ký, vì các nhân vật đều không có thực. Tuy nhiên, đây cũng không phải một tiểu thuyết hư cấu vì nó tiêu biểu cho những giai đoạn đi tìm đạo vẫn thường xảy ra tại Ấn Độ suốt mấy ngàn năm nay”. Và tác giả hy vọng “cuốn sách nhỏ này sẽ giúp độc giả nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống, thấy rõ con đường mà mỗi người đang đi, để tìm về nguồn gốc thiêng liêng cao quý mà chúng ta đã vô tình quên mất từ lâu”.

Chọn chàng trai Satyakam làm nhân vật trung tâm, tác giả đã lồng ghép những điều mà mình hy vọng vào trong hành trình đi tìm đạo của Satyakam từ lúc gặp sư phụ, gặp sư huynh Kapalak, gặp Bhairavi – người bạn đời của mình cho tới lúc nhìn thấy Thượng đế. Đó cũng chính là hành trình đi tìm mối liên hệ giữa con người và vũ trụ qua thuật yoga. Để đến khi cuộc tìm kiếm chấm dứt, khi đã “sống trọn vẹn trong chân lý” thì chàng trai Satyakam ngày nào nay đã thành Satyananda – người sống trong chân lý, lại chu du khắp nơi để giúp mọi người và truyền dạy cho họ những gì mà mình lĩnh hội được.

Khai thác về đề tài tâm linh nhưng ở cuốn sách Bên rặng Tuyết Sơn đã khai triển một cách khéo léo, giúp khoảng cách giữa “đạo” và “đời” được giãn mở và trở nên gần gũi với bạn đọc. Tác giả Swami Amar Jyoti bàn tới nhiều vấn đề, dù là về “đạo” hay “đời” thì tựu trung đó vẫn là những vấn đề nhân sinh cần thiết và ý nghĩa với tất cả mọi người. Giống như ông đã mượn lời của sư phụ nói với Satyakam: “Ai bảo con rằng có sự khác biệt giữa đời và đạo? Con chớ tưởng người đi trên đường đạo sẽ có gì khác thường. Nếu người đời có những lúc thế này hay thế nọ, thì kẻ đi trên đường đạo cũng có những tâm trạng y hệt như thế, nhưng với họ, thử thách này lớn hơn nhiều. Nếu người đời buồn chán, thất vọng thì đã có những thú vui vật chất để tiêu sầu giải muộn; còn người đi trên đường đạo thì không. Họ sẽ không có được một sự an ủi nào hết cho đến khi họ thực sự chiến thắng bản ngã của mình, và chỉ đến khi đó, họ mới nếm được vị ngọt của sự giải thoát”.

Trong các vấn đề mà tác giả Swami Amar Jyoti đề cập, vấn đề tình thương được ông khai mở và soi chiếu trên nhiều góc độ khác nhau. Tình thương không đơn thuần chỉ là sợi dây nối kết trong mối quan hệ giữa người với người, mà đôi khi đó còn là một phương thuốc tinh thần hữu hiệu, nhất là trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Đặc biệt là ở những thành phố đông đúc ồn ào, thần kinh con người luôn bị căng ra bởi những rung động náo nhiệt, phức tạp. Chúng khiến tâm hồn chúng ta luôn ở thế bị động, lúc nào cũng lo phản ứng, dần dần mất đi sự nhạy cảm cần thiết. Đó cũng là lý do xã hội càng phức tạp, con người càng thiếu đi sự cảm thông với nhau. Càng ngày tâm trí chúng ta càng mệt mỏi, xáo trộn, dễ bị kích thích bởi những cớ lặt vặt không đâu. Chính vì lẽ đó, chúng ta khó mà tránh được những bực dọc, giận tức hay nóng nảy.

Swami Amar Jyoti cho rằng, sự tức giận rất tai hại vì hậu quả của nó tồn tại lâu hơn ta tưởng. Và khi đó, “chỉ có tình thương là năng lượng duy nhất dập tắt được tư tưởng nóng giận mà không gây nên phản ứng trên xác thể hay tâm hồn. Đây là năng lượng màu nhiệm và có quyền năng mạnh mẽ. Một người giàu tình thương và lòng bác ái sẽ không khi nào nổi giận hay để cơn giận dữ ảnh hưởng đến mình”.

Tình thương được phát xuất từ đâu? Và làm như thế nào để tình thương bộc lộ? Tác giả Swami Amar Jyoti chỉ ra: “Tình thương là một năng lượng từ trong phát ra. Tình thương là ban trải chứ không phải là thu nạp. Thói thường, con người dồn năng lượng vào trong vì đối tượng của họ là bản ngã, do đó các năng lượng này dễ va đụng nhau, tạo thành các làn sóng rung động theo một nhịp độ trong tâm thức. Nhịp độ này gia tăng tạo thành lòng ích kỷ, do đó càng nghĩ đến mình bao nhiêu, con người càng trở nên ích kỷ bấy nhiêu. Khi biết ban trải năng lượng ra ngoài, tâm hồn con người sẽ mở rộng ra, thay vì thu hẹp lại”.

Cũng theo Swami Amar Jyoti, tình thương phát sinh từ trong gia đình dưới hình thức tình thương yêu giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em. Trong không khí đầm ấm dịu dàng của gia đình, những đức tính tốt sẽ được nảy nở, vun bồi và mở đường cho cách xử thế cao thượng đẹp đẽ về sau. Đời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội và gia đình là nền tảng của tình thương.

Tác giả Swami Amar Jyoti sinh trưởng tại Ấn Độ. Ông đã theo học với nhiều đạo sư đương thời nhưng vẫn chưa thỏa mãn với những gì học được, sau một thời gian tu học trong các đạo viện, ông lên Tuyết sơn tu nhập thất. Ông tu tập nội quán trong một hang đá suốt 12 năm ròng mới xuống núi dạy đạo và thu tập môn đệ. Ông đề cao việc thực hành và khuyên mọi người hãy cố gắng tìm sự hoàn hảo ngay trong chính con người mình thông qua công phu tu tập nội quán dù theo bất cứ một tôn giáo hay pháp môn nào, vì “chỉ có các nỗ lực thực hành mới đưa con người đến chân lý”.



Hồ Huy Sơn



Download bản PDF về nhà đọc dần:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#2 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 06/08/2020 - 14:13

Lời nói đầu



Cuốn sách này không phải là hồi ký, vì các nhân vật đều không có thực. Tuy nhiên, đây cũng không phải một tiểu thuyết hư cấu vì nó tiêu biểu cho những giai đoạn đi tìm đạo vẫn thường xảy ra tại Ấn Độ suốt mấy ngàn năm nay. Đối với người Ấn, việc tầm sư học đạo là một trong những giai đoạn quan trọng của cuộc sống mà mỗi người đều phải trải qua.

Đối với người Âu, cuộc sống bắt đầu khi sinh ra và kết thúc khi chết đi; song đối với người Ấn, cuộc sống kéo dài qua nhiều kiếp, trong đó mỗi kiếp sống chỉ là một giai đoạn để trải nghiệm và học hỏi, bởi cuộc sống thực giúp chúng ta biết được mình là ai, chứ không phải là lý thuyết hay chuỗi thời gian tồn tại vô ích. Sự tự biết mình giúp ta ý thức rõ hơn về cuộc sống, đưa ta trở về với nguồn gốc thiêng liêng cao cả vốn luôn hiện hữu bên trong mỗi con người.

Tôi hy vọng cuốn sách nhỏ này sẽ giúp độc giả nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống, thấy rõ con đường mà mỗi người đang đi, để tìm về nguồn gốc thiêng liêng cao quý mà chúng ta đã vô tình quên mất từ lâu. Tuy câu chuyện được xây dựng dựa trên truyền thống và phong tục Ấn Độ, nhưng không phải vì thế mà tôi muốn đề cao một con đường tu tập hay một tôn giáo nào ở đất nước này. Các bạn hãy mở lòng mình mà đọc, vì câu chuyện này có thể xảy ra tại bất cứ nơi nào, hoàn cảnh nào, thời đại nào, và với bất cứ tín ngưỡng nào – vì chân lý bao giờ cũng hiển hiện một cách màu nhiệm, không phân biệt không gian và thời gian.


- Swami Amar Jyoti

Pune, India 1988



Chương 1



Mặt trời nhô lên khỏi đỉnh Tuyết Sơn, muôn ngàn tia sáng chói chang tỏa lan khắp thung lũng Saraswati. Đó đây, chim chóc cất tiếng báo hiệu một ngày vừa bắt đầu.

Một vị đạo sư già bước ra khỏi hang đá. Ông khoan thai đi dọc theo những bụi cây xanh mát còn ướt đẫm sương mai. Một làn gió nhẹ thổi qua làm lay động chòm râu bạc như cước. Ông ung dung bước xuống bờ suối gần đó, vươn tay vốc chút nước đưa lên miệng. Nước suối lạnh như băng, nhưng ông không lấy thế làm phiền. Uống xong ngụm nước, ông thong thả bước xuống dòng suối cho đến lúc nước ngập đến cổ, rồi ông dừng lại đọc một bài chú dài, thân hình trang nghiêm, bất động. Có vẻ dòng nước mãnh liệt kia không thể khiến ông chao đảo. Dường như đôi chân mảnh khảnh của ông đã bám rễ vào lòng suối.

Ông ung dung hoàn tất nghi thức cần thiết rồi bước lên một tảng đá phẳng gần đó, ngồi bắt chéo hai chân theo tư thế liên hoa. Chỉ thoáng giây sau, một làn khói mỏng từ cơ thể tỏa ra xung quanh. Những giọt nước bám trên thân thể ông bốc thành hơi vì thân nhiệt đang lưu chuyển mạnh. Hiển nhiên phải như thế, vì ông là một đạo sư đã luyện thành pháp tu “Tam Muội Hỏa” (phương pháp điều chuyển nhiệt trong mình). Dù thời tiết lạnh đến đâu, ông vẫn có thể mình trần ngồi trên tuyết lạnh. Ông sẽ ngồi như vậy cho đến khi mặt trời gần đứng bóng mới xả thiền, bước vào trong hang đá ăn chút trái cây rừng hái được từ hôm qua. Ăn xong, ông sẽ xuống thung lũng phía dưới hái trái cây để dành cho bữa ngày mai, rồi tiếp tục thiền định cho đến xế chiều mới bước vào trong động nghỉ ngơi.

Có tiếng chân người nhẹ bước trên lá khô. Con chim đang rỉa lông trên cành giật mình kêu lớn. Một thanh niên quần áo rách rưới, lưng đeo hành lý ở đâu bước đến. Anh đứng sững nhìn vị đạo sư ngồi yên trên tảng đá, rồi kêu lên một tiếng vui mừng, đặt hành lý xuống đất, bước đến quỳ mọp trước mặt ông. Vị đạo sư khẽ mở mắt nhìn chàng trai, đôi mắt hiền từ dưới vầng trán cao ánh lên vẻ hài lòng. Anh ngẩng đầu lên, ánh mắt bừng sáng. Bao vẻ mệt nhọc của chuyến hành trình dài dường như tan biến. Anh cung kính chắp tay chờ đợi. Chòm râu bạc của vị đạo sư khẽ rung trong làn gió nhẹ.

Ông thong thả nói:

- Satyakam, rốt cuộc rồi con cũng đến! Chàng trai ngạc nhiên:

- Nhưng... nhưng sao ngài lại biết tên con?

Ông yên lặng không đáp, trên môi chỉ điểm một nụ cười thân ái.

- Thưa ngài, hình như... ngài biết trước rằng con sẽ đến đây?

Vị đạo sư vẫn im lặng. Hồ như ông biết câu trả lời không còn cần thiết nữa. Ông lặng lẽ ngắm nhìn chàng trai đang quỳ trước mặt, rồi chỉ xuống dòng suối:

- Con đi đường xa hẳn đã mệt rồi. Hãy xuống suối tắm rửa, rồi nghỉ ngơi trước đã. Ngày mai, chúng ta sẽ bắt đầu.

- Nhưng... nhưng con chưa nói cho ngài biết mục đích chuyến đi này của con. Thưa ngài, con đã đi tìm ngài suốt bao năm. Con đã trèo đèo lội suối, trải qua bao khó nhọc mới đến được đây. Xin ngài thu nhận con làm đệ tử...

Vị đạo sư ngắt lời:

- Ta biết rồi.

Ông ngừng một chút, nhìn chàng trai đang ngơ ngác, rồi mỉm cười:

- Này Satyakam, thầy trò ta đã có duyên với nhau từ bao kiếp rồi chứ đâu phải bây giờ mới gặp nhau! Con không nhớ sao?

- Thì... thì ra thế! Thì ra ngài đã là sư phụ của con từ nhiều kiếp trước.

Có lẽ vì quá xúc động, anh không nói thêm được câu nào nữa. Một dòng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt bám đầy bụi đường. Anh run run úp mặt vào đôi bàn chân trần của vị đạo sư với vẻ thành kính. Ông đưa tay khẽ vuốt tóc anh, đoạn thong thả đứng dậy đi vào.


***



Mặt trời lên cao, tỏa muôn ngàn tia nắng ấm xuống thung lũng Saraswati. Một con chim lớn từ trên cao sà xuống suối rồi lại vỗ cánh bay lên. Những giọt nước long lanh bắn tung lên, trông như những hạt ngọc.

Vị đạo sư ngồi xếp bằng trên tảng đá cạnh dòng suối. Ông vừa thực hành nghi thức buổi sáng - trầm mình trong làn nước lạnh và đọc bài thần chú như thường lệ. Trong lúc ấy, vì chưa quen với khí hậu của rặng Tuyết Sơn, chàng trai phải khoác lên mình tấm áo choàng dày mà vẫn chưa hết rét. Anh ngồi trước sư phụ, chắp tay cung kính chờ đợi.

- Này Satyakam, bây giờ chúng ta hãy bắt đầu với những công phu mà con chưa hoàn tất trong kiếp trước.

- Nhưng thưa sư phụ, con không nhớ rõ con đã làm gì!

- Rồi con sẽ biết thôi. Ta không cần nói cho con biết về quá trình tu tập của con cũng như con đã tiến bộ đến đâu. Con phải biết rõ về mình chứ đừng trông chờ ta hay ai đó sẽ nói cho con biết về chính con. Qua công phu tu tập nội quán cũng như các nỗ lực của con trong thời gian tới, con sẽ nhận ra mình. Ta biết con có đầy đủ những đức tính cần thiết của một người đi trên đường đạo, đó là tính thành thật, chuyên cần, tinh tấn và dũng mãnh.

Ông ngưng một lát như để cho anh có thời gian suy ngẫm, rồi thong thả tiếp:

- Bài học đầu tiên của con là bắt đầu từ nay, con hãy chấm dứt việc tính toán, phân tích thời gian, giờ khắc, hay ngày tháng. Hãy để cho mọi việc tuần tự trôi đi. Hãy sống trọn vẹn từng phút giây. Hãy để cho ngày là ngày và đêm là đêm với đúng ý nghĩa của nó. Hãy để mọi việc xảy đến là kinh nghiệm về một điều mới lạ, một sự tỉnh thức, một chuyện ngạc nhiên. Đừng để sự sống trôi dạt vào quá khứ hay tương lai, mà hãy ý thức nó từng giây từng phút trong sự tỉnh thức hoàn toàn. Muốn như thế, con cần phải làm chủ thân, khẩu và ý, bởi cuộc sống thực không phải là một sự cố gắng, phấn đấu để đạt được cái này hay cái khác, mà là sự thoải mái, giải thoát tuyệt đối.

Chàng trai rụt rè:

- Thưa sư phụ, vậy con cần phải tu tập trong bao lâu nữa mới đạt đến trạng thái trên?

Đạo sư mỉm cười lắc đầu:

- Này Satyakam, con lại nghĩ đến thời gian rồi! Chỉ khi nào thôi tính toán, con mới có thể hoàn toàn được giải thoát. Đây là một thói quen mà con cần phải trừ bỏ.

- Nhưng... nhưng thưa sư phụ, con cũng cần một thời gian để trừ bỏ những thói xấu này chứ?

- Dĩ nhiên là thế, nhưng đâu nhất thiết phải có một thời gian nhất định để làm việc này? Ai đặt cho con thời hạn đó? Tại sao con không ý thức rằng mình đang sống và sự sống thật sự không lệ thuộc vào thời gian hay không gian, mà là hoàn toàn thoải mái, hoàn toàn giải thoát? Con có ý thức giải thoát là gì không? Phải chăng con vẫn nghĩ rằng con có một số thói xấu nên cố gắng loại bỏ, thay đổi nó đi và khoảng cách giữa hai mốc điểm đó là thời gian? Tại sao con không làm cả hai việc đó cùng lúc - học hỏi thêm một số điều mới lạ, đồng thời bỏ bớt đi một số thói quen, thành kiến đã có từ trước? Sự sống thật sự không thể bị ràng buộc trong giới hạn thời gian, mà luôn sống động, không ngừng tuôn chảy. Đừng chia cắt nó ra thành những phần nhỏ. Đừng phân tích nó thành những mảnh vụn rời rạc. Đừng để thời gian trở thành một khuôn mẫu mà con phải sống theo. Nếu con tiếp tục suy nghĩ trong cái khuôn khổ giới hạn của thời gian, con sẽ tiếp tục huân tập cho một thói quen, và một thói quen được huân tập như vậy sẽ không dễ gì thay đổi được.

- Nhưng... nhưng cách suy nghĩ này hiện nay vẫn xoay vần trong đầu óc con, chi phối tư duy con. Làm sao... làm sao con có thể chinh phục hay loại bỏ được nó đây?




Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 9

#3 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 07/08/2020 - 06:45

Vị đạo sư già mỉm cười nhìn anh với vẻ ưu ái, độ lượng. Ánh mắt hiền từ của ngài làm anh cảm thấy yên lòng. Anh định cất lời, nhưng vị đạo sư đã lên tiếng trước:

- Con hãy tập theo dõi những dòng tư tưởng đang nổi lên cuồn cuộn trong tâm mình. Chỉ theo dõi, không đè nén nó xuống, cũng không khơi động nó lên. Hãy quán sát một cách kiên nhẫn từng tư tưởng dấy lên rồi lại chìm xuống, và đợi cho đến khi nó nhẹ nhàng đến và đi một cách âm thầm, con sẽ thấy sự vi tế của nó. Mặc dù tâm con hết sức tĩnh lặng, nhưng sự vi tế của các tư tưởng thầm kín vẫn đến và đi như dòng nước đang tuôn chảy kia. Hãy quán sát tâm mình thật kỹ, rồi con sẽ hiểu được điều ta nói. Con có thể coi đó là một phương pháp, một kỹ thuật hay một điều chỉ dẫn của ta cũng được.

Ông ngừng lại, nhìn vẻ chăm chú của chàng trai, rồi mỉm cười:

- Đó là bài học vỡ lòng của con.

Anh thành kính quỳ xuống đất, hai tay ôm lấy đôi chân thầy. Anh định thốt lên mấy lời biết ơn, nhưng không cất nên câu. Vị đạo sư đặt nhẹ đôi tay lên đầu anh, một cảm giác ấm áp lạ lùng bỗng truyền đi khắp người anh. Vị đạo sư thong thả đứng dậy đi về phía động đá. Ông bước đi dáng vẻ ung dung, từng bước, từng bước vững chãi, thảnh thơi. Anh không còn cảm thấy lạnh nữa. Dường như trong lòng anh đang có một điều gì kỳ lạ, một niềm hoan lạc nhẹ nhàng khiến anh thấy nhẹ nhõm khác thường.

Bất chợt, anh ý thức rõ rệt từng hơi thở, từng nhịp đập của trái tim, sự rung động của từng thớ thịt. Đâu đây vang lên tiếng chim líu lo, tiếng gió thổi lay động lá cây, tiếng côn trùng ngân nga điệu nhạc tuyệt vời của vũ trụ. Anh bàng hoàng tự hỏi tại sao chỉ mới phút trước, anh còn quẩn quanh với bao ý niệm mà bây giờ chúng đã biến mất. Phải chăng đó là kết quả của buổi nói chuyện với vị đạo sư hay còn điều gì khác nữa?

Anh hít một hơi thật sâu. Một luồng hơi nóng trỗi lên, toàn thân anh ấm áp lạ lùng. Anh hơi ngạc nhiên nên hít thêm lần thứ hai. Luồng hơi nóng từ đan điền bốc lên nóng ran, chân tay tê tê một cảm giác kỳ lạ. Thế nhưng, đầu óc anh lại nhẹ hẫng, khác thường. Anh hít tiếp một hơi nữa và chợt ý thức luồng hơi nóng đang chạy khắp cơ thể. Cảm giác này quen thuộc làm sao! Hồ như anh đã từng làm việc này rồi! Nhìn vị đạo sư đang chậm bước đằng xa, anh muốn nói một lời gì đó, nhưng lại thôi. Đôi bàn tay anh lấm tấm những giọt mồ hôi. Anh hít thêm một hơi nữa để luồng hơi nóng lưu chuyển khắp thân thể. Tự nhiên, anh chợt hiểu và bật cười sung sướng. Chỉ trong thoáng giây, khắp mình anh đã toát đầy mồ hôi. Phải chăng anh đã phục hồi được khả năng trước kia? Anh bước về phía túp lều - mái lá đơn sơ anh vừa dựng hôm qua để làm chỗ nghỉ ngơi. Đôi chân nhẹ như bay, chỉ chớp mắt, anh đã bước vào trong lều. Anh sung sướng quỳ xuống, bật thốt lên một câu ngắn: Cảm ơn. Cảm ơn sư phụ!

Ngày tháng trôi.

Mỗi buổi sáng, Satyakam đều theo sư phụ trầm mình xuống dòng suối lạnh và đọc các bài chú. Anh cũng chăm chỉ tọa thiền trên một phiến đá bằng phẳng, không xa chỗ tọa thiền của sư phụ bao nhiêu. Thời tiết ở rặng Tuyết Sơn không còn ảnh hưởng đến anh nữa. Anh có thể cởi trần ngủ qua đêm trong túp lều đơn sơ lợp bằng lá cây mà không hề thấy lạnh. Vị đạo sư có vẻ hài lòng.

Cuộc sống của vị đạo sư vẫn như xưa. Thỉnh thoảng, sau buổi thiền định, ông trao đổi vài câu với học trò, phần lớn là để trả lời thắc mắc hơn là chỉ dẫn điều mới lạ. Ông kiệm lời, chủ yếu là im lặng. Ông cứ để anh trình bày những điều còn nghi hoặc, song ông không giải đáp, khiến anh đâm ra bối rối. Khi bối rối, người ta thường cố gắng tìm hiểu thêm. Anh cũng vậy. Thế nhưng, vị đạo sư già vẫn ngồi yên, kiên nhẫn nghe học trò tiếp tục trình bày ý kiến. Chỉ đến khi anh không còn gì để nói nữa, ông mới nhẹ nhàng lên tiếng. Cũng có nhiều lúc, ngay khi vừa đặt câu hỏi, Satyakam thấy câu trả lời đã hiển hiện từ lúc nào rồi. Dường như nó đến cùng lúc với câu hỏi, và lúc đó, anh chỉ biết ngạc nhiên nhìn sư phụ, không biết nói gì nữa.

Đối với Satyakam, các công phu tu hành như việc ngâm mình trong dòng nước lạnh để thực hành nghi thức buổi sáng không phải là điều khó. Ngay cả việc ngồi thiền từ sáng đến trưa hoặc từ lúc chạng vạng cho đến nửa đêm cũng đã trở thành việc bình thường. Tuy nhiên, việc xả bỏ ý niệm về thời gian là một vấn đề hết sức nan giải. Các ý niệm, kỷ niệm, thói quen trong quá khứ ngày càng nổi lên ám ảnh tâm trí anh. Lúc nào trong tâm cũng có một cuộc đối thoại không ngừng giữa anh và chính anh. Lúc đầu, các cảm giác này còn mạnh và anh phải dùng hơi thở để trấn áp chúng, nhưng về sau, anh thấy rõ các cảm giác vi tế dâng lên cuồn cuộn, liên hồi trong tâm với muôn ngàn thắc mắc mà anh không kiểm soát nổi. Tuy biết là mình phải quán sát nó như một nhân chứng, nhưng anh vẫn thấy rõ mình có những yếu tố chủ quan và hay đồng hóa mình với những ý tưởng đó.

Sau một thời gian tu tập không thành, anh giãi bày với sư phụ và được ông chỉ dẫn rành rọt về việc theo dõi tư tưởng. Bất kỳ thắc mắc nào của anh cũng được trả lời một cách giản dị và thấu đáo. Chỉ khi đó, anh mới ý thức rằng mình không thể đi xa trên con đường này nếu không có một vị chân sư hướng dẫn. Khi anh biết khiêm tốn trước sự cao minh của sư phụ, thì công phu của anh bắt đầu tiến bộ hơn xưa.

Dần dần, anh thấy rõ các câu trả lời vốn có sẵn trong tâm mình, và vị đạo sư chỉ là người hướng dẫn, khơi gợi các yếu tố vi tế ẩn bên trong đó mà thôi. Satyakam thấy tự tin hơn trước. Đó không phải là lòng tự hào của bản ngã, mà là một niềm tin sắt đá, không lay chuyển rằng con người chỉ có thể tìm được câu trả lời khi họ biết hướng vào bên trong.

Thỉnh thoảng, hai thầy trò cũng xuống núi khất thực ở các làng mạc lân cận. Sonar là ngôi làng gần nhất, nằm chơ vơ trên đỉnh một ngọn đồi trọc. Muốn đến làng phải đi qua một chiếc cầu bện bằng đây thừng vắt ngang sông Saraswati. Qua khỏi cầu là hai cột đá với nhiều tảng lớn nhỏ xếp chồng lên nhau, nơi đánh dấu địa phận ngôi làng. Từ đây phải đi dọc theo một con đường đất quanh co nữa mới vào đến trong làng. Phần lớn nhà cửa tại đây đều cất bằng gỗ và đá, mái nhà lợp bằng nhánh cây khô.

Khi thấy hai thầy trò đi khất thực, dân làng đều chắp tay chào cung kính. Vài người vội lấy thực phẩm khô bỏ vào chiếc túi đẫy mà Satyakam mang bên mình. Mỗi lần được cúng dường như thế, chàng trai lại gật đầu đón nhận và nói khẽ: “Xin Thượng đế phù hộ cho con người hảo tâm này”. Thỉnh thoảng, cũng có vài người, vì chưa thông hiểu, thay vì cúng đường thực phẩm khô, lại đưa cho anh thức ăn đã nấu chín. Và Satyakam chắp tay lễ phép từ chối: “Xin cảm ơn lòng hảo tâm, nhưng chúng tôi chỉ ăn thực phẩm được nấu theo các cách nhất định mà thôi”. Đôi khi, cũng có người đưa anh ít vải để may quần áo hoặc một cái chăn cũ, và anh vui vẻ đón nhận. Khi bao đựng đã đầy, Satyakam trở về lối cũ. Nếu lúc đó có ai cúng đường, anh chắp tay cung kính nói: “Xin hẹn lần sau. Hôm nay chúng tôi đã có đủ dùng rồi”.

Dân làng Sonar hầu như ai cũng biết hai thầy trò nên trẻ con thường vây quanh và bắt chước các cử chỉ của họ. Có lúc, vị đạo sư bảo Satyakam đi đến một làng khác xa hơn. Có những ngôi làng vui vẻ tiếp đón vị đạo sĩ trẻ, nhưng cũng có nơi quát tháo, mắng chửi, đuổi đi. Dù hoàn cảnh nào, Satyakam cũng luôn giữ thái độ khiêm cung, không phân biệt. Thỉnh thoảng, đôi ba cô thôn nữ bạo dạn còn bước đến gần, tò mò nhìn ngắm vị đạo sĩ trẻ tuổi có thân thể cường tráng. Các cô cười khúc khích trêu chọc: “Anh kia, anh tên gì vậy?” hoặc “Này, anh kia đi đâu mà sao vội vàng vậy?”. Nghe những lời đó, Satyakam chỉ cúi đầu giữ cho bước đi được ung dung, có khi đọc thầm một vài câu thần chú để nhiếp tâm. Anh nhớ lời thầy dạy: “Không nên phản ứng trước nghịch cảnh. Đừng vui, cũng đừng buồn. Hãy giữ cho tâm không động. Một phản ứng, dù chỉ là phản ứng tự nhiên trước một nụ cười đẹp, cũng đủ để tạo ra vọng động rồi”. Phải chăng Satyakam ngã lòng trước những lời mời gọi đó? Phải chăng tâm anh còn xao xuyến? Satyakam biết mình hơn ai hết. Anh thản nhiên theo dõi phản ứng của tâm thức, không đè nén nó xuống và cũng không khơi động nó lên. Anh chỉ chú tâm quán sát tư tưởng, dù là những tư tưởng thật vi tế, xem chúng đã trỗi lên như thế nào, phát xuất từ đâu và từ từ chìm xuống ra sao. Anh biết một khi đã quán sát nó bằng cái tâm tĩnh lặng thì bất kỳ một tư tưởng nào cũng lặn lắng ngay, và rồi anh sẽ không quan tâm đến nó nữa. Anh biết rõ điều anh cần thực hành là cắt đứt ngay mọi suy tưởng về thời gian: không có quá khứ vì quá khứ đã qua; không có tương lai vì tương lai chưa đến; chỉ có hiện tại, và hiện tại là quan trọng hơn cả. Anh coi mỗi lần đi khất thực là dịp thực hành việc quán sát tư tưởng mình, và đó là một bài học giá trị, linh hoạt hơn những khi anh sống êm đềm bên cạnh thầy.

Thấm thoắt đã mấy mùa Đông qua. Nhưng Satyakam không còn để ý gì đến thời gian, chỉ chú tâm theo dõi tư tưởng như lời sư phụ dạy.

Vào một đêm trăng tròn, ánh trăng phản chiếu trên lớp tuyết bao phủ quanh đỉnh Tuyết Sơn phát ra những tia sáng chói lọi. Satyakam đang ngồi ngắm trăng trước lều thì đạo sư đi đến. Ông nhìn học trò một lúc rồi thong thả lên tiếng:

- Này Satyakam, tuy con đã tiến bộ nhiều so với trước, nhưng con chớ quên rằng con vẫn còn nhiều nấc thang cao hơn phải vượt qua. Sự tiến bộ trên đường đạo đòi hỏi sự cảnh giác không ngừng, do đó con đừng quên mục đích chính của đường đạo nhiệm màu này. Con phải coi con đường này như một nguồn cảm hứng thiêng liêng, sống động, nhờ thế con mới có thể vượt qua bao cám dỗ của các tư tưởng ích kỷ vẫn còn tiềm ẩn trong tâm. Mặc dù hiện nay, niềm an lạc tuyệt vời của sự hợp nhất với Thượng đế chưa đến với con, nhưng con nên nhớ con vẫn là Một với đấng cao cả. Con đã phát nguyện sẽ là người đem ánh sáng của ngài gieo rắc cho thế gian, do đó trước hết con phải là một tấm gương sáng để phản chiếu ánh sáng của ngài đi khắp nơi, tựa như đỉnh Tuyết Sơn đang phản chiếu ánh trăng xuống thung lũng Saraswati này vậy.

Đạo sư trầm ngâm một lúc rồi nhẹ nhàng nói tiếp:

- Tuy nhiên, trước khi con có thể phản chiếu vầng ánh sáng tuyệt diệu của ngài, con phải lau sạch những hạt bụi bám vào tâm con trước đã. Chỉ khi tâm con là một tấm gương hoàn hảo, trong sạch, ánh sáng chân lý mới có thể chiếu soi toàn vẹn được. Chỉ khi con tự biết mình, con mới có thể biết được người khác. Và chỉ khi con hiểu biết thực sự về người khác, con mới có thể giúp đỡ họ. Đó là lý do ta muốn con theo dõi tư tưởng để học cách tự biết mình.

Đạo sư ngừng lại như để Satyakam có thời gian suy nghĩ trước khi nói tiếp:

- Ta biết công phu theo dõi tư tưởng của con đã tiến bộ nhiều, vì vậy bắt đầu từ nay con nên tập lắng nghe. Không chỉ là lắng nghe các âm thanh mà con thường nghe, mà còn là những âm thanh hiện con vẫn chưa nghe thấy được.

Satyakam ngạc nhiên hỏi:

- Sư phụ muốn nói đến những âm thanh nào?

- Đó là âm thanh của sự sống. Trước hết, con hãy lắng nghe những âm thanh phát xuất từ trong lòng con. Có thể lúc đầu, con sẽ không nghe thấy gì,nhưng con đừng thất vọng, cứ chăm chú lắng nghe, rồi con sẽ nghe thấy một âm thanh êm đềm, tự nhiên trỗi lên, và con sẽ nhận ra trong đó những âm thanh của đức tin, của hy vọng và tình thương. Những âm thanh này vẫn thường trỗi lên từ nơi sâu thẳm nhất trong lòng mọi người, nhưng phần lớn mọi người không biết nghe, không muốn nghe, hoặc không dám nghe. Họ sợ hãi đến nỗi không dám đối diện với bản tâm mình. Họ bưng tai để khỏi phải nghe âm thanh thành thật của tâm hồn. Họ bịt mắt trước ánh sáng đầy minh triết của Thượng đế. Họ làm thế vì nghe theo tiếng gọi của dục vọng hay đuổi theo ảo ảnh của vô minh luôn là điều dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bên trong mọi sự sống đều có những âm điệu tiềm tàng mạnh mẽ chờ đợi cơ hội để trỗi lên, do đó con cần lắng nghe những âm thanh này, và khi đó con sẽ dễ dàng nghe thấy nó ở chung quanh con và ở trong mọi người khác. Từ đó, con sẽ nhận ra rằng những âm điệu này đều giống nhau, bởi lẽ tất cả đều phát sinh từ bản nhạc tuyệt vời của Thượng đế. Con cần ghi nhớ những âm điệu này để hiểu trật tự và cách vận hành sự sống đang xảy ra quanh con.

- Phải chăng khi đó con cần hướng ra bên ngoài?

- Đúng thế. Khi đã hiểu thấu đáo các giai điệu nơi mình thì con có thể hướng tâm ra ngoài để thưởng thức khúc ca của Thượng đế vẫn âm vang trong vũ trụ.

Satyakam thắc mắc:

- Nghĩa là Thượng đế vẫn thường tấu nhạc hay sao? Đạo sư mỉm cười gật đầu:

- Đúng thế. Khúc ca của Thượng đế luôn luôn vang rền trong vũ trụ. Nó văng vẳng bên tai thế nhân, nhưng đã mấy ai biết nghe âm thanh huyền diệu đó. Sự sống là một bản nhạc tuyệt vời. Nếu con biết lắng nghe, con sẽ nhận ra rằng con vốn là một nốt nhạc trong bản hòa tấu vĩ đại đó, và nhờ thế con hiểu được những định luật bất dịch của vũ trụ.

Đạo sư ngẩng nhìn lên vầng trăng vằng vặc trên nền trời, chậm rãi nói:

- Này Satyakam, khúc ca của Thượng đế là tiếng sóng gầm dưới biển, tiếng gió reo trên cây, tiếng suối róc rách trong khe núi, tiếng ầm ầm của thác đổ. Nếu biết lắng lòng để nghe, con sẽ thấy tất cả những thanh âm đó chỉ là dư âm của một tấu khúc huyền diệu hơn thế nữa và chỉ một vài đoạn nhỏ của tấu khúc này lọt vào tai người thế tục thôi. Nếu biết lắng lòng nghe không sót một âm thanh nào và cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của nó, con sẽ nghe thấy cả những huyền âm sâu thẳm của vũ trụ. Khi con hiểu được ý nghĩa của những huyền âm này, con sẽ không cần thầy ở bên nữa. Nếu con người có tiếng nói, thì Thượng đế cũng có những huyền âm. Hiểu được huyền âm này là hiểu được Thượng đế.

Đạo sư ngừng nói, quay sang nhìn học trò. Ánh mắt hiền từ của ông làm Satyakam cảm thấy ấm áp. Đã lâu lắm hai thầy trò mới có dịp nói chuyện như vậy. Satyakam hoan hỉ chắp tay để tỏ lòng biết ơn. Đạo sư gật đầu hài lòng rồi thong thả đứng dậy tiến về phía động đá. Đi được vài bước, ông quay đầu lại nói:

- Hãy tập lắng nghe, và đó là bài thứ hai mà con cần phải học.

Satyakam quỳ rạp xuống đất. Anh cung kính giữ nguyên tư thế đó một lúc lâu cho đến khi sư phụ đi khuất hẳn. Bất chợt, anh cảm thấy hình như có một âm thanh kỳ lạ vừa trỗi lên đâu đó. Satyakam cố tịnh tâm lắng nghe. Âm thanh từ từ rõ dần và anh ý thức đó chính là tiếng nói vô thanh phát xuất từ nội tâm mình. Toàn thân anh chợt dâng lên một cảm giác ngây ngất kỳ lạ. Phải chăng anh đã từng nghe qua âm thanh này rồi? Âm thanh quen thuộc làm sao! Satyakam suýt bật lên một tiếng kêu nhưng anh cố giữ không cho mình xúc động. Phải rồi! Đó chính là thánh ngữ “Om”[1] mà bất cứ người Ấn nào cũng biết. Nhưng lần này âm thanh đó kéo dài dường như vô tận. Anh nín thở theo dõi diệu âm đó và bất chợt trước mắt anh bỗng hiện ra một linh ảnh: một hoa sen lớn hiện ra màu sắc chói chang lạ lùng, hoa khe khẽ mở, từng cánh từng cánh vươn ra. Anh nghe rõ một tiếng nói ở đâu vang lên: “Con hãy xem bông hoa đang nở trong yên lặng kia. Một vài cánh hoa đã nở nhưng nhiều cánh vẫn còn búp vì hoa sẽ không bao giờ nở được trọn vẹn trước khi bản ngã tiêu tán hết. Hoa không thể tỏa hương khắp thế gian trước khi tất cả các cánh nở trọn vẹn, và hoa chỉ nở trọn vẹn khi phàm ngã biết quy phục chân ngã”. Satyakam chợt hiểu rằng mình đã tìm ra mối đạo và đóa hoa tâm linh của anh đã bắt đầu nở. Anh quỳ xuống đất, nước mắt giàn giụa, thốt lên: “Cảm ơn sư phụ! Cảm ơn sư phụ!”.


____________________________________

[1] “Om” (trong câu thần chú Om Mani Padme Hum) là âm thanh vi diệu của ba chữ đầu của thân (thân thể), khẩu (miệng) và ý (trí óc)


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 16

#4 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 07/08/2020 - 07:14

Đã mấy thu trôi nhưng Satyakam tuyệt nhiên không còn để ý đến thời gian nữa. Anh biết mỗi khi lá vàng rơi là sắp đến mùa tuyết phủ, nhưng anh không còn bận tâm đến việc đi nhặt lá rừng để lợp lại mái lều cũ kỹ. Khả năng chuyển nhiệt trong mình của anh đã tiến bộ vượt bậc, có thể chịu đựng được những luồng gió lạnh kinh hồn từ trên đỉnh Tuyết Sơn thổi xuống.

Vào mùa đông, khi dòng suối bắt đầu đóng băng cũng là lúc vị đạo sư già bế quan, không rời động đá. Satyakam chưa được như sư phụ nên vẫn phải xuống làng khất thực. Dân làng tử tế cúng đường cho anh khá đầy đủ để anh có thể sống qua những ngày lạnh giá. Với số thức ăn này, Satyakam có thể ngồi thiền nhiều ngày liên tiếp, và trong sự tĩnh lặng đó, khả năng lắng nghe của anh đã cao hơn rất nhiều. Anh có thể nghe thấy tiếng bước chân của những con nai tận dưới đáy thung lũng hay tiếng búa của các tiều phu ở dãy núi phía bên kia. Dần dần, anh còn nghe được những tiếng động thật nhỏ như tiếng chim vỗ cánh hay tiếng côn trùng sột soạt tận sâu trong lớp vỏ cây. Tuy vậy, anh vẫn chưa nghe được những diệu âm của sự sống như sư phụ đã nói.

Sau một thời gian, anh tập trung tư tưởng vào thánh ngữ “Om” và dần dần đã có thể nghe được một vài tiếng gọi thầm kín của nội tâm. Satyakam hiểu rằng nghe những tiếng động bên ngoài thì dễ, nhưng quay vào bên trong để nghe tiếng gọi của nội tâm thật khó khăn biết bao! Không những thế, khi quay vào bên trong để lắng nghe, con người sẽ phải đối diện với những sự thật mà trong cuộc sống hàng ngày, ít ai dám nghĩ đến. Nhờ thế, anh hiểu vì sao nhiều người chỉ thích hướng ra bên ngoài, chứ không dám quay vào bên trong để đối diện với chính mình. Càng im lặng lắng nghe, khả năng tập trung tư tưởng của Satyakam càng tiến bộ, và sự tập trung càng cao thì khả năng theo dõi tư tưởng của anh cũng theo đó mà phát triển thêm lên. Dần dần, Satyakam nhận rõ sự phối hợp màu nhiệm của khả năng lắng nghe và các biến chuyển trong tư tưởng.

Một ngày Xuân đẹp trời, trong lúc Satyakam tập trung tư tưởng để suy ngẫm, anh nghe có tiếng bước chân đến gần và nhận ra thầy vừa xuất động sau thời gian tịnh tu. Vị đạo sĩ nhìn học trò với vẻ hài lòng:

- Này Satyakam, công phu lắng nghe của con đã khá rồi đó, vậy con đã lĩnh hội được các năng lượng của tư tưởng chuyển biến như thế nào chưa?

- Thưa sư phụ, con ý thức được sự biến chuyển của tư tưởng nhưng con chưa rõ các năng lượng tiềm ẩn bên trong hoạt động ra sao.

Ông gật đầu cười, giải thích:

- Đó là lý do mà ta muốn nói chuyện với con hôm nay. Này Satyakam, mỗi khi tư tưởng phát sinh, nó sẽ tạo ra các làn sóng rung động rất vi tế. Nếu một người có sự rung động đồng nhịp với sự rung động đó, họ sẽ đáp ứng nhanh chóng. Do đó, khi hai người nói chuyện với nhau, bên ngoài, họ nói bằng ngôn ngữ nhưng thật ra sự cảm thông chỉ có thể xảy ra qua những rung động đồng nhịp của các làn sóng tư tưởng trong tâm trí hai người. Đối với một người bình thường, tư tưởng được phô diễn qua lời nói và hành động, nhưng ngôn ngữ vốn nghèo nàn và có giới hạn, không thể diễn đạt được sự phong phú của tư tưởng. Khi một người đạt đến trình độ cao, họ không cần sử dụng ngôn ngữ nữa mà sử dụng tâm thức để thu nhận hay chuyển giao tư tưởng qua những làn sóng rung động kia. Thay vì nói chuyện bằng lời, họ nói chuyện bằng tư tưởng.

- Sư phụ muốn nói đến hiện tượng thần giao cách cảm?

- Con muốn gọi nó là “thần giao cách cảm” hay “tha tâm thông” đều được cả, vì nó chính là một kỹ thuật truyền âm. Tuy nhiên, trước khi tập luyện công phu chuyển tư tưởng cho người khác, con cần học cách thu nhận các làn sóng tư tưởng này trước đã. Nói cách khác, con phải tập nghe trước khi tập nói. Thế nên, ta muốn con tập lắng nghe vì căn bản chính của công phu này là sự thanh lọc tâm hồn để trở nên nhạy cảm với các rung động tinh tế và thanh cao kia.

Rồi ông chỉ về hướng những đô thành xa hoa tráng lệ ở phía xa:

- Này Satyakam, trong những thành phố đông đúc ồn ào, thần kinh con người luôn bị căng ra bởi những rung động náo nhiệt, phức tạp. Chúng khiến tâm hồn họ luôn ở thế bị động, lúc nào cũng lo phản ứng, dần dần họ mất đi sự nhạy cảm cần thiết. Đó cũng là lý do xã hội càng phức tạp, con người càng thiếu đi sự cảm thông với nhau. Càng ngày tâm trí con người càng mệt mỏi, xáo trộn, dễ bị kích thích bởi những cớ lặt vặt không đâu. Cũng vì thế, họ khó mà tránh được những bực dọc, giận tức hay nóng nảy. Sự nóng giận này tuy có vẻ chỉ phớt qua bề ngoài, nhưng kỳ thực nó rất tai hại vì hậu quả của nó tồn tại lâu hơn ta tưởng. Khi theo dõi tư tưởng, con thấy chúng đến và đi nhẹ nhàng như thủy triều, nhưng một tư tưởng nóng giận thì không như thế. Nó thu hút rất nhiều năng lượng, làm con người mất tự chủ, sinh mệt mỏi. Nó để lại ấn tượng rất sâu trong tâm thức con người. Con hãy quan sát một cơn bão ngoài biển. Trước hết, gió lớn nổi lên làm dậy từng đợt sóng lớn và luồng sóng biển này sẽ tồn tại rất lâu sau khi cơn gió đã dứt hẳn. Này Satyakam, nước mà còn ảnh hưởng như thế huống chi tâm hồn con người vốn tế nhị hơn chất nước rất nhiều. Một khi tư tưởng nóng giận khởi phát, nó sẽ tạo nên những hậu quả lâu dài làm xáo trộn tâm hồn người đó, và khi tâm hồn đã bị xáo trộn thì làm sao họ có thể cảm thông hay hiểu biết gì thêm được! Muốn tập cho tâm hồn mẫn cảm để có thể đón nhận những tư tưởng thanh cao, conngười phải biết làm chủ cơn nóng giận, và đó chính là bước đầu.

- Như vậy, ta phải đối phó với những tư tưởng nóng giận như thế nào? Phải chăng không nên thụ động quán sát mà cần tạo ra một tư tưởng tương phản khác?

Vị đạo sư lắc đầu:

- Một số người trí thức thường làm như thế. Họ tập trung tư tưởng để kiềm chế cơn giận, nhưng họ không biết rằng tạo ra một sức mạnh để chống lại một sức mạnh khác sẽ gây những phản ứng dữ dội, làm xáo trộn tâm trí. Dĩ nhiên, tùy theo sự tập trung của tư tưởng mà họ có thể thành công hay thất bại, nhưng sự bạo động trong tâm thức luôn gây ra những hậu quả tai hại, ăn sâu vào tiềm thức. Thay vì chỉ có một vết thương trên da thịt, nó lại ngấm vào xương tủy, để lại hậu quả khôn lường!

- Như vậy phải làm sao, thưa sư phụ?

- Chỉ có tình thương là năng lượng duy nhất đập tắt được tư tưởng nóng giận mà không gây nên phản ứng trên xác thể hay tâm hồn. Đây là năng lượng màu nhiệm và có quyền năng mạnh mẽ. Một người giàu tình thương và lòng bác ái sẽ không khi nào nổi giận hay để cơn giận dữ ảnh hưởng đến mình. Này Satyakam, có người mẹ nào lại giận các con mình? Dù có hư đốn đến đâu thì khi trở về với mẹ, chúng vẫn được bà đối xử bằng tình thương yêu, vì chỉ có tình thương mới có thể cảm hóa được chúng mà thôi.

- Như vậy, thưa sư phụ, năng lượng tình thương hoạt động như thế nào?

- Tình thương là một năng lượng từ trong phát ra. Tình thương là ban trải chứ không phải là thu nạp. Thói thường, con người dồn năng lượng vào trong vì đối tượng của họ là bản ngã, do đó các năng lượng này dễ va đụng nhau, tạo thành các làn sóng rung động theo một nhịp độ trong tâm thức. Nhịp độ này gia tăng tạo thành lòng ích kỷ, do đó càng nghĩ đến mình bao nhiêu, con người càng trở nên ích kỷ bấy nhiêu. Khi biết ban trải năng lượng ra ngoài, tâm hồn con người sẽ mở rộng ra, thay vì thu hẹp lại. Và khi đó, nó có thể đón nhận thêm những nguồn năng lượng cao cả khác từ ơn trên chuyển xuống. Đây là một nguồn năng lượng bất tận, không bao giờ cạn.

- Nhưng năng lượng của tư tưởng biến chuyển ra sao ạ?

- Vì tư tưởng là những làn sóng rung động, cho nên khi một bộ óc không có những rung động đồng nhịp, nó sẽ không thể bắt được những tư tưởng kia. Dĩ nhiên, tư tưởng này sẽ tiếp tục rung động một thời gian trước khi tan rã. Nếu các tư tưởng được lặp đi lặp lại nhiều lần, nó sẽ gia tăng cường độ và có thể ảnh hưởng đến tâm hồn. Một người không biết kiểm soát tư tưởng sẽ bị ảnh hưởng bởi sự rung động từ bên ngoài tác động vào. Dần dần, não bộ của họ sẽ có những rung động đồng nhịp như thế mà họ không hề biết. Việc này chứng tỏ môi trường xung quanh có thể ảnh hưởng đến tư tưởng hay cách suy nghĩ của cá nhân rất nhiều. Con người thường chịu ảnh hưởng từ hoàn cảnh xung quanh, nên khi họ ở gần một người chán nản, thoái chí hay nóng giận, thì chỉ ít lâu sau, họ cũng có những tính đó vì tư tưởng người kia đã tạo ra những rung động ảnh hưởng đến họ. Tương tự, khi một nhóm người cùng suy nghĩ về một điều thì sức mạnh tư tưởng này sẽ được nhân lên gấp bội, bởi sự rung động của tư tưởng đó đã được khuếch đại lên nhiều lần. Điều đó giải thích tại sao trong đám đông, nhiều người thường dễ mất tự chủ và hành động theo tư tưởng của đám đông ấy.

Con nên biết rằng tư tưởng của thế giới chỉ là tổng số tư tưởng của các quốc gia và tư tưởng của các quốc gia vốn là tổng số tư tưởng của các cá nhân sống trong đó. Nếu mọi người để cho các tư tưởng tiêu cực, thù ghét, sợ hãi, nghi ngờ, ganh tị, tham lam, ích kỷ chi phối thì thế giới này sẽ biến thành một nơi đầy thù hận, tham lam và bạo lực. Ngược lại, nếu con người có tư tưởng tích cực, thế giới sẽ đổi khác ngay, đó sẽ là một nơi tràn ngập tình thương yêu, bác ái, vị tha. Do đó, trách nhiệm về tư tưởng của mình là một điều hết sức quan trọng mà con phải nhận thức rõ.

Vị đạo sư nghiêm trang nhìn học trò rồi nhấn mạnh:

- Đó là bài học mà nhân loại cần thấu triệt. Dĩ nhiên, đây là một tiến trình rất dài, nhưng hành trình vạn dặm nào cũng khởi đầu bằng một bước chân nhỏ, và bất cứ sự thay đổi chung nào cũng bắt đầu bằng những cá nhân đã ý thức và biết làm chủ tư tưởng của mình. Này Satyakam, ngoài việc theo dõi các tư tưởng, kể từ nay, con còn cần chú ý đến năng lượng của tư tưởng. Con cần quan sát xem nó hoạt động như thế nào. Nếu các tư tưởng u ám trỗi lên,con cần thay thế nó bằng các tư tưởng thanh khiết; nhờ vậy, con có thể rung động hay đón nhận các làn sóng tư tưởng thanh cao. Đó là bài học thứ ba của con.

Đạo sĩ nhìn lên bầu trời trong vắt không một gợn mây. Vầng thái dương đã lên cao tỏa ánh sáng xuống rặng Tuyết Sơn, soi rõ đỉnh núi đầy tuyết trắng.

Satyakam quỳ xuống ôm lấy chân sư phụ tỏ lòng tôn kính. Anh biết giai đoạn thứ ba của tiến trình tu học vừa bắt đầu.


***



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 20

#5 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 07/08/2020 - 13:00

Nhiều năm nữa tiếp tục trôi qua, đời sống của hai thầy trò vẫn êm đềm như thế. Hàng ngày, họ vẫn thực hành các nghi thức quen thuộc. Với Satyakam, ngoài việc theo dõi tư tưởng, anh còn học thêm được các năng lượng biến chuyển của tư tưởng mà trước đó anh không bao giờ ngờ đến. Khi hai thầy trò cùng đi hái trái cây hay dạo quanh núi, Satyakam thường cố tịnh tâm để có thể giao cảm được với tư tưởng của sư phụ. Anh thấy khi tâm thật an, không bị một tư tưởng nào chi phối, anh sẽ cảm nhận được các rung động vi tế đặc biệt, và từ đó có thể đoán được ý muốn của thầy. Dần dần, anh ý thức được sự rung động tâm thức của sư phụ và cố gắng chuyển tâm mình để cùng rung động theo nhịp của ông. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, trong lúc điều tâm, anh vẫn bị những vọng tưởng kỳ lạ dấy lên đột ngột khiến tâm dao động mạnh. May thay, vị chân sư biết rõ điều ấy nên chỉ với một vài lời khuyên hay câu nói khích lệ, ông đã có thể giúp học trò lấy lại sự tĩnh lặng ban đầu.

Một buổi sáng đẹp trời, sau khi thực hành các nghi thức thường nhật, vị đạo sư già bảo học trò:

- Hôm nay, ta muốn đi lên phía thượng lưu sông Saraswati trên rặng Tuyết Sơn. Vì từ đây đến đó không có làng mạc nào để khất thực, nên con hãy chuẩn bị lương thực đủ ăn cho ba ngày nhé.

Satyakam vội làm như lời sư phụ dặn. Khi anh vừa thu xếp xong, sư phụ cũng chống gậy đi đến và hai thầy trò khởi hành. Họ đi dọc theo các dòng suối nhỏ với những triền đá mấp mô bám đầy rong rêu. Có lẽ vì quen thuộc với con đường này nên đạo sư thản nhiên ung dung bước đi, trong khi Satyakam mấy lần trượt chân suýt ngã. Thấy vậy, sư phụ quay lại bảo học trò:

- Con hãy cẩn thận và chú ý đi theo đúng bước chân ta.

Satyakam làm theo. Chỉ một lát sau, anh cảm thấy bước đi của mình trở nên vững chãi hơn và bắt đầu có thể đi cùng nhịp với sư phụ. Họ lặng lẽ đi cho đến khi mặt trời đứng bóng thì gặp một sườn núi khá cao. Satyakam hơi mệt vì phải chú tâm đi theo bước chân của sư phụ. Anh có ý muốn dừng lại nghỉ ngơi một chút. Thế nhưng vị đạo sư vẫn thản nhiên tiến bước. Quãng đường dốc đầy trở ngại kia tựa hồ không ảnh hưởng đến ông. Sau khi leo qua một con dốc lớn, đạo sư dừng lại bảo học trò chuẩn bị bữa trưa. Vừa đói vừa mệt nên nghe thấy thế, Satyakam vội lấy lương thực ăn ngay. Miếng bánh mì khô và mấy quả ổi rừng bỗng trở nên thơm ngon làm sao! Sau khi ăn xong, Satyakam đến dòng suối gần đó để rửa mặt. Anh thoải mái vốc làn nước dịu mát vỗ nhẹ lên mặt. Bên bờ suối có rất nhiều khóm hoa màu sắc đẹp lạ thường mà anh chưa hề thấy bao giờ. Hương hoa thoang thoảng trong không gian khiến Satyakam ngây ngất. Anh muốn ngắt lấy vài bông hoa nhưng vừa đưa tay, anh chợt dừng lại và rồi thong thả dạo qua từng khóm hoa, vừa ngắm nghía vừa khẽ hít mùi hương dìu dịu.

Trở về chỗ nghỉ chân, anh thấy sư phụ đang ngồi yên nhắm mắt nhập định. Không dám làm phiền sư phụ, Satyakam ngồi xuống cạnh đó nhìn ngắm cảnh vật xung quanh. Bầu trời xanh thẫm không một gợn mây, ánh sáng phản chiếu trên những đỉnh núi tuyết tỏa ra các tia sáng chói lọi. Đó đây, tiếng chim hót ríu rít, tiếng suối chảy róc rách. Anh ngồi xếp bằng, bắt đầu điều hòa hơi thở và chỉ một lúc sau, anh cũng nhập định một cách tự nhiên. Khi mở mắt ra, Satyakam thấy sư phụ đang yên lặng nhìn mình với một vẻ thân ái khó tả:

- Này Satyakam, phải chăng con đang nghĩ đến sự thành hình vũ trụ cũng như mục đích của nó?

Satyakam giật mình vì sư phụ đã đọc rõ tư tưởng của anh, nhưng anh chưa kịp phản ứng thì ông đã nói tiếp:

- Con phải ý thức rõ rằng vũ trụ chỉ là sự phối hợp màu nhiệm của những tương quan trùng trùng điệp điệp. Cái này tạo ra cái nọ rồi cứ thế kéo dài mãi mãi, không ngừng.

Satyakam rụt rè lên tiếng:

- Nhưng ai đã tạo nên những hiện tượng này và với mục đích gì?

- Phải chăng con muốn nói đến sự kiến tạo? Từ vô thủy đến nay, con người đã cố gắng giải thích sự kiến tạo vũ trụ qua những quan niệm trừu tượng hay các danh từ hào nhoáng như Thượng đế, Hóa công, nhưng con hỡi, ngôn ngữ không thể diễn tả, giải thích một cách tận tường, con chỉ có thể nghiệm ra nó mà thôi. Thượng đế hay chân lý tuyệt đối luôn luôn tự thể hiện một cách vô biên và trường cửu. Đó là sự sống duy nhất và là nguồn gốc của mọi sự sống. Mọi vật hiện hữu đều có nơi chân lý này và nhờ chân lý này mà mọi vật hoạt động và sinh sống. Có người đã so sánh Thượng đế như đạidương mà vũ trụ là các làn sóng và các sắc tướng là những giọt nước. Người khác coi Thượng đế như khối lửa phát ra muôn ngàn tia sáng mà mỗi tia sáng là một linh hồn. Thượng đế lớn hơn không gian, nhưng đồng thời cũng nhỏ hơn một hạt nhân nguyên tử vì Thượng đế là đời sống của nguyên tử. Không có cái gì lớn hơn Thượng đế và cũng không có cái gì nhỏ hơn ngài. Thượng đế hay chân lý tuyệt đối không có hình dạng, màu sắc hay đường nét, nhưng nhờ Thượng đế mà các sắc tướng được đẹp đẽ, rực rỡ và tinh vi.

Con hãy nhìn những dãy núi trùng trùng điệp điệp kia, các dãy núi đó nói lên sức mạnh của ngài. Con hãy quan sát đại dương với những làn sóng bao la không dứt tuyệt kia, đại dương đó đang phản ảnh sự hoạt động của ngài. Con hãy nhìn cánh rừng xanh ngắt thẳm sâu kia, nó đang phản chiếu sự trầm lặng của ngài. Ngài là dòng suối róc rách, là tiếng chim líu lo, là lá cây xào xạc, là tiếng côn trùng rỉ rả và là nguồn cảm hứng của những kẻ yêu chuộng Chân Thiện Mỹ.

Nếu nhận thức được sự thiêng liêng duy nhất ở tất cả, ta sẽ thấy sự sống biểu hiện khắp nơi qua thiên hình vạn trạng. Đừng thu hẹp nó lại trong các danh từ hữu hạn. Đừng cố gắng giải thích nó bằng những ý niệm của tư tưởng. Hãy ý thức và trải nghiệm sự sống đang tuôn chảy không ngừng kia, rồi con sẽ hiểu rằng định luật điều hành vũ trụ tuyệt vời mà con cho là ở bên ngoài vốn thực không khác những định luật hiện nay đang chi phối nội tâm con. Chỉ những người nào đã nếm được vị ngọt của chân lý mới có thể biết nó thế nào, chứ còn sử dụng ngôn ngữ thì chỉ vướng mắc vào những giới hạn vô ích mà thôi.

Sở dĩ con chưa thể nắm vững điều này vì con vẫn còn một cái ngã, vẫn còn có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, giữa con và chân lý tuyệt đối hay Thượng đế kia. Chỉ khi nào con có thể hòa nhập cái bên trong và cái bên ngoài, chỉ khi nào tiểu ngã của con biết quy phục và hòa nhập vào đại ngã, chỉ khi nào giữa con và Thượng đế không còn cách biệt mà hòa làm một, thì tất cả mọi điều mà con cho là bí mật sẽ hiển bày trước mặt con. Ta biết hiện nay đối với con, sự sáng tạo hay chân lý tuyệt đối chỉ là một quan niệm như mọi quan niệm khác, nhưng qua công phu tu tập, con sẽ trải nghiệm được nó, và rồi con sẽ thấy nó không phải là một điều gì phức tạp, ghê gớm lắm đâu, mà trái lại - giản dị vô cùng. Chính con người đã để các tư tưởng phức tạp, lộn xộn của cái tâm trí bệnh hoạn tạo ra các chướng ngại và ngăn cách sự sống đang cuồn cuộn trôi chảy kia. Khi con người dứt tuyệt được các tư tưởng này, chân lý sẽ hiển minh.

Vị đạo sư ngưng nói. Satyakam cũng im lặng, nhưng bất chợt một ý nghĩ nảy sinh trong tâm khiến anh buột miệng:

- Thưa sư phụ, phải chăng...

Dường như hiểu ý học trò, ông cắt lời:

- Không, ta không phải là người mà con nghĩ đâu. Ta không có một tự ngã nào rõ rệt cả. Từ vô thủy đến nay, ta đã thay đổi và biểu hiện qua muôn hình vạn thể. Có thể gọi đó là những kiếp sống cũng đúng; hoặc gọi là một chuỗi biểu hiện của các hình thể, danh sắc cũng không sai.

Nói xong, vị đạo sư già đứng dậy. Satyakam vội thu xếp hành lý theo sau. Họ leo qua những triền núi dốc, nhưng đạo sư vẫn ung dung bước. Bất kể đó là một con đường bằng hay đường dốc, bước chân của ông vẫn nhịp nhàng, không đổi. Trong khi đó, Satyakam vừa đi vừa suy nghĩ những điều sư phụ nói nên anh phải cố gắng lắm mới bắt kịp sư phụ.

Càng lên cao, cái lạnh của rặng Tuyết Sơn càng ngấm dần vào da thịt. Satyakam cố gắng điều hòa hơi thở, nhưng không hiểu sao lần này công phu chuyển nhiệt của anh không còn hiệu nghiệm như trước nữa. Mọi khi, chỉ sau một vài hơi thở, luồng hỏa hầu đã chạy khắp cơ thể. Thế mà lần này, dù đã cố gắng, anh vẫn cảm thấy chân tay lạnh run lên. Bất chợt, một ý tưởng nảy sinh khiến anh nghĩ đến đống lửa hồng ấm áp trong căn lều của mình dưới chân núi. Ước gì ta có một đốm lửa như thế để sưởi ấm thì tốt biết bao! Vừa nghĩ đến đó, hơi thở của anh chợt náo loạn, khắp mình lạnh toát.

Vừa lúc, vị đạo sư dừng chân, quay lại nhìn anh. Satyakam bối rối chưa kịp phản ứng thì đã thấy đôi mắt sáng ngời tình yêu thương của sư phụ. Trong một thoáng giây, anh cảm thấy toàn thân bỗng trở nên ấm áp như vừa được sưởi ấm. Vọng tưởng của anh chấm dứt. Anh cảm thấy có một niềm an lạc thầm lặng dâng lên. Bất chợt, anh nhận được tư tưởng của sư phụ: “Con thấy không, khi vọng tưởng chấm dứt thì chân lý rõ bày. Khi con ước muốn một cái gì đó, lập tức tư tưởng này sẽ dấy lên, làm xáo trộn niềm an lạc sẵn có trong con. Sự nảy sinh của một tư tưởng sẽ kéo theo vô số các tư tưởng khác và sự xáo trộn này sẽ lôi kéo con rời xa thực tại. Hãy chấm dứt các vọng tưởng kia đi. Công phu theo dõi tư tưởng của con để đâu rồi?”. Satyakam cảm thấy xấu hổ. Quả thực, trong khi đi một cách đều đặn theo những bước chân của sư phụ, anh đã không tự chủ và để cho những tư tưởng khác chi phối, khiến tâm không yên. Anh vội điều chỉnh hơi thở cho thuần thục.

Mặt trời đang lặn. Trên không chỉ còn một dải mây đỏ ửng, nằm vắt ngang trên đỉnh Tuyết Sơn phủ đầy tuyết trắng. Màu đỏ và màu trắng tương phản hiện rõ trên nền trời tạo nên một cảnh tượng vừa huy hoàng vừa trang nghiêm, sống động.

Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, Satyakam xúc động vô ngần. Anh chợt thấm thía lời dạy của sư phụ. Đúng thế, anh đã để cho tư tưởng lấn át sự sống màu nhiệm đang diễn ra xung quanh. Anh thở nhẹ, luồng hơi nóng vẫn luân chuyển khắp cơ thể. Thì ra công phu chuyển nhiệt trong mình vẫn nối liền với hơi thở, nhưng khi hơi thở bị xáo trộn do các tư tưởng không tập trung thì sự vận hành của luồng nhiệt khí cũng xáo trộn ngay. Đến lúc này, anh mới ý thức rõ hơn bao giờ hết rằng hơi thở chính là đầu mối quan trọng của công phu tu tập. Vị đạo sư vẫn thong thả bước lên triền núi dốc, từng bước, từng bước thong dong, tự tại, hòa vọng những rung động của thiên nhiên xung quanh.

Khi hai thầy trò vượt qua một khe núi, trời đã tối hẳn, vầng trăng lưỡi liềm từ từ nhô lên trên bầu trời.

Vị đạo sư chỉ tay về phía một hồ nước khá rộng, bốn bề là những sườn núi cao phủ đầy băng tuyết. Tuyết trên sườn núi tan ra đều đổ vào hồ này để từ đó chảy xuống những dòng suối nhỏ quanh rặng Tuyết Sơn trước khi đổ vào sông Saraswati dưới chân thung lũng. Đạo sư có vẻ quen thuộc với phong cảnh nơi đây. Ông thong thả đi thẳng về phía một mỏm đá lớn nhô ra bên vách núi như một mái hiên, phía dưới mỏm đá có một hốc nhỏ vừa đủ một người chui lọt.

Satyakam lặng ngắm hốc đá. Trông nó quen thuộc lắm. Anh thoáng bồi hồi, thì thầm: “Dường như ta đã đến chốn này rồi thì phải”.

Đạo sư đứng yên nhìn học trò một hồi lâu, rồi chỉ vào hốc đá:

- Đêm nay, con hãy nghỉ ở đây. Ta sẽ gặp con vào sáng mai.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 26

#6 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 07/08/2020 - 13:28

Satyakam đặt hành lý xuống cạnh hốc đá. Anh định hỏi không biết đêm nay sư phụ sẽ nghỉ ở đâu, nhưng chưa kịp lên tiếng, vị đạo sư đã chống gậy đi khuất vào bóng đêm.

Satyakam trải tấm chăn xuống đất, ngồi xuống. Thân hình anh vừa khít với hốc đá. Anh xếp bằng, điều hòa hơi thở và cảm thấy nơi đây êm đềm, quen thuộc lạ thường. Không gian tĩnh mịch, chỉ có tiếng nước róc rách êm dịu, vầng trăng mờ nhạt lấp lánh trên mặt hồ. Satyakam không cảm thấy buồn ngủ. Anh ngồi im theo dõi làn nước nhấp nhô trước mặt, mơ hồ như mình đã từng làm như thế này nhiều lần rồi, nhưng không thể nhớ rõ, tựa hồ có một tấm màn mỏng phủ lên ký ức. Satyakam ngồi một lúc như xuất thần, rồi bất chợt đứng dậy, chắp tay kính cẩn cúi rạp xuống đất một cách chân thành. Anh hành lễ ai đây? Đỉnh Tuyết Sơn hay hồ nước trước mặt? Satyakam tiếp tục nghi thức hành lễ đó một lúc rồi mới ngồi xuống. Tiếng nước vẫn róc rách chảy. Anh thiếp đi lúc nào không biết.

Satyakam tỉnh dậy khi tia sáng đầu tiên vừa ló dạng trên nền trời. Anh nhận ra rằng mình không ở trong căn lều quen thuộc mà đang nằm trong một hốc đá trên đỉnh Tuyết Sơn. Anh hồi tưởng lại chuyến hành trình hôm trước, rồi vươn vai chui ra khỏi hốc đá. Sau khi rửa mặt cho tỉnh táo, anh thong thả bước xuống hồ thực hành các nghi thức thường nhật. Vẫn chưa thấy sư phụ xuống.

Satyakam bước lên một tảng đá gần đó để thiền định. Mặt trời vừa lên trên đỉnh núi. Những tia nắng ấm áp rọi xuống thân thể khiến anh thấy dễ chịu. Anh đang chuẩn bị nhập thiền thì một cảm giác kỳ lạ nổi lên khiến anh vội quay ngoắt ra phía hồ nước.

Trên mặt hồ lung linh huyền ảo, có hai vật màu trắng đang từ từ tiến về phía anh. Khi chúng đến gần, anh nhận thấy đó là hai con thiên nga rất lớn. Chưa bao giờ Satyakam thấy con thiên nga nào to lớn và đẹp đẽ đường ấy. Chúng thản nhiên bơi thẳng đến chỗ anh, không hề sợ hãi. Cặp mắt chúng to và tinh anh khác thường. Satyakam lẩm bẩm: “Đây hẳn phải là một giống thiên nga đặc biệt”. Anh đứng yên nhìn đôi thiên nga nhởn nhơ bơi lội trước mặt. Bầu trời xanh thẫm in xuống mặt hồ. Đôi thiên nga trắng bơi qua bơi lại làm tán động làn nước xanh. Sắc xanh, sắc trắng và ánh sáng mặt trời hòa với nhau, lung linh huyền ảo khiến Satyakam say sưa xuất thần. Anh cứ ngắm như thế cho đến khi nghe tiếng chân sư phụ đến gần.

- Này Satyakam, từ xưa đến nay, dân chúng miền này vẫn thường nói về một cặp thiên nga trắng từ trên trời đáp xuống và cho rằng chúng là hiện thân của thần Shiva và Durga. Chúng chỉ xuất hiện tại những nơi chốn linh thiêng nhất và chỉ những ai hữu duyên hay đã khai mở được đạo nhãn mới có thể nhìn thấy chúng mà thôi. Con thấy không, Satyakam, con là một trong những người có duyên lành lắm đấy!

Satyakam ngắm vẻ đẹp tuyệt vời của đôi thiên nga trắng trước mặt, rồi quỳ xuống với tấm lòng sùng kính chân thành, thầm gọi khẽ:

- Shiva[2]... Shiva... Durga... Durga...

Anh ngẩng nhìn bộ lông trắng tinh khiết của đôi thiên nga kia, chợt thấy nó trắng như tuyết và phát ra những màu sắc lạ lùng như những dải mây trên trời. Anh chăm chú dõi theo đôi thiên nga cho đến khi chúng nhẹ nhàng bơi xa dần và mất hút cuối chân trời. Trong anh chợt nảy sinh một cảm giác kỳ lạ, lồng ngực anh bỗng trở nên ấm áp lạ thường. Anh định quay ra hỏi sư phụ thì trước mắt bỗng hiện ra một linh ảnh, một luồng ánh sáng chói lòa trong đó anh thấy một tu sĩ đầu cạo trọc, một tay cầm bình bát, tay kia chống gậy trúc đang bước đi trên núi. Anh giật mình không hiểu sao hình ảnh này quen thuộc và thân thiết đến thế. Bất chợt, anh nhận thức rằng vị tu sĩ đó chẳng phải ai xa lạ, mà là chính anh.

Ngỡ ngàng, Satyakam bật lên một tiếng kêu lớn, nhưng tiếng kêu vừa thoát ra khỏi cổ họng, anh nghe thấy tiếng sư phụ thoảng bên tai: “Phải rồi, chính con đấy!”. Anh bàng hoàng và ngay trong giây phút ấy anh đã nhớ lại được tiền kiếp của mình. Phải rồi, anh đã từng sống tại đây, đã từng là một tu sĩ đến chốn này để tu tập nội quán. Anh đã sống trong hốc đá kia, đã ngồi thiền trên tảng đá này. Thảo nào phong cảnh nơi này quen thuộc làm sao!

Satyakam nghe rõ tiếng nước chảy róc rách trong khe đá, hôm qua, hôm nay, giờ phút này cũng như những ngày xa xưa kia... Chỉ trong giây phút, những tiền kiếp bỗng tuần tự diễn ra trong tâm thức anh như một cuốn phim. Satyakam mỉm cười sung sướng khi cảm nhận được những điều anh từng trải qua, nhớ lại giây phút đầu tiên khi chứng ngộ được một vài điều, và cả những kỷ niệm học hỏi với vị sư phụ của anh lúc đó, cũng chính là vị sư phụ hiện nay đang đứng trước mặt anh đây. Anh kính cẩn quỳ xuống trước đạo sư, nước mắt giàn giụa:

- Cảm ơn sư phụ! Cảm ơn sư phụ!

Vị đạo sư già yên lặng, chú mục nhìn học trò bằng ánh mắt rạng rỡ như chia sẻ với anh những điều anh đang cảm nhận được. Sau cùng, ông lên tiếng:

- Tốt lắm! Hôm nay chúng ta sẽ nghỉ lại đây. Sáng mai sẽ lên đường trở về. Khi nào đói, con cứ tự nhiên ăn uống, không cần phải đợi ta. Ta sẽ gặp lại con vào lúc khởi hành.

Nói xong, vị đạo sĩ khoan thai bước đi, khuất dạng sau những tảng đá lớn. Satyakam cảm động nhưng cố gắng tự chủ. Anh lặng nhìn theo sư phụ, trong lòng dấy lên một cảm giác thân thương, muốn quỳ xuống ôm lấy chân sư phụ để tỏ lòng biết ơn. Vừa nghĩ đến đó, thân thể anh chợt nhẹ bẵng như được nâng lên bởi một sức mạnh vô hình. Satyakam hơi luống cuống. Anh nhìn xuống chân, nhưng không hiểu sao, cổ anh cứng ngắc không cựa quậy được, tay chân cũng đơ ra như một khúc gỗ. Anh thấy mình từ từ lướt đi trên những tảng đá ven hồ. Chuyện gì thế này? Trong tích tắc, Satyakam ý thức được rằng mình đang bay đuổi theo sư phụ. Chỉ một hơi thở nhẹ, anh thấy rõ sư phụ đang chống gậy đi phía trước. Có thể như thế sao? Anh đang mơ hay tỉnh đây? Thân hình anh vẫn vun vút lướt đi trên không, gần bắt kịp sư phụ, bất chợt, ông quay người lại. Satyakam thấy rõ trên môi sư phụ mình đang nở một nụ cười hài lòng. Anh vội tập trung tư tưởng và thấy mình từ từ đứng lại, nhưng chân vẫn không hề chạm đất. Phải chăng anh vừa khai triển một quyền năng mới - một thứ quyền năng khiến con người có thể di chuyển rất nhanh trên không trung? Trong lúc đầu óc vẫn còn choáng váng, anh nghe tiếng sư phụ: “Thôi, như thế đủ rồi”.

Nói xong, ông đi tiếp, bỏ mặc Satyakam đứng đó xúc động, ngẩn ngơ. Anh quay lại nhìn hồ nước mênh mông trước mặt, một ý nghĩ chợt đến, và chỉ một hơi thở, anh đã thấy mình ra đến giữa hồ, lơ lửng trên mặt nước. Bóng anh soi rõ trên làn nước. Anh vừa kinh ngạc, vừa thích thú. Có thể như thế sao? Anh nhìn về phía hốc đá ven hồ. Mỗi khi tư tưởng của anh tập trung đến nơi nào, thân thể anh đã lướt ngay đến chỗ đó. Phải chăng anh vừa chứng đắc được điều gì? Phải chăng đó là kết quả tự nhiên của công phu tu tập, không phải trong nhiều ngày, nhiều năm mà trong nhiều kiếp sống? Nhưng điều này có nghĩa gì? Phải chăng đó là mục đích của công phu tu tập? Satyakam ngồi xuống tảng đá ven hồ, thấy trong lòng dâng lên một niềm vui kỳ lạ. Phải chăng hai con thiên nga trắng tượng trưng cho thần Shiva và Durga kia là một bằng chứng hùng hồn về công phu tu tập của anh hay còn có một ý nghĩa nào khác nữa?

Anh nhìn quanh và bất ngờ thấy rặng núi trước mặt không còn là núi nữa, mà là sự hội tụ của muôn ngàn tia nắng đang nhảy múa. Và cả hồ nước kia - nó không còn là một hồ nước thông thường, mà là sự chuyển động của những tia sáng rực rỡ. Trong thoáng giây, toàn thể không gian hoàn toàn biến đổi, và tất cả trở thành những dải ánh sáng đang rung động đảo xoay trong một vũ điệu tuyệt vời. Satyakam thấy mình chìm đắm trong vũ điệu đó, rồi hoàn toàn tan biến trong biển ánh sáng màu nhiệm kia.

Satyakam không biết mình đang mê hay tỉnh, nhưng anh cảm thấy như có thứ gì chạm nhẹ vào vai. Anh mở choàng mắt. Sư phụ đang đứng trước mặt:

- Này con, đã đến lúc chúng ta lên đường trở về nhà rồi.

Thì ra anh đã ngồi đây suốt một ngày một đêm. Satyakam định lên tiếng hỏi sư phụ về hiện tượng lạ lùng kia nhưng lại thôi. Anh đứng dậy thu xếp hành lý.

- Chúng ta sẽ trở về bằng một lối khác. Lối này dốc hơn lối trước nên con cẩn thận kẻo ngã.

Satyakam đeo hành lý lên vai theo sư phụ đi về triền núi phía Đông. Quả đúng như lời sư phụ, đó là một lối đi băng rừng, đường dốc và trơn trượt. Vị đạo sư ung dung bước, còn Satyakam vừa đi vừa suy nghĩ nên thỉnh thoảng lại trượt chân, lảo đảo. Đạo sư quay lại, từ tốn:

- Này Satyakam, hãy cẩn thận và chú tâm đi theo đúng bước chân ta. Chỗ này trơn lắm!

Hai thầy trò cứ thế bước đi, không ai nói với ai câu nào cho đến khi trở về cánh rừng xưa. Đạo sư bước vào hang đá. Satyakam cũng bước vào căn lều cũ. Hồ như có một điều gì đó thay đổi trong anh, khiến anh không còn như trước. Có lẽ vì anh vừa khai mở được một công phu khác thường, và chính việc đó làm anh suy nghĩ?


***



________________________________________


[2] Trong thần thoại Ấn Độ giáo, nữ thần Durga là vợ của thần Shiva tối thượng.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 30

#7 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 08/08/2020 - 06:31

Ngày tháng trôi. Cuộc sống của vị đạo sư vẫn không thay đổi, nhưng Satyakam thì đã khác xưa. Từ khi lên đỉnh Tuyết Sơn trở về, anh thường tư lự, dành nhiều giờ ở trong căn lều nhỏ hơn là ra ngoài. Anh ăn ít hơn trước, chẳng màng đến việc ăn uống, chỉ đi khất thực khi sư phụ bảo anh đi. Tuy vẫn thực hành các nghi thức thường nhật, nhưng anh không còn sốt sắng như trước mà chỉ làm lấy lệ, như một cái máy. Hồ như anh bị một điều gì đó ám ảnh, vì gương mặt đã mất đi những nét hồn nhiên, vô tư; vầng trán bắt đầu có nếp nhăn. Hiển nhiên, vị chân sư biết rõ học trò hơn ai hết, nhưng ông vẫn giữ thái độ thản nhiên cho đến một buổi sáng, sau khi thực hành xong các nghi thức thường nhật, Satyakam bước đến trước mặt sư phụ:

- Thưa sư phụ, con có việc muốn nói...

Đạo sư chăm chú nhìn học trò rồi gật đầu:

- Được, con nói đi.

Satyakam thu hết can đảm thú nhận:

- Thưa sư phụ, dạo này lòng con không được an. Con thường bị các tư tưởng kỳ lạ chi phối, khiến con không thể định tâm được. Không hiểu sao nhiều lúc con cảm thấy chán nản, thất vọng vô cùng. Lòng nhiệt thành cầu đạo của con dường như tan biến, chỉ còn lại những ê chề, chán nản. Những tư tưởng tiêu cực này tiếp tục ảnh hưởng đến con mặc dù con đã cố gắng kiểm soát chúng. Có nhiều ngày, con thấy mệt mỏi, lười biếng, không muốn làm gì và có lúc con đã ngờ vực về con đường của mình...

Đạo sư nhìn học trò đầy vẻ thương xót, rồi chậm rãi buông từng chữ:

- Này Satyakam, sự sống luôn sống động, đầy những đổi thay, như những đợt sóng thủy triều chứ không cứng nhắc, vô hồn như một tảng đá. Là người, ai cũng có lúc vui, lúc buồn; lúc quyết tâm, hăng hái; lúc chán nản, bê trễ. Đó là lẽ thường. Nay, con đã tiến bộ nhiều so với trước, thì hiển nhiên, các thử thách cũng phải khác trước.

- Nhưng con đã từ bỏ tất cả để bước chân vào đường đạo thì lẽ ra phải...

Ông nghiêm nghị cắt ngang:

- Ai bảo con rằng có sự khác biệt giữa đời và đạo? Con chớ tưởng người đi trên đường đạo sẽ có gì khác thường. Nếu người đời có những lúc thế này hay thế nọ, thì kẻ đi trên đường đạo cũng có những tâm trạng y hệt như thế, nhưng với họ, thử thách này lớn hơn nhiều. Nếu người đời buồn chán, thất vọng thì đã có những thú vui vật chất để tiêu sầu giải muộn; còn người đi trên đường đạo thì không. Họ sẽ không có được một sự an ủi nào hết cho đến khi họ thực sự chiến thắng bản ngã của mình, và chỉ đến khi đó, họ mới nếm được vị ngọt của sự giải thoát.

Đạo sư nhìn nét mặt đầy ưu tư của học trò rồi nói tiếp:

- Này Satyakam, con chớ nuôi cái ảo vọng điên rồ rằng vì đã đi trên đường đạo mà mình vượt xa đồng loại. Khi nghĩ như thế, con sẽ có tham vọng là muốn được thưởng công xứng đáng và đó là tham vọng căn bản. Chính vì tham vọng này mà bao kẻ có tài, có trí đã xa lìa những mục đích cao cả để tìm vào chốn thị phi, tranh danh đoạt lợi để rồi đắm nhiễm trong đó. Dĩ nhiên, lòng tham là một bài học cần thiết. Thường khi đạt được điều mình mong muốn rồi, phần lớn con người sẽ ý thức được rằng đó chưa phải là điều mình muốn nhất, và họ sẽ muốn một thứ khác nữa. Cứ thế, họ để cho lòng tham lôi cuốn vào những ảo vọng điên rồ cho đến chết, vì càng lo lắng vun vén cho mình bao nhiêu, sẽ càng thất vọng ê chề bấy nhiêu. Đó là bài học quan trọng mà bất cứ ai đi trên đường đạo cũng đều phải học. Ta đã dạy con quán sát tư tưởng, vậy thì con phải biết tìm nguồn gốc của tham vọng này và diệt nó đi. Một khi để cho nó đâm chồi nảy lộc, để nó mọc rễ trong tâm hồn,thì làm sao mà diệt nó được nữa? Lòng tham có thể ví như loài cỏ dại, phát triển rất nhanh và luôn tạo ra những hạt giống mới, chồng chất, tích lũy từ kiếp này qua kiếp khác. Muốn giải thoát, việc đầu tiên là phải biết quán sát sự phát triển của lòng tham, rồi tận tâm tận lực nhổ hết gốc rễ của nó, như vậy mới mong tiến bộ được. Dĩ nhiên, điều này không dễ nhưng đó là một thử thách quan trọng mà con phải vượt qua. Khi con để các vọng tưởng chi phối, lúc thì trôi dạt vào quá khứ, khi bị đưa đẩy vào tương lai, thì hạt giống tham lam này sẽ có cơ hội phát triển chằng chịt trong tâm thức con, lôi kéo con vào những ảo ảnh không thể thoát ra được. Nếu con biết sống trong hiện tại, và chỉ sống thực sự trong hiện tại mà thôi, thì làm sao những thứ cỏ hoang kia có thể đơm bông, trổ trái được?

Satyakam ngước nhìn sư phụ. Anh cảm thấy được an ủi phần nào và hối hận đã không biết làm chủ nội tâm, nhưng vừa lúc, một tư tưởng nảy sinh khiến anh không thể kìm hãm được. Đạo sư nhìn học trò mỉm cười:

- Này Satyakam, phải chăng con đã nghĩ rằng nếu không đi tìm đạo thì con đâu phí công đến đây tu học như vậy? Con hãy quán sát lòng mình một cách thành thật đi. Có phải con muốn tìm đường giải thoát thực sự hay vẫn còn mơ tưởng đến những quả vị, những nấc thang cao chót vót mà con sẽ đạt đến? Phải chăng khi đạt đạo, con sẽ sở đắc một quyền năng cao cả mà ai cũng kính phục? Con phải cẩn thận với các tư tưởng thầm kín của mình. Hãy vì sự giải thoát mà đi tìm đạo, chứ đừng để lòng tham quyến rũ vào những địa vị,những mức độ tiến hóa, những quyền năng kỳ lạ mà con sẽ đạt được. Mỗi khi vượt qua được một thử thách, con cần dừng lại suy nghĩ thấu đáo và thành thật xem có phải vì mục đích cao cả mà con bước chân vào con đường này hay không. Con đường chân tu là phải thành thật hướng vào nội tâm, quán xét cho kỹ, vì thực tế không gì có thể giúp con ngoài công phu tu tập của chính con. Con cần theo dõi mọi tư tưởng nảy sinh trong tâm, bởi vì chỉ có cách đó, con mới tự biết mình. Sự tự biết mình sẽ giúp con như một bông hoa tự nảy nở. Ta biết suốt mấy năm nay, con đã tiến bộ trong việc quán sát tư tưởng, nhưng con cần quán chiếu kỹ hơn nữa, bởi lẽ các tư tưởng tế nhị thường tiềm ẩn trong những góc sâu thẳm nhất của tâm hồn. Đôi khi, nó khoác lên mình những tính chất mà con không bao giờ ngờ đến. Công phu theo dõi tư tưởng là thành thật phơi trải tất cả, cho đến khi con có thể hiểu trọn vẹn chính mình.

Satyakam cảm thấy yên tâm hơn trước.

- Xin cám ơn sư phụ. Quả thật gần đây, con không cố gắng được như lúc đầu mới học đạo, nhưng con hứa sẽ cố gắng để không phụ lòng dạy bảo của sư phụ.

Đạo sư mỉm cười nhìn học trò rồi nhấn mạnh:

- Nếu ai cũng giữ được cái sơ tâm đầy nhiệt huyết của lúc đầu tu học, thì chắc chắn ngàn người tu, cả ngàn người đều chứng ngộ ngay trong kiếp hiện tại, chứ đâu trôi nổi mãi trong luân hồi như vậy.

Sau buổi trò chuyện ngắn ngủi đó, Satyakam tiếp tục nỗ lực công phu tu tập. Anh chăm chỉ thực hành những điều sư phụ chỉ dẫn, nhưng chỉ vài tháng sau, khi lá rừng bắt đầu đổi màu báo hiệu mùa thu đến, thì Satyakam lại rơi vào tâm trạng khủng hoảng cũ. Càng cố gắng khép mình vào kỷ luật, anh càng thấy mình vi phạm những lỗi sơ đẳng trong đời sống hàng ngày. Có khi, anh giận mình vô tả và cương quyết thay đổi, nhưng chỉ một thời gian sau, lại thấy mình lại sống một cách vô ý thức với những dằn vặt viển vông.

Có những đêm mất ngủ, anh bước ra khỏi lều ngồi nhìn trời cho đến sáng, hay leo lên một mỏm đá cao chăm chú nhìn về phía làng Sonar dưới chân núi. Trong đêm khuya, cặp mắt của anh trở nên sáng rực. Anh lặng lẽ nhìn những ánh đèn chập chờn tỏa ra từ những căn nhà nhỏ.

Có những đêm trăng sáng, ánh trăng lung linh huyền ảo như thôi thúc, giục giã. Anh lại có một cảm giác lạ lùng, khó diễn tả.

Hình như sâu tận đáy lòng, anh vẫn còn vương vấn một điều gì đó mà anh không lý giải nổi. Đôi khi, anh nhìn lên rặng Tuyết Sơn - rặng núi huyền bí có sức hấp dẫn lạ lùng đối với anh ngày trước, thì nay chỉ còn là những khối đá im lặng, đứng sững vô hồn.

Một buổi sáng, đạo sư vừa bước ra khỏi hang đã thấy học trò đang quỳ trước cửa. Ông nhìn học trò ôn tồn:

- Này Satyakam, hình như tâm con vẫn còn một chút... Satyakam khẽ nói:

- Thưa sư phụ, quả đúng như thế. Mấy hôm nay có một tư tưởng cứ ám ảnh con mãi.

- Này Satyakam, điều gì đã ngăn con đi trọn con đường con muốn đi vậy? Tại sao kiếp trước, con đã không vượt qua được nó và đến kiếp này, dù đã khổ công tu tập mà vẫn không thể khắc phục được?

Satyakam im lặng nhìn sư phụ, không sao trả lời được. Đạo sư trầm ngâm một lúc trước khi lên tiếng:

- Đáng lẽ ra với công phu tu tập như thế thì con phải khắc phục được nó trong kiếp này chứ! Phải chăng cái nghiệp này quá nặng, không chuyển hóa nổi? Hồ như trong tâm con vẫn còn những hạt giống của sự ham muốn? Nếu vậy ta rất tiếc không thể giúp gì con được. Trong kiếp trước của con, ta đã hết lòng giúp con, và con cũng đã nỗ lực tu tập, nhưng trước khi con có thể diệt tận gốc rễ lòng ham muốn này thì phần số của con đã hết, và con phải lìa bỏ thể xác. Tuy nhiên, nhờ công phu tu tập đó mà kiếp này con đã đạt được nhiều quyền năng mà một người thường, dù cố gắng đến đâu, cũng khó có thể thành công như vậy. Khi lên đỉnh Tuyết Sơn, ta đã giúp con nhớ lại tiền kiếp để con ý thức về nấc thang cuối cùng phải vượt qua. Nhưng mà, có lẽ vì nghiệp lực sâu dày, nên con không ý thức được nó một cách tường tận như ý ta muốn. Có lẽ nó tiềm ẩn và gây xáo trộn trong tâm thức con, cản trở việc tu tập cần thiết của một người đi trên đường đạo. Hiện nay, đã đến lúc con phải chính thức đối đầu với nó. Đây là một thử thách quan trọng mà ta không thể giúp con được. Này Satyakam, đã gây nhân thì phải gặt quả; đó là quy luật của vũ trụ. Một khi con đã không từ bỏ được bản ngã thì các ham muốn kia cũng không thể chấm dứt được.

Satyakam yên lặng nghe thầy nói. Anh rất muốn vượt qua thử thách mà không phải tốn công nhọc sức, nhưng anh biết điều đó là không thể. Đạo sư nhìn học trò đang lộ vẻ ưu tư. Ông biết rõ tâm trạng hiện nay của anh nên ôn tồn khuyên:

- Tuy thế, may mắn là hiện nay con vẫn còn trẻ. Con còn nhiều nhiệt huyết và thời gian để làm tiêu tan tham vọng thầm kín kia đi. Nếu vượt qua được thử thách này, con sẽ hoàn tất nguyện vọng của con ngày trước; bằng không, con hãy nhớ kỹ rằng lòng ham muốn, mong cầu là một động năng u uẩn, một loài cỏ dại có khả năng tăng trưởng rất nhanh, đâm chồi nảy lộc rất chóng. Một khi con để nó mọc rễ trong tâm, con sẽ còn phải khó khăn tốn công nhọc sức trong hàng trăm kiếp luân hồi nữa mới diệt xong.

Satyakam buột miệng kêu lên:

- Nhưng nếu như thế thì biết bao giờ... Đạo sư lắc đầu:

- Con cần phải dũng mãnh hơn lên. Công phu tu tập của con để đâu? Phải chăng con sợ hãi đến nỗi không dám đi nốt quãng đường còn lại? Này Satyakam, chúng ta đã đi cùng với nhau trên con đường này từ lâu lắm rồi, và con nên nhớ lúc nào ta cũng ở bên con, sẵn sàng giúp đỡ con.

Satyakam yên lặng một lúc như để lấy lại bình tĩnh. Anh hít một hơi dài để định tâm rồi ngập ngừng:

- Xin sư phụ cho con biết rõ hơn về nghiệp quả mà con phải trả này.

Đạo sư chăm chú nhìn học trò, ánh mắt đầy thương xót. Mấy lần ông định lên tiếng, nhưng lại thôi. Sau cùng ông lắc đầu nói nhỏ:

- Trước sau gì rồi con cũng biết...

Satyakam cúi đầu suy nghĩ một lúc khá lâu. Khi anh ngẩng đầu lên, sư phụ đã thực hành xong nghi thức thường nhật và đang tọa thiền trên tảng đá cạnh bờ suối. Mặt trời đã lên cao, tỏa ánh nắng xuống dòng suối trong vắt. Hơi nước bốc lên tạo ra một cầu vồng bảy sắc bao phủ lấy tảng đá. Satyakam lặng ngắm cảnh tượng đó trong chốc lát, rồi thong thả bước xuống suối, tựa như đã chấp nhận rằng điều gì phải đến sẽ đến. Anh chắp hai tay, cung kính đọc bài chú quen thuộc. Đã lâu lắm rồi anh mới tìm lại được cảm giác tĩnh lặng, yên bình như xưa. Sau buổi tọa thiền, Satyakam định đi hái trái cây như thường lệ, nhưng sư phụ đã ngăn lại:

- Này Satyakam, đã đến lúc con lên đường để tìm điều con muốn rồi đó.

Satyakam biết đã đến lúc mình phải ra đi, nhưng anh vẫn ít nhiều xúc động vì không ngờ nó xảy ra nhanh hơn anh tưởng. Hai dòng nước mắt lăn dài trên gương mặt chữ điền. Anh muốn nói mà không sao thốt nên lời. Dường như đoán được ý nghĩ của học trò, vị đạo sư già nhìn anh một lúc rồi thong thả:

- Này Satyakam, con không thể đi tìm đạo bằng một con đường duy nhất. Mỗi người, tùy theo căn cơ, khí chất, duyên nghiệp, mà tìm lấy con đường thích hợp, nhưng không thể đạt đạo chỉ bằng sự chuyên tâm sùng kính, chuyên tâm thiền định hoặc chuyên tâm phục vụ cho một lý tưởng thanh cao nào đó. Mỗi con đường chỉ có thể giúp ta vượt qua một nấc thang mà thôi. Tất cả các nấc thang đều cần thiết để tạo thành một cái thang dài đưa ta đến chân lý. Do đó, mới có nhiều con đường, vì thật ra không có một con đường nào là hoàn hảo, tuyệt đối, mà chỉ là những giai đoạn, những bài học cần thiết mà ta cần trải qua. Tất cả những tính xấu cũng như tính tốt cũng là những nấc thang cần thiết, vì khi đã lên đến một giai đoạn, ta cần phải sử dụng tất cả, thuận duyên cũng như nghịch duyên, để vượt qua mọi trở ngại cho đến khi ta ý thức được rằng vốn chẳng có một con đường nào cả, mà chính mình là con đường, là sự thật, là sự sống động nhiệm màu. Muốn quán triệt được điều này, ta cần hiểu rõ chính mình, biết rõ mọi cá tính của mình, và nhờ đạo tâm đã tỏ ngộ mà ta sẽ nhận thức được rằng cá tính đó, thật ra, chẳng phải là của mình, mà chỉ là những dụng cụ do chính mình tạo ra để sử dụng mà thôi. Hãy tìm đạo bằng cách phân tích mọi kinh nghiệm mà con trải qua để phát triển thêm cá tính. Hãy tìm đạo qua những quy luật tự nhiên, rồi con sẽ thấy và hiểu rằng vốn có một quy luật tự nhiên, tuyệt đối điều hành tất cả.

Satyakam cúi đầu im lặng một lúc rất lâu trước khi thốt lên:

- Xin sư phụ hướng dẫn cho con, chỉ cho con biết sẽ phải đi đâu và làm gì. Cho đến giờ, con vẫn chưa thực sự biết rõ mình muốn gì.

- Sau khi ra khỏi thung lũng Saraswati, con hãy đi xuống miền Nam, và rồi con sẽ gặp thứ con muốn.

Satyakam ngước mắt nhìn sư phụ một cách lo ngại:

- Nhưng... nhưng liệu con còn gặp lại sư phụ hay không?

- Từ bao kiếp nay, ta vẫn bên con. Khi nào con cần, ta sẽ đến ngay.




Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




đến chương 2 trang 38

#8 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 08/08/2020 - 13:12

Chương 2



Cơn mưa đầu mùa vừa trút xuống Kadambini, dân làng đã ùa chạy ra đồng, hò reo sung sướng. Nhìn dòng nước tuôn chảy trên những thửa ruộng, họ mừng rỡ bảo nhau, như thế là không có hạn hán rồi, mưa to thế kia thì chỉ một lúc thôi, ruộng sẽ ngập nước, và rồi lúa sẽ mọc. Cũng như những làng mạc sống bằng nghề nông, hạn hán là mối đe dọa rất lớn, nên hàng năm trước mùa lúa, người dân thường mang phẩm vật đến dâng cúng thần linh ở các đền miếu quanh làng. Cách làng Kadambini không xa có một đền thờ thần Kali[3] nằm giữa một khu nghĩa địa lớn, cây cối um tùm, rậm rạp. Không biết tại sao mà ngôi đền này bị bỏ hoang từ lâu, nhưng có nhiều câu chuyện ma quỷ thêu dệt quanh nó khiến ít ai dám đến gần. Ngay cả những người có tiếng là can đảm nhất cũng chỉ dám đi ngang vào lúc trời còn sáng, chứ chẳng ai dám đến đó khi mặt trời đã lặn.

Đầu mùa, dân làng mang lễ vật đến các đền thờ quanh vùng để cầu xin các vị thần che chở. Khi đến đền thờ thần Kali, họ thấy một thiếu nữ đang ngồi yên lặng trong góc tối, tóc dài xõa xuống vai, nước da bánh mật, mặc y phục dòng tu Mật tông của Ấn giáo. Cô im lặng, ngồi yên trong tư thế liên hoa, hai mắt nhắm nghiền. Việc một đạo sĩ đến một ngôi đền bỏ hoang để tu hành không phải điều lạ, nhưng vì đây là một thiếu nữ, lại đến ngôi đền Kali đáng sợ nên ai nấy đều xôn xao. Lúc đầu, dân làng e cô không phải người mà là một loài yêu quái trá hình, nhưng suốt mấy hôm liền, họ vẫn thấy cô ngồi đó, yên lặng tĩnh tu, nên một người đã rón rén đặt trước mặt cô dĩa trái cây tươi để cúng đường. Vài hôm sau, khi trở lại, họ thấy dĩa trái cây vẫn còn nguyên. Dường như nữ đạo sĩ kia mải mê thiền định, quên cả ăn uống. Nhiều người tò mò kéo đến xem. Mặc cho đám đông tụ họp bàn tán, cô vẫn ngồi yên, đắm mình trong không gian thiền định. Những người đến xem trở về làng đồn rằng cô là một đạo sĩ pháp thuật cao cường, có thể trừ tà ma, nên mới dám đến tu hành tại một nơi đáng sợ như vậy. Kẻ khác lại thêu dệt rằng, cô là một đạo sĩ từng nhập thất trên đỉnh Tuyết Sơn cả trăm năm, vì đã đắc đạo, nên dung nhan trẻ mãi không già. Thôi thì đủ kiểu. Họ còn thêu dệt thành các câu chuyện ly kỳ, thần bí, truyền đi từ làng này qua làng khác. Một thời gian sau, dân làng đã thấy ruộng nương trúng mùa liên tiếp, số rau trái thu được gia tăng gấp bội. Lạ lùng hơn nữa, những dân làng từ trước vẫn đau yếu bỗng khỏe mạnh, hồi phục một cách bất ngờ. Trẻ con trong làng cũng không hay ốm vặt như những trẻ con làng khác. Dân làng cảm thấy họ đang được hưởng một ân phước lớn lao, và sau cùng, họ kết luận rằng chắc hẳn nguyên do liên quan đến sự xuất hiện của vị đạo sĩ kia. Các lời đồn đãi lại rộ lên và mọi người tin rằng cô phải là một bậc nữ thánh với những quyền năng rất cao. Từ đó, họ gọi cô là Deviji (Thần nữ).

Việc có một Deviji xuất hiện trong đền Kali đã kéo rất nhiều người mộ đạo tìm đến. Người mang hoa quả, kẻ mang tiền bạc cúng đường. Bất chấp các lễ vật chất đầy chung quanh, thiếu nữ vẫn ngồi yên, bất động. Một số dân làng thấy vậy bèn sử dụng số tiền tín đồ dâng cúng để sửa sang lại cho ngôi đền thêm đẹp đẽ. Cuối năm đó, ngôi đền đã được tu bổ rất khang trang. Các hàng cột được sơn son thếp vàng. Các pho tượng được lau chùi và sơn phết cẩn thận. Các khí cụ hành lễ được tu bổ trông như mới. Ngay cả cây cối quanh đền cũng được cắt tỉa, vun xới cẩn thận. Vì tín đồ kéo đến khá đông, một số dân làng đã tự phong cho mình các vị trí chức trách trong đền: kẻ lo nấu nướng dọn dẹp; người lo tiếp đãi khách thập phương... Chẳng còn ai bàn tán về các câu chuyện ghê gớm của khu nghĩa địa hoang vu đó nữa. Họ chỉ nói đến ngôi đền Kali đẹp đẽ với số khách hành hương mỗi ngày một đông, còn những giai thoại về kẻ ốm được lành, người mù được sáng cứ truyền tụng khắp nơi. Chẳng ai biết các lời đồn đãi này có căn cứ hay không, nhưng chúng càng ngày càng được lan truyền rộng rãi và số khách hành hương kéo đến đã lên đến hàng ngàn người. Từ cửa chính vào đền, các vị chức sắc yêu cầu mọi người xếp hàng theo thứ tự để chiêm bái Deviji. Cứ thế, hết người này đến người khác, lần lượt bước đến cung kính quỳ lạy, dâng cúng các phẩm vật trước mặt nữ đạo sĩ. Các vị chức sắc đón nhận phẩm vật dâng cúng một cách hoan hỉ. Họ cẩn thận ghi tên tuổi người dâng cúng vào các cuốn sổ để Deviji duyệt xét và ban phước lành. Tuy nhiên suốt mấy tháng qua, cô vẫn ngồi yên lặng, không để tâm đến cảnh tượng ồn ào náo nhiệt diễn ra quanh mình.

Hôm ấy, trong số người hành hương có một đạo sĩ dáng vẻ thong dong ở đâu đi đến. Anh còn trẻ, độ ba mươi, y phục rách nát. Anh kiên nhẫn đứng chờ trong đám đông, đợi đến lượt vào chiêm bái, nhưng khi anh vừa bước qua cửa, mọi người đều giật mình vì Deviji đang ngồi yên bỗng ngẩng mặt lên. Suốt mấy tháng nay, chưa ai thấy Deviji có dấu hiệu khác thường ngoài việc cứ đắm mình thiền định, nhưng lần này cô lại ngước lên, mở mắt nhìn vị đạo sĩ kia. Một nụ cười thoảng qua trên khuôn mặt nghiêm nghị của cô. Vị đạo sĩ trẻ có vẻ ngạc nhiên, nhưng anh vẫn đứng yên. Theo lệ thường, ai nấy đều phải quỳ xuống làm lễ ra mắt và dâng cúng phẩm vật, nhưng anh lại không làm thế. Một vị chức sắc thấy rõ anh chẳng mang lễ vật, nên yêu cầu anh quỳ xuống. Anh vẫn đứng yên một lúc rồi lặng lẽ rời khỏi ngôi đền.

Ngày hôm sau, anh lại có mặt trong số người hành hương chiêm bái Deviji. Các vị chức sắc đã nhận ngay ra anh là đạo sĩ hôm trước nên vội mời anh đi thẳng vào đền. Một lần nữa, Deviji lại ngẩng mặt nhìn anh, mỉm cười hỏi:

- Anh tên là gì?

- Satyakam.

- Còn cô?

- Bhairavi. Anh từ đâu đến vậy?

- Tuyết Sơn.

Sau khi rời Tuyết Sơn xuống núi, Satyakam đã lang thang khắp xứ Ấn. Thân hình anh rắn chắc hơn trước nhưng đen sạm vì nắng gió. Khuôn mặt đầy vết nhăn, râu ria tua tủa. Tuy nhiên, cặp mắt vẫn tinh anh như thuở nào.

Satyakam lẳng lặng quan sát ngôi đền Kali với những cột gỗ sơn son thếp vàng và các pho tượng bày trên những bệ thờ trang nghiêm. Từ khi xuống núi, anh đã thăm viếng nhiều ngôi đền đẹp đẽ như thế này. Anh đã gặp nhiều đạo sĩ tu hành trong những ngôi đền lộng lẫy nguy nga, nhưng thất vọng vì chẳng ai có thể giúp đỡ hay chỉ bảo anh thêm điều gì. Tôn giáo, đối với họ, chỉ là một hình thức sinh nhai, một nghề nghiệp xây dựng trên lòng sùng tín
của tín đồ. Anh đã cố gắng tìm gặp các đạo sĩ nổi tiếng, nhưng đa số người anh gặp chỉ là những kẻ chuyên trích dẫn kinh điển hay thuyết giảng về một đề tài trừu tượng nào đó, chứ không hề có kinh nghiệm tâm linh. Phải chăng cô gái đang ngồi trước mặt anh đây cũng là một loại như vậy?

Bhairavi mỉm cười rồi nói một cách nhẹ nhàng:

- Không, em không như những người anh đã gặp. Satyakam bối rối.

Hồ như Bhairavi có thể đọc được tư tưởng của anh, trong khi lẽ ra anh phải là người đọc rõ tư tưởng của cô. Từ khi xuống núi, anh đã tiếp xúc với nhiều người, nhưng chẳng ai có thể đọc được tư tưởng của anh, còn anh lại có thể theo dõi tư tưởng của họ như đọc một cuốn sách. Anh đã đọc được các tư tưởng kiêu ngạo, tự cao tự đại của một số đạo sĩ nổi tiếng, mặc dù bên ngoài, họ vẫn tỏ ra khiêm tốn. Anh cũng ghi nhận được các tư tưởng tham lam của những người lãnh đạo tinh thần lúc nào cũng chỉ lo bòn rút của cải, vật chất của tín đồ. Tuy nhiên với Bhairavi, anh không ghi nhận được gì. Khả năng đọc rõ tư tưởng người khác của anh dường như bị cô vô hiệu hóa. Chẳng lẽ cô có thể đạt đến trình độ uyên thâm đến thế sao? Từ trước đến nay, anh chỉ thấy có một người, đó là sư phụ của anh - vị đạo sư già trên đỉnh Tuyết Sơn - đạt đến trình độ đó mà thôi. Nhiều lúc, anh đã để tâm theo dõi tư tưởng của sư phụ nhưng không ghi nhận được một tư tưởng gì phát xuất từ ông cả. Anh tự hỏi liệu con người có thể sống mà tuyệt nhiên không có một tư tưởng nảy sinh không? Như đọc được suy nghĩ của Satyakam, Bhairavi mỉm cười thích thú đáp:

- Có chứ, nếu họ hoàn toàn làm chủ được thân, khẩu và ý.

Satyakam lại thấy bối rối. Anh biết công phu chủ trị tư tưởng của mình chưa được như thế. Dù khổ công tập luyện, nhưng anh vẫn chưa làm chủ được ý thức, nên nhiều lúc tư tưởng anh chạy lung tung như con ngựa bất kham. Một người có khả năng đọc được tư tưởng của người khác sẽ dễ dàng ghi nhận ngay sự xáo trộn này. Anh nhìn cô gái trước mặt với vẻ thán phục, không phải vì cô có thể đọc được tư tưởng của anh mà vì anh không thể đọc được tư tưởng của cô. Phải chăng cô đã hoàn toàn làm chủ được tư tưởng của mình, không để nó dấy lên cho người khác ghi nhận? Không lẽ một cô gái còn trẻ như thế mà đã đạt đến trình độ cao siêu như vậy sao? Dĩ nhiên, anh biết tuổi tác không có ý nghĩa gì so với những người đã khổ công tu luyện nhiều đời, nhiều kiếp và có thể gìn giữ công phu qua các kiếp sống. Anh cố gắng tập trung tư tưởng để ghi nhận những rung động phát ra từ người đối diện nhưng bất thành. Hai người ngồi yên như đắm mình trong trạng thái thiền định, nhưng thật ra họ đang vận dụng công lực để theo dõi tư tưởng của nhau. Một lúc sau, Satyakam toát mồ hôi trán, trong khi Bhairavi vẫn thản nhiên. Cuối cùng, Satyakam đứng dậy cung kính chắp tay chào Bhairavi rồi bước ra khỏi ngôi đền Kali, cô cũng chắp tay đáp lễ. Cuộc thăm dò tư tưởng chấm dứt và Satyakam đã nhận thua. Anh vừa đi vừa nghĩ về những người có thể đọc rõ tư tưởng người khác và nhớ lại một câu chuyện xảy ra cách đó không lâu.

Lần đó, anh đi ngang đền thờ Brahma tại Calcutta. Đây là một ngôi đền đang xây dở, gạch ngói còn ngổn ngang khắp nơi, nhưng đã có rất đông tín đồ tụ họp để nghe một giáo sĩ thuyết giảng. Ông này hùng hồn lên tiếng kêu gọi mọi người cố gắng đóng góp vào công cuộc xây cất đền thờ và hứa sẽ chuyển lời cầu xin của họ đến Thượng đế để họ có được một đời sống tốt đẹp ở kiếp sau. Nhìn vị giáo sĩ hăng say diễn thuyết, Satyakam đọc rõ được tư tưởng tham lam trong lòng ông ta. Thật ra, ông ta không hề có ý muốn hoàn tất việc xây ngôi đền, vì có như vậy, ông mới có lý do kêu gọi lòng hảo tâm của tín đồ. Những người ngoan đạo không bao giờ để nơi thờ phụng Thượng đế của họ xây cất dang dở như thế. Họ sẽ dốc hết hầu bao đóng góp và giáo sĩ sẽ có một món tiền lớn bỏ túi. Ông chủ trương sẽ kéo dài thời hạn xây cất để trục lợi cho đến khi không thể kéo dài thêm nữa. Nhìn những tín đồ đang dốc túi đưa tiền cho giáo sĩ để đổi lấy những lời hứa hẹn hão huyền, Satyakamcảm thấy bất bình. Bất chợt, anh thấy một ông lão râu tóc trắng xóa, chống gậy bước đến:

- Này anh bạn trẻ, tại sao anh lại khó chịu với những người mộ đạo chân thành kia?

- Tôi chỉ thương hại cho những người mù quáng nghe theo lời kêu gọi dối trá của tên giáo sĩ tham lam kia...

Ông lão mỉm cười xua tay:

- Nhưng anh không thấy rằng họ đang tiến gần Thượng đế hay sao?

Satyakam ngạc nhiên:

- Làm sao như thế được? Thượng đế nào nghe những lời cầu xin giữa những ồn ào náo nhiệt đó?

- Thế anh đã biết gì về Thượng đế?

Satyakam không đáp. Anh nghĩ mình chẳng cần phải trình bày quan điểm riêng với một người không quen biết, nhưng ông lão đã bật cười:

- Này anh bạn, liệu anh đã đến gần Thượng đế hơn những kẻ cầu nguyện luôn miệng kia không? Anh đừng tưởng công phu tu tập hàng trăm kiếp của anh đã hơn được đức tin của những người mộ đạo chân thành đó. Có thể họ vô tư không biết âm mưu của hắn, nhưng điều đó đâu liên quan đến lòng thành và đức tin của họ. Anh nên biết niềm tin mãnh liệt là nguồn năng lượng rất lớn giúp họ đến gần Thượng đế. Này anh bạn trẻ, những người này không hề biết thiền định sâu xa, không hề biết phân tích chân lý tuyệt đối hay suy ngẫm về những triết lý trừu tượng. Con đường của họ là đức tin, và đó là năng lượng mạnh nhất. Hãy nhìn họ không hề ngập ngừng khi cầu nguyện. Hãy nhìn sự chân thành và tha thiết của họ, rồi anh sẽ nhận ra rằng họ đã tiến rất xa. Thâm tâm họ không hề bất an. Đầu óc họ không hề bị các vọng tưởng chi phối. Liệu anh có hơn được họ chăng?

Satyakam giật mình. Đây là lần đầu anh gặp một người có thể hiểu rõ tâm trạng dằn vặt của anh.

Ông lão mỉm cười nói tiếp:

- Khi một người muốn biết mọi sự thì trước hết họ cần phải mở rộng lòng để quan sát và học hỏi chứ không phải để phê phán hay chỉ trích. Làm sao có thể biết thêm khi lòng còn đầy tự mãn?

Lời nói của ông lão làm Satyakam sực tỉnh. Anh vội vã cúi đầu cung kính chắp tay:

- Xin cám ơn ngài đã chỉ dạy cho.

Ông lão lắc đầu ngắt lời:

- Này anh bạn, anh muốn học hỏi thêm thì hãy đến Kadambini, một làng nhỏ cách đây khoảng mười ngày đường, tìm đến một hang động nằm giữa khu nghĩa địa, anh sẽ gặp người có thể chỉ dẫn cho anh về những pháp tu mà anh đang cần.

Satyakam mừng rỡ định lên tiếng hỏi thêm, nhưng ông lão đã lắc đầu bỏ đi lẫn vào đám đông đang cầu nguyện ồn ào kia.


_____________________________________________

[3] Kali: Nữ thần bóng tối trong tín ngưỡng Hindu.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 44

#9 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 08/08/2020 - 13:42

Khi Satyakam đến Kadambini, trời đã sụp tối. Theo lời ông lão, anh tìm đến cái hang nằm giữa khu nghĩa địa. Ở đó, có một đạo sĩ mình trần, quấn một cái khố nhỏ, đang ngồi xếp bằng trên một đống xương người. Vừa nghe tiếng chân đến gần, đạo sĩ đã quắc mắt lên nhìn Satyakam, hai con ngươi long lên dữ tợn:

- Này kẻ không sợ chết kia, ngươi muốn gì?

Giọng nói chát chúa của đạo sĩ vang lên trong đêm khuya thanh vắng khiến ai nghe cũng phải lạnh người, nhưng Satyakam thản nhiên:

- Tôi muốn được học hỏi thêm với ngài.

Đạo sĩ trợn mắt, ánh mắt như tóe lửa, khắp người tỏa ra một thứ ánh sáng lạ lùng hệt lân tinh:

- Ai đã nói cho ngươi biết về chốn này?

Satyakam từ tốn kể lại chuyện ông lão tóc bạc anh gặp tại Calcutta. Satyakam dứt lời, đạo sĩ nhếch miệng cười nhạt:

- Ngươi biết ông lão đó là ai không?

Satyakam định trả lời không biết, nhưng ngay giây phút đó, dường như chợt có điều gì lóe lên. Anh đã hiểu. Anh buột miệng:

- Tôi... tôi nghĩ đó chính là... sư phụ tôi.

Đạo sĩ dịu nét mặt, vẻ hung hãn biến mất:

- Khá lắm! Nếu ngươi biết được như thế thì khá lắm đấy! Phải rồi, ông già đó chính là sư phụ của ngươi và cũng chính là sư phụ của ta.

Satyakam giật mình kêu lớn:

- Như thế... như thế... phải chăng...

Đạo sĩ gật đầu:

- Phải rồi. Ta chính là đại sư huynh của ngươi đó. Ta tên là Kapalak. Từ trước đến nay, tuy chúng ta cùng học một sư phụ nhưng không đi cùng đường.

- Tại sao lại thế?

Kapalak thản nhiên:

- Tại sao lại không? Ai bảo đường đến chân lý chỉ có một? Có hàng trăm hàng ngàn con đường cùng đưa đến một mục đích. Sư phụ biết rất nhiều con đường, và tùy theo căn cơ của học trò, mà ông chỉ dạy mỗi người một con đường thích hợp.

Satyakam vội vã cung kính chắp tay vái chào Kapalak:

- Như thế... như thế anh có biết sư phụ của chúng ta là ai chăng?

Kapalak lắc đầu:

- Đó là một bí mật. Ông không bao giờ nói về mình nên ta cũng không biết nhiều hơn ngươi đâu. Tuy nhiên, điều đó đâu quan trọng. Trong thế giới không ngừng dịch chuyển này thì tên tuổi, đanh sắc, địa vị có nghĩa lý gì kia chứ?

- Nhưng... nhưng không lẽ...

- Ngươi đừng thắc mắc về lai lịch của sư phụ. Nếu ngài đã gửi ngươi đến đây học với ta thì ngươi hãy sẵn sàng đi. Phía sau ngọn đồi này có một dòng sông nhỏ, phụ lưu của sông Hằng linh thiêng. Ngươi hãy ra đó tắm rửa sạch sẽ rồi chúng ta bắt đầu tu học.

Satyakam chắp tay cám ơn nhưng trước khi quay đi, anh thắc mắc:

- Này sư huynh, tại sao lúc mới gặp nhau, cặp mắt của anh rất dữ tợn và khắp mình tỏa ra một thứ ánh sáng lạ lùng như lân tinh vậy?

Kapalak cười lớn:

- Đó chỉ là xảo thuật dọa nạt những kẻ tò mò đến quấy nhiễu việc thanh tu của ta mà thôi. Tuy nhiên, ta không thấy ngươi có phản ứng, điều này chứng tỏ định lực của ngươi cũng thuộc loại khá đấy.

Sau khi chờ đợi Satyakam tắm rửa nghỉ ngơi một lúc, Kapalak bắt đầu:

- Điều ta chỉ dạy cho ngươi cũng là điều mà sư phụ đã dạy cho ta cách đây khá lâu, do đó, ta không phải là sư phụ của ngươi mà chỉ là một khí cụ trung gian của sư phụ mà thôi. Ta biết ngươi là một hành giả Yoga thượng thừa nên mới dạy cho ngươi pháp môn bí truyền này.

Trước hết, ngươi cần biết trong pháp môn này, đức tin là yếu tố quan trọng nhất. Đức tin càng cao, kết quả càng tốt đẹp. Đức tin là căn bản của lòng can đảm, là điều cần thiết của kẻ đi trên đường này. Đây không phải là lối truyền dạy thông thường qua các kỹ thuật sách vở hồi chương, mà là thử thách để những kẻ đi trên đường này có thể nghiệm ra chân lý. Thứ nhất, ngươi phải có khả năng tập trung cao độ, vì nếu không có samàdhi (định lực) kiên định thì không thể đi trọn con đường nguy hiểm này. Ta biết ngươi đã từng học thiền trong nhiều năm và đã có định lực khá, nhưng ngươi cũng cần phải có một đức tin vững vàng, không thể lay chuyển.

Chúng ta sẽ bắt đầu với pháp môn Nada Yoga (Yoga về âm thanh). Ngươi hãy xếp bằng, nhắm mắt tập trung tư tưởng vào những âm thanh mà ta chỉ dẫn. Ta biết sư phụ đã dạy ngươi về nghệ thuật lắng nghe để theo dõi sự chuyển biến của tư tưởng, nhưng trong pháp môn Nada Yoga, ngươi cần tập trung vào một âm thanh cho đến khi nó nhỏ dần, nhỏ dần và tan biến trong không gian. Điều quan trọng nhất là ngươi phải làm sao bắt cho được âm thanh cuối cùng trước khi nó tan biến. Ta muốn ngươi theo dõi bảy loại âm thanh căn bản: âm thanh của con dế, âm thanh của cái trống, âm thanh của mây, âm thanh của ốc biển, âm thanh của sáo trúc và âm thanh của chiếc khánh bạc.

Ngươi hãy bắt đầu với tiếng dế kêu. Con dế có thể phát ra hai loại âm thanh, ngắn và dài, và ngươi phải biết phân biệt thật rõ hai loại âm thanh này. Ngươi hãy tập trung tư tưởng để theo dõi nó cho đến khi nắm bắt được âm thanh nhỏ nhất, là âm thanh cuối cùng trước khi tan biến trong không gian. Trong lúc theo dõi âm thanh, ngươi sẽ phải định tâm vì âm thanh này được phát ra từ bên ngoài, ở một nơi chốn xa xăm nào đó, nhưng nếu ngươi để cho tư tưởng náo loạn, âm thanh ấy sẽ biến mất ngay. Do đó, ngươi phải chú tâm theo dõi từ khi nó phát ra cho đến khi nó tan biến, không được xao lãng. Nếu chú tâm theo dõi, ngươi sẽ thấy nó không phải là một mà là một chuỗi âm thanh, âm này nối tiếp âm kia, như một hòn đá ném xuống hồ nước - nó sẽ tạo ra những vòng tròn lớn nhỏ lan rộng khắp mặt hồ. Cũng như thế, ngươi phải quán sát âm thanh ngắn dài của con dế và theo dõi nó trong tâm thức của ngươi. Nada hay âm thanh, thật ra chính là tinh hoa của vũ trụ vì nó tỏa lan khắp không gian như sóng biển.

Âm thanh có ba trạng thái là âm động, âm ba và vô thanh. Nếu chú ý lắng nghe, con người có thể nghe được âm động (âm rất nhỏ). Tuy nhiên, ít ai nghe được âm ba (sóng âm), và gần như không ai có thể bắt được thanh âm của vô thanh (âm thanh tuyệt đối). Đó chính là thử thách lớn cho ngươi, vì ngươi cần biết rằng bắt đầu từ cái tuyệt đối hay trạng thái vô thanh này mà các năng lượng chuyển hóa thành các âm ba rung động không ngừng trong không gian, từ đó dần khuếch đại lên thành các âm thanh khác nhau. Vũ trụ không hề trống rỗng, mà là sự rung động không ngừng của các sóng âm, và chính các sóng âm hay năng lượng sẽ chuyển biến và biểu hiện thành các hiện tượng vật chất như các hiện tượng trong thiên nhiên. Ngươi hãy nhắm mắt lại, tập trung tư tưởng vào âm thanh, rồi theo dõi nó đi ngược không gian, trở về với âm thanh nguyên thủy tuyệt đối kia. Ngươi phải hết sức chú tâm không được gián đoạn, theo dõi từng trạng thái biến chuyển của sóng âm, từ những âm rất nhỏ đến âm ba rung động, và đạt đến âm thanh tuyệt đối kia. Chúng ta hãy bắt đầu và ta muốn xem ngươi có thể nghe được tiếng dế hay không!

Satyakam vội điều tâm tập trung tư tưởng để lắng nghe. Mặc dù khả năng nghe của anh đã tiến bộ nhờ công phu tu tập trên đỉnh Tuyết Sơn, nhưng anh chẳng nghe được tiếng động nào khác thường. Kapalak cười lớn, tiếp lời:

- Ngươi thấy chưa, khi mong cầu nghe được một thứ gì thì ngươi sẽ không thể nghe được, vì chính mong muốn đó đã phá tan công phu lắng nghe của ngươi rồi. Hãy tĩnh tâm, không ước muốn hay mong cầu mà cứ để tự nhiên, vì lúc nào âm thanh này cũng âm vang trong vũ trụ. Ngươi cứ nghe một cách tự nhiên, rồi sẽ hiểu...

Satyakam liền điều chỉnh hơi thở, làm theo lời chỉ dẫn của Kapalak, và lạ lùng thay, anh bắt ngay được một rung động sâu xa từ đâu đó phát ra. Đó chính là tiếng kêu của một con dế, âm thanh ngắn dài rõ rệt. Gương mặt anh dần trở nên thư thái. Anh mỉm cười tập trung tư tưởng vào âm thanh đó. Âm thanh nhỏ dần, nhỏ dần và cuối cùng chỉ còn là những rung động vi tế vọng giữa không gian...

Kapalak im lặng nhìn Satyakam một lúc rồi đứng dậy bước ra khỏi hang.

Đã mấy tháng trôi qua, Satyakam chuyên tâm thực hành Nada Yoga dưới sự chỉ dẫn của Kapalak. Mỗi sáng, anh đều ra sông Hằng tắm rửa và thực hành các nghi thức thường nhật như trên Tuyết Sơn, sau đó ăn nhẹ, thường là vài thứ trái cây mà Kapalak mang đến cho. Nhờ khổ công tu tập cả ngày lẫn đêm, nên chỉ sau một thời gian ngắn, anh đã theo dõi được tất cả những âm thanh căn bản từ lúc chúng khởi phát cho đến khi tan hòa vào không gian.

Một hôm, trong lúc tu tập, anh bỗng nghe thấy một âm thanh kỳ lạ ở đâu vang đến. Thanh âm đó không giống như các âm thanh căn bản kia, nó biến chuyển lúc to lúc nhỏ, lúc nhặt lúc khoan. Anh chợt ý thức được sự hiện diện của một năng lượng lạ lùng gần đó. Đây cũng là lúc Bhairavi đến tu trong ngôi đền Kali.

- Này Kapalak, hôm nay em nghe được một âm thanh lạ, không giống như những âm thanh mà anh diễn tả - một âm thanh nghe như tiếng chuông ngân...

- Ta biết. Đó là một rung động thanh cao của một hành giả Yoga đang ở gần đây.

- Một hành giả Yoga như chúng ta?

- Phải, một hành giả Yoga thượng thừa hiện trú ngụ tại ngôi đền Kali cách đây không xa.

- Anh biết đó là ai không?

Kapalak chăm chú nhìn Satyakam rồi thong thả đáp:

- Đó là một thiếu nữ... Thôi, ngươi hãy tập trung tư tưởng vào Nada Yogađi.

Vài hôm sau, Satyakam lại đến hỏi Kapalak:

- Em nghe văng vẳng một âm thanh rất kỳ lạ, nghe như tiếng đàn, và nó xuất phát từ hành giả Yoga đó.

Kapalak lạnh lùng:

- Lỗ tai của ngươi khá lắm rồi đó, nhưng ngươi đến đây để theo dõi những âm thanh mà ta muốn ngươi nắm bắt, chứ không đón chờ những âm thanh khác. Nếu ngươi không thể tập trung thì làm sao ta có thể giúp ngươi tiếp tục các công phu mà ngươi muốn học?

Vài hôm sau, Satyakam lại đến gặp Kapalak và nói:

- Sư huynh, âm thanh này rất mạnh và có một sức cuốn hút kỳ lạ, chắc hẳn định lực của người đó phải cao cường lắm. Em muốn gặp người đó.

Kapalak tỏ vẻ khó chịu:

- Nếu muốn, ngươi cứ việc đi.

Sau khi Satyakam trở về, Kapalak hỏi:

- Ngươi đã thỏa trí tò mò rồi chứ?

Satyakam thuật lại câu chuyện. Anh khâm phục cô gái còn trẻ mà đã đạt đến trình độ thiền định thâm sâu như vậy.

Kapalak yên lặng trong lúc Satyakam kể chuyện. Sau cùng, ông lên tiếng:

- Thôi đủ rồi, hôm nay ngươi ngủ sớm đi, không phải tu tập nữa. Ta chắc ngươi muốn trở lại gặp cô gái đó vào ngày mai.

- Đúng thế. Em có ý định hỏi thêm người đó đôi điều về công phu thiền định. Thật ít ai có thể ngồi thiền lâu như vậy, trừ... sư phụ.

Kapalak nở nụ cười bí ẩn, rồi nói giọng dửng dưng:

- Vậy sao? Nếu vậy thì ngươi đến mà học với cô ấy.

Hôm sau, Satyakam đi đến đền Kali. Khi trở về, anh vui vẻ nói ngay:

- Tên cô gái đó là Bhairavi, và cô ấy có khả năng đọc được tư tưởng của người khác.

- Thế sao?

- Quả là một hành giả Yoga thượng thừa. Cô ấy có thể theo dõi tư tưởng của em như mở một cuốn sách, nhưng em không thể đọc được tư tưởng của cô ấy. Công phu chủ trị tư tưởng của cô ấy quả tuyệt vời.

Kapalak nhếch môi cười nhạt:

- Chắc không thua sư phụ là bao chứ gì?

- Đúng thế. Em đã tập trung tư tưởng nhưng không ghi nhận được. Thật ít ai có định lực cao như vậy... trừ sư phụ.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 50

#10 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 09/08/2020 - 13:45

Kapalak rót một tách nước trà, từ tốn nhấp một ngụm. Ông kín đáo quan sát vẻ hoan hỉ của Satyakam khi anh hăng say nói về thiếu nữ kia. Ông biết rõ việc tu tập Nada Yoga của Satyakam với ông đã đến hồi kết rồi. Satyakam vươn vai ngáp dài, lơ đãng nhìn đống lửa bập bùng trước mặt. Trong tâm anh đang nảy ra nhiều ý nghĩ kỳ lạ.

Từ đó, Satyakam đến thăm Bhairavi thường xuyên và việc này đã gây sự chú ý của các tín đồ và cả những người trông coi ngôi đền. Người ta bắt đầu bàn tán. Có người cho rằng việc hai đạo sĩ nam nữ gặp nhau như thế là sai quấy, mặc dù giáo lý Ấn giáo không hề ngăn cấm. Tuy nhiên, chỉ sau một
thời gian ngắn, ngay cả những người đa nghi nhất cũng không tìm thấy điều gì trái với lẽ thường. Bhairavi vẫn đắm mình trong trạng thái thiền định, còn Satyakam ngồi gần đó tọa thiền. Họ rất ít nói, chỉ dành thời giờ tu tập. Điều kỳ lạ là từ khi Satyakam đến đây, rau trái trong vùng được mùa liên tiếp, nhiều hơn những năm trước đó nữa. Từ xưa, phong tục xứ Ấn cho rằng chỉ cần có một đạo sĩ đức hạnh đến tu tập trong làng là đã đủ ban ân phước cho cả làng rồi. Nay, làng Kadambini lại có đến hai đạo sĩ thì hiển nhiên mọi việc phải tốt đẹp gấp đôi.

Sau mùa gặt, dân làng thường tổ chức lễ hội mừng được mùa rất lớn. Năm đó, lễ mừng được cử hành long trọng hơn bao giờ hết với các kiệu hoa và các đám rước cờ quạt lộng lẫy. Satyakam và Bhairavi được mời ngồi lên một chiếc kiệu hoa rước đi khắp vùng để ban phước cho dân làng. Thông thường, sau lễ được mùa là mùa cưới. Các đôi nam nữ thường làm lễ đính ước vào ngày hội được mùa và tổ chức đám cưới vào tháng sau. Đối với nhà nông, đây là thời gian vui nhất trong năm vì lúa đã gặt xong mà chưa đến mùa gieo mạ, nên họ có thời gian nhàn rỗi, thường tổ chức hội hè vui chơi thỏa thích. Một lần nữa, Satyakam và Bhairavi được mời ngồi lên hai chiếc ngai kết hoa lộng lẫy tượng trưng cho ngôi vị của thần Shiva và Durga - hai vị nam nữ thần tượng trưng cho đời sống lứa đôi.

Satyakam đã quen Bhairavi được gần một năm. Càng ngày, anh càng dành nhiều thời gian ở đền Kali hơn là tu học với Kapalak. Một sáng nọ, Kapalak vừa bước ra khỏi hang đã thấy Satyakam đang đứng đợi trước cửa.

- Thưa... sư huynh... Em có việc muốn nói...

Nhìn khuôn mặt đầy nét lo âu của Satyakam, Kapalak cảm thấy thương hại. Ông biết rõ những việc đang xảy ra nhưng vẫn ra vẻ thản nhiên:

- Thế nào? Việc tu tập của ngươi với Bhairavi có tiến triển gì không?

Satyakam ngập ngừng:

- Thưa... thưa... cũng được.

Kapalak mỉm cười:

- Tốt lắm! Mỗi người nên tự chọn cho mình một con đường thích hợp và chuyên tâm vào đó để tu hành. Nếu ngươi thích tu thiền thì Bhairavi có thể giúp ngươi rất nhiều. Cô ấy là một hành giả Yoga thượng thừa.

Satyakam ngập ngừng:

- Nhưng... nhưng điều em muốn nói không phải như vậy.

Kapalak biết trước điều Satyakam muốn nói nhưng vẫn hỏi:

- Tại sao vậy? Phải chăng ngươi đã chán thiền định và muốn quay về tu tập Nada Yoga hay sao?

- Thưa, không. Em đang khổ tâm về một việc...

Kapalak lạnh lùng:

- Việc gì nữa đây? Ngươi không thoải mái với con đường đã chọn hay sao? Phải chăng Bhairavi không phải là người mà ngươi muốn tìm?

Satyakam lúng túng một lúc rồi lắp bắp trả lời:

- Không... Không phải vậy. Bhairavi là người tốt... có thể giúp em nhiều, nhưng em không biết phải đối xử với Bhairavi như thế nào... Em là một thanh niên và Bhairavi là một thiếu nữ... Ôi, sao khó nói quá...

Kapalak ngắt lời:

- Phải chăng ngươi có cảm tình với Bhairavi?

Satyakam cúi gằm mặt không đáp. Anh biết rõ tình cảm của mình dành cho Bhairavi mỗi ngày một sâu đậm nhưng không biết phải làm gì. Tâm trạng của anh lúc đó đầy hoang mang, bối rối, không khác tâm trạng lúc từ giã vị đạo sư già trên đỉnh Tuyết Sơn là mấy. Kapalak im lặng nhìn Satyakam một lúc rồi thong thả nói:

- Này Satyakam, ngươi đã được gửi đến đây với mục đích rõ rệt. Việc ngươi thụ giáo Nada Yoga với ta chỉ là một cái cớ thôi. Dĩ nhiên, điều ngươi học hỏi được cũng không phải vô ích, nhưng lý do chính của ngươi đến đây là để hiểu biết sự liên hệ giữa người nam và người nữ, không phải những điều như người đời thường nghĩ, mà là một trạng thái siêu việt với những ẩn nghĩa cao thâm. Như ngươi biết, ta là một hành giả Yoga Mật tông (Tantra), nghĩa là con đường sử dụng tất cả các phương tiện thiện xảo, vượt qua mọi đối đãi nhị nguyên như sắc-không, tả-hữu, âm-dương, nam-nữ, thiện-ác, chân-giả để đạt đến mục đích tối hậu của đường đạo.

Satyakam ngập ngừng:

- Em biết đó là con đường của anh, nhưng chúng ta không đi cùng một con đường, vì em đã chọn con đường tinh thần, nghĩa là phải cắt đứt mọi tình cảm.

Kapalak nghiêm nghị lắc đầu:

- Nói như thế là ngươi chưa hiểu rồi. Ai bảo ngươi người đi theo con đường tinh thần phải đè nén mọi tình cảm? Con người là sinh vật hữu tình, nghĩa là có tình cảm, chứ đâu phải trơ như gỗ đá. Phương pháp nào chủ trương con người phải trở thành một thứ vô cảm vô tri? Phải chăng đi theo con đường tinh thần thì con người sẽ không còn là người nữa hay sao? Ngươi đã học hỏi với sư phụ bao năm mà dám hàm hồ như vậy à? Thảo nào tu mãi mà ngươi chẳng tiến bộ chút nào. Tâm ngươi đầy những bất an, vọng động chỉ vì quá chú trọng đến việc đè nén cảm xúc mà không hiểu rằng tâm và thân đâu phải là hai thực thể tách biệt. Thân đã động thì làm sao tâm có thể an?

Satyakam bàng hoàng. Lời nói của Kapalak như một tiếng sét khiến anh choáng váng, không biết phải nói gì. Kapalak thong thả tiếp:

- Tình cảm là năng lượng rất mạnh, không thể đè nén được. Ngươi càng cố gắng đè nén bao nhiêu, nó càng trỗi dậy mạnh mẽ bấy nhiêu, để rồi tâm ngươi càng ngày càng phiền não thêm chứ có ích chi.

Satyakam lắp bắp:

- Như vậy... như vậy em phải làm sao?

Kapalak giải thích:

- Ngươi phải hiểu rõ vai trò của các năng lượng này thì mới chuyển hóa được chúng. Hiện nay, ngươi đang bối rối về việc tình cảm nam nữ nên ta muốn đề cập đến vấn đề này trước.

Theo giáo lý mật truyền, người nam có bốn yếu tố dương và ba yếu tố âm trong cơ thể, còn người nữ có bốn yếu tố âm và ba yếu tố dương. Sự chênh lệch âm dương này tạo ra sự khác biệt nam nữ. Sự khác biệt này chính là yếu tố bí mật của sự sáng tạo, do đó, theo luật tự nhiên, người nam thường bị thu hút bởi người nữ và người nữ cũng đi tìm người nam với mục đích để bổ túc sự bất toàn, hầu đạt đến trạng thái tròn vẹn hay sự hợp nhất. Khi thấu hiểu, ngươi sẽ không thấy nguyên lý nam nữ là vấn đề nữa, mà chỉ là một sự việc hết sức tự nhiên. Do đó, người đi trên đường đạo, dù lựa chọn pháp môn nào, vẫn có sự thiếu sót cho đến khi họ thực sự hiểu được định luật âm dương này. Quan hệ nam nữ một cách đúng đắn không phải sự liên hệ xác thịt qua các cảm xúc, mà là sự bổ túc các yếu tố bất toàn của cả hai, hầu đạt đến trạng thái tận thiện.

Satyakam rụt rè:

- Nhưng... phải chăng sự thu hút là một cám dỗ...

Kapalak ngắt lời:

- Không phải thế! Cám dỗ chỉ là một biểu hiện khác của sự sợ hãi mà thôi. Khi ngươi thực sự ngộ ra tính chất thiêng liêng ẩn tàng trong mọi vật, ngươi sẽ không nhìn quan hệ nam nữ theo cách thông thường, mà là một sự chuyển hóa có ý nghĩa cao cả hơn thế nhiều. Mối quan hệ khi ấy không còn mang nghĩa quan hệ nam nữ đơn thuần, mà là sự bổ túc giữa các nguyên lý âm và dương.

Satyakam ngập ngừng hỏi:

- Biết thế mà tại sao anh không lập gia đình?

Kapalak ngồi thẳng người lên, dõng dạc:

- Khi một người đã tường minh về các nguyên lý âm dương, đã vượt qua các ảo vọng của vô minh để chiến thắng bản ngã, sẽ biết rằng con người có thể tìm được sự hoàn mãn nơi mình - không phải qua lý thuyết mà là trải nghiệm bằng công phu tu tập. Khi đó, họ không cần tìm kiếm một điều viển vông, xa vời ở bên ngoài mà biết rằng sự hoàn hảo, tận thiện vốn sẵn có ở bên trong. Thay vì phải trải nghiệm sự hợp nhất qua một khí cụ trung gian thì họ sử dụng các năng lượng nội tại để chuyển hóa các nguyên lý âm dương bên trong để đạt đến sự hoàn hảo nơi mình. Khi đã hiểu biết sâu xa về thế giới nội tại, ngoại giới chẳng qua chỉ là sự phản chiếu của nó mà thôi. Khi đã biết rõ cái thật và cái không thật, thì mọi danh từ như cám dỗ, thu hút, hấp dẫn... đều trở nên vô nghĩa. Do vậy, sự hiện hữu hay không của người khác phái không còn cần thiết nữa.

Satyakam im lặng một lúc như để suy ngẫm, rồi lên tiếng:

- Nhưng... nhưng nếu họ có thể vượt qua mọi vướng mắc nhờ đã tự biết mình, hiểu rõ chân bản thể của mình mà không cần đến sự trung gian của ai khác thì tại sao em không đi theo con đường đó được?

Kapalak mỉm cười:

- Chúng ta có những nghiệp quả khác nhau nên đường đi của chúng ta không thể giống nhau. Hãy đi theo con đường của mình, đừng nên bắt chước người khác. Có thể trong một tiền kiếp, ta cũng có những duyên nghiệp, ràng buộc giống như ngươi hiện nay vậy, nhưng vì ta đã học trọn vẹn bài học đó rồi nên nay không cần phải học lại.

Nói đoạn, Kapalak chăm chú nhìn Satyakam, rồi nhấn mạnh từng chữ:

- Này Satyakam, có vay thì có trả. Gieo nhân thì gặt quả. Còn mong muốn ước ao thì còn ràng buộc. Đó là quy luật tự nhiên. Ngươi đã có những ràng buộc từ trước nên bây giờ phải lo tháo gỡ. Nhưng, điều quan trọng là ngươi phải tháo gỡ một cách khôn khéo để đừng gây thêm ràng buộc. Nếu không, ngươi chẳng thể thoát ra khỏi áp lực của nghiệp đâu. Trải qua bao kiếp luân hồi, các mối liên hệ chằng chịt rất khó tháo gỡ; do đó ngươi phải ý thức rõ về sự liên hệ và hậu quả của các hành động ngươi làm. Ngươi phải ý thức về tư tưởng, hành động, lời nói của mình và hiểu rõ sức mạnh của nghiệp lực. Ngươi rất may mắn vì Bhairavi và ngươi đều là những hành giả Yoga thượng thừa, có thể đủ sức vượt qua các ràng buộc và thử thách này. Này Satyakam, ngươi cần hiểu rằng tâm trạng bất an, dằn vặt đã khuấy phá nội tâm của người, đã khiến ngươi phải bỏ việc tu học với sư phụ để xuống núi. Đó không phải là cám dỗ, sự sa ngã, sự thoái bộ của tâm linh, mà chỉ là những lôi kéo của nghiệp lực đó thôi. Đến một lúc, ngươi sẽ thấy rõ tất cả đều là những bài học, những kinh nghiệm cần học hỏi để có thể thấu rõ bí mật của vũ trụ. Việc hiểu được bí mật này sẽ giải phóng ngươi ra khỏi vòng kềm tỏa của nghiệp lực và đưa ngươi đến sự hợp nhất với chân ngã.

Satyakam cảm động, cúi rạp mình cảm ơn Kapalak, nhưng Kapalak đã đứng dậy quay mình bước vào hang đá. Satyakam ngơ ngác không hiểu tại sao, vội đứng dậy toan bước theo. Kapalak quay lại nói nhỏ:

- Cuối tuần này là đêm ba mươi. Ngươi hãy đến đây, ta sẽ chỉ cho ngươi một pháp tu bí mật như một món quà nhỏ tặng ngươi.

Satyakam vội quỳ mọp xuống đất, chắp hai tay cung kính:

- Cảm ơn sư huynh! Cảm ơn sư huynh.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 56

#11 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 11/08/2020 - 13:43

Đêm ba mươi, trời tối đen như mực. Satyakam đứng chờ Kapalak bên bờ sông Hằng. Gió lồng lộng thổi. Từ hôm nói chuyện với Kapalak, anh cảm thấy nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Anh ý thức được các ràng buộc của nghiệp và sẵn sàng chấp nhận những gì phải đến.

Có tiếng chân bước nhẹ. Là Kapalak. Ông nói khẽ:

- Ta sẽ chỉ dẫn ngươi phương pháp không sợ hãi của Mật tông. Chỉ một lúc nữa sẽ có một xác chết trôi qua đây. Ngươi hãy lội ra sông vớt cái xác đó mang lên bờ.

- Nhưng... sao anh biết trước sẽ có cái xác trôi sông?

Kapalak lắc đầu:

- Bây giờ không phải là lúc ngươi chất vấn ta, mà hãy tuyệt đối làm đúng lời ta dặn.

Satyakam thấy bồn chồn về thử thách kỳ lạ này. Anh đứng yên nhìn mặt nước đen ngòm trước mặt, tự nhiên có cảm giác rờn rợn. Chợt Kapalak chỉ ra dòng nước, nói:

- Nó đến kìa.

Satyakam vốn can đảm, ít khi sợ hãi điều gì, nên khi Kapalak nói là muốn dạy cho anh phương pháp không sợ hãi, anh không coi trọng nó cho lắm. Tuy nhiên, việc lội ra dòng nước đen ngòm để vớt một cái xác trôi sông vẫn khiến anh ngần ngại. Kapalak phải giục đến lần thứ hai, anh mới phóng mình xuống sông. Nước không sâu lắm, chỉ ngang ngực, nhưng vì chân dẫm xuống bùn, không đi nhanh được, nên phải mất một lúc anh mới đến bên xác chết. Anh quơ tay về phía trước ôm lấy cái xác đang nổi lềnh bềnh. Chưa lúc nào anh cảm thấy hồi hộp đến vậy. Lồng ngực căng tức. Hơi thở hổn hển. Vừa khó chịu, vừa buồn nôn. Sau khi kéo cái xác lên bờ, anh đứng thở dốc. Tuy không mệt lắm nhưng đầu óc anh căng thẳng hơn bao giờ hết.

Kapalak ra lệnh cho Satyakam kéo cái xác vào một hốc đá gần đó. Trong hốc đá đã để sẵn một ngọn đèn đầu nhỏ, một bát cơm và một bình nước. Satyakam vừa làm vừa thở dốc, trong khi Kapalak vẫn thản nhiên như không.

- Này Satyakam, bây giờ ta sẽ làm cho cái xác này sống dậy. Ngươi phải cố gắng giữ bình tĩnh, làm chủ tâm mình và tuyệt đối không được sợ hãi. Ngươi hãy ngồi xếp bằng trên cái xác và niệm câu thần chú mà ta sẽ truyền cho ngươi. Khi nào cái xác mở miệng ra, ngươi hãy đổ ít cơm và nước vào miệng nó. Tiếp đó, nó sẽ cố gắng nói chuyện với ngươi. Ngươi có thể trả lời nó hay hỏi nó bất cứ điều gì ngươi muốn, nhưng việc quan trọng nhất là phải giữ tâm thật bình thản, không sợ hãi. Ngươi phải nhớ rõ sức mạnh điều khiển tất cả mọi sự việc này đều có sẵn trong ngươi và nó sẽ giúp ngươi vượt qua thử thách. Nếu ngươi không đủ đức tin, có thể ngươi sẽ gặp nhiều nguy hiểm đấy. Như ta đã nói, đức tin là một yếu tố quan trọng. Nếu ngươi thất bại, đừng trách ta, mà hãy tự trách ngươi chưa đủ công lực để đi vào con đường tối mật này.

Satyakam lập tức điều tâm. Anh biết đây là một thử thách lớn nên chăm chú theo dõi lời chỉ dạy của Kapalak. Ông đi vòng quanh xác chết, tay bắt ấn quyết, miệng lầm rầm những câu thần chú. Trông ông thản nhiên như người đang đi vãn cảnh. Satyakam biết đây không phải giấc mơ, mà là một trải nghiệm thực. Sau khi đi quanh xác chết bảy vòng, Kapalak thong thả đến bên cạnh Satyakam nói nhỏ vào tai anh câu thần chú ba lần. Câu thần chú quả có công dụng kỳ diệu, vì anh cảm thấy toàn thân chấn động như vừa bị sét đánh trúng. Anh chắp tay, bắt đầu niệm câu chú. Lạ thay, chỉ thoáng giây, cả cơ thể anh đã rung lên như bị một dòng điện truyền vào. Kapalak mỉm cười đưa ngón tay điểm giữa trán Satyakam rồi bước đi. Thân hình ông từ từ chìm lẫn vào bóng đêm.

Satyakam ngồi yên, chú tâm vào câu thần chú. Khoảng tàn một nén hương, anh cảm thấy cái xác bắt đầu chuyển động dưới thân mình. Lúc đầu, anh cố gắng điều tâm để không để ý đến nó, nhưng càng lúc nó càng lắc lưmạnh hơn. Hồ như nó muốn hất anh xuống đất. Bất chợt, có tiếng hú ghê rợn từ đâu đó vang lên khiến Satyakam giật nảy mình, mở choàng mắt ra. Trước mặt anh là đám ma quỷ ghê rợn, con nào con nấy đang nhe nanh múa vuốt như muốn ăn tươi nuốt sống anh. Satyakam cố gắng tập trung tư tưởng, nhưng hơi thở anh đã trở nên dồn dập, mồ hôi khắp mình túa ra như tắm. Cái xác vẫn tiếp tục cựa quậy và lũ ma quỷ vây quanh anh càng lúc càng đông. Chúng vừa gào thét, vừa sờ soạng thân thể anh. Chưa bao giờ anh cảm thấy lúng túng như vậy. Satyakam cố gắng điều hòa hơi thở và tập trung tư tưởng vào câu thần chú. Có lẽ nhờ oai lực của câu chú mà khắp mình anh tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ khiến lũ ma quỷ không làm hại anh được. Đây là lần đầu tiên trong đời Satyakam cảm thấy không biết phải đối phó như thế nào. Liệu câu thân chú có đủ hiệu lực giúp anh chống lại lũ ma quái kia chăng? Đó là chưa kể cái xác nằm bên dưới càng lúc càng cựa mạnh hơn. Satyakam cố gắng giữ cho tâm bình thản, nhưng lòng anh đã ít nhiều nao núng.

Đúng vào lúc anh cảm thấy không còn tự chủ được nữa thì có tiếng Kapalak ở đâu vọng đến: “Hãy nhớ rằng tất cả hiện tượng đang xảy đến đều do sức mạnh của tâm mà ra. Nếu ngươi không kiềm chế được tâm mình, thì ngươi sẽ là nạn nhân của chính ngươi đấy”. Satyakam bừng tỉnh. Anh vội vã điều tâm, bất chấp những tiếng hú ghê rợn chung quanh. Hơi thở anh đều hơn. Một lúc sau, tiếng động nhỏ dần, rồi từ từ biến mất. Satyakam yên lặng chú tâm vào câu thần chú. Một lúc sau, anh cảm thấy cái xác bên dưới bắt đầu ú ớ. Anh liền làm theo lời dặn của Kapalak, đổ ít cơm và nước vào miệng xác chết. Cái xác từ từ nhúc nhích, miệng nó mấp máy như muốn nói gì. Satyakam lên tiếng hỏi:

- Ngươi là ai?

Xác chết thều thào:

- Hãy... thả... tôi... ra...

- Nhưng ngươi là ai?

- Hãy tha... tôi...

Satyakam hơi ngạc nhiên, anh tập trung tư tưởng vào câu thần chú. Tâm anh dần trở nên tĩnh lặng, và rồi bất chợt, anh ý thức được những hình ảnh ma quái ban nãy cũng như cái xác nằm bên dưới chỉ là những sản phẩm của tâm thức, những khí cụ mà một người đã làm chủ được nội tâm như anh có thể sử dụng khi cần. Khi tâm thức được tập trung cao độ dưới công năng của những mật chú màu nhiệm, nó sẽ tạo ra sức mạnh có thể điều khiển được mọi vật. Tuy nhiên, ngay lúc đó trong tâm Satyakam bỗng nhiên nảy sinh lòng thương vô hạn khiến anh phải bật lên câu hỏi:

- Hãy cho ta biết ngươi là ai.

Cái xác thều thào:

- Là một ảo ảnh.

Satyakam gật đầu như đã hiểu. Anh yên lặng, không muốn hỏi thêm câu nào nữa vì đã có câu trả lời. Anh tập trung tư tưởng vào câu chú, bởi anh đã biết rằng sức mạnh mà anh hiện đang sở hữu có thể sử dụng tùy ý vào bất cứ mục đích nào; nhưng đồng thời, anh cũng ý thức rằng vạn vật trong vũ trụ đều bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên bất đi bất dịch. Anh hiểu rõ lời khuyên của Kapalak về sự ràng buộc của nghiệp lực nên không muốn tạo thêm sự ràng buộc nữa. Tự nhiên tâm anh trở nên tĩnh tại, thoải mái hơn lúc nào hết. Anh mỉm cười...

Khi Satyakam mở mắt ra, vầng đông đã hé rạng cuối chân trời. Kapalak đang đứng trước mặt anh, nét mặt rạng rỡ: - Khá lắm! Khá lắm! Bây giờ chúng ta hãy đem cái xác này thả xuống sông.

Cả hai mang cái xác xuống dòng sông, nhưng lần này họ làm một cách cẩn thận, ý thức. Họ đứng yên trên bờ sông, nhìn cái xác từ từ trôi đi như vừa mất đi một cái gì thân yêu nhất. Kapalak thân mật vỗ vai Satyakam:

- Hãy tắm rửa sạch sẽ rồi đến động đá của ta.

Sau khi tắm rửa, Satyakam bước đến động đá của Kapalak. Ông vẫn ngồi yên trên đống xương như khi anh gặp ông lần đầu. Song lần này, anh thấy khác hẳn, không còn hoang mang như trước. Tựa hồ anh vừa được hoàn toàn chuyển hóa. Satyakam bước khoan thai đến trước mặt Kapalak. Anh không còn muốn hỏi Kapalak điều chi nữa, bởi với anh, Kapalak ngày xưa oai nghiêm đường nào nay cũng chỉ là một con người bình thường mà thôi. Anh chợt nhớ đến vị đạo sĩ già trên đỉnh Tuyết Sơn. Chưa bao giờ anh thấy mình gần gũi sư phụ như vậy. Hình ảnh vị đạo sĩ hàng ngày thực hành các nghi thức thường nhật một cách chuyên cần bỗng dưng xâm chiếm đầu óc, khiến anh cảm thấy ngây ngất. Kapalak mỉm cười:

- Này Satyakam, ngươi đã vượt qua được một thử thách lớn. Không những thế, ngươi đã trở thành một hành giả Mật tông thượng thừa.

Satyakam ngạc nhiên:

- Em đã làm gì?

- Ngươi đã chiến thắng nỗi sợ hãi. Hiển nhiên, đó là một bước tiến đáng kể, nhưng điều đáng nói là ngươi đã giúp xác chết đó được giải thoát. Phần lớn các hành giả Mật tông, khi ý thức được quyền năng của mình, sẽ sử dụng nó như một công cụ. Cái xác đó sẽ trở thành công cụ cho họ sử dụng để đạt được mục đích riêng. Nó có thể đem lại tài sản, tiền bạc, danh vọng, báo ân, trả oán, hại người này, cứu người kia... Quyền năng này vô cùng mạnh mẽ và ít ai có thể làm ngơ trước sức cám dỗ của nó. Một hành giả Mật tông có thể sử dụng quyền năng này vào các mục đích tà muội, đi sâu vào hắc đạo, và rồi, sẽ phải gánh chịu hậu quả ghê gớm của nó. Ngay như ngươi muốn làm việc thiện và sử dụng quyền năng này vào mục đích chữa bệnh, cứu người, ngươi cũng khó lòng tránh được cám dỗ của nó. Khi sử dụng quyền năng là đã bị nó cám dỗ rồi. Dĩ nhiên lúc đầu, họ nghĩ mình làm việc tốt, chữa bệnh cứu người, thu tập tín đồ, khuyến khích họ làm việc lành, nhưng dần dần, họ dễ lạm dụng quyền năng ấy. Khi một người làm việc gì khác thường là bắt đầu vun bồi bản ngã của mình, mà bản ngã thì xảo quyệt vô cùng, nó sẽ thúc đẩy người đó làm những điều mà họ không bao giờ ngờ đến, để rồi chỉ cần sai một ly là đi một dặm. Đó là sự nguy hiểm của pháp tu Mật tông.

Kapalak đưa mắt nhìn Satyakam rồi thong thả:

- Này Satyakam, ngươi đã sở hữu quyền năng ấy, nhưng trong tâm không hề mong muốn điều đó. Đã thế, ngươi lại phát lòng thương khi nghe cái xác đó xin được thả ra. Chính cái tâm từ bi của ngươi đã chuyển hóa quyền năng mạnh mẽ mà ngươi sở hữu thành tình thương chân thành, vị tha. Mặc dù không ý thức về việc làm của mình, nhưng sức mạnh của tình thương đã giải phóng người chết, đem thần thức của họ về cõi trời thanh cao, và đồng thời cũng rửa sạch những ô uế tích lũy trong nghiệp của ngươi. Hôm nay, ngươi không chỉ đã vượt ra khỏi vòng kềm tỏa của các quyền năng hay bản ngã, mà còn phát triển một tình thương rộng lớn.

Satyakam thắc mắc:

- Nhưng em đã giải phóng người chết đó như thế nào vậy?

Kapalak mỉm cười, vừa khơi đống lửa đang cháy bập bùng trước mặt vừa thong thả nói:

- Câu thần chú ta truyền cho ngươi là một thần chú tối linh, tự nó chứa đựng cả một pháp môn vi diệu. Mỗi lần đọc lên, những rung động nó phát ra sẽ chiêu cảm được những sức mạnh rất lớn trong thiên nhiên. Khi cái xác đó xin ngươi hãy thả nó ra, trong tâm ngươi nảy sinh một tình thương muốn giúp đỡ nó. Hiển nhiên, với một cái tâm trong sạch, không mong cầu điều gì cho mình mà chỉ thiết tha muốn giúp người khác, sự chiêu cảm sẽ trở nên mãnh liệt, ứng đáp lời yêu cầu của cái xác. Nếu ngươi chỉ là kẻ thực hành Mật tông một cách máy móc, nghĩa là chỉ nhất nhất tuân theo những lời chỉ dạy, sẽ không bao giờ có thể làm được những việc phi thường như vậy. Sức mạnh mầu nhiệm kia chỉ xảy ra khi nó được phóng ra bởi cái tâm trong sạch, không ô nhiễm; một cái tâm không tham lam, ích kỷ. Nói một cách khác, chỉ những người đã vượt ra khỏi sự chi phối của bản ngã mới có thể sử dụng được quyền năng này.

Satyakam ngờ vực:

- Không lẽ một câu thần chú lại có năng lực mạnh mẽ đến như vậy sao?

Kapalak gật đầu:

- Một pháp môn vi diệu chứa đựng muôn vàn ý nghĩa, có thể cô đọng thành những bài thần chú dài hay trong những câu chú tối linh (Seed Mantra). Chỉ một vài âm thanh mà chứa đựng tất cả sự màu nhiệm của vũ trụ.

Satyakam chắp tay cảm ơn Kapalak:

- Cảm ơn sư huynh đã giúp đỡ, chỉ dẫn.

Kapalak lắc đầu:

- Ngươi hãy cám ơn sư phụ. Ta chỉ là kẻ thừa lệnh sư phụ để hướng dẫn ngươi. Sư phụ biết nghiệp của ngươi còn nặng, không thể chuyển hóa dễ dàng qua việc tu tập trên Tuyết Sơn nên mới gửi ngươi đến đây học với ta. Như ta đã nói từ trước, có nhiều con đường dẫn đến chân lý, nhưng thật ra, mỗi con đường chỉ là những giai đoạn của một tiến trình mà thôi. Hiện nay, ngươi còn một vài thử thách nữa vì vẫn còn những ràng buộc từ trước mà ngươi phải gỡ bỏ. Ta tin rằng ngươi có thể làm được.

- Phải chăng anh muốn nói đến Bhairavi?

- Đúng thế. Bây giờ là lúc ngươi hãy đến tu tập trong đền Kali.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




đến trang 62

#12 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 12/08/2020 - 06:14

Khi Satyakam bước vào đền Kali, Bhairavi cũng vừa xả thiền. Cô mỉm cười khi nhìn thấy Satyakam:

- Hôm nay, trông anh khác trước.

Satyakam thuật lại những chuyện mình vừa trải qua. Bhairavi gật đầu:

- Sư mẫu của em cũng nói như thế.

- Sư mẫu của em là ai vậy?

- Mataji. Bà sống tại làng Vindhyachan, gần Benares. Em tu học với bà nhiều năm rồi, nhưng vẫn gặp khó khăn trong lúc thiền tập.

- Em mà cũng gặp khó khăn ư?

Bhairavi mỉm cười gật đầu:

- Đúng vậy. Em dễ chìm trong trạng thái mê hoặc xuất thần. Em có thể ngồi thiền rất lâu, ngày này qua ngày khác, nhưng chưa hoàn toàn tự chủ được. Sư mẫu của em nói rằng đó là do kiếp trước em thực hành các phép tu khổ hạnh nên tâm bị khô héo, nên thay vì hoàn toàn tự chủ thì nó bị tê liệt.

Satyakam giật mình:

- Có phải... có phải vì vậy mà ta chẳng thể đọc nổi tư tưởng của em không?

Bhairavi mỉm cười xác nhận:

- Chính là vậy đó. Công phu của em chưa đạt đến mức độ như anh nghĩ đâu. Vì bị tê liệt nên nó không phát ra tư tưởng, thế nên dù cho anh có thể đọc được tư tưởng của người khác, anh cũng sẽ không ghi nhận được tư tưởng của em. Đây là hậu quả của việc thực hành một pháp tu khổ hạnh, để cho đầu óc tê liệt ở kiếp trước, nên kiếp này em phải hóa giải. Ngoài ra, em còn những ràng buộc khác nữa...

Satyakam vội ngắt lời:

- Ràng buộc nào nữa?

Bhairavi mỉm cười e lệ:

- Ràng buộc với anh.

- Phải chăng em đã biết ngay khi chúng ta gặp nhau lần đầu?

- Không hẳn thế. Nhưng sau đó em đã ý thức được liên hệ này.

Bhairavi tiếp tục:

- Sư mẫu nói rằng đã đến lúc em phải tự tìm hướng đi và chỉ em đến ngôi đền Kali này. Thật ra, không bao giờ em muốn rời xa bà. Em sống trọn vẹn trong tình thương vô bờ của bà, nhưng bà bảo không ai có thể tiến bộ nếu chỉ tu tập trong khuôn viên đạo viện. Bà chủ trương một hành giả Yoga, sau mộ tthời gian tu tập, cần có thêm những kinh nghiệm sống và có trải qua những kinh nghiệm này mới tiến bộ lên được. Bà nói cuộc đời là một trường học, nơi người ta học hỏi, trải nghiệm để tự biết mình. Sau một thời gian tu tập trong các tu viện, nhiều người nghĩ rằng họ đã biết rõ về bản thân, nhưng thật ra, họ chỉ là nạn nhân của bản ngã. Học lý thuyết mà thiếu thực hành là sự học thiển cận, do đó, một người đi trên đường đạo cần trải nghiệm, va chạm với thực tế, khổ đau. Nguyên nhân của đau khổ không phải tại hoàn cảnh, cũng không phải tại ai khác, mà chính là do nơi mình. Vì thiếu hiểu biết nên họ mới suy nghĩ và hành động như thế, để rồi phải nhận lãnh hậu quả từ việc làm ấy. Đó là luật nhân quả, chứ đâu có gì lạ. Bất cứ ai đi trên đường đạo cũng tỏ tường các định luật bất đi bất dịch trong vũ trụ như luân hồi, nhân quả, nhưng tại sao biết mà vẫn phạm? Phải chăng cái biết đó chỉ là cái biết thiển cận, biết trên sách vở mà thôi? Đó là lý do bà bảo em đến đây tu học với anh.

- Bà là người thế nào?

- Bà là một biển tình thương rộng lớn. Bà dạy đạo qua những câu nói tràn đầy tình thương. Có người nói bà là tượng trưng của thần Durga hay yếu tố của tình thương. Điều đáng tiếc là được học hỏi với người như thế mà sao tim em vẫn khô cằn, tâm tư em vẫn bất động, không cảm xúc. Em hy vọng anh sẽ giúp em tìm được cách thức phát triển tình thương này.

Satyakam chăm chú nhìn Bhairavi. Bỗng trong lòng anh nảy sinh một cảm giác yêu thương vô hạn. Anh gật đầu cương quyết:

- Được rồi, ta sẽ giúp em.

Hôm sau, Satyakam trở lại tìm gặp Kapalak hỏi:

- Nhờ quen Bhairavi, em hiểu được phần nào điều anh nói về sự liên hệ giữa người nam và người nữ để bổ túc các yếu tố bất toàn trên phương diện tinh thần hay tâm lý, nhưng em vẫn còn thắc mắc về sự phối hợp trên phương diện vật chất hay sinh lý. Xin anh giải thích cho.

Kapalak ôn tồn:

- Ngươi chớ nên phân biệt tâm và thân như hai phần khác biệt có thể tách rời nhau, mà cần hiểu rằng tâm và thân là một. Định luật âm dương không phải là điều có thể lý luận hay giải thích bằng lời, mà là trải nghiệm tu tập quý báu, một phương tiện thiện xảo có thể giúp hành giả đạt đến sự hợp nhất. Theo Mật tông, trải nghiệm này không thể giải thích theo các quan niệm thông thường của luân lý, xã hội hoặc đạo đức, do đó pháp tu này được cất giữ rất kỹ, không truyền ra ngoài vì dễ bị hiểu lầm hoặc lạm dụng. Sẽ khôngthể hiểu được nó bằng lý thuyết, mà phải trải nghiệm nó bằng thực hành. Một người chưa kiểm soát được tâm hay thân, chưa làm chủ được tình cảm không thể quán triệt được nguyên lý này nên đã có những giải thích sai lầm hoặc ngộ nhận đáng tiếc. Ngươi nên biết rằng đây là một nguyên lý về năng lượng và nhờ hiểu rõ về nó mà hành giả có thể kiểm soát, định hướng luồng hỏa hầu Kundalini - căn bản của pháp môn Kundalini Yoga. Sự thúc động luồng hỏa hầu này là một yếu tố quan trọng vì nó là dòng năng lượng chuyển hóa hết sức mạnh mẽ. Đối với người bình thường, nó nằm yên, không hoạt động và đây là điều may mắn vì một kẻ chưa hội đủ các đức tính cao thượng, chưa làm chủ được thân tâm, chưa được sự truyền dạy của một vị sư phụ có kinh nghiệm thì thà để yên như vậy còn hơn. Một khi khai mở hỏa hầu mà không đủ sức đối phó, hậu quả sẽ khó lường. Họ sẽ mắc bệnh điên loạn, các đốt xương đau đớn, khắp mình nóng ran như bị thiêu đốt rồi chết (tẩu hỏa nhập ma). Một số hành giả luyện hỏa hầu nhưng thiếu sự chỉ dạy của một sư phụ có kinh nghiệm, không đủ công lực để điều khiển luồng năng lượng này cũng gặp phải hậu quả rất khốc liệt. Thay vì hướng nó đi vào các kinh mạch cần thiết, họ để nó chạy loạn xạ khắp nơi; thay vì hướng lên trên, nó lại chạy ngược xuống dưới, khiến họ trở nên điên cuồng, phát triển các thú tính, có hành động đồi bại, xấu xa, thấp hèn. Do đó, ngươi phải biết rằng đây là một phương pháp rất nguy hiểm cho những kẻ chưa đủ công lực, chưa trau đồi được phẩm hạnh đến mức thượng thừa.

Kapalak nói tiếp:

- Ngươi cần biết rằng hỏa hầu Kundalini là nguồn khí lực sáng tạo. Khi biểu hiện ở mức độ thấp, nó là dục tính, có khuynh hướng quay ra bên ngoài (Pravitri), vì đi sai đường nên nó chỉ mang lại những đau khổ, lầm lạc cho đến khi người ta học được những gì cần phải học. Khi biểu hiện ở mức độ thượng thừa, thay vì hướng ra ngoài, nó hướng vào bên trong (Nivritri) và trở thành năng lượng chuyển hóa hết sức quan trọng.

- Xin sư huynh giải thích rõ hơn.

- Muốn hiểu rõ Kundalini Yoga, cần phải biết về luật tiến hóa của mọi vật trong sự tuần hoàn của vũ trụ. Ngươi đã biết trong trời đất, tất cả đều thay đổi biến chuyển không ngừng. Để tiến hóa, con người cần có một động lực mạnh mẽ thúc đẩy họ hoạt động mà ta gọi là lòng đam mê. Đây là một yếu tố cần thiết vì thiếu yếu tố này, con người sẽ sống thụ động như cây cỏ, gỗ đá, chẳng có cảm giác và không thể tiến bộ. Nhờ đam mê mà con người hoạt động, thay đổi - đó chính là yếu tố dương, có tính cách hao tán và hướng ngoại. Để ngươi hiểu rõ hơn, ta lấy một ví dụ cụ thể, chẳng hạn người mẹ dạy con tập đi. Bà mẹ không hề dạy đứa bé về các bắp thịt ở chân hoạt động ra sao, vì đứa nhỏ sẽ chẳng hiểu gì cả. Thay vì giải thích, một bà mẹ khôn ngoan sẽ đưa một món đồ chơi ra trước mặt con và nói: “Con đến lấy đồ chơi này!”. Đứa bé vì thích món đồ chơi sẽ cố gắng đứng dậy lấy đồ chơi và vô tình chập chững đi rồi sau dần dần biết đi.

Cũng như thế, Thượng đế đã đặt biết bao “đồ chơi” chung quanh con người để thúc đẩy chúng ta hoạt động và tiến bộ. Có thể ngài đã nói: “Này các con, các con hãy đến lấy những món đồ chơi này đi. Đây là tiền bạc, tài sản, danh vọng, địa vị, tình yêu...”. Cũng như một đứa bé ham đồ chơi, con người hăng hái đi tìm những “đồ chơi” hấp dẫn đó. Ngươi cần biết, lúc đầu đam mê là điều cần thiết để thúc đẩy hoạt động vì mục đích của cuộc đời là bước đi bằng nỗ lực của chính mình chứ không phải ngồi chờ đợi những gì xảy đến. Tuy nhiên, vì thiếu hiểu biết nên đa số con người đã lầm lạc, hoang tưởng phương tiện là cứu cánh, nghĩ rằng các món “đồ chơi” đó là mục đích của cuộc đời và mải tìm kiếm, nắm bắt. Dĩ nhiên họ sẽ thất vọng vì cái họ muốn luôn ở ngoài tầm tay. Hễ đạt được cái này thì lòng ham muốn lại thúc giục họ đi tìm kiếm thêm cái khác nữa và cứ thế, họ tìm mãi mà chẳng bao giờ toại nguyện. Dần dần họ sẽ học được bài học về sự đau khổ, thất vọng; vì sự đau khổ là một kinh nghiệm quan trọng giúp họ ý thức rõ mục đích của cuộc đời.

Kapalak im lặng nhìn Satyakam rồi nhấn mạnh:

- Đa số nhân loại vì thiếu hiểu biết nên đã hao tổn năng lực để theo đuổi các điều kiện vật chất. Điều đáng tiếc là một số tu sĩ lẽ ra phải hiểu biết hơn lại sa vào những vết xe đó. Họ dồn tất cả năng lực để chạy đuổi theo các hình tướng bên ngoài như nghi thức, phẩm trật, chức tước hay xây dựng các đền thờ lộng lẫy, coi đó là mục đích chính của tiến trình tu tập. Tệ hơn nữa, họ còn trích dẫn từng câu từng chữ trong kinh văn, tìm trong đó có bao nhiêu dấu chấm, dấu phẩy rồi giải thích chân lý theo con số những dấu chấm, dấu phẩy đó. Hậu quả là chân lý đã biến thành một thứ tôn giáo suy kiệt, thoái hóa, đầy mê tín dị đoan.

Satyakam thắc mắc:

- Như vậy con đường Nivritri (hướng nội) là như thế nào?

Kapalak giải thích:

- Đó là con đường trở về. Con đường này thuộc yếu tố âm, là sự chuyển hóa. Như ta đã nói, nguyên lý của yếu tố dương là động, là hướng ngoại, là hao tán nên cần phải có yếu tố âm để bổ túc. Nguyên lý của âm là tĩnh, là hướng nội, là tập trung và trên con đường này hành giả chuyển hóa năng lượng đam mê ngoại giới vào các mục đích thánh thiện, cao thượng của nội giới. Thay vì đi tìm sự cao xa huy hoàng ở bên ngoài thì họ tìm cách làm sao cho nội tâm được sung mãn, dồi dào.

Này Satyakam, trên con đường Pravitri (hướng ngoại), mọi hoạt động thường có tính cách lo âu, trói buộc, sợ hãi vì nó xây dựng trên sự suy luận của lý trí, vốn chịu ảnh hưởng ngoại cảnh. Trên con đường hướng nội (Nivritri) mọi hoạt động sẽ có tính cách thoải mái, an nhiên tự tại vì nó xuất phát từ một nội tâm phong phú. Trên con đường hướng ngoại, tư tưởng hay sản phẩm của tâm thức biến đổi, hao tán không ngừng, nhưng trên con đường hướng nội, tư tưởng này được tập trung, chuyển hóa và thăng hoa. Khi đạt đến trạng thái quân bình thì nguyên lý âm dương không còn là hai nữa mà sẽ hòa làm một. Khi đó, dương cũng là âm mà âm cũng là dương. Cả hai hợp nhất trong một trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối. Đó chính là sự giải thoát khi tiểu ngã hòa nhập vào đại ngã. Đó chính là mật nghĩa của Kundalini Yoga (con đường Hỏa xà).

Kapalak im lặng nhìn Satyakam một lúc rồi nói tiếp, giọng nghiêm trang:

- Này Satyakam, ta sẽ dạy ngươi phương pháp khai mở luồng hỏa hầu này, nhưng trước hết, ta muốn ngươi hiểu rõ Kundalini Yoga không phải là một phương pháp mà ai cũng có thể theo đuổi được. Một kẻ có cơ thể bệnh hoạn hay một tâm hồn bạc nhược không thể thực tập phương pháp này, vì yếu tố căn bản của nó là một cơ thể tráng kiện và một tinh thần can đảm. Một kẻ thiếu đức tin hay nghi ngờ cũng khó mà đi xa được, vì nó đòi hỏi sự cương quyết, dũng mãnh. Một kẻ lười biếng, dễ nản chí không bao giờ có thể theo đuổi pháp môn tối thượng này, vì nó đòi hỏi công phu chuyên cần. Một kẻ nông nổi chỉ mong đạt kết quả cũng không thể đi trọn con đường, vì nó đòi hỏi nhiều năm công phu luyện tập. Một kẻ chưa làm chủ được tình cảm cũng không thể thực hành, vì nó dễ làm cho người ta lầm lạc, bị dục vọng sai khiến và đi vào con đường tà đạo. Do đó, một vị sư phụ Mật tông luôn chọn học trò hết sức cẩn thận trước khi truyền dạy pháp môn này. Ta biết ngươi đã có đủ những đức tính cần thiết nên mới quyết định truyền cho ngươi pháp môn tối thượng Kundalini Yoga. Trong việc tu tập, ngươi sẽ không thực hành một mình mà cần một người khác giúp đỡ. Ta biết Bhairavi là một hành giả Yoga thượng thừa đã có những liên hệ với ngươi từ trước, nên ta tin rằng cô ấy sẽ giúp đỡ được ngươi. Để tránh hiểu lầm, ngươi và Bhairavi nên làm lễ thành hôn và ta tin rằng cả hai sẽ có những tiến bộ đáng kể. Ngươi hãy cố gắng luyện tập, đừng phụ lòng ta và sư phụ.

Satyakam cảm động quỳ mọp xuống:

- Xin cảm ơn sư huynh. Xin cảm ơn sư phụ.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 68

#13 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 13/08/2020 - 06:48

Cuối mùa Xuân năm đó, Satyakam và Bhairavi chính thức làm lễ thành hôn dưới sự chứng giám của Kapalak. Đối với dân chúng làng Kadambini, đây là một ngày trọng đại. Hàng ngàn người tụ tập trong ngôi đền Kali để làm lễ ăn mừng. Tín đồ khắp nơi kéo về dâng cúng các phẩm vật rất long trọng. Nhiều người quá vui mừng, đã khóc òa lên vì tin rằng thần Shiva và Durga đã tái thế, ban phát ân phước cho làng. Sau các nghi thức long trọng, Satyakam và Bhairavi quỳ trước tượng thần Kali làm lễ. Kapalak thực hành các nghi thức ban phép lành cần thiết rồi nói với Satyakam:

- Hãy ghi nhớ lời ta chỉ dạy và chuyên cần thực hành. Ngươi nên nhớ đây chỉ là một chặng trên con đường đi tìm chân lý. Hãy học hỏi những điều cần phải học, nhưng chớ quên mục đích tối hậu của ngươi trên đường đạo. Bài học hiện nay của ngươi là biết chấp nhận tất cả, không từ bỏ một điều gì và tập mở rộng cõi lòng để giúp đỡ tất cả mọi người. Ta lên đường đây.

- Sư huynh đi đâu?

- Chỗ này đã trở nên ồn ào, không còn thanh vắng như xưa nữa, nên ta cần tìm một nơi an tĩnh hơn để tu tập. Ta đã làm tròn nhiệm vụ sư phụ giao phó, bây giờ ngươi sẽ phải tự đi nốt quãng đường còn lại.

Satyakam lưu luyến:

- Liệu chúng em còn gặp lại sư huynh không?

- Chúng ta có cùng một mục đích mặc dù con đường không giống nhau, nhưng ta tin rằng cuối cùng chúng ta sẽ gặp lại nhau.

Mặc cho Bhairavi cố giữ, Kapalak vẫn thản nhiên bước khỏi đền Kali.



Chương 3



Nhiều năm trôi qua, ngôi đền Kali ở làng Kadambini đã trở thành một trung tâm tôn giáo nổi tiếng. Nhờ chuyên cần thực hành những điều Kapalak chỉ dạy, càng ngày Satyakam và Bhairavi càng tiến bộ. Hàng ngày, Bhairavi chăm lo các nghi lễ tôn giáo, trong khi Satyakam giảng dạy tín đồ về các giáo nghĩa của Ấn giáo. Phần lớn các trung tâm tôn giáo chỉ chú trọng đến nghi thức mà rất ít giảng giải về giáo nghĩa nên những người muốn học hỏi kéo về tu học tại đây mỗi ngày một nhiều. Dưới sự chỉ dạy của Satyakam, các truyền thống minh triết cổ xưa của Ấn Độ đã được phục hồi nên anh được dân chúng kính cẩn gọi là Maharaj (Đại hiền giả) như họ đã gọi Bhairavi là Deviji vậy.

Vài năm sau, Bhairavi sinh hạ được một bé trai, đặt tên là Rohit. Dân làng Kadambini tổ chức một buổi lễ ăn mừng linh đình. Họ tin rằng sự hiện diện của đứa bé sẽ đem lại nhiều may mắn cho cả vùng. Năm sau, Bhairavi lại sinh thêm một bé trai nữa, đặt tên là Puram. Một lần nữa, dân làng Kadambini lại mở hội ăn mừng.

Một buổi sáng, Bhairavi đang sắp xếp phẩm vật dâng cúng trên bàn thờ thần Kali, bỗng một tín đồ hớt hải chạy vào thưa: “Thưa Deviji, sáng nay con vừa ra giếng múc nước thì thấy Rohit đã ngã xuống từ lúc nào...”.

Bhairavi hoảng hốt chạy ra. Đã có vài người đứng quanh giếng. Một người vừa nhảy xuống giếng vớt xác Rohit mang lên. Vừa kinh hãi vừa đau đớn, Bhairavi ôm xác đứa con thân yêu chạy vào đền đúng vào lúc Satyakam vừa hoàn tất khóa giảng kinh cho học trò. Bhairavi đầm đìa nước mắt, phủ phục trước mặt Satyakam nức nở:

- Maharaj, xin anh cứu lấy con...

Satyakam sững sờ ôm xác đứa con thân yêu. Chưa bao giờ anh cảm thấy đau khổ như lúc đó. Bhairavi gào khóc:

- Maharaj, em biết anh có thể làm cho người chết sống dậy. Em biết anh đã từng thực hành phương pháp này... Anh hãy cứu lấy đứa con của chúng ta...

Từ trước đến nay, Bhairavi luôn điềm đạm, tự chủ nhưng lần này cô đã biến thành một người khác. Đám đông vây kín chung quanh hai người chờ đợi một phép lạ. Họ tin rằng một bậc đại hiền giả như Satyakam hẳn phải có những pháp thuật thần thông. Thế nhưng sau một lúc im lặng, Satyakam chậm rãi lên tiếng:

- Chuyện xảy ra như vậy là phận số của Rohit, chúng ta không thể làm trái quy luật tự nhiên được.

Bhairavi tuyệt vọng:

- Maharaj, sao anh nói vậy? Rohit không phải là con của anh sao? Tại sao anh không cứu lấy con của anh?

Satyakam vuốt tóc Bhairavi:

- Đó là số phận của Rohit, chúng ta phải biết chấp nhận.

Bhairavi ôm chặt xác đứa con, kêu lớn:

- Nhưng... nhưng anh có thể làm cho người chết sống lại kia mà...

Satyakam gật đầu:

- Đúng thế. Ta có thể làm được chuyện đó, nhưng ta cũng biết rằng một người đi trên đường đạo không bao giờ làm điều trái với quy luật tự nhiên. Này Bhairavi, đây chính là một thử thách và cũng là cơ hội để chúng ta học về sự đau khổ và các mối đây liên hệ ràng buộc. Phải chăng đó chính là bài học mà sư phụ ta cũng như sư mẫu em đã gửi chúng ta đến với nhau để học hỏi, để trải nghiệm?

Bhairavi ngừng khóc, nhưng tình mẫu tử thâm sâu khiến cô còn nức nở:

- Dù sao Rohit cũng là...

Satyakam âu yếm vuốt tóc con:

- Rohit đã có những liên hệ với chúng ta từ trước nhưng nay duyên nợ đã hết và chúng ta phải biết chấp nhận, đừng tạo thêm các ràng buộc nữa.

Bằng một cử chỉ âu yếm, Satyakam cúi xuống nói nhỏ vào tai Bhairavi một câu thần chú để giúp cô bình tâm. Bhairavi im lặng một lúc rồi nói:

- Satyakam, anh không cảm thấy đau khổ trước việc này hay sao?

- Cái chết chỉ là một khía cạnh khác của sự sống mà thôi. Có sinh ắt có tử, đó là lẽ thường vì nếu không sinh ắt sẽ không tử. Một người biết chấp nhận cái chết chính là biết sống một cách đúng đắn. Đời sống chỉ là một phần nhỏ của chu trình tiến hóa kéo dài vô tận với những cuộc tử sinh liên tiếp như sóng nước lên xuống không ngừng. Rohit đã đến với chúng ta bởi các ràng buộc liên hệ từ trước, nhưng khi các ràng buộc này chấm dứt thì con ra đi, đó là số phận của con và chúng ta không thể cản trở sự tiến hóa của con.

- Anh nói đúng, nhưng trước nỗi đau này, làm sao có thể dửng dưng được?

- Này Bhairavi, làm sao em biết được ta thương yêu Rohit như thế nào? Ta đau lòng lắm chứ. Nhưng vì đã biết rõ luật nhân quả nên ta không coi đó như một sự mất mát mà ta biết chấp nhận tất cả. Ta coi đây là một trải nghiệm quý báu cho sự tu học của chính mình.

Vài hôm sau, tang lễ cho Rohit được cử hành. Xác Rohit được đưa đến một giàn thiêu bên bờ sông để hỏa táng. Dân làng Kadambini đến dự rất đông. Ai cũng thương xót đôi vợ chồng trẻ vừa mất đứa con yêu. Người này đặt câu hỏi: “Tại sao những người tu hành thánh thiện như vậy mà lại chịu nỗi bất hạnh như thế kia?”, kẻ kia thắc mắc: “Tại sao một bậc Maharaj và một Deviji lại không cứu được đứa con của mình? Phải chăng họ không phải là bậc thần thánh như người ta thường nghĩ?”. Một số khác tự an ủi: “Dù là thánh nhân hay thường dân thì cũng không thể thoát được luật nhân quả và đó là số phận của đứa bé”.

Suốt tang lễ, Satyakam và Bhairavi giữ thái độ bình tĩnh, dù Bhairavi vẫn không cầm được nước mắt. Chiều hôm đó, Satyakam và Bhairavi trở về đền Kali. Sau khi ru Puram ngủ, Bhairavi lên tiếng:

- Maharaj, tại sao anh có thể thản nhiên trong tang lễ như vậy?

- Bhairavi, sự yên lặng của ta trong tang lễ không phải là sự dửng dưng. Lòng ta đau vô cùng, nhưng ta không thể hiện điều đó ra bên ngoài. Ta tiếc Rohit đã không sống lâu hơn để ta có cơ hội giúp đỡ và giáo dục nó. Ta mong em hiểu được lòng ta.

- Em hiểu anh. Tuy em không cảm thấy đau khổ như mấy hôm trước nhưng hình bóng Rohit vẫn ở trong tâm trí em. Em hy vọng vài hôm nữa em sẽ tự chủ hơn, nhưng em muốn hỏi anh một điều.

- Em cứ nói đi.

Bhairavi ngập ngừng:

- Với công phu tu tập của anh, liệu anh có biết trước cái chết của Rohit không? Liệu anh có thể ngăn ngừa được cái chết đau thương đó không?

Satyakam gật đầu nói khẽ:

- Ta biết trước phần số của Rohit đã hết và có thể thay đổi được điều đó, nhưng vì ta đã hiểu rõ sự ràng buộc của nghiệp quả nên không làm gì khác được. Này Bhairavi, đôi khi chúng ta quá ích kỷ nên tạo ra thêm các ràng buộc trên con đường tiến hóa, mà bất cứ ràng buộc nào cũng là một cản trở cho tiến trình tu tập để giải thoát. Ta nhớ Kapalak đã dạy: “Có vay thì có trả, còn ước ao thì còn bị ràng buộc, và đã có ràng buộc thì lại phải lo gỡ ra. Muốn ung dung tự tại thì phải làm sao chấm dứt những ước ao, mong cầu để không gây thêm một ràng buộc nào nữa. Phương tiện thiện xảo của sự tu tập là biết ý thức rằng điều đã gây ra từ trước thì bây giờ phải lo tháo gỡ, nhưng tháo gỡ làm sao để không gây thêm các ràng buộc khác mới là công phu tu tập”. Quả là một lời khuyên bảo đầy minh triết. Này Bhairavi, em đã nhờ ta giúp em có cơ hội phát triển thêm về tình thương và ta đã chẳng giúp em đó sao? Khi trước em là một hành giả Yoga đang gặp trở ngại vì em có tính thụ động, dễ bị cuốn hút vào trạng thái mê hoặc xuất thần. Vì tu khổ hạnh nên tâm hồn em khô cằn. Hiện nay em không thấy tình cảm của em dành cho Rohit và Puram đã phát triển mạnh mẽ hay sao?

Bhairavi im lặng nhìn Satyakam với vẻ thán phục. Satyakam tiếp:

- Ta ý thức được đây là một biến cố lớn, một thử thách lớn cho chúng ta, nhưng ta cũng biết đó là cơ hội để học hỏi, để tu tập. Này Bhairavi, đây là một bài học cho em về sự phát triển tình cảm, nhưng bài học này cũng đưa đến sự ràng buộc quyến luyến và nếu không ý thức, nó sẽ trở thành một chướng ngại cho con đường tiến hóa tâm linh của em. Em cần phải học hạnh xả ly, dứt bỏ cũng như trước đây ít lâu, Kapalak đã dạy ta bài học về sự không sợ hãi. Khi đó, ta không nghĩ rằng mình cần phải học bài học đó vì ta vốn là kẻ chẳng sợ hãi một điều gì. Chỉ khi trải qua kinh nghiệm ghê gớm bên bờ sông Hằng, ta mới ý thức rằng lòng tin qua lý thuyết và nhận thức qua trải nghiệm khác nhau rất xa. Chỉ sau khi trải qua, ta mới quán triệt hoàn toàn về cái gọi là lòng không sợ hãi.

Này Bhairavi, em có nhớ khi em một thân một mình đến ngôi đền Kali hoang tàn này không? Lúc đó em là một hành giả Yoga thượng thừa, không lo âu, không sợ hãi, không bị ràng buộc vào bất cứ một thứ gì. Nếu lúc đó có ai nói rằng em sẽ yêu thương, sẽ gắn bó vào một điều gì, chắc chắn em sẽ gạt bỏ, coi đó như một ý tưởng mơ hồ, có phải không? Này Bhairavi, chỉ một thời gian ngắn, em đã trở thành một người vợ, một người mẹ với những ràng buộc, gắn bó vào chồng, vào con. Phải chăng thử thách này là một bằng chứng hiển nhiên rằng chúng ta chưa hoàn toàn như chúng ta nghĩ. Công phu tu tập của chúng ta, dù khổ hạnh bao nhiêu, nhưng chưa được thử thách thì vẫn chỉ là một quan niệm thôi, có phải không? Này Bhairavi, tình mẫu tử là thứ tình cảm lớn nhất trong mọi tình cảm và nó cũng là một thử thách rất lớn, không mấy ai dễ gì dứt bỏ được.

Bhairavi cúi đầu suy nghĩ rồi nói khẽ:

- Nhưng làm sao em biết rằng trải qua kinh nghiệm này, em sẽ thảnh thơi, vượt qua được mọi sự ràng buộc, gắn bó khi em vẫn còn phải chăm lo cho Puram?

Satyakam mỉm cười:

- Em là một hành giả Yoga đã tiến rất xa trên con đường tiến hóa tâm linh. Ta biết kinh nghiệm này sẽ giúp em ý thức rõ hơn về sự ràng buộc và những
liên hệ mà trước đây em chưa thực sự nắm vững. Trong kiếp sống trước, em đã từng là mẹ, đã từng đau khổ, đã cố gắng tháo gỡ những trói buộc liên hệ nhưng em chưa thực sự vượt qua được nó nên kiếp này em phải học lại bài học đó một lần nữa. Cuộc đời là một trường học mà trong đó phần lớn mọi người chỉ học được bài học qua yếu tố đau khổ. Sự đau khổ là yếu tố thúc đẩy mọi người tiến hóa vì nếu không có yếu tố này, người ta sẽ thản nhiên bất động như loài cây cỏ, gỗ đá. Cái chết của Rohit đã giúp em ý thức rõ rệt hơn về sự ràng buộc, nhưng Puram sẽ không như thế đâu, nó sẽ giúp đỡ em trên một phương diện khác.

- Còn anh? Anh và em có những liên hệ gì?

Satyakam im lặng một lúc rồi từ tốn trả lời:

- Chúng ta đã có những liên hệ với nhau từ trước, và lần này, ta đến với em để học hỏi thêm về những điều mà trước nay ta chỉ biết qua lý thuyết mà thôi.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




đến trang 75

#14 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 15/08/2020 - 06:30

Năm tháng trôi đi. Bhairavi tiếp tục công việc trông coi các nghi lễ trong đền Kali. Cô đã lấy lại phong thái trang nghiêm như xưa, không còn đau buồn về cái chết của Rohit nữa. Satyakam tiếp tục thực hành Kundalini Yoga và tiến bộ rất nhiều. Nhờ khai mở được các luân xa và kiểm soát được luồng hỏa hầu, anh có thể hiểu biết được những điều mà trước đó đối với anh chỉ là những khái niệm trừu tượng. Từ đó, anh có thể hiểu tường tận các ẩn nghĩa trong kinh sách và đến lúc này, anh mới vỡ lẽ rằng sở dĩ Ấn giáo bị suy tàn là vì đa số các giáo sĩ đều thiếu kinh nghiệm tâm linh. Vì thiếu hiểu biết và không có khả năng giảng dạy các chân lý cao đẹp nên họ chú trọng đến các nghi thức thờ cúng và lồng vào đó những điều mê tín dị đoan để mê hoặc tín đồ. Phần lớn các đền đài Ấn giáo chỉ chú trọng đến nghi thức thờ cúng, cầu nguyện thần linh để xin xỏ điều này thứ nọ chứ không mấy khi có khóa giảng dạy kinh kệ. Các tín đồ đến đền thờ tụng kinh một cách ồn ào mà không hiểu thấu ý nghĩa những điều mình đọc. Từ đó Satyakam bắt đầu các khóa giảng kinh và theo thời gian, số người kéo đến xin thụ giáo với anh ngày càng đông. Dưới sự chỉ dạy của anh, các ẩn nghĩa trong kinh sách đã được mang ra trình bày một cách rõ ràng, minh bạch.

Mùa Xuân năm đó, Satyakam giảng dạy về Yoga dựa trên thánh ca Bhagavad Gita. Anh nói: “Có ba con đường cùng đưa đến một mục đích mà tùy theo sở thích, chúng ta có thể lựa chọn con đường thích hợp. Đó là Karma Yoga (con đường Hành động), Jnana Yoga (con đường Minh triết) và Bhakti Yoga (con đường Sùng tín). Khởi đầu là ba con đường khác nhau, nhưng khi đi gần đến đích, chúng sẽ gặp nhau vì mục đích tối hậu của Yoga là sự hợp nhất với Thượng đế. Nếu quan sát kỹ, ta sẽ thấy tất cả mọi người đều có khuynh hướng đi tìm Thượng đế, nhưng vì không ý thức rằng ngài hiện diện khắp nơi nên nhiều người đã đi tìm ngài qua những con đường hay pháp môn khác nhau.

Do đó, trong Bhagavad Gita (Thánh ca của Thượng đế), đức Krishna đã nói: ‘Kẻ nào thấy được Thượng đế ngự trị trong vạn vật, kẻ đó mới thực sự thấy’. Một người đi tìm đạo, dù theo bất cứ con đường nào hay pháp môn nào, cần phải biết tôn trọng những con đường khác, vì đường nào cũng đều dẫn đến Thượng đế”.

Karma Yoga là phương cách thông dụng nhất. Hầu hết nhân loại đều đi trên đường này, mặc dù ít người ý thức về nó. Khởi đầu, con người có tính thụ động vì chịu ảnh hưởng của khuynh hướng Tamas (Tĩnh). Họ chỉ ngồi chờ phép lạ xảy ra. Vì thế, kêu gọi họ tỉnh thức để học hỏi là việc vô ích, vì họ không muốn thay đổi. Muốn họ thoát khỏi trạng thái thụ động cần phải có động năng thúc đẩy họ, để khơi dậy lòng ham muốn nơi họ. Lòng ham muốn dẫn đến lòng tham và sự chiếm hữu; nhưng dù lòng ham muốn có thấp hèn như thỏa mãn các dục vọng vật chất đi chăng nữa, thì vẫn còn hơn sự bất động u mê. Sự ham muốn có công dụng riêng của nó trong cơ trời vĩ đại, và đó chính là ý nghĩa mà đức Krishna đã nói trong Bhagavad Gita: “Thượng đế hiện diện trong tất cả, kể cả trong những tật xấu của kẻ xấu xa đê tiện nhất”.

Theo thời gian, bị chi phối bởi lòng tham nên con người ngày càng hoạt động nhiều và do vậy, khuynh hướng Rajas (Động) được phát triển mạnh mẽ. Đến giai đoạn tiến hóa này, nhân loại lao vào làm việc một cách quá độ. Khí lực trở nên dồi dào, họ không từ chối bất cứ cơ hội nào để thỏa mãn tham vọng cùng các cảm xúc của giác quan. Đây là lúc con người lo tàng trữ, tích lũy của cải vật chất. Họ hăng say làm việc, nhờ vậy xã hội tiến bộ, phát triển nhanh chóng. Tất cả tiền tài, vật chất, dục lạc đều gia tăng mạnh mẽ và thúc đẩy xã hội phải vận hành nhanh hơn, mạnh hơn. Tuy nhiên, con người sẽ thấy rằng cái mà họ muốn không bao giờ mang lại sự thỏa mãn cả, vì được cái này thì lại có những cái khác hay hơn, đẹp hơn, lạ hơn và hấp dẫn hơn. Cứ thế, con người lao đi tìm cái mới lạ cho đến khi họ ý thức rằng càng thu gom nhiều thì họ càng đau khổ nhiều; càng thành công lớn, họ lại càng bất mãn lớn; càng có nhiều tài sản, càng lo âu thêm. Phải lo sao đoạt cho được mọi thứ nhưng khi được rồi phải lo giữ nó cho thật chắc vì sợ nó sẽ mất đi. Càng ngày các mối lo âu càng gia tăng, và rồi, con người lúc nào cũng sợ hãi, bất mãn, đau khổ vì các hoạt động thiên về vật chất không bao giờ có thể thỏa mãn họ hoàn toàn. Đó chính là ý nghĩa câu nói của đức Krishna: “Lấy đầu đổ vào lửa để đập tắt lửa còn dễ hơn là lấy sự thỏa mãn để đập tắt các dục vọng”.

Đến khi đó, con người mới bắt đầu ý thức được rằng họ vẫn ao ước cái mà họ không biết rõ hay không thể hiểu được. Do đó, một số người bắt đầu quay về với nhu cầu tinh thần như tôn giáo, tìm cách rời bỏ các tham vọng vật chất hoặc xa lánh chốn đô thị náo nhiệt, tìm nơi thanh vắng để tĩnh tu. Truyền thống từ bỏ tất cả để tìm đạo của Ấn Độ bắt đầu từ đây. Tuy nhiên, dù vào rừng sâu núi thẳm, dù theo học bất cứ pháp môn nào, con người vẫn nhận ra rằng không phải xa lánh của cải vật chất là có thể tìm thấy sự an tĩnh nơi tâm hồn, bởi lẽ ham mê trong tâm họ vẫn còn. Nó sẽ tiếp tục chi phối ý thức của họ, từ ham mê của cải vật chất chuyển thành ham mê các nhu cầu tinh thần. Do đó mới có những tu sĩ hết sức nhiệt thành đã trở thành quá khích hay mù quáng đi trên đường đạo để cầu mong những quả vị hay phép thuật thần thông. Đây là việc hiển nhiên vì khuynh hướng Động vẫn tiếp tục chi phối.Trải qua bao kiếp luân hồi say mê tham luyến, dễ gì phút chốc có thể xả bỏ hết được nên đa số người tìm đạo thường bị giày vò. Đức Krishna nói về giai đoạn này trong Bhagavad Gita như sau: “Bằng sự xả bỏ khuynh hướng Động để đi tìm sự Bất động, con người không thể thoát khỏi hành động và cũng không thể đạt đến sự toàn thiện được. Người ta không thể chạy trốn mọi sự qua việc ẩn thân, vì dục vọng không phải là yếu tố bên ngoài mà tiềm tàng mạnh mẽ ở bên trong”.

Karma Yoga chủ trương chỉ khi hoạt động, con người mới thực sự hợp nhất với Thượng đế. Thay vì hành động để đạt được mục đích, dù về tinh thần hay vật chất, họ đều cần phải thay đổi động cơ, chuyển hóa nó và ý thức rằng hành động mà không mong cầu bất cứ điều gì cho bản thân mới đem lại kết quả thực sự. Thay vì từ bỏ của cải vật chất, trốn vào rừng sâu núi thẳm để tìm sự bình an, họ phải biết thay đổi nội tâm và biến nó thành một đạo tràng thanh tịnh để tu tập. Đó là lý do đức Krishna đã nói trong Bhagavad Gita: “Người vô minh hành động với lòng tham dục, còn bậc hiền giả hành động với mục đích phụng sự nhân loại và không tham luyến bất cứ điều gì cho riêng mình”.

Nhờ biết chuyển hóa nội tâm mà con người hoạt động và biết chấp nhận mọi nghiệp chướng của luật nhân quả. Tuy nhiên, họ không còn bị chi phối bởi yếu tố Động như trước mà dung hòa, chuyển hóa nó để đạt sự quân bình. Sự quân bình giữa yếu tố Động và Bất động chính là bí quyết của Karma Yoga. Người đi theo con đường này sẽ không bỏ bê phận sự đối với gia đình, xã hội hay đất nước, mà sẽ hành động với một tinh thần mới. Họ vẫn làm việc như một người bình thường, cũng kiếm tiền hay tích lũy của cải, nhưng họ sẽ không thiết tha thủ giữ bất cứ một thứ gì. Họ biết rằng họ chỉ là người quản lý tài sản đó chứ không phải là chủ nhân vì họ đã thấu triệt bài học rằng cái gì đến sẽ đi, cái gì còn sẽ mất, chẳng có gì mãi mãi vững bền. Họ biết lòng íc hkỷ, tham lam sẽ mang lại khổ đau nên chỉ hoạt động cho người khác chứ không cho mình. Tuy hoạt động nhưng họ vẫn tiếp tục tu tập để xả bỏ những thói quen hay tập khí xấu xa từ trước. Đây là giai đoạn biến chuyển nội tâm rất tế nhị vì các tập khí ngày trước vẫn tiềm ẩn một cách tinh vi trong tâm thức họ.

Trong thời gian bắt đầu tu tập, nhiều người có lòng tốt, muốn hoạt động giúp đời nhưng vì trong tâm họ vẫn còn chút tham vọng nên họ thường tìm sự thỏa mãn khi công việc đạt thành, hay mong muốn được người đời kính nể,thán phục. Tóm lại, họ vẫn còn các hoài bão có tính cá nhân và hiển nhiên sẽ gặp các thử thách để giúp họ nghiệm ra bài học này. Những người hoạt động về tôn giáo, từ thiện hay xã hội luôn gặp nhiều trở ngại vì trong tâm thức họ vẫn còn vương một chút tham lam. Hiển nhiên, họ sẽ bị chê bai, ganh ghét hay gặp phiền não, vì đó là những thử thách cuối cùng để giúp họ thanh lọc bản ngã. Đây là một thứ bản ngã vi tế được khôn khéo che đậy dưới các hình thức tốt đẹp. Dĩ nhiên, nếu chưa qua bài học này, họ sẽ còn gặp khó khăn rất nhiều cho đến khi ý thức được động năng đã thúc đẩy họ hành động như thế và can đảm dứt bỏ hay chuyển hóa nó. Theo thời gian, khi họ học trọn vẹn bài học rằng phải biết dứt khoát với mọi động cơ ích kỷ trong các hoạt động tâm linh, họ sẽ tiến bộ rất xa. Đó chính là ý nghĩa câu nói của đức Krishna trong Bhagavad Gita: “Các con chỉ nên lo hành động mà thôi, đừng mong cầu kết quả, dù kết quả đó là sự thán phục, cảm mến, hay biết ơn của những người xung quanh. Đừng để ý đến kết quả và chớ đồng hóa kết quả với nguyên nhân”.

Khi bản ngã được thanh lọc hoàn toàn, con người sẽ không làm việc vì mong được biết đến hay tri ân. Họ đã biết từ bỏ các ham muốn. Thành công hay thất bại không còn ý nghĩa đối với họ nữa; khi đó, họ sẽ đạt đến trạng thái an lạc hoàn toàn: không vui, không buồn; không lo, không sợ; không ao ước, không mong cầu. Tất cả những gì thuộc về bản ngã thấp hèn đều được chuyển hóa và từ đó bắt đầu hành động bằng cái tâm tinh khiết, thành thật vì biết rõ hành động chính là một phận sự thiêng liêng, một động năng cần thiết,tự nhiên như hơi thở vậy. Đó chính là bí quyết của pháp môn Karma Yoga: “Không tìm kiếm hành động khi nó không đến, nhưng cũng không từ chối khi nó xảy ra. Hãy vui vẻ, thản nhiên; khi việc đến thì làm, khi việc không đến thì ngồi yên, bình thản trước mọi thăng trầm của cuộc đời”. Đó cũng là mục đích của Karma Yoga mà đức Krishna đã nói trong Bhagavad Gita: “Phải biết bình thản trong mọi thất bại cũng như thành công, đó là sự quân bình của Karma Yoga”.

Đây là giai đoạn cuối của con đường Karma Yoga. Khi hành giả đã đạt đến trạng thái vô ngã, vô cầu, vô niệm, họ sẽ ý thức rằng mọi sự chỉ là những khí lực vẩn vơ, không thật, đến và đi như gió thổi, mây bay. Đây cũng là lúc các pháp môn Yoga hay những con đường khác nhau họp lại thành một con đường duy nhất. Từ thái độ an nhiên tự tại, không mong cầu, xin xỏ hay tìm kiếm điều gì, cũng không từ chối bất cứ điều gì, sẽ nảy sinh ra một thứ tuệ giác đặc biệt - một thứ tuệ giác sáng chói giúp con người có khả năng phân biệt chân giả cùng các định luật của vũ trụ, từ đó trở thành một hành giả Yoga thượng thừa qua khả năng hành động, cũng như những hành giả Yoga khác đã đạt được trạng thái này qua suy tư, thiền định hay sùng tín.

Các pháp môn Yoga hay các con đường đạo, lúc đầu tuy khác nhau, nhưng rồi sẽ hợp làm một khi hành giả đạt đến giai đoạn cuối này. Đây là lúc hành giả được coi là đã xứng đáng để hợp nhất với Thượng đế. Khi đã xóa bỏ tham luyến của dục vọng vật chất, họ sẽ thấy Thượng đế hiện diện ngay trước mặt họ và khi đó hành giả bước vào giai đoạn cuối cùng: giai đoạn của sự hiến dâng.

Khi đó, con người sẽ thấy mình và Thượng đế không còn cách biệt nữa, mà đã hòa làm một. Đến đây, hành giả sẽ hưởng được tất cả những ân phước hân hoan, phúc lạc nhất. Sự an lạc thiêng liêng tràn ngập khắp tâm hồn họ, vì họ đã gạt bỏ được cái phàm ngã thấp hèn, trong tâm họ chỉ có cái Chân ngã tinh khiết thấm nhuần tất cả. Kể từ đó, tất cả những gì họ làm, những phận sự họ thi hành, đều là những hoạt động dâng hiến và họ hoàn toàn hưởng đượ csự an lạc của kẻ hiến dâng. Con người khi đó trở thành một luồng vận hà những ân phước tốt đẹp nhất của Thượng đế. Đó cũng chính là ý nghĩa câu nói của đấng Krishna trong Bhagavad Gita: “Đó chính là tâm trạng của Thượng đế, hỡi con của Pritha. Những ai đã đến đó chẳng bao giờ còn lầm lạc. Đến giờ lâm chung, ai giữ được tâm trạng đó sẽ tiến đến cõi Chân, Thiện, Mỹ của sự vĩnh cửu”.

Sau pháp môn Karma Yoga là pháp môn Jnana Yoga. Đây là một pháp môn được gìn giữ cẩn thận, ít truyền ra bên ngoài vì nó là con đường chỉ dành cho những người có căn duyên đặc biệt. Đây cũng là một pháp môn đòi hỏi sự tinh luyện bản thân rất sâu sắc và nhiều nguy hiểm.

Trong giai đoạn đầu của con đường Jnana Yoga, hành giả khởi sự thu tập kiến thức. Họ tìm thấy nguồn vui qua các ý tưởng thanh cao, thâm sâu trong kinh sách và nhờ nghiên cứu mà họ tìm được những điều họ muốn biết như bản chất của vũ trụ, nguồn gốc của nhân sinh, các bí mật ẩn tàng trong thiên nhiên cũng như các định luật huyền bí của vũ trụ. Đa số những người đi theo con đường này thường không màng lợi danh vật chất, không tìm kiếm dục vọng thấp hèn. Phần lớn đều là những người có tính tình trầm lặng. Họ yêu mến kiến thức vì đối với họ đó là nguồn vui thanh cao, t*o nhã. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, ít ai ý thức rằng kiến thức không phải là minh triết. Kiến thức và minh triết khác nhau rất xa.

Kiến thức phát sinh do sự quan sát các hiện tượng bên ngoài, phân loại chúng rồi đi tìm những định luật chung có thể áp dụng cho tất cả. Đây là sự nghiên cứu, thí nghiệm xem điều mình quan sát, kết luận có thích hợp với những sự kiện ngoại giới hay không. Phần lớn những người đi trên đường này đều có khả năng quan sát một cách tỉ mỉ mọi hiện tượng xảy ra trong trời đất. Đối với họ, trong vũ trụ không có gì quá lớn hay quá nhỏ, giản dị hay phức tạp, mà tất cả đều là đối tượng để nghiên cứu. Họ dồn sức nghiên cứu tất cả, từ một vi sinh vật li ti đến dải thiên hà vĩ đại. Sự ham học hỏi khiến họ mong muốn tìm kiếm điều hoàn hảo, và từ hiểu biết này, họ sẽ thấy rõ điều vĩ đại, chính xác tuyệt diệu và các định luật ẩn tàng của Thượng đế, đó chính là mục đích của Jnana Yoga.



Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 81

#15 FM_daubac

    Khảm viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6847 Bài viết:
  • 5579 thanks

Gửi vào 15/08/2020 - 07:08

Kinh Veda có một câu chuyện về con đường này như sau: Một hành giả Yoga được đưa đến nơi có một ngôi đền to lớn, lộng lẫy, trang nghiêm vô cùng. Tất cả mọi vật trong đó đều vĩ đại chưa từng thấy, những căn phòng rộng mênh mông, trải dài xa hút tầm mắt. Sau khi đi mãi qua nhiều căn phòng khác nhau, hành giả bước vào một căn phòng khổng lồ ở cuối hành lang và thấy một bà lão, dáng vẻ trang nghiêm đang chăm chú làm việc. Những ngón tay của bà nắn nót không ngừng. Hành giả vừa run sợ vừa kính cẩn vì nghĩ rằng bà đang làm một việc vĩ đại lắm nên vội quỳ xuống hỏi. Bà lão lên tiếng: “Ta đang nặn chiếc chân sau của một con bọ chét”. Câu chuyện này nói lên sự toàn tâm toàn ý khi làm việc, dù làm bất cứ việc gì, lớn hay nhỏ, người đi trên con đường này đều phải tận tâm tận lực và hết sức cẩn thận.

Tuy nhiên, vì say mê kiến thức mà phần lớn những người đi trên đường này dễ bị lạc vào mê lộ của từ chương và lầm đường lạc lối. Đó chính là sự hiểm nguy của con đường Jnana Yoga. Đức Krishna đã nói trong Bhagavad Gita: “Trong hàng ngàn người học hỏi kiến thức, không có đến một người gặp được Thượng đế vì Thượng đế không phải điều ta có thể tìm thấy trong sách vở”. Chính vì ham mê kiến thức mà các hành giả đi trên con đường này tìm kiếm, khám phá không ngừng, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, từ thế giới này đến thế giới kia. Qua việc trau đồi kiến thức, họ đi từ cảnh giới này qua cảnh giới khác, học hỏi, nghiên cứu mãi không thôi. Từ cõi hữu hình qua cõi vô hình, họ say mê nghiên cứu, thu tập các hiện tượng mà từ trước đến nay họ không hề hay biết. Kiến thức của họ mở rộng, sự say mê thúc đẩy họ tìm tòi thêm nữa. Họ thu góp những dữ kiện mới lạ, lập thành những định luật riêng, những cảnh giới lạ lùng lần lượt diễn qua mắt họ và cứ thế họ hăng say tìm kiếm, giải thích. Khi giải thích được một sự kiện thì vô số những sự kiện khác lại xảy ra thúc đẩy họ khổ công đi sâu thêm nữa. Khi họ hiểu biết được một cảnh giới thì lại có vô số cảnh giới khác hiện ra với những dữ kiện cần thu tập, nghiên cứu và cứ thế từ kiếp này qua kiếp khác, họ trôi nổi trong những lý thuyết không bao giờ dứt.

Trở ngại lớn nhất của các hành giả đi theo con đường Jnana Yoga là “bệnh trí thức”, nghĩa là say mê giải thích mọi sự việc mà quên đi mục đích cao cả lúc ban đầu. Bất cứ điều gì họ cũng cố công giải thích, lập luận và từ đó phát sinh ra một loại người đi tìm từng dấu chấm, dấu phẩy trong kinh sách để giải thích chân lý qua con số, dấu chấm và dấu phẩy. Đây là loại giáo sĩ “chẻ sợi tóc làm tư” để lập thuyết và điều này đã đem lại nhiều rối rắm cho Ấn giáo. Các tín đồ học hỏi với các vị đạo sĩ mắc căn bệnh trí thức này sẽ giải thích kinh điển một cách hăng say, nhưng không thể áp dụng bất cứ điều gì vào đời sống hằng ngày.

Vì không thiết tha với đời sống, tình cảm của họ từ từ cằn cỗi. Theo thời gian, họ trở thành những người thuần lý, ít tình cảm, sống khổ hạnh, xa lánh mọi người, điển hình là các đạo sĩ tu khổ hạnh hay những học giả say mê cuồng nhiệt các giá trị hồi chương.

Một trở ngại khác của người đi trên con đường này là sự tự hào về kiến thức - một hình thức che đậy khôn khéo của bản ngã. Đa số những người này phủ nhận đời sống thường nhật mà tìm kiếm một đời sống khác thường. Hoặc là họ tìm vào rừng sâu núi thẳm ẩn tu vì khinh thường các giá trị thế tục. Hoặc là họ thực hành những phép tu khổ hạnh, hành hạ xác thân như nằm trên bàn chông, giơ tay lên trời cho đến khi khô kiệt, hay lập ra các tà thuyết lập dị. Hoặc họ sống trong xã hội nhưng đầu óc chỉ quanh quẩn với nhữngcon số, sách vở, lý thuyết mà quên đi sự hiện diện của những người xung quanh. Tất cả đều bắt đầu từ tự ngã - cho rằng mình hơn người khác - mà quên rằng bản ngã càng lớn bao nhiêu, sự hợp nhất với Thượng đế càng khó khăn bấy nhiêu. Đó cũng là điều được viết trong Bhagavad Gita. Đức Krishnađã nói: “Trong khi những kẻ này nghĩ rằng họ đã đến bên cửa trời thì thực ra họ đã đến thềm địa ngục mà không hay”.

Minh triết không phải là kiến thức mà là sự hiểu biết trực tiếp những chân lý hằng có trong vũ trụ. Đó là sự nhận biết khả năng vô biên của Thượng đế, sự hiểu biết bản chất của đấng tối cao ngự trị trong muôn loài. Minh triết đòi hỏi một sự hiểu biết đặc biệt, uyên bác và sâu sắc qua việc tu luyện bản thân
chứ không phải chỉ thu tập các kiến thức. Để tránh các khó khăn và vượt qua các trở ngại của lý thuyết hồi chương, pháp môn Jnana Yoga đề cập sự kiểm soát lý trí và xác thân qua việc thực hành các kỷ luật điều tâm và điều thân qua các tư thế. Nhờ kiểm soát được cả tâm lẫn thân mà hành giả không bị các yếu tố bên ngoài chi phối, lôi kéo. Sau khi thu tập kiến thức, hành giả phải biết thế nào là đủ và ngưng lại, quay vào quán sát, học hỏi phía bên trong. Nhờ thế họ sử dụng kiến thức như một công cụ để hiểu mình và sự biết mình sẽ giúp họ tập tính Khoan dung, có thái độ cởi mở với mọi vật, hòa đồng với xung quanh, chứ không tự xem mình là quan trọng nữa. Hiểu rằng Thượng đế ngự trị trong muôn loài sẽ giúp hành giả xóa bỏ sự phân biệt giữa ta và tha nhân. Sau đó họ phải luyện tập sự Bền chí để phát triển nội tâm vì một nội tâm yếu đuối không thể vươn lên hòa nhập với Đại ngã được. Kỷ luật thứ năm là việc phát triển lòng tin về nguồn gốc thiêng liêng và tin rằng điều mình muốn sẽ có thể được thực hiện. Kỷ luật cuối cùng là gìn giữ sự quân bình giữa tâm hồn và thể xác, vì chỉ trong sự quân bình này mà họ được an nhiên, tự tại, không nghiêng về bên nào. Cũng chỉ trong sự quân bình này mà họ phát triển được trí tuệ. Nhờ có trí tuệ mà hành giả sẽ hiểu rõ sự trường tồn và các điều tạm bợ, phân biệt được vỏ và nhân, hình tướng và bản thể, điều chân và lẽ giả, từ đó bắt đầu bước chân vào Jnana Yoga.

Trên con đường này, hành giả sẽ phân rõ sự khác biệt vốn chỉ là ngoại cảnh hay vòng hư ảo nhằm che giấu sự thật rằng có một thứ duy nhất và trường tồn nằm sâu trong mọi vật. Đó là Thượng đế hay Chân lý. Sự chuyển biến từ sống đến chết, từ có đến không, vạn vật thay đổi chỉ là các hình tướng bên ngoài của các yếu tố vô minh. Đó cũng là điều mà đấng Krishna đã nói trong Bhagavad Gita: “Kẻ nào biết được chính vạn vật thay đổi, còn Đại ngã vốn bất động, kẻ đó mới thực sự biết”.

Nhờ thu tập kiến thức, người đi trên con đường Jnana Yoga phát triển khả năng suy luận, khám phá. Nhờ kiểm soát tâm và thân qua kỷ luật tự giác, họ phát triển khả năng phân biệt và sự phân biệt này sẽ bổ túc sự khiếm khuyết của kiến thức mà họ thu lượm được. Jnana Yoga quan niệm rằng kiến thức là vô minh nếu nó chỉ giới hạn ở ngoại cảnh; khoa học là vô minh nếu nó chỉ nghiên cứu các hiện tượng bên ngoài. Sự hiểu biết thật sự chỉ đến khi con người tự biết mình. Biết mình thì sẽ biết được vũ trụ và khi biết được sự tương quan giữa mình và vũ trụ, sẽ quán triệt được quan niệm về Tiểu ngã và Đại ngã để đẹp bỏ cái Tiểu ngã thấp kém và hòa nhập vào cái Đại ngã vô cùng. Người đi trên con đường Jnana Yoga dù nghiên cứu các sự kiện ngoại giới nhưng vẫn lắng nghe tiếng nói của nội tâm vì biết rằng các hình tướng bên ngoài chỉ là những hư ảo, phản ảnh của tâm thức bên trong mà thôi, và nhờ biết thế mà họ có thể chuyển đổi sự hiểu biết sang sự minh triết.

Jnana Yoga dạy rằng sự hiểu biết ngoại giới thì mênh mông, không thể nắm hết được. Tuy nhiên, khi đã hiểu rõ định luật “nhất bổn tán vạn thù” thì chỉ cần hướng vào bên trong, tìm hiểu chính mình, như vậy sẽ biết rõ mọi sự kiện bên ngoài vì bản chất của mình và vũ trụ vốn không hề khác (vạn vật đồng nhất thể). Sự khác biệt chỉ là những biến chuyển của ngoại cảnh, những màn hư ảo đã che giấu sự thật về đời sống duy nhất, sự sống duy nhất, hay Thượng đế duy nhất. Ngoài sự duy nhất đó ra thì không còn gì nữa. Khi hành giả quán triệt quan niệm này là họ đã sẵn sàng để bước vào giai đoạn cuối của Jnana Yoga.

Nhờ kinh nghiệm thu tập được, nhờ trí tuệ sắc bén, nhờ lý luận tinh vi, cũng như các đức tính quý báu khác, họ đạt đến trạng thái Adhikari (trạng thái có thể nhận được giáo lý tối hậu) rằng: “Đại ngã vốn ở khắp nơi, ẩn tàng trong tất cả sự vật”. Đó chính là ẩn nghĩa câu nói của đấng Krishna trong Bhagavad Gita: “Thượng đế ngự đồng đều trong vạn vật”. Đây là một kinh nghiệm rất khó quán triệt, vì nó ngụ ý một sự đồng ngự khắp nơi, từ vật tốt đẹp đến vật xấu xa, từ điều cao thượng đến việc thấp hèn, từ hạt bụi đến các thái dương hệ, từ cái ngã của kẻ trụy lạc đến cái ngã của bậc thánh nhân. Đây là bằng chứng hùng hồn rằng toàn thể vũ trụ đều là biểu hiện của đấng Tối cao.

Hiểu được điều này có nghĩa rằng muốn được minh triết hoàn toàn, con người phải kinh qua tất cả các trải nghiệm. Nếu đã thấy Đại ngã trong những điều đẹp đẽ, huy hoàng thì họ cũng phải thấy nó trong các điều xấu xa, hèn hạ. Do đó, sự thật không có gì là tốt đẹp hay xấu xa hoàn toàn, mà tất cả chỉ là những giá trị tương đối, những sự kiện cần thiết để hỗ trợ cho sự tiến hóa và hiểu biết. Mọi sự kiện đều có những ý nghĩa thiêng liêng trong cơ trời. Mọi vật đều có những vị trí đặc biệt trong một chương trình vĩ đại. Vì chỉ để ý đến sự dị biệt nên người ta mới thấy sự bất toàn và chỉ hiểu được một phần của sự thật chứ không phải toàn thể. Sự hiểu biết bất toàn là kiến thức, sự hiểu biết toàn vẹn là minh triết. Từ đây, hành giả sẽ có cơ hội quan sát các diễn biến đang xảy ra trong vũ trụ và thấy rõ Đại ngã ở khắp nơi khắp chốn, tất cả mọi vật đều nhờ nó mà hiện hữu và tất cả đều có khuynh hướng quay trở về nguồn. Đó cũng là ý nghĩa của quy luật: “Mọi vật đều tìm Thượng đế”. Bài học này sẽ cắt đứt các mối đây liên hệ với vô minh và đưa cái Tiểu ngã nhỏ bé hòa hợp với cái Đại ngã bất diệt, và đó chính là mật chỉ màu nhiệm của Jnana Yoga.

Nói thì giản dị như vậy, nhưng Jnana Yoga là một pháp môn rất khó. Nó đòi hỏi sự hiểu biết toàn vẹn và sống thực với kiến thức đó chứ không phải là một thứ lý thuyết trừu tượng. Một hành giả Jnana Yoga thực sự sẽ không bao giờ sinh tâm phân biệt, bị lôi kéo theo các sở thích của giác quan, mà luôn sống với tâm bình thản, chấp nhận, can đảm và dũng mãnh. Họ chỉ nhận những cảm hứng từ bên trong chứ không chịu ảnh hưởng bên ngoài và biết sử dụng kiến thức như một người chủ chứ không phải một kẻ nô lệ. Họ luôn luôn tự do, ung dung tự tại trước mọi hoàn cảnh chứ không mảy may bị trói buộc bởi bất cứ điều gì. Một người chưa làm chủ được dục vọng, chưa đạt đến trạng thái tâm vô phân biệt mà thốt lên những lời minh triết chỉ là những kẻ tự lừa dối mình và chẳng bao giờ có thể vượt khỏi sự lôi kéo của vô minh. Để tránh mối nguy hại của sự ngụy biện này, Jnana Yoga thường được gìn giữ cẩn thận và chỉ được truyền dạy cho những người có đức hạnh thật sự, những người đã làm chủ được lòng ham muốn.

Trong khi người đi trên Jnana Yoga tìm chân lý qua kiến thức và kỷ luật tự giác, thì người đi trên Bhakti Yoga đến với Thượng đế bằng sự kính yêu, thờ phụng và tin tưởng. Trong Bhagavad Gita, đức Krishna đã nói: “Những ai biết hướng tâm hồn về Thượng đế và tôn sùng ngài với lòng nhiệt thành, những kẻ đó luôn vững bước trên đường đạo”. Bản chất của Bhakti Yoga là sự tôn kính, yêu thương đấng Thượng đế tối cao và hoàn toàn hiến dâng tất cả hành động của mình cho ngài. Chính nhờ sự biết quên mình này mà họ có thể hòa hợp với Thượng đế một cách tự nhiên. Hành giả Bhakti Yoga tin tưởng Thượng đế một cách tuyệt đối và không thể sống mà thiếu đức tin này, dù chỉ trong chốc lát. Đức Krishna đã miêu tả người đi trên đường này là: “Kẻ đã đặt trọn cuộc đời họ vào trong tay Thượng đế. Họ sống trọn vẹn trong tình thương của ngài và không mong muốn thứ gì khác nữa. Không dục lạc nào của thế gian có thể quyến rũ họ. Không mục tiêu nào của thế gian có thể lay chuyển niềm tin sắt đá của họ đối với Thượng đế”.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



đến trang 86

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |