Jump to content

Advertisements




NGUYÊN LÝ NGHIỆP QUẢ ( SƯU TẦM )


3 replies to this topic

#1 YOYO

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 294 Bài viết:
  • 131 thanks

Gửi vào 29/08/2020 - 08:39

NHÂN QUẢ (Karma)

Sau khi đã theo dấu sự tiến hóa của linh hồn xuyên qua nhiều kiếp luân hồi, bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu một luật quan trọng khác, nói về nguyên nhân mà những kiếp tái sinh mang theo, được gọi là luật nhân quả (Karma). Karma là Phạn ngữ, theo văn tự có nghĩa là ‘‘hành động’’, được giải thích rằng tất cả các sự việc xảy ra trong hiện tại là hậu quả phát sinh từ những nguyên nhân trước kia, và mỗi sự việc do con người làm ở hiện tại trở thành nguyên nhân của những hậu quả tương lai; quan niệm về nguyên nhân và kết quả là một thành phần cốt yếu của quan niệm về hành động. Do đó, từ ngữ hành động hay Karma được dùng để chỉ sự tương quan nhân quả, hay là một chuỗi liên tiếp không đứt đoạn của những nguyên nhân và kết quả trong tất cả mọi sinh hoạt của con người. Vì lý do đó, khi có một biến cố xảy ra, đôi lúc người ta thốt lên: ‘‘Đây là nghiệp quả của tôi,’’ hay ‘‘Sự việc này là kết quả của nguyên nhân do tôi đã gây ra trong kiếp trước.’’ Không có một sự sống nào bị cô lập cả; mỗi sự sống là kết quả của tất cả sự sống trước kia, toàn bộ các kiếp sống hợp thành một sự sinh tồn tiếp diễn liên tục của cá nhân. Không bao giờ có trường hợp ‘‘ngẫu nhiên’’ hay ‘‘tình cờ’’; mọi biến cố đều có mối liên lạc với một nguyên nhân từ trước đưa đến kết quả theo sau; tất cả tư tưởng, hành động, hoàn cảnh đều bắt nguồn từ nhân quá khứ và sẽ là quả ở tương lai. Vì chúng ta bị màn vô minh che phủ bởi ảo tưởng của quá khứ cũng như của tương lai, cho nên thấy những biến cố có vẻ như xảy đến đột ngột từ khoảng không, như là một sự ‘‘ngẫu nhiên’’, nghĩ như thế chỉ là ảo tưởng và hoàn toàn do sự thiếu hiểu biết. Với người hoang dã, không biết những định luật vật chất trong vũ trụ, họ cho rằng các biến cố vật chất đều không có căn nguyên, và đó chỉ là ‘‘những phép lạ’’, còn với người không hiểu những luật thuộc trí tuệ và đạo đức, thì xem những biến cố này đều là chuyện ngẫu nhiên, và tất cả chỉ do ‘‘số phần’’ may rủi của con người.

Từ khi có quan niệm về luật thiên nhiên không thể vi phạm và cũng không thể thay đổi, cho đến nay con người vẫn còn cảm giác như vô dụng, tinh thần đạo đức và trí tuệ gần như bị tê liệt. Con người cảm thấy bị kìm kẹp trong định mạng sắt đá; và sự chối bỏ ‘‘số mạng’’ của người Hồi Giáo có vẻ như là một triết lý duy nhất được phát biểu. Người hoang dã lần đầu tiên bị hốt hoảng bởi những hiện tượng thiên nhiên, họ học được rằng mọi luân chuyển bên trong của cơ thể, cũng như mọi vận chuyển của thiên nhiên bên ngoài, đều xảy ra do tác động của những luật không thể thay đổi. Dần dần họ học được rằng, luật thiên nhiên đưa ra điều kiện cho tất cả những hoạt động xúc tiến, nhưng không ra lệnh hay sai khiến. Do đó, ở bên trong con người vẫn có được tự do, trong khi những hoạt động bên ngoài của họ bị giới hạn bởi các điều kiện của nơi họ sinh hoạt. Họ còn học thêm rằng, khi nào họ chưa biết được những điều kiện ấy, thì chúng làm chủ họ, thường xuyên chống lại những cố gắng không ngừng của họ. Nếu biết được những điều kiện, hiểu biết rõ những đường hướng cũng như sức mạnh của chúng, họ sẽ chống lại được và khuất phục chúng, khiến chúng trở thành nô lệ, phục vụ cho họ.

Sự thật, khả năng của khoa học chỉ thực hiện trên cảnh giới vật chất, vì những luật cố định của thiên nhiên không thể bị vi phạm. Nếu không có luật thiên nhiên thì không có khoa học. Một nhà nghiên cứu thực hiện một số thí nghiệm, nhờ kết quả công việc này, ông hiểu được tác động của thiên nhiên. Khi hiểu được tác động của thiên nhiên, ông có thể tính toán làm thế nào để đạt được kết quả mong muốn. Nếu thất bại, ông tự hiểu là đã bỏ sót vài điều kiện cần thiết, hoặc do sự hiểu biết của ông chưa chính xác, hoặc đã tính toán sai. Khi đó ông kiểm điểm lại những điều hiểu biết, duyệt lại các phương pháp áp dụng, cân nhắc sự tính toán. Với sự bình tĩnh và quyết tâm, nếu ông đặt câu hỏi một cách đúng đắn thì thiên nhiên sẽ trả lời chính xác. Không thể nào hydrogen và oxygen hợp lại thành nước ngày hôm nay, mà ngày mai lại cho ra prussic acid; cũng như lửa thiêu đốt hôm nay, mà ngày mai lại có thể làm đông lạnh. Nếu nước là một chất lỏng hôm nay, ngày mai là một chất đặc, bởi vì những điều kiện ở chung quanh bị biến đổi; khi những điều kiện nguyên thủy được phục hồi, thì sự vật sẽ trở lại với trạng thái ban đầu. Mỗi sự hiểu biết mới về luật thiên nhiên không là một hạn chế mới, mà là một quyền năng mới làm cho những năng lượng của thiên nhiên trở nên sức mạnh, có thể được con người sử dụng tùy theo trình độ thấu hiểu những năng lực ấy. Câu thành ngữ ‘‘sự hiểu biết là quyền năng’’ cho thấy mức độ sử dụng được những năng lực này tương ứng với trình độ kiến thức của một người. Bằng sự cân nhắc giữa việc này với việc khác, và bằng sự trung hòa những năng lực đối nghịch có thể ngăn trở công việc, con người có thể đoán trước kết quả, hầu quyết định thực hiện công việc đã dự tính. Nhờ hiểu biết và vận dụng được những nguyên nhân, con người có thể đoán trước kết quả. Như thế, lúc đầu sự khắt khe của thiên nhiên dường như làm tê liệt hành động của con người, nhưng dần dần họ có thể sử dụng những luật khắt khe ấy để sản xuất ra nhiều thành quả khác nhau vô tận. Sự cứng rắn tối đa trong mỗi lực, có thể tạo nên sự uyển chuyển tối đa trong những hợp chất. Mục đích đạt được thường không sai lầm, vì có sự cân bằng kỹ lưỡng của những luật chính xác, và liên kết nhau do những nguyên nhân. Nhưng nên nhớ rằng sự hiểu biết rất cần thiết để hướng dẫn mọi công việc, và đem lại kết quả mong muốn. Người không hiểu biết thường bị vấp ngã, vô vọng, cố gắng chống lại những luật bất di dịch, để rồi thất bại; trong khi người hiểu biết tiến tới một cách vững chắc, nhìn thấy được những nguyên nhân để ngăn ngừa, điều chỉnh các sự việc, thực hiện mục tiêu nhắm đến, không nhờ may mắn mà do sự hiểu biết. Một người có thể chỉ là một món đồ chơi, làm nô lệ và quay cuồng theo năng lực của thiên nhiên; còn một người khác làm chủ thiên nhiên, biết sử dụng năng lượng của vũ trụ theo đường lối mà người ấy đã lựa chọn bằng ý chí.

Điều gì đúng thật trong phạm vi của định luật vật chất, cũng đúng trong phạm vi đạo đức và trí tuệ; nơi đây cũng thế, người vô minh là nô lệ, nhà hiền triết là vua. Có những điều không thể vi phạm và không thay đổi được, xem dường như bị tê liệt; nhưng chính đó là những điều kiện cần thiết và chắc chắn cho sự tiến bộ, cho hướng nhìn rõ ràng về tương lai. Con người có thể trở thành ông chủ vận mạng của chính mình, vì vận mạng được quản trị theo luật thiên nhiên, vì trí thức có thể kiến tạo khoa học của linh hồn và cũng vì con người nắm trong tay quyền năng điều khiển tương lai, cũng như chọn lựa tính chất và hoàn cảnh tương lai cho chính mình. Sự hiểu biết luật nhân quả trở thành nguồn cảm hứng, nâng đỡ, và thúc đẩy năng lực con người.

Karma là luật của tương quan nhân quả, của tác nhân và hậu quả. Thánh Paul trong Thiên Chúa Giáo đã nhấn mạnh câu: ‘‘Đừng gian trá, Chúa không bị lừa dối, những gì con người đã gieo thì phải gặt lấy.’’[88] Con người liên tục phóng ra năng lực ở tất cả các cõi mà họ sinh hoạt. Năng lực này là sự tổng hợp những kết quả, cả về lượng lẫn phẩm từ những hoạt động của họ trong quá khứ, và là nguyên nhân mà họ tạo nên trên mỗi thế giới họ đang sinh sống. Nguyên nhân này chắc chắn đem lại kết quả xác định cho chính họ và cho kẻ khác, các nguyên nhân này phát sinh từ họ, thì họ phải gánh lấy trách nhiệm về kết quả của chúng. Như một thanh nam châm có «từ trường» của nó, trong vùng từ trường này, tất cả lực đều tác động, rộng hay hẹp tùy vào sức mạnh của nó. Cũng thế, mỗi người đều có một phạm vi ảnh hưởng của năng lực đang hoạt động do họ phát ra, năng lực này vận hành theo đường vòng và quay về nơi phát xuất, trở lại trung tâm nơi nó đã được phóng ra. Đây là một vấn đề vô cùng phức tạp, chúng ta sẽ phân chia ra nhiều phần và nghiên cứu từng phần một.

Trong cuộc sống bình thường, con người phát ra ba loại năng lượng, tùy thuộc chặt chẽ vào ba cõi mà họ đang sống: năng lượng trí tuệ trên cõi trí, phát sinh những tư tưởng; năng lượng cảm dục trên cõi trung giới, phát sinh những sự ham muốn; năng lượng vật chất kích thích và hoạt động ở cõi trần, phát sinh các hành động. Chúng ta nên nghiên cứu mỗi loại năng lượng này theo tính cách hoạt động của nó, và tìm hiểu hiệu quả của mỗi loại năng lượng đã phát xuất, nếu chúng ta muốn hiểu thành phần của mỗi tác động trong tập hợp rắc rối và phức tạp, mà toàn bộ sự việc này được gọi là ‘‘nghiệp quả của chúng ta.’’ Khi một người tiến bộ nhanh hơn các bạn, đạt được khả năng linh hoạt trên các cõi cao, người ấy trở thành trung tâm của những thần lực cao cả. Bây giờ chúng ta hãy tạm gác lại vấn đề này, và giới hạn sự nghiên cứu vào phần đông nhân loại bình thường đang đi trên vòng luân hồi qua ba cõi.

Khi nghiên cứu ba loại năng lượng vừa kể, chúng ta sẽ xét đến những ảnh hưởng của chúng đối với chính người đã phát sinh ra chúng, và đối với những sinh vật khác trong vùng ảnh hưởng của chúng. Do thiếu hiểu biết đặc điểm này, sinh viên thường bị thất vọng và hoang mang. Chúng ta nên ghi nhớ, mỗi năng lực tác động trên chính cõi của nó và phản ứng nơi những cõi thấp hơn tương xứng với cường độ của nó. Khi năng lực phát sinh nơi một cõi nào đó, sẽ mang những đặc tính của cõi đó. Khi phản ứng lên các cõi thấp, nó tạo ra những rung động trong vật chất thanh nhẹ hay trọng trược, tùy thuộc vào chính bản chất gốc của nó. Động lực tạo ra những hoạt động, phát xuất từ cõi giới đã phát sinh năng lực.

Kế tiếp, chúng ta cần phân biệt những loại nghiệp quả sau: Nghiệp quả chín mùi (the ripe Karma), sẵn sàng gây ra những biến cố không thể tránh khỏi trong kiếp hiện tại. Nghiệp quả thuộc bản chất tính tình của con người tự biểu hiện qua các khuynh hướng, được tạo ra do những kinh nghiệm tích trữ; nghiệp quả này có thể sửa đổi được ngay trong kiếp hiện tại, bằng chính năng lực chân ngã đã tạo tác ra chúng trong quá khứ. Nghiệp quả đang tạo ra trong hiện tại, sẽ tạo ra những biến cố và tính tình cho tương lai.[89]

Xa hơn, chúng ta thấy rõ, khi một người tạo ra nghiệp của chính mình, họ cũng có liên hệ với những người khác, vì vậy họ trở nên là một thành viên của những nhóm khác nhau như: gia đình, quốc gia, chủng tộc, và với tính cách là một thành viên, họ dự phần vào nghiệp chung, hay cộng nghiệp (the collective karma) trong những nhóm đó.

Ta thấy việc nghiên cứu nghiệp quả là điều rất phức tạp; tuy nhiên, một khi đã nắm vững những nguyên tắc chính yếu về tác động của nghiệp quả, thì cũng không khó khăn lắm để chúng ta có một quan niệm tổng quát về đường hướng chung của luật ấy, còn những chi tiết chúng ta có thể sẽ nghiên cứu khi có nhiều thì giờ và dịp thuận tiện. Mặc dù có hiểu rõ những chi tiết hay không, điều quan trọng hơn cả là hãy nhớ rằng mỗi người tự tạo nghiệp quả cho chính mình, cũng như tự tạo những khả năng và giới hạn cho chính mình. Vì vậy, ở một thời điểm nào đó, con người hoạt động với những khả năng mà họ tự tạo trong giới hạn do chính họ áp đặt. Họ vẫn là họ, linh hồn đang sinh động, có thể làm tăng thêm hay làm suy yếu những khả năng để mở rộng hay thu hẹp giới hạn của họ.

Chính con người đã rèn sợi dây xích để trói buộc mình, và con người có thể mài giũa cho đến khi nào nó đứt ra, hay là lấy búa tán thêm cho nó chắc chắn hơn. Con người sống trong căn nhà do chính họ tự xây cất, họ có thể cải thiện cho nó đẹp đẽ thêm, hay để mặc cho nó hư hỏng, hoặc là xây cất lại, nếu muốn. Chúng ta thường nặn đất sét mềm dẻo thành hình thể theo trí tưởng tượng, nhưng đất sét rồi cũng khô và cứng, và giữ nguyên hình dáng mà ta đã nặn. Có một câu cách ngôn diễn tả điều này của Hitopadesha như sau do Sir Edwin Arnold phiên dịch:

‘‘Bạn hãy xem! Đất sét khô cứng như sắt, nhưng người thợ gốm vẫn nặn đất sét.

Định mạng là chủ nhân hôm nay – con người là chủ nhân của ngày hôm qua.’’

Như thế, chúng ta là chủ nhân của tất cả nghiệp quả tương lai của mình, những gì làm trở ngại cho chúng ta hôm nay chính là kết quả của những gì chúng ta đã tạo ra hôm qua.

Bây giờ, chúng ta hãy xét theo thứ tự sự phân chia các loại nghiệp để có thể nghiên cứu dễ dàng hơn.

Có ba nguyên nhân gây nên những kết quả, tác động lên người đã tạo ra chúng và lên những người bị ảnh hưởng. Nguyên nhân thứ nhất là tư tưởng, nó là yếu tố mạnh nhất trong sự tạo ra nghiệp quả của con người, vì năng lượng tư tưởng của Bản Ngã (the Self) tác động trong chất liệu thể trí; chất liệu tinh vi của thể trí hợp thành vận cụ của cá tính (the individual vehicle), còn chất liệu thô kệch của thể trí cũng đáp ứng rất nhanh đối với mỗi rung động của tâm thức bản ngã. Những rung động mà ta gọi là tư tưởng, hoạt động trực tiếp của chủ thể tư tưởng, làm phát sinh những hình thể của chất liệu thể trí, hay những hình tư tưởng, chúng sắp xếp và uốn nắn thể trí như ta đã thấy. Mỗi tư tưởng làm thay đổi thể trí; và khả năng của tư tưởng trong mỗi kiếp tái sinh kế tiếp được tạo nên do sự suy tưởng của những kiếp trước. Một người có thể không có quyền năng tư tưởng, không có khả năng của thể trí, vì thế người ấy không thể tự tạo khả năng ấy bằng cách kiên nhẫn lặp lại những điều đã suy nghĩ. Tuy nhiên, những hình tư tưởng người ấy tạo ra không bị mất đi, mà vẫn còn mãi như là chất liệu cho khả năng, chúng sẽ tụ họp lại trong một nhóm nào đó của những hình tư tưởng, và phát triển mạnh hơn với mỗi tư tưởng thêm vào, hoặc sáng tạo một hình tư tưởng cùng loại. Biết được luật này, con người có thể dần dần tự tạo nên những khả năng trí tuệ như ý họ muốn, và chắc chắn họ có thể làm được một cách chính xác, như người thợ nề xây dựng một bức tường. Sự chết không là một trở ngại cho công việc của họ, vì sau khi chết, họ được tự do thoát khỏi sự ràng buộc của xác thân, làm dễ dàng hơn cho tiến trình tổng hợp các hình ảnh của tư tưởng vào quan năng xác định mà chúng ta gọi là khả năng. Con người sẽ mang theo những khả năng này vào kiếp sau ở cõi trần. Một phần não bộ của xác thân mới được hình thành để thích ứng như là một cơ quan dành cho khả năng này phát triển, theo cách thức đã được giải thích trước đây. Tất cả những khả năng đó họp lại tạo thành thể trí cho một đời sống nơi cõi vật chất. Não bộ và hệ thần kinh được hình thành để giúp cho sự biểu lộ của thể trí nơi cõi trần. Như vậy, hình ảnh của cái trí được sáng tạo trong một kiếp sẽ xuất hiện như là những đặc tính và khuynh hướng của kiếp sống khác. Vì lý do này, trong kinh Upanishads có nói: ‘‘Con người là một sinh vật của sự phản tỉnh; những gì mà con người suy tư trong đời này, sẽ trở thành bản tính của họ trong đời sau.’’[90] Đó là định luật, và sự tạo thành đặc tính trí tuệ của chúng ta được đặt hoàn toàn vào đôi tay chúng ta. Nếu ta kiến tạo điều tốt, thì hoàn cảnh sẽ thuận lợi và hữu ích, nếu ta kiến tạo điều xấu, thì ta phải chịu thiệt thòi. Vậy, đặc tính của thể trí là sự biểu hiện của nghiệp quả cá nhân, do chính người ấy tác động tạo ra.

Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý đến việc tư tưởng của người này cũng ảnh hưởng đến những kẻ khác. Những hình tư tưởng đó hợp thành thể trí của chính người ấy, và phát ra những rung động, tạo trở lại những hình tư tưởng dưới hình thức những hình tư tưởng phụ. Thường những rung động này được trộn lẫn với dục vọng, thu hút thêm một số chất liệu cõi tình cảm, như tôi (A. Besant) có đề cập đến vấn đề này ở một nơi khác,[91] và đã gọi những hình tư tưởng phụ này là hình tư tưởng trí cảm dục (astro-mental images). Những hình thể đó rời khỏi kẻ tạo ra chúng và tự kéo dài sự sống gần như độc lập, nhưng vẫn giữ sự ràng buộc bằng từ lực với kẻ đã tạo ra nó. Chúng đến tiếp xúc và ảnh hưởng những kẻ khác, bằng cách đó chúng tạo nên những nghiệp quả liên kết giữa kẻ khác và người tạo ra chúng, và điều này còn gây ảnh hưởng sâu rộng đến môi trường tương lai. Vậy, khi tạo thành sự việc đó chúng sẽ ràng buộc con người lại với nhau, tốt hoặc xấu ở những kiếp về sau. Điều này mang đến trên đường đi của chúng ta, những người giúp đỡ cũng như những người gây trở ngại; những người đem lại lợi ích cũng như những người làm tổn thương ta; những người yêu thương ta một cách tự nhiên, dù ta không đem lại lợi lộc gì cho họ, nhưng cũng có những người thù ghét ta, dù trong đời này ta không làm điều gì tổn hại họ. Nghiên cứu những kết quả này, chúng ta nắm vững một nguyên tắc quan trọng: khi ta sản xuất những tư tưởng có đặc tính trí tuệ và đạo lý, chúng tác động lên ta, và giúp ta định đoạt được mối liên kết với nhân loại trong tương lai, do hiệu quả của chúng đối với kẻ khác.

Loại năng lượng lớn thứ hai gồm có những ham muốn, phát sinh khi chúng ta theo đuổi đối tượng quyến rũ từ ngoại giới. Trong con người, luôn luôn có yếu tố của cái trí xâm nhập vào dục vọng, nên chúng ta có thể bao gồm chúng vào nhóm ‘‘hình tư tưởng’’, mặc dù chúng biểu hiện chủ yếu trong chất liệu trung giới. Những dục vọng đó tác động lên chính người đã tạo ra chúng và khuôn đúc tạo nên cảm dục thể, hay thể vía (the astral body), để rồi sắp xếp số phận của con người lúc bước vào cảm dục giới (Kamaloka) sau khi chết; nó cũng xác định bản chất của thể vía ở kiếp sau. Những ham muốn có nhiều thú tính, nghiện rượu, tàn nhẫn, dâm ô, là căn nguyên chính của các chứng bệnh bẩm sinh, não bộ suy yếu bệnh hoạn, đưa đến tình trạng động kinh, tê liệt, và nhiều loại bệnh thần kinh khác; cơ thể thì bị dị tật, biến dạng, trong trường hợp rất nặng là hình thù quái dị. Thú tính ham ăn quá độ bất thường, tạo nên một vòng xích trên cõi trung giới ràng buộc linh hồn một thời gian, khoác vào thể vía hình dạng giống như loài thú có tính ham ăn tương tự, điều này làm sự luân hồi bị chậm trễ. Khi cá nhân thoát khỏi cõi này, thể vía có hình dạng thú vật đôi khi ghi ấn tượng những đặc tính của nó lên thể xác đang cấu tạo của hài nhi trước khi sinh, và là nguyên nhân của quái thai nửa người nửa thú thật khủng khiếp.

Vì dục vọng là những năng lượng phóng ra, đeo níu vào đối tượng; nó luôn luôn thu hút con người đến môi trường mà nó có thể thoả mãn. Lòng ham muốn những sự vật trần gian ràng buộc linh hồn hướng ra thế giới bên ngoài, lôi cuốn con người đến nơi nào có nhiều sự vật, đối tượng của sự ham muốn; do đó có câu «một người được sinh ra tùy theo dục vọng của người ấy».[92] Chúng là một trong những nguyên nhân chỉ định nơi chốn luân hồi của con người.

Những hình tư tưởng trí cảm dục (astro-mental images) do dục vọng tạo ra, tác động lên kẻ khác cùng cách thức với hình ảnh do tư tưởng tạo ra. Vì vậy, chúng cũng liên kết ta với những linh hồn khác, và thường trói buộc chặt chẽ bởi tình thương hay sự oán ghét. Vì thế, trong giai đoạn tiến hóa của nhân loại hiện tại, người trung bình thường có dục vọng mạnh và bền vững hơn tư tưởng của họ. Những tư tưởng và dục vọng này góp một phần lớn vào việc định đoạt môi trường, cũng như những người chung quanh mà một người phải sống trong những kiếp tương lai; và có thể mang lại cho những kiếp sống đó, những người cũng như những ảnh hưởng có liên hệ trực tiếp đến họ mà họ hoàn toàn không ý thức. Giả sử có một người phóng ra tư tưởng căm thù ác liệt, quyết lòng phục hận, tư tưởng này giúp và tạo cho một người nào đó sự xung động mạnh, kết quả là người thứ nhì này phạm tội giết người. Chắc chắn người tạo ra tư tưởng đó sẽ bị ràng buộc nghiệp quả với kẻ đã gây ra tội ác, mặc dù hai người chưa hề gặp gỡ nhau ở cõi trần. Sự thúc đẩy người khác phạm tội, sẽ quay trở lại gây tổn hại người phát ra tư tưởng, như là một hình phạt do họ đã dự phần gây nên tội ác. Điều ‘‘bất ngờ’’ ấy được họ cảm thấy như không đáng nhận lãnh hậu quả từ một nguyên nhân như thế, nhưng linh hồn được học hỏi và ghi nhận kinh nghiệm, trong khi ý thức của phàm ngã cảm thấy uất ức, cho đó là sự bất công. Không có một sự việc gì giáng xuống con người mà họ không xứng đáng thọ lãnh; mặc dù con người không nhớ những gì thuộc về quá khứ, nhưng luật thiên nhiên vẫn tác động. Chúng ta vừa học được rằng, những sự ham muốn tác động lên chính ta, tạo nên bản chất dục vọng của ta, và từ đó ảnh hưởng rất nhiều đến xác thân vật chất của ta ở kiếp sau, đồng thời cũng dự một phần lớn trong sự định đoạt nơi chốn mà ta sẽ tái sinh. Do tình cảm và sự ham muốn hưóng đến kẻ khác, sẽ thu hút chung quanh ta những người mà ta liên kết trong những kiếp tái sinh.

Năng lượng lớn thứ ba là những hoạt động trên cõi vật chất, nó gây ra nhiều ảnh hưởng lên người khác, nhưng chỉ ảnh hưởng nhẹ nhàng đến con người bên trong. Chúng là kết quả của những tư tưởng và dục vọng quá khứ; và nghiệp mà chúng tiêu biểu hầu hết là những nghiệp quả đã mòn mỏi. Năng lượng này ảnh hưởng con người một cách gián tiếp, thúc đẩy họ sinh ra những tư tưởng, những dục vọng và xúc cảm mới, và lực phát sinh ra từ những điều này chớ không phải từ chính những hành động. Nhưng, nếu những hành động thường xuyên được lặp lại, chúng tạo ra thói quen cho xác thân, làm hạn chế sự biểu lộ của chân ngã ra thế giới bên ngoài. Dù sao, điều này sẽ mất đi cùng với xác thân, vì vậy nghiệp quả qua hành động chỉ giới hạn trong một kiếp sống, điều đáng quan tâm là kết quả của chúng đối với linh hồn. Về mặt khác, có những kết quả của hành động gây ra hạnh phúc hoặc đau khổ cho kẻ khác và ảnh hưởng đến họ. Chúng liên kết ta với người khác do ảnh hưởng đó, và là nhân tố thứ ba định đoạt sự kết hợp của ta với nhân loại trong tương lai, trong khi chúng là tác nhân chính trong sự định đoạt cái gọi là môi trường phi nhân loại của ta (non-human environment). Nói một cách tổng quát, bản chất thuận lợi hay không thuận lợi của môi trường vật chất mà nơi đó chúng ta được sinh ra, đều tùy thuộc vào kết quả của những hành động trong quá khứ, trong việc chúng ta đã ban rải hạnh phúc, hay nỗi bất hạnh cho kẻ khác. Những kết quả vật chất do hành động nơi cõi vật chất gây nên sẽ đem lại cho người tạo nghiệp một môi trường vật chất tốt hay xấu trong kiếp sống tương lai. Nếu chúng ta đem lại cho người khác hạnh phúc về vật chất do sự hy sinh tiền bạc, thời giờ hay sức lực, thì nghiệp quả sẽ mang lại cho chúng ta một hoàn cảnh vật chất thuận lợi, hạnh phúc ở trần gian. Trái lại, nếu người nào gây ra cho đồng loại nhiều khó khăn đau khổ về vật chất, chắc chắn người đó sẽ gặt hái nghiệp quả đã gieo, và phải sống trong những hoàn cảnh nghèo khổ thiếu thốn vật chất. Dù do động lực nào đi nữa, cũng đưa đến sự thừa nhận có một qui luật, đó là:

Mỗi năng lực tác động ở cõi của nó. Nếu một người gieo hạnh phúc đến cho những kẻ khác trên cõi vật chất, người ấy sẽ gặt hái những điều thuận lợi, hạnh phúc trên cõi vật chất, dù cho động lực thúc đẩy người ấy gieo giống như thế nào đi nữa, cũng không ảnh hưởng đến kết quả được. Một người gieo lúa mì với rắp tâm sẽ làm phá sản người láng giềng, nhưng không vì lý do chủ tâm xấu mà làm hạt lúa mì mọc thành cây bồ công anh hoang dại. Động lực là sức mạnh của trí năng hoặc của tình cảm (mental or astral force), phát triển từ ý chí hoặc dục vọng, và phản ứng trên đặc tính đạo đức hoặc trí tuệ hay trên bản chất của một số dục vọng. Hành động mang lại hạnh phúc vật chất là một năng lực vật chất, và tác động trên cõi vật chất.

‘‘Do hành động, con người ảnh hưởng đến những người láng giềng của mình trên cõi vật chất; người ấy ban rải hạnh phúc hoặc gây buồn khổ cho những người chung quanh, làm gia tăng hay giảm thiểu phúc lợi của con người. Sự tăng hay giảm hạnh phúc này có thể do những động lực khác nhau, tốt, xấu, hoặc lẫn lộn. Một người có thể thực hiện việc đem lại hạnh phúc, an vui, có tầm mức rộng lớn do tấm lòng từ thiện đối với đồng loại. Giả sử một người đứng ra lập một công viên, với động cơ duy nhất là để dân cư trong tỉnh có nơi vui chơi. Một người khác cũng thực hiện công việc như vậy, nhưng với ý muốn phô trương, gây sự chú ý của người có quyền thế, để được một vinh dự trong xã hội (như có thể được phong tặng một tước hiệu cao quí). Người thứ ba cũng lập một công viên với động lực vừa vô tư vừa ích kỷ. Những động lực sẽ ảnh hưởng đến bản chất của ba người này trong kiếp tái sinh tương lai như sau: người thứ nhất được tiến bộ tốt đẹp hơn; người thứ hai bị giảm phẩm cách; người thứ ba, có một chút ít thành công. Nhưng kết quả của hành động đem lại sự vui vẻ, hạnh phúc cho một số đông dân chúng, không tùy thuộc vào động lực thúc đẩy hành động của người hiến tặng; dân chúng thường đến giải trí tại công viên, với sự vui thích như nhau trong cả ba trường hợp. Và niềm hân hoan, vui vẻ đó là nhân quả tốt cho hành động của người đã hiến tặng công viên, sẽ định cho người ấy một thành quả trong thiên nhiên, và sẽ được trả lại cho họ rất chu đáo. Họ sẽ có được một hoàn cảnh vật chất tiện nghi, sang trọng, do đã ban rải sự vui tươi thoải mái và sự hy sinh tài sản vật chất, đó là sự đền đáp mà nghiệp quả của hành động đã kết trái lành. Nhưng sự sử dụng địa vị của mình, hạnh phúc mà sự giàu có mang lại và môi trường chung quanh sẽ tùy thuộc chủ yếu vào đặc tính của họ; ở đây, sự tưởng thưởng tích lũy cho con người, mỗi hạt giống đều mang trong nó kết quả thích hợp.’’[93] Quả thật, nghiệp quả rất công bình, nó không ngăn cản người xấu hưởng được kết quả của một hành động ban rải hạnh phúc cho kẻ khác, và nó cũng tạo ra bản chất xấu do động lực xấu của họ; cho nên, dù sống giữa cảnh giàu có, nhưng họ vẫn gặp những sự bất mãn và ưu phiền. Thật sự người tốt cũng không tránh khỏi đau khổ vật chất, nếu họ gây sự đau khổ vật chất cho người khác do hành động sai lầm, dù hành động đó phát xuất từ một động lực tốt. Sự khốn khổ mà họ gây ra sẽ mang lại cho họ sự thống khổ về phương diện vật chất, nhưng động lực tốt sẽ làm tốt thêm bản chất của họ, sẽ đem lại cho họ một nguồn hạnh phúc lâu dài bên trong, họ sẽ kiên nhẫn và bằng lòng giữa lúc khó khăn.

Nhiều vấn đề rắc rối có thể được giải thích bằng cách áp dụng những nguyên tắc này vào các sự việc chung quanh chúng ta.

Sự khác biệt giữa kết quả của động lực và kết quả của hành động là do sự kiện mỗi lực phát sinh đều mang những tính chất thuộc về cõi mà nó phát ra, và cõi càng cao thì lực có tác dụng càng mạnh và kéo dài; vì vậy, động lực quan trọng hơn hành động rất nhiều. Một hành động lỗi lầm, nhưng với động lực tốt cũng đem đến điều tốt cho người thực hiện, hơn là một hành động được chọn lựa kỹ càng mà được thực hiện với động lực xấu. Động lực phản ứng trên đặc tính, phát sinh ra một loạt dài hiệu quả, vì những hành động trong tương lai được hướng dẫn bởi đặc tính đó, và tất cả sẽ ảnh hưởng cho sự cải thiện hoặc cho sự suy đồi. Thế nên, hành động đem lại cho người tạo ra nó hạnh phúc hay đau khổ vật chất, tùy theo kết quả của nó tác động lên kẻ khác. Khi có sự bối rối trong việc chọn lựa cách thức hành động chân chánh, do sự xung đột giữa những bổn phận, người hiểu biết luật nhân quả cố gắng chọn cho mình một con đường tốt nhất với khả năng của lý trí và phán đoán tối đa. Con người phải thận trọng cân nhắc tỉ mỉ về động lực của họ, loại bỏ tư tưởng ích kỷ và thanh lọc tâm hồn. Kế đó họ can đảm hành động; nếu công việc bị sai lầm, thất bại, họ sẵn sàng chấp nhận mọi điều đau khổ do kết quả của sự sai lầm, như là một bài học hữu ích cho tương lai. Trong khi đó, động lực tốt đẹp này nâng cao đức tính của họ trong mọi thời gian về sau.

Nguyên tắc tổng quát cho biết, lực tùy thuộc vào cõi mà nó đã phát sinh, có ảnh hưởng sâu rộng và có tầm quan trọng. Nếu năng lực đó được phóng thích với động lực thu đạt những sở hữu vật chất, nó sẽ tác động ở cõi vật chất và gắn bó người tạo tác ra nó vào cõi vật chất. Nếu nó tập trung vào những đối tượng cõi thiên đàng (devakhan) thì nó tác động nơi cõi thiên đàng, và gắn bó người tạo tác vào cõi thiên đàng. Nếu nó không có động lực nào, như việc phụng sự thiêng liêng, thì nó được tự do trên cõi tinh thần, cho nên không gắn bó người tạo tác vào đâu cả, vì cá tính này không đòi hỏi một điều gì.

Có ba loại nghiệp quả: Nghiệp chín mùi sẵn sàng thu hoạch không sao tránh khỏi. Ngoài tất cả nghiệp thuộc về quá khứ, có một số nghiệp nào đó có thể đã trả xong trong thời gian một kiếp sống nơi cõi trần. Có vài loại nghiệp không thích hợp lẫn nhau, chỉ một thể xác không thể trả hết được, mà phải cần đến nhiều xác thân khác nhau thì nghiệp mới biểu hiện được. Đây là những trách nhiệm dính líu với những linh hồn khác, nhưng tất cả những linh hồn đó lại không thể tái sinh cùng một lúc. Có nghiệp phải trả nơi một quốc gia hoặc trong phạm vi một xã hội đặc biệt, trong khi cá nhân đó cũng có nghiệp phải trả ở một môi trường hoàn toàn khác. Cho nên chỉ có một phần trong toàn thể nghiệp quả của một người có thể trả được trong mỗi kiếp sống, phần nghiệp này do Đấng Chưởng Quản Nhân Quả (the Great Lords of Karma) chọn lọc (điều này sẽ được trình bày về sau), và linh hồn được đưa đến tái sinh trong một gia đình, một quốc gia, và một xác thân thích hợp, hầu làm cạn bớt tổng số nghiệp. Tổng số nghiệp này xác định thời gian cho mỗi kiếp đặc biệt, tạo cho xác thân những đặc tính, năng lực và giới hạn; mang tới cá nhân ấy những linh hồn mà họ có bổn phận trang trải nghiệp, đi đầu thai trong khoảng thời gian một kiếp sống; bao quanh cá nhân ấy trong sự liên hệ cha mẹ, thân quyến, bạn bè và kẻ thù. Chúng còn xác định những điều kiện xã hội, nơi người ấy sinh ra, trong hoàn cảnh yên ổn hay dẫy đầy bất trắc. Năng lượng của thể trí được chọn lọc để họ có thể biểu lộ nhờ vào cách sắp xếp não bộ và hệ thần kinh; phối hợp các nguyên nhân đưa đến kết quả đau buồn hay vui vẻ trong những hoạt động bên ngoài, để họ có thể trả quả trong một kiếp sống. Tất cả những sự việc đó là nghiệp đã ‘‘chín mùi’’, (the ripe Karma) mà một nhà chiêm tinh đủ trình độ có thể tính toán và phác họa qua lá số tử vi. Trong tất cả điều này, con người không có quyền chọn lựa; tất cả được định đoạt từ quá khứ, và họ phải giải tỏa hết những món nợ nghiệp quả mà họ đã vay mượn.

Như ta biết, thể xác, vía và trí mà linh hồn sử dụng cho kiếp sống mới, là kết quả trực tiếp của quá khứ, chúng hợp thành một phần rất quan trọng của nghiệp quả chín mùi. Chúng giới hạn linh hồn trong mọi khía cạnh; quá khứ trỗi dậy chống lại họ. Người khôn ngoan biết không thể trốn tránh nhân quả, vui vẻ chấp nhận chúng, và chuyên cần làm việc để cải tiến cho tốt đẹp hơn.

Có một loại nghiệp quả chín mùi khác vô cùng quan trọng của những hành động không thể tránh khỏi. Mọi hành động là sự biểu hiện sau cùng của một loạt những tư tưởng, thử mượn cách trình bày trong hóa học để nói về điều này. Chúng ta có một dung dịch bão hòa[94] (saturated solution) của tư tưởng, do đã thêm vào đó từ tư tưởng này đến tư tưởng kia cùng loại, cho đến khi một tư tưởng khác, hoặc là một sự rung động kích thích từ bên ngoài, như chất xúc tác, sẽ làm đông đặc lại toàn thể, như thế hành động là sự diễn tả những tư tưởng. Nếu chúng ta kiên trì lặp lại mãi những tư tưởng cùng loại, thí dụ ý nghĩ trả thù, cuối cùng chúng ta sẽ tiến đến điểm bão hòa, khi đó bất cứ một kích động nào cũng sẽ làm đông đặc lại thành hành động, và gây nên tội ác. Ngược lại, ta có thể bền chí nuôi dưỡng tư tưởng giúp đỡ người khác đến mức bão hòa, khi có một tác nhân kích thích của cơ hội đưa đến, chúng kết tinh lại qua một hành động anh hùng nghĩa hiệp. Một người có thể mang theo trong họ vài nghiệp quả đã chín mùi thuộc loại này, và sự rung động đầu tiên khi chạm đến cái khối tư tưởng đang sẵn sàng kết tinh thành hành động, sẽ thúc giục họ thực hiện một cách máy móc, không kịp suy xét. Họ không thể dừng lại để suy nghĩ, vì đang ở trong trạng thái mà sự rung động đầu tiên của trí năng sẵn sàng gây ra hành động. Họ đang ở trên một điểm thăng bằng, giống như đang ở giữa hai đòn cân, chỉ một xung lực nhẹ cũng đủ làm mất quân bình. Trong những trường hợp này, người thiếu hiểu biết sẽ ngạc nhiên, sửng sốt về hành động gây nên tội ác như vậy. Nếu sự kiện này xảy ra cho việc tốt lành, họ cũng cảm thấy kỳ diệu khi hoàn thành vài công việc phụng sự cao cả do lòng sùng bái. Họ nói: ‘‘Tôi đã hành động không suy nghĩ,’’ mà không biết rằng họ đã thường xuyên suy nghĩ và hành động là điều không tránh khỏi. Khi một người đã nhiều lần toan tính thực hiện một công việc gì đó, cuối cùng ý chí của họ quyết định sẽ không thay đổi, còn việc thực hiện chỉ là vấn đề cơ hội mà thôi. Khi nào con người còn có thể suy nghĩ, còn sự lựa chọn, thì con người có thể suy nghĩ theo chiều hướng mới chống lại tư tưởng cũ, và dần dần làm tiêu tan ảnh hưởng của nó bằng những tư tưởng đối nghịch. Nhưng nếu sự rung động kế tiếp của linh hồn đáp ứng lại với tác nhân kích thích và gây ra hành động, thì không còn lựa chọn được nữa.

Ở đây, một vấn đề cũ kỹ được đưa ra tìm giải pháp là sự bắt buộc và tự do ý chí. Khi sử dụng tự do ý chí, con người sẽ dần dần tạo nên những điều bắt buộc cho mình. Giữa hai thái cực, tự do ý chí và điều bắt buộc, có nhiều giải pháp kết hợp, gây nên sự tranh chấp từ bên trong nội tâm. Khi chúng ta liên tiếp tạo thói quen và lặp lại mãi những hành động có mục đích do ý chí hướng dẫn, thì thói quen trở nên một giới hạn, và chúng ta hành động một cách máy móc. Có thể ta rút ra kết luận rằng thói quen là điều không tốt, và ta bắt đầu thay đổi chúng bằng những tư tưởng đối nghịch. Sau nhiều cố gắng làm cho thói quen dần dần mất hiệu lực, khi đó những dòng tư tưởng xoay chiều, và chúng ta sẽ thu hồi lại đầy đủ sự tự do; nhưng phải coi chừng một sự trói buộc khác dần dần được tạo ra. Như vậy những hình tư tưởng cũ còn tồn tại và giới hạn khả năng suy nghĩ của ta, chúng biểu lộ như là những thành kiến cá nhân hoặc quốc gia. Phần đông vì vô minh, không hiểu được sự hạn chế này, nên vẫn âm thầm bị chúng xiềng xích trói buộc. Những người đã học được sự thật về bản chất của chúng, sẽ được tự do. Sự cấu tạo não bộ và hệ thống thần kinh là một trong những điều trọng yếu nhất của đời sống con người; đây là điều mà ta khó lòng tránh khỏi do những tư tưởng quá khứ; hiện tại chúng giới hạn ta và là những nỗi bực mình thường quấy rối ta. Chúng có thể được cải tiến chậm chạp và từ từ; những giới hạn có thể được bành trướng dần dần, nhưng không thể chuyển hóa thình lình.

Một hình thức khác của nghiệp quả chín mùi là những tư tưởng tội lỗi thời quá thứ, hợp thành một lớp vỏ cứng rắn của thói quen xấu xa, vây quanh con người, giam cầm và làm thành một cuộc sống xấu ác. Những hành động là hậu quả của nghiệp quá khứ không sao tránh khỏi như vừa giải thích; những nghiệp này có thể đã bị hoãn lại vài kiếp, vì chưa có cơ hội thuận tiện để biểu lộ. Trong lúc đó, linh hồn vẫn phát triển và đạt được phẩm chất cao quí. Trong một kiếp nào đó, khi có cơ hội, lớp vỏ cứng của tội lỗi quá khứ bị phá vỡ, nghiệp báo phải trả, mặc dù linh hồn đã có tiến bộ sau này, nhưng không thể ngăn cản được; ví như gà con sắp nở, nó núp bên trong ngục tù của vỏ trứng, mà chỉ có bên ngoài mới có thể trông thấy cái vỏ mà thôi. Sau một thời gian, nghiệp quả này đã trả xong, có vài sự việc tình cờ đưa tới – như một lời dạy của một bậc Thầy cao cả, một quyển sách, một bài thuyết giảng đạo lý – phá vỡ cái vỏ và linh hồn được tự do. Sự chuyển đổi này thật hiếm có, bất ngờ và lâu dài; một điều ‘‘huyền diệu của ân huệ thiêng liêng,’’ nhờ đó, chúng ta biết lắng nghe; đây là sự kiện hoàn toàn dễ hiểu đối với người đã thấu hiểu và sống theo luật nhân quả.

Tích lũy nghiệp (accumulated Karma) có đặc tính khác với nghiệp chín mùi (ripe Karma), vì nó luôn luôn có thể chuyển đổi được. Nghiệp này gồm có những khuynh hướng mạnh hay yếu tùy theo sức mạnh tư tưởng đã phát sinh ra nó. Con người có thể làm tăng cường hay làm yếu đi bằng những dòng năng lực tư tưởng mới, phát ra để tác động theo chiều hướng của chúng hay nghịch lại chúng. Nếu ta tự xét thấy có những khuynh hướng mà ta không bằng lòng, hãy cố gắng loại bỏ chúng. Thường ta bị thất bại trước những làn sóng cám dỗ quá mạnh của dục vọng lôi cuốn. Ta càng kiên trì lâu dài chống lại chúng, dù cho cuối cùng có bị ngã quỵ, nhưng ta càng tiến gần đến mục đích chế phục chúng. Mỗi lần thất bại là một nấc thang đưa đến thành công, vì năng lượng đối kháng với chúng ta sẽ bớt đi dần, và sẽ giảm rất nhiều trong tương lai. Đến đây, tạm xong phần học hỏi về nghiệp quả đang trên đường diễn tiến.

Cộng nghiệp (collective Karma) là nghiệp quả chung của một nhóm người; những lực của nghiệp quả này tác động lên mỗi cá nhân trong một nhóm, đưa đến một nhân tố mới trong nghiệp quả của cá nhân.

Ta biết, khi một số lực tác động vào một điểm, thì điểm đó sẽ chuyển động theo một hướng, do sự kết hợp tất cả các lực, chớ nó không theo một lực riêng biệt nào. Vậy nghiệp quả của một nhóm người (cộng nghiệp) là kết quả của những lực tác động, được tạo nên do nhiều cá nhân trong một nhóm, và tất cả cá nhân này phải nhận lãnh nghiệp quả cùng một phương hướng do kết quả mà lực chung đã tạo ra. Một linh hồn được thu hút bởi nghiệp quả cá nhân vào một gia đình, vì những kiếp đã qua có liên hệ mật thiết với vài linh hồn khác trong gia đình này. Thí dụ trường hợp một gia đình giàu có nhờ được thừa hưởng tài sản từ ông nội. Nhưng một người thừa kế tài sản đó đột ngột xuất hiện: người này là con chính thức của người anh cả trong gia đình nói trên, vì lúc ông anh cả chết, người ta tưởng ông ấy không có con. Thế là toàn bộ gia tài phải trao lại cho kẻ thừa kế chính thức, để lại người cha trong gia đình nói trên phải gánh nặng nợ nần. Người cha trong gia đình có dính líu trong quá khứ vài nhân quả nào đó, nên ngày nay phải gánh chịu tai họa, và hành động của ông trong quá khứ có liên hệ đến nghiệp quả chung của gia đình. Nếu chính cá nhân linh hồn được sinh ra trong gia đình ấy đã phạm điều ác trong quá khứ, thì đứa con đó phải trả quả và chịu khổ trong nghiệp quả chung của gia đình. Bằng không phải vậy, do vài ‘‘trường hợp không thể biết trước,’’ đứa con trong gia đình đó được di chuyển đi nơi khác nhờ một người nhân từ nào đó, do sự thôi thúc vô hình, nhận nó làm con nuôi và giáo dục nó nên người, vị này trong quá khứ chính là người đã mắc nợ nó.

Chúng ta thấy rõ hơn những sự việc thuộc về cộng nghiệp trong những biến cố như: tai nạn xe lửa, đắm tàu, lũ lụt, bão tố v. v… Một chuyến tàu hỏa bị nạn, tai nạn xảy ra thình lình có thể do người lái, người canh gác, giám đốc đường sắt hoặc công nhân phụ trách, tạo thành một khối tư tưởng giận dữ, bất mãn, ganh ghét tụ hội lại. Những người cùng mang nghiệp tích lũy – không nhất thiết là nghiệp quả chín mùi của họ – món nợ do việc đột ngột cắt đứt sự sống của kẻ khác trong những kiếp trước, có thể đem họ vào tai nạn này để trả. Một người khác có ý định đi chuyến xe lửa đó, nhưng không có món nợ nào trong quá khứ phải trả, nên người ấy được ‘‘Trời giúp’’ thoát nạn, nhờ trễ chuyến tàu.

Cộng nghiệp có thể đẩy một người vào nỗi bất hạnh do chiến tranh của đất nước, họ trả món nợ tiền kiếp, không nhất thiết phải là nghiệp quả chín mùi của kiếp hiện tại. Không có trường hợp trả quả nào mà con người không xứng đáng nhận chịu sự đau khổ, vì cơ hội bất ngờ đưa đến có thể giải tỏa một sự ràng buộc của kiếp trước; vậy tốt nhất hãy trả cho xong và loại trừ nó vĩnh viễn.

Các vị ‘‘Chưởng Quản Nghiệp Quả’’ là những Đấng trí tuệ siêu phàm, các Ngài ghi nhận nghiệp quả của nhân loại và điều chỉnh những tác động phức tạp của luật nhân quả. Bà Blavatsky có mô tả những vị này trong bộ Giáo Lý Bí Truyền, đó là các vị Lipika, những Đấng ghi nhận nghiệp quả, và các vị Maharajas[95] (Nam Tào Bắc Đẩu) cùng các vị phụ tá của các Ngài, những vị này là ‘‘tác nhân của nghiệp quả ở cõi trần.’’[96] Các vị Lipika thấu triệt nghiệp quả của tất cả nhân loại trên địa cầu, với sự toàn tri toàn giác, các Ngài lựa chọn và phối hợp những phần trong tổng số nhân quả của một người và thiết lập chương trình cho mỗi kiếp sống. Các Ngài đưa ra ý kiến về việc tạo nên xác thân vật chất, là y phục của linh hồn lúc tái sinh, để có thể biểu lộ khả năng cũng như hạn chế của một người. ‘‘Ý kiến’’ của các Ngài được các vị Maharajas tiếp nhận và dùng làm căn bản cho một kiểu mẫu với đầy đủ chi tiết, kế đến giao cho một trong những phụ tá của các Ngài làm bản sao; bản sao này chính là thể dĩ thái hay là thể phách (etheric double), cái khuôn của thể xác đậm đặc. Những chất liệu để tạo nên thể này được rút ra từ người mẹ và là vấn đề thuộc sự di truyền vật chất. Chủng tộc, quê hương, cha mẹ được chọn theo khả năng có thể cung cấp chất liệu thích hợp cho thể xác vật chất của linh hồn sắp tái sinh, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho đời sống lúc đầu. Sự di truyền thể chất của gia đình cho ra vài loại tính chất đặc biệt do sự kết hợp các chất liệu, như: bệnh tật di truyền, sự nhạy cảm di truyền của hệ thần kinh, tất cả biểu hiện sự phối hợp chính xác chất liệu vật chất và có khả năng truyền đạt. Một linh hồn có thể trí và thể vía phát triển đặc biệt, cần một thể xác có những tính chất đặc biệt để biểu lộ, sẽ được đưa đến những cha mẹ cho di truyền vật chất có thể đáp ứng những điều kiện này. Như một linh hồn có khả năng tiến bộ cao về âm nhạc, có thể được hướng dẫn tái sinh vào một gia đình nhạc sĩ, để được cung cấp chất liệu tạo thành thể dĩ thái và thể xác sẵn sàng thích ứng với nhu cầu của nó, và loại di truyền của hệ thần kinh trang bị thật tinh tế cho nhu cầu biểu lộ năng khiếu. Một linh hồn thuộc loại rất xấu xa sẽ đầu thai vào một gia đình thô lỗ, độc ác, thể xác của họ toàn là sự phối hợp những chất thô trược, đê tiện, để đáp ứng với những rung động của chính thể trí và thể vía của họ. Một linh hồn đã không tự kiểm soát được, để cho thể vía và hạ trí dẫn dắt quá trớn chìm đắm trong rượu chè say sưa, chắc chắn sẽ tái sinh vào một gia đình có hệ thần kinh yếu kém và cha mẹ là kẻ nghiện ngập, sẽ truyền lại bệnh tật cho thể xác của nó. Các Đấng Chưởng Quản Nhiệp Quả chỉ đạo và điều chỉnh những phương tiện cho đến cuối cùng, để bảo đảm sự thực thi công lý. Còn linh hồn vẫn mang theo tài sản nghiệp quả, những khả năng cũng như dục vọng của nó, và nó sẽ nhận được một thể xác thích hợp cho sự biểu lộ của những thể cao hơn.

Linh hồn phải trở lại cõi trần đến khi nào đã trả xong các món nợ đời, cũng như đã chấm dứt nghiệp quả cá nhân, và trong mỗi kiếp luân hồi, tư tưởng và dục vọng của cá nhân lại phát sinh nghiệp quả mới. Câu hỏi có thể được đặt ra là: ‘‘Làm thế nào để chấm dứt sự trói buộc này? Làm sao linh hồn được giải thoát?’’ Vậy chúng ta phải đề cập đến sự ‘‘chấm dứt nghiệp’’, và nghiên cứu về sự kiện này.

Trước tiên chúng ta phải nắm vững yếu tố ràng buộc của nhân quả. Năng lực hướng ngoại của linh hồn trói buộc nó với vài đối tượng, sự ràng buộc này kéo linh hồn đến với đối tượng mà nó ưa thích. Chừng nào linh hồn còn đeo níu vào bất cứ một đối tượng vật chất nào, nó phải bị lôi kéo đến nơi có thể đạt được đối tượng đó. Nhân quả tốt cũng như nhân quả xấu đều trói buộc linh hồn. Bất cứ sự ham muốn nào ở cõi vật chất hay ở cõi thiên đàng, đều lôi kéo linh hồn đến cõi đó để thụ hưởng.

Chính dục vọng thúc đẩy hành động, vậy một hành động được thực hiện không phải vì lợi ích cho chính nó mà là để cho dục vọng đạt được những kết quả của nó, nói theo danh từ kỹ thuật là vui hưởng kết quả của hành động. Con người làm việc, không phải vì họ thích đào đất, xây cất, hay dệt vải mà để hưởng kết quả do sự đào đất, xây cất, dệt vải đem lại dưới hình thức tiền bạc hay tài sản. Một luật sư biện hộ không phải để trình bày rõ ràng các sự kiện, mà là vì tiền bạc, danh tiếng, địa vị. Phần đông con người đang làm việc để đạt những điều gì đó, và bị thúc đẩy do lòng mong muốn đạt được kết quả, chớ không do một nhiệm vụ đặc biệt. Sự ham muốn thu thập kết quả thúc giục họ hoạt động, để rồi vui hưởng kết quả như là phần thưởng của sự cố gắng.

Dục vọng là yếu tố trói buộc chúng ta vào nghiệp quả. Khi một linh hồn không còn ham muốn bất cứ điều gì ở cõi trần hay cõi thiên đàng, thì mọi điều ràng buộc với bánh xe luân hồi trở lại ba cõi sẽ được tháo gỡ. Hành động tự nó không có năng lực trói buộc linh hồn, vì khi đã hoàn tất, hành động tự biến ngay vào dĩ vãng. Nhưng tham vọng phục hồi kết quả không ngớt thúc đẩy linh hồn lao vào những hoạt động khác, và những sợi xích trói buộc mới liên tục được trui rèn.

Chúng ta không nên cảm thấy tiếc khi thấy những người bị sức mạnh của dục vọng liên tục thúc đẩy vào hành động; vì nhờ dục vọng, họ chiến thắng tính lười biếng, sự uể oải, tính ù lì[97] và thúc giục con người hoạt động để có được kinh nghiệm. Hãy để ý người hoang dã, họ lười biếng nằm ngủ trên cỏ dại; họ bị bắt buộc phải hoạt động do cái đói, do ham muốn có thức ăn và phải tập kiên nhẫn, khéo léo, chịu đựng. Nhờ đó, thể trí của họ phát triển, nhưng khi đã thỏa mãn nhu cầu, họ chìm đắm trở lại trong sự mơ màng như loài thú. Biết bao khả năng trí tuệ được tiến bộ trọn vẹn do sự kích thích của dục vọng, biết bao điều hữu ích do lòng háo danh, muốn để lại tiếng tăm sau khi chết. Ngay đến khi con người tiến gần đến thiêng liêng, họ vẫn cần sự thúc giục của ham muốn, và ham muốn trở nên trong sạch hơn, bớt ích kỷ hơn khi họ tiến lên cao. Dù sao, dục vọng thấp hèn vẫn trói buộc con người vào vòng luân hồi, nếu muốn giải thoát, phải tiêu diệt chúng.

Khi một người khởi sự ước mong được giải thoát, họ được chỉ dạy phải thực hiện sự ‘‘từ bỏ những thành quả của hành động,’’ như thế, họ phải dần dần loại hết những khát khao chiếm hữu bất cứ một sự vật nào. Trước hết phải suy nghĩ kỹ và tự nguyện từ bỏ những đối tượng vật chất, và tập thói quen hài lòng mà không cần sự vật đó. Sau một thời gian, họ không cảm thấy thiếu vắng sự vật đó và lòng ham muốn sự vật đó hầu như biến mất khỏi tâm trí. Vào giai đoạn này, họ cần rất thận trọng, không xao lãng bất cứ một nhiệm vụ nào, bởi vì họ phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ với sự chú tâm chân thành, trong khi vẫn hoàn toàn lãnh đạm đối với sự hưởng thụ kết quả của việc làm. Khi con người đã đạt được sự việc này một cách hoàn hảo, không còn một điều ham muốn hay ghét bỏ đối với bất cứ đối tượng nào, họ sẽ không còn tạo nghiệp quả nữa. Con người cũng không đòi hỏi một điều gì nơi cõi trần hay cõi thiên đàng và không bị lôi cuốn vào cõi nào cả. Khi họ không còn ham muốn điều gì thì tất cả những sự kết nối họ với mọi sự vật đã được cởi bỏ, đến đây cá nhân không còn gây nghiệp quả mới nữa.

Không những linh hồn phải chấm dứt tạo ra sợi xích mới mà còn phải cởi bỏ sợi xích cũ, hoặc để sợi xích cũ hao mòn dần, hay cẩn thận chặt đứt nó.

Trí thức rất cần thiết để bẻ gãy sợi xích này; người trí thức có thể nhìn về quá khứ để thấy rõ những nguyên nhân đang tác động, tạo ra kết quả trong hiện tại. Thí dụ một người đang nhìn về quá khứ, xuyên qua những kiếp đã trải, và thấy có vài nguyên nhân nào đó sẽ đem đến một biến cố trong tương lai; giả sử nguyên nhân này là tư tưởng oán ghét một kẻ nào đã làm tổn thương anh ta, và tư tưởng oán ghét này sẽ gây sự buồn khổ cho người đã làm hại anh ta trong vòng một năm tới. Anh ta có thể khởi sự tạo nên một nguyên nhân mới xen lẫn vào nguyên nhân quá khứ, từ đó làm mất tác dụng của nguyên nhân quá khứ bằng những tư tưởng yêu thương mạnh mẽ cùng với thiện ý chấm dứt sự oán ghét. Điều này sẽ ngăn chận được biến cố đáng lẽ xảy ra, làm phát sinh một nghiệp quả mới. Như thế, con người có thể vô hiệu hóa năng lực phát sinh từ quá khứ bằng cách đưa ra những năng lực tương đương và đối nghịch; phương pháp này chính là ‘‘tri thức giải trừ nghiệp chướng.’’ Theo cách này, con người có thể chấm dứt nghiệp quả phát sinh trong kiếp hiện tại, và không gây nên hậu quả trong những kiếp tương lai.

Đến giai đoạn này, có thể con người vẫn còn bị trở ngại bởi trách nhiệm đối với những linh hồn khác trong các kiếp trước, do những điều sai trái đối với họ, do những bổn phận chưa trả xong. Với sự hiểu biết, người ấy có thể tìm những linh hồn đó, nếu họ đang sống cùng thời tại cõi trần hoặc ở một trong hai cõi kia, để tạo cơ hội giúp ích họ. Nếu một trong những linh hồn mà người ấy mang nợ, tái sinh đồng thời với người ấy, thì người ấy có thể tìm họ để thanh toán nợ cho xong, để có thể tự giải thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp quả. Sự kiện không vướng mắc vào những biến cố, có thể là điều cần thiết cho sự chọn lựa tái sinh, nhưng cũng có thể ngăn trở cho đời sống tương lai. Con đường mà những nhà huyền bí học đã chọn thật lạ lùng, rắc rối, đôi khi khó giải thích như trường hợp sau: một người trí thức có quan hệ rất mật thiết với vài người khác, mà người bàng quan kém hiểu biết phê bình rằng anh ta kết bạn với những người không xứng đáng, nhưng thật ra nhà huyền bí học đang âm thầm làm việc theo chiều hướng của trách nhiệm nhân quả, nếu không, nghiệp vướng mắc này sẽ làm chậm trễ sự tiến bộ tâm linh của anh ta.

Người chưa đủ hiểu biết để xem xét lại các kiếp sống đã qua, nếu muốn làm vơi bớt những nguyên nhân đang kết trái trong hiện tại, thì có thể nghiên cứu cẩn thận những sự việc mà họ đã nhớ, ghi lại những trường hợp họ đã làm sai đối với người khác, và những trường hợp họ bị người khác làm đau buồn. Trường hợp thứ nhất, muốn giải trừ nghiệp quả họ phải ban ra thật nhiều tình thương và phục vụ, đồng thời thực hiện công tác phụng sự cho những kẻ bị tổn thương, ở bất cứ nơi đâu, nếu có thể. Trường hợp thứ hai, nên đưa ra những tư tưởng khoan dung, tha thứ và thiện chí. Cách này sẽ làm giảm đi sự ràng buộc của nghiệp quả, và giúp họ tiến gần đến giải thoát.

Những người sùng đạo vâng theo lời giáo huấn của các vị thầy trong tôn giáo, thường lấy ân đáp oán; một cách vô thức, họ làm vơi được những nghiệp quả phát sinh ở hiện tại, nếu không, chúng sẽ gây ra hậu quả trong tương lai. Không ai có thể đan sợi dây oán ghét trói buộc quí vị, nếu quí vị từ chối không đóng góp những t*o dây oán hận cho họ đan, và cố gắng kiên trì vô hiệu hóa mỗi lực oán hận bằng một tư tưởng đầy thương yêu. Hãy để linh hồn chiếu diệu tình yêu và từ ái ra mọi hướng, như thế tư tưởng oán ghét không còn nơi bám trụ. Tất cả các bậc Thầy cao cả đều thông hiểu luật, và những huấn thị của các Ngài được căn cứ theo đó, những người tôn kính và sùng bái các Ngài đều tuân theo sự hướng dẫn hữu ích đúng theo luật thiên nhiên, mặc dù họ không hiểu biết gì về những chi tiết mà luật tác động.

Một người kém học thức, nhưng thực hành đúng theo cách thức mà một nhà khoa học chỉ dẫn, thì có thể đạt được kết quả do sự thực hành theo định luật thiên nhiên, bất chấp sự dốt nát về khoa học; nguyên tắc này cũng áp dụng được ở những thế giới bên ngoài cõi vật chất. Nhiều người không có thời giờ nghiên cứu, họ chấp nhận một cách không suy nghĩ các nguyên tắc do những người thông hiểu hướng dẫn hạnh kiểm họ trong đời sống hàng ngày, điều này có thể trang trải một cách vô thức những ràng buộc nhân quả của họ.

Ở những nước mà người bình dân và lao động có đức tin vào luân hồi nhân quả, thì họ sẽ bình thản chấp nhận những xáo trộn trong cuộc sống. Người nghèo khổ bất hạnh không oán trách Thượng Đế, cũng không thù ghét chống đối người láng giềng giàu có. Họ chấp nhận cuộc sống khó khăn, coi đó là hậu quả của những lỗi lầm tiền kiếp, và cố gắng hết sức mình để tạo đời sống khá hơn. Như thế, họ tìm được sự bình an; trong khi người thiếu đức tin và thiếu hiểu biết tự gia tăng phiền muộn cho hoàn cảnh khổ sở nặng nề. Họ nhận thức rằng: nhân quả đã mang đau khổ cho họ do lỗi lầm quá khứ, thì chắc chắn sẽ mang đến hạnh phúc tương lai nếu họ phấn đấu gieo trồng giống tốt kiếp này. Quan điểm triết lý đó sẽ đem lại sự ổn định xã hội. Người nghèo khó và người thất học không thể nghiên cứu sâu xa vấn đề siêu hình, nhưng họ nắm vững các nguyên tắc thật giản dị, như mọi người được tái sinh nhiều kiếp, mỗi kiếp kế tiếp nhau là cái khuôn đúc của kiếp trước đó. Đối với họ, vấn đề luân hồi là sự kiện chắc chắn, không ai tránh khỏi, cũng như mặt trời mọc và lặn mỗi ngày, là một phần trong sự vận hành của thiên nhiên, nghịch lại nó là sự biếng nhác, bực dọc hoặc nổi loạn. Khi Minh Triết Thiêng Liêng phục hồi các chân lý cổ này và hoà nhập vào đúng vị trí của tư tưởng Tây Phương, thì đường hướng tác dụng của chúng dần dần thích nghi với các tầng lớp xã hội trong các nước Cơ Đốc Giáo, sự hiểu biết về bản chất của đời sống và sự chấp nhận có hậu quả của nghiệp quá khứ được truyền bá rộng rãi. Chân lý này cũng sẽ phá tan sự thao thức bất mãn của con người, chủ yếu do thiếu kiên nhẫn và mất niềm tin về sự sống quá ư khó hiểu, bất công, không điều khiển được. Tuy nhiên, tất cả những điều xáo trộn này sẽ được thay thế bằng sức mạnh yên tĩnh, kiên nhẫn của một trí tuệ quang huy và một nhận thức về luật nhân quả, sự nhận thức này biểu thị đặc điểm sinh hoạt quân bình của lý trí, của những người cảm thấy rằng họ đang tiến về sự trường tồn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi YOYO: 29/08/2020 - 08:40


Thanked by 3 Members:

#2 YOYO

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 294 Bài viết:
  • 131 thanks

Gửi vào 29/08/2020 - 09:07

KARMA và BỆNH
1. Nguồn Gốc của Bệnh.

Căn do của bệnh nơi mỗi người nằm ở việc chống đối Chân nhân không cho nó quản trị phàm nhân, và từ chối không chịu lắng nghe tiếng nói của lương tâm. Căn do này có thể được chia làm hai loại phụ; loại thứ nhất gồm karma sinh ra do phàm nhân theo đường của nó, và cố ý bịt tai đối với lời của Chân nhân. Kết quả là tội do phạm luật, chủ tâm có hành vi trái với nguyên tắc căn bản là sự hợp nhất. Loại thứ hai là karma sinh ra do Chân nhân thiếu kinh nghiệm, và không cho ra hướng dẫn cần thiết cho phàm nhân. Nó sinh ra việc thiếu sót, đam mê lạc thú và không đặt mình vào kỷ luật và không có hành động. Giữa hai loại này có nhiều biến thể mang cả hai nét với một nét trội hơn.
Tội do chủ tâm hành động sinh ra bệnh hiển hiện, còn tội do thiếu sót gây tình trạng bệnh tiềm ẩn có thể hay không thể thành bệnh gây đau khổ, chúng lộ ra đặc biệt như là nhược điểm trong tánh tình và con người không có những khí chất để có cuộc sống khỏe mạnh. Rất hiếm có thí dụ thuần cho mỗi loại karma mà bệnh thường là phối hợp cả hai; dầu vậy sự phân loại này là chỉ dẫn hữu ích cho việc chữa trị.
Nói về hai loại bệnh như là có và không có hành động, bệnh thuộc loại đầu có vẻ như nhiều phần đáp ứng với cách chữa trị thuần thể chất, còn loại hai đòi hỏi những cách có tính tâm lý. Vì nhiều bệnh mang cả hai nét nên hai phương pháp trên thường là phải phối hợp, với cách này hay cách kia được nhấn mạnh tùy tình trạng của người bệnh đòi hỏi.
Ai cũng có karma gây bệnh tiềm ẩn vì có bản chất và tánh tình chưa phát triển; bệnh tiềm ẩn là nguồn nguy hiểm thường xuyên vì vậy y khoa phải được hướng tới việc toàn thiện các phương pháp phòng ngừa. Nền giáo dục trong tương lai sẽ đi theo hướng này, học trình được soạn sao cho loại trừ các tánh nết có thể sinh ra karma gây bệnh, và tập cho con người có năng lực chống lại, làm thay đổi và cuối cùng vô hiệu hóa karma. Thêm vào đó là những phương cách áp dụng để loại trừ bệnh tiềm ẩn trong cơ thể. Chúng ta có thể nói lời nghịch lý là bệnh phải được chữa dứt trước khi nó hiện ra, và trẻ phải được chữa trị để loại trừ bệnh tiềm ẩn.
Trong những trường hợp karma quá nặng làm cho mọi cố gắng có vẻ như vô hiệu quả, việc chữa trị vẫn nên được tiếp tục đều đặn tới cuối đời; chữa trị như vậy và nhất là nỗ lực nơi người bệnh tuy dường như không ích lợi chi, thực ra có tính phòng ngừa cho nhiều kiếp sau này
Tình trạng lắm bệnh tật hiện giờ của nhân loại đòi hỏi là nghiên cứu y khoa cần hướng về việc chữa dứt bệnh, nhưng nó nên được xem như là giai đoạn tạm thời. Khi karma nói chung của con người hóa nhẹ bớt nhờ các phong trào tinh thần, nhờ số đông người có lòng nhân đang cố công trên thế giới hiện nay, bệnh sẽ trở nên dễ chữa trị hơn. Sự việc sẽ khiến cho khoa học gia bớt nghiên cứu về bệnh mà tìm các phương thức ngăn ngừa bệnh tật. Bệnh sẽ không bao giờ biến mất trên địa cầu chỉ vì y khoa chữa dứt, mà đúng ra là nhờ tiến bộ tinh thần và học hỏi về huyền bí học, dẫn đến hiểu biết về sự kiện có bệnh tiềm ẩn và cách loại trừ chúng.
Karma có thể được nhận biết, sửa đổi và ngay cả việc vô hiệu hóa trước khi hiện ra nơi thể xác thành bệnh rõ ràng. Đi tới cùng thì chỉ có lực và hiểu biết tinh thần mới đủ sức chữa dứt bệnh. Nhiều việc có vẻ như chữa hết bệnh mà y khoa thành công hiện nay, chỉ xẩy ra trong những trường hợp karma đã tan biến. Trong tất cả những điều kiện nhân quả khác, khoa học tự nó sẽ thất bại không tránh được.

2. Nguyên Nhân Siêu Vật Chất và Cách Trị.

Trong khi các bệnh nhỏ xẩy ra do nhiễm trùng không nhất thiết phải có nguồn gốc siêu vật chất, bệnh kinh niên luôn luôn có mặt tâm linh của nó. Căn nguyên của bệnh có thể ăn sâu đến thể trí, bệnh có nguyên do sâu như vậy có thể trở lại trong nhiều kiếp, nguồn gốc của nó nằm trong hành động là chủ tâm bác bỏ trong trí các mặt nào đó của chân lý, và duy trì thái độ ấy cho dù con người biết là nó sai từ căn bản.
Một thí dụ cho loại này là lòng tàn nhẫn bất nhân, là đặc tính của người cai trị và thuộc hạ của họ trong mấy thế kỷ trước thấy nơi nhiều nền văn minh. Lòng nhẫn tâm ấy là tàn dư của giai đoạn bán khai mà con người vừa thoát ra, và nay họ đã tới trình độ nghe được tiếng nói của Chân nhân. Sự việc là theo quan điểm karma, sau khi đã thành người văn minh mà tiếp tục làm điều tương đối vô hại lúc là người bán khai, họ đã bác bỏ lời hướng dẫn của Chân nhân. Lời nói ấy nhắc nhở tính hợp nhất của muôn loài, vạn vật đồng nhất thể, là chân lý căn bản. Lòng tàn nhẫn là sự bác bỏ tính hợp nhất, và karma cho hành động như vậy phản ứng lên cả thân xác và tâm trí. Sự nhẫn tâm dưới hình thức này hay kia là nguyên nhân thông thường nhất của bệnh tật; ấy là tại sao bệnh tự nó có vẻ thật là tàn nhẫn.
Thuốc giải hay nhất cho mọi bệnh là nhìn nhận tính hợp nhất và biểu lộ của nó qua tình thương và phụng sự. Vì vậy ai có bệnh nên được dạy luật căn bản về sự hợp nhất và gợi ý phát triển cùng sống với tình thương. Có lẽ điều này là cách giản dị nhất để mang lại nét tinh thần khi dùng cách chữa trị vật chất, theo đó đa số người chỉ được đòi hỏi làm nẩy nở tình thương, ban rải tình thân ái cho mọi người và vật trong thế giới, và nhất là cho những ai kề cận chung quanh.
Về sau bệnh sẽ được chữa trị theo đường lối ấy. Người bệnh sẽ hoặc tham thiền để khám phá mặt yếu kém trong tính khí dẫn tới hành vi có thể tạo ra karma, hoặc nhờ vị thầy tinh thần chỉ dẫn, và rồi tập luyện để phát triển.
Sẽ có việc chữa trị khối đông người nhờ áp dụng nguyên tắc trên, và có lẽ nó càng ngày càng được dùng trong tương lai. Một số lớn người sẽ tụ họp quanh một vị thầy tinh thần để được chỉ dẫn cách sử dụng quyền năng bên trong của họ, và phát triển những đặc tính mà họ còn thiếu. Cá nhân và khối đông phải được giáo dục để khỏi bệnh, cũng như quan niệm của họ về các giá trị phải được thay đổi. Lòng ham muốn sâu đậm về sự sống trong thân xác, và việc điều sau có ảnh hưởng mạnh mẽ là kết quả của quan niệm sai lầm về các giá trị; lòng ham muốn này sinh ra do sự lầm lạc là căn nguyên khác cho bệnh tật.
Việc chỉ có tình cảm của thú tính và óc hưởng lạc sinh ra nhân quả ít nghiêm trọng cho thân xác vào giai đoạn đầu của cuộc tiến hóa hơn là về sau, khi người ta bắt đầu có được hiểu biết về ý nghĩa thật của cuộc sống. Mức độ của việc phủ nhận tiếng nói của lương tâm là yếu tố chính, quyết định bệnh nặng nhẹ và nhiều ít ra sao. Vì vậy khi tìm hiểu bản chất và karma của người bệnh, ta phải xem xét vị thế của họ trên thang tiến hóa. Ta có thể phát triển khả năng xem xét karma từ bệnh đang có và ước lượng cách hóa giải nó. Sẽ có khám phá cách phân loại những nhân quả và bệnh tương ứng, và điều ấy có hữu dụng lớn lao nhất, còn thông nhãn tuy có ích trong nghiên cứu sơ khởi và việc phân loại, không phải là chuyện thiết yếu. Khả năng định bệnh theo trực giác được dùng rộng rãi và áp dùng vào cõi siêu vật chất sẽ cho thấy vậy là đủ.

3. Cơ Chế của Karma Gây Bệnh.

Tựa như có một sai lầm căn bản là nguồn gốc chung cho tất cả nhân quả xấu đáp ứng, thì cũng có một bệnh căn bản sinh ra mọi hình thức của bệnh. Lầm lỗi chung, nằm sau mọi lầm lỗi, là lòng ích kỷ, tới phiên nó thì tánh này là do không nhìn nhận sự hợp nhất của muôn loài, vì vậy là kết quả của óc chia rẽ. Như thế karma căn bản nằm sau mọi bệnh sinh ra do óc chia rẽ, và tính này là căn nguyên của mọi tội lỗi cho dù karma có gây bệnh hay không.
Tương tự vậy, có một độc chất căn bản sinh ra mọi bệnh, và cũng có một tác nhân căn bản có thể truyền karma gây bệnh sang cho thân xác. Tác nhân này là vật chất đậm đặc đầu tiên của karma, tác động nơi cõi thanh trước khi cõi thấp bị ảnh hưởng. Tác nhân căn bản ấy có trong mọi người, và là một trong những phần nền tảng tạo nên cơ thể. Trong trường hợp của bệnh lộ ra, karma như là độc chất tình cảm và ether bám vào vật chất trong thể, và biến đổi nó từ tình trạng khỏe mạnh sang không khỏe mạnh
Sự thay đổi này ảnh hưởng và làm biến đổi vai trò của chất liệu trong thể, nên thay vì tạo dựng và hỗ trợ, nó lại làm cơ thể bị tổn thương. Karma gây bệnh tác động tương tự vậy đối với chất liệu của thể sinh lực và thể tình cảm, thay đổi các đơn vị sống, tương ứng với các phần căn bản trong thể xác, từ phần khỏe mạnh thành không khỏe mạnh. Thay đổi trong chất liệu tình cảm tự động thể hiện qua chất liệu ether (cho thể sinh lực), và chót hết là phần vật chất đậm đặc cõi trần. Hạt nguyên tử nào nơi cõi tình cảm bị ảnh hưởng thì hạt nguyên tử tương ứng của nó ở cõi trần cũng đổi theo. Sự việc diễn ra tự nhiên và xẩy ra cho cùng bộ phận của thể cho cả ba thể.
Karma đến với con người và cho ra ảnh hưởng chính xác không sai chạy từ kiếp này sang kiếp kia. Sự liên kết giữa ba thể trí, tình cảm và xác trong kiếp sinh ra nhân quả, với ba thể những kiếp sau chịu ảnh hưởng của karma, nằm trong hạt nguyên tử trường tồn. Vật sau này cho ra bệnh hay tài năng khi luật rung động cảm ứng làm cho nó thực hiện phần việc giao cho nó.
Đời người diễn ra theo một loạt các chu kỳ nhỏ dài bẩy năm, mỗi chu kỳ có karma riêng hoặc thuận lợi hoặc bất lợi. Karma gây bệnh được hóa giải trong cùng chu kỳ nhỏ có hành động sinh ra nó. Thực tế là mỗi chu kỳ là một lần tái sinh thu gọn. Nếu hành động tiếp tục từ chu kỳ này sang chu kỳ kia, thì bệnh cũng diễn ra y vậy. Tuy nhiên luật biến đổi khi lực được phóng thích từ bên trong đương sự làm thay đổi karma của họ. Như vậy hai mươi năm phạm sai lầm có thể có karma được hóa giải chỉ trong vài năm, hoặc ngay cả một năm do nỗ lực.
Phần việc của Chân nhân là phát triển đức tính và phát ra những lực sửa đổi lại sai sót trong phàm nhân. Chuyện được thực hiện hữu hiệu hơn khi cái sau hợp tác với cái trước, và giá trị của việc giáo dục để chữa bệnh nằm ở điểm ấy. Mọi trị liệu nên có tính giáo dục vì như đã nói, karma có thể được nhận biết và vô hiệu hóa trước khi nó sinh ra ảnh hưởng cho cơ thể. Chân nhân áp dụng theo khoa học những lực làm trung hòa thì có thể làm chuyện dường như nghịch lý xẩy ra được.
Sự kiện này trong thiên nhiên được phe tả đạo áp dụng, nhưng họ không làm vô hiệu, tức giải quyết cho xong, mà giữ lại karma. Việc không vô hiệu được là do cuộc sống và động cơ của họ trở thành tột đỉnh của óc phân rẽ. Phần karma giữ lại cuối cùng vượt qua được hàng rào họ đã dựng lên, và họ bị một lực lớn hơn lực cuốn vào sự hợp nhất với Cái Đó – Tat mà tất cả mỗi chúng ta là một phần. Nếu luật mà họ sử dụng có thể được dùng với hiểu biết như ai mà tính chất căn bản là tình thương, thì các đòi hỏi của karma gây bệnh có thể được làm tròn trước khi nó thật sự ảnh hưởng chất liệu của thể xác. Mức độ thành công của nỗ lực sẽ tùy vào hiểu biết của người bệnh và người chữa bệnh về luật, và mức họ nhận biết về sự hợp nhất.
Ta có thể nghĩ về lực của karma như mầu sắc trong quang phổ, một mầu có thể hóa thành trắng nếu gặp và hòa vào mầu bổ túc của nó và biến mất hẳn. Các lực bất lợi có thể được làm cho không tác động khi có sự quân bằng hoàn toàn của những cực đối nghịch. Vì vậy phải có sự nghiên cứu sâu xa về karma của bệnh tật để có được hiểu biết, thứ nhất là về loại năng lực đằng sau mỗi bệnh, và thứ hai là năng lực có thể loại trừ bệnh.

4. Bệnh Tiềm Ẩn

Karma có tính song đôi, về mặt hành động nó biến đổi cấu trúc và bản chất của mỗi thể tức mặt ngoài, mà nó cũng hiện hữu trong tâm thức và biểu lộ như là tính tình có thiếu sót, có thể bị sai lầm hoặc có thể phạm sơ sót. Lời giải thích cho bệnh tiềm ẩn nằm trong tính song đôi ấy, cũng như là tính dễ mắc bệnh. Bệnh tiềm ẩn là sự biểu lộ bên ngoài điểm yếu trong tâm thức, một thiếu sót trong bản tính của phàm ngã. Nó không nhất thiết phải thành bệnh thật sự mà trong vài trường hợp, bản chất của karma cho con người cơ hội chữa lại thiếu sót, và giải quyết hoàn toàn trong tâm thức các đòi hỏi của karma. Họ làm được điều ấy bằng cách phát triển đức tính thay thế cho thiếu sót trong tánh khí.
Mặt khác, việc có bệnh tiềm ẩn luôn luôn là nguồn khả hữu gây nguy hại, vì nó làm cho đương sự dễ bị nhiễm trùng. Nó cũng có thể liên tục trì kéo lại sự phát triển của phàm nhân, và là việc thất thoát ngầm sinh lực trong cơ thể. Một số đông người, khỏe mạnh vừa phải mà không khỏe mạnh hoàn toàn, bị đau ốm theo lối này tuy họ không hề có bệnh lộ ra. Họ đặc biệt hợp với việc trị liệu bằng giáo dục vì như ta đã thấy, thiên nhiên và karma của họ cho phép giải quyết phần nợ bằng tâm thức. Họ cần tìm ra thiếu sót trong nội tâm, và thay thế chúng bằng đức tính đối nghịch phải có.
Tính đến hôm nay, mặt vật chất của bệnh được cho là phần quan trọng nhất, và là mặt duy nhất thường được nhận biết và chữa trị. Dần dần về sau mặt tâm thức sẽ thành mặt duy nhất mà người chữa bệnh quan tâm, cũng như vật chất tự nó sẽ tiến hóa hơn và do vậy dễ uốn nắn hơn, dễ chịu ảnh hưởng và tác động của thay đổi về tâm thức. Một kết quả của việc này là thiếu sót trong tâm thức sinh ra ảnh hưởng nặng nề hơn cho vật chất, mà nó cũng có thể làm người bệnh dễ chữa chính mình hơn bằng cách sinh ra thay đổi trong tâm thức họ.
Giai đoạn chuyển tiếp hiện thời đặc biệt đáng nói vì có khuynh hướng nhìn nhận mặt tâm thức của bệnh. Như thế sau khi đã hiểu các nguyên tắc về mặt vật chất của bệnh, về sau con người có thể quay sang tìm hiểu bệnh về mặt tâm thức. Họ sẽ thấy là sâu trong trí não có những đặc tính, ẩn ức và giới hạn lạ lùng, tất cả chi phối và uốn nắn việc tạo và phát triển các thể của con người.
Ảnh hưởng của những nguyên nhân sâu xa này xuất hiện chính yếu trong giai đoạn thai nghén, khi các thể đang được tạo ra. Theo quan điểm ấy mọi bệnh tật có nguồn gốc trước khi sinh, với khả hữu là bệnh nằm sẵn trong tâm thức và rồi được đặt vào các thể. Như vậy các điều kiện trước khi sinh có tầm quan trọng bậc nhất đối với sức khỏe của các thể đang được tạo hình, và karma thường xuyên được tụ thành chất liệu gây bệnh do khung cảnh bất lợi trước khi sinh.
Giai đoạn bào thai ở trong bụng mẹ là lúc nó đặc biệt đáp ứng với ảnh hưởng tinh thần, có nghĩa sự biến đổi do Chân nhân gây ra theo phần karma phải giải quyết sẽ dễ đạt được khi ấy, hơn là sau khi thân xác sinh ra. Chân nhân có ảnh hưởng nhiều hơn đối với tình trạng của các thể của phôi thai trong lúc đó, và thay đổi do nó tạo nên bằng phương tiện tinh thần thì dễ biểu lộ hơn trong các thể. Đây cũng là giai đoạn mà mầm bệnh được đặt vào các thể, nên việc trợ giúp theo cách tinh thần và việc có môi trường toàn hảo trong lúc mang thai có tầm quan trọng thấy rõ.
Nói về cách hóa giải karma bằng tâm thức, việc biểu lộ qua tư tưởng và hành động các tính chất của Minh Triết Thiêng Liêng là cách chắc chắn nhất để vô hiệu hóa karma, chữa lại sai lầm về tâm trí và tình cảm, cùng làm hòa nhịp tất cả các thể. Ai cũng có thể tự chữa cho mình nếu nâng tâm thức vào cảnh giới cao, đem xuống ánh sáng cùng sức mạnh của nó và biểu lộ trong đời sống hằng ngày.

5. Bệnh Tật trong các Thể thanh và Thể xác.

Bệnh ung thư trên hết thẩy là bệnh sinh ra do lạm dụng quyền năng, và là bệnh mà ai thuộc cung một dễ mắc phải. Ý chí bị lạm dụng, được dùng để làm chủ và sử dụng lực cùng tinh linh cho mục đích riêng, thay vì dùng để nâng cao con người và thúc đẩy cuộc tiến hóa của cá nhân. Luật thiên nhiên không thể được vi phạm nói rằng nơi đâu mà bức màn che kín cõi vô hình được vén lên, hiểu biết và quyền năng lộ ra và thụ đắc phải được dùng làm thăng tiến cuộc tiến hóa.
Mọi sử dụng sai lầm, mọi lạm dụng các tác nhân huyền bí vô hình tạo karma cho ai làm vậy, khiến họ thành nạn nhân của chính những tác nhân mà họ sai khiến. Karma tác động chính yếu từ bên trong con người, như lực của luồng hỏa xà Kundalini khi bị lạm dụng sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho hệ thần kinh não bộ và xương sống. Nói chung, tất cả những bệnh về xương sống và xương sống dị dạng đều có thể truy từ việc sử dụng sai lầm luồng hỏa xà. Như vậy một nguyên tắc nói rằng việc lạm dụng tác nhân bên ngoài cho karma là bị các thực thể xâm lăng, tấn công và gây tổn thương, còn việc lạm dụng các lực thiên nhiên trong con người sẽ ảnh hưởng họ từ bên trong.
Khi sử dụng năng lực tình cảm, có cảm xúc quá độ mà không phải do huyền thuật, nó có khuynh hướng ảnh hưởng màng nhầy lót các ống trong cơ thể, sinh ra bệnh cho các màng này. Thể tình cảm tự nó thì bị thương, nhiễm độc, sinh ra bệnh cho thể xác. Bệnh sinh ra do việc dùng trí năng sai lầm sẽ tác động não bộ và xương sống, đặc biệt hơn nữa là những cơ quan về tri thức.
Mỗi phần của cơ thể có tương ứng với một nguyên lý thanh (tình cảm, trí). Việc lạm dụng nguyên lý hay năng lực, khả năng của nó cho tác động lên cơ quan tương ứng trong xác thân. Diễn biến này chỉ có thể được thấu hiểu hoàn toàn sau khi ta nghiên cứu về giai đoạn trước khi sinh, lúc các thể đang được tạo hình. Tất cả những khiếm khuyết về sau và bệnh tiềm ẩn phát sinh từ giai đoạn này của tiến trình nhập thế.
Ung thư bắt đầu vào mỗi lần tái sinh, qua việc có thay đổi trong thể trí ngay từ những ngày đầu trong bụng mẹ. Cái trí bị ảnh hưởng rõ ràng, vì một phần chất liệu tạo nên nó được lấy từ khối chung có mức rung động của ung thư từ trước; chuyện xẩy ra do chất liệu đã được dùng trong thể trí của ai phạm lỗi mà kết quả là ung thư. Một phần của thể tình cảm cũng bị nhiễm theo cùng cách thức, và có mức rung động của ung thư đặt để vào nó do tiếp xúc trực tiếp với những thể khác có bệnh khi trước, gây ra bệnh do karma cho thể này. Tương tự vậy, vật chất dùng để tạo thân xác mới đã có lần có rung động của bệnh ung thư do hành vi quá độ trong quá khứ.
Dù ở trong những điều kiện có hại như vậy, làn rung động tiềm ẩn của quá khứ không nhất thiết phải gây bệnh. Nhiều người trên đời sống trong những điều kiện này mà không có triệu chứng bị ung thư. Kiếp này rồi kiếp kia họ có cơ hội làm karma vô hiệu, và trừ tuyệt chất liệu trong các thể của mình. Chỉ sau khi việc này có thất bại nhiều lần, bệnh tiềm ẩn mới khởi sự hiện ra trong ba thể.
Những bệnh kinh niên nặng của nhân loại cũng diễn tiến giống vậy. Việc dễ mắc bệnh luôn luôn có đó, sau khi con người có hành động sinh ra karma gây bệnh; tính dễ cảm thụ này có thể truy được trong chất liệu, ở cả các thể thanh và thể xác, với mầm bệnh cho thể sau thường được thấy trong máu.
Qua những hiểu biết nêu trên, ta thấy rõ giai đoạn tiềm ẩn là lúc có thể cho ra kết quả tốt đẹp nhất, thế nên gợi ý rõ ràng được đưa ra là mọi trẻ thơ nên được chữa trị càng nhiều càng tốt các bệnh tiềm ẩn. Để làm vậy cần có kỹ thuật hầu khám phá bệnh càng sớm càng hay sau khi sinh, và biện pháp để loại trừ bệnh. Có thể thông nhãn là phương pháp lý tưởng để làm những thử nghiệm cần thiết, nhưng từ các dụng cụ đang có ta có thể chế ra vật mới, cho phép y khoa tìm ra bệnh tiềm ẩn trong năm đầu đời.

Geoffrey Hodson -1929.

New Light on Disease.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#3 YOYO

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 294 Bài viết:
  • 131 thanks

Gửi vào 29/08/2020 - 09:43

KARMA

Karma là đề tài rộng lớn có nhiều mặt. Đa số bài viết thường nói về karma của con người, tuy nhiên nhìn rộng ra thì còn nhiều loại khác như karma của trái đất, thái dương hệ. Chẳng những vậy, các giống dân, hành tinh, vũ trụ xuất hiện và tan biến theo luật chu kỳ thì karma cũng tác động theo cùng luật. Đây là hiểu biết ít khi được nói tới mà sẽ được đề cập trong bài này.

I.

Khi chưa nghe nói tới luật Karma và nhìn chung quanh thấy sự bất bình đẳng của việc sinh ra vào cảnh giầu hay nghèo, thông minh nhiều hay ít, có tài năng cao hay thấp, mà ta không thể giúp để làm giảm bớt sự khổ nàn, chỉ có sự hiểu biết về Karma mới ngăn ta không oán trách trời đất và cuộc sống.
Luật này - dù hữu thức hay vô thức - không hề định trước chuyện gì hay ai. Nó từ Vô Tận mà ra, hiện hữu trong đó và nó chính là Vô Tận; nó không tác động mà chính nó là Hành Động. Karma không sáng tạo điều chi cũng không hoạch định việc gì, mà chính con người sắp đặt và gây ra nguyên nhân còn Karma điều chỉnh các hệ quả. Sự điều chỉnh ấy không phải là hành động mà là sự hòa hợp chung khắp nơi, luôn có khuynh hướng trở lại vị trí ban đầu, tự như cành cây khi bị kéo xuống mạnh, sẽ bung ngược trở lại với sức mạnh tương ứng. Karma không hề tìm cách phá hủy sự tự do trí tuệ và tự do cá nhân, khác với vì Thượng đế mà tín đồ các tôn giáo độc thần tạo ra.
Luật không che dấu các nguyên tắc của nó trong bóng tối để làm người hoang mang, nó cũng không trừng phạt ai dám xem xét các bí ẩn của nó. Ngược lại, ai do học hỏi và tham thiền khám phá ra đường lối phức tạp của nó và soi sáng chỗ tối tăm, chỗ uốn lượn quanh co làm nhiều người vấp ngã do không biết các mê lộ của đời, là đang giúp ích cho đồng loại mình. Karma là luật tuyệt đối và vĩnh cửu trong thế giới hữu hình, là một với điều bất khả tư nghì, và là một đặc tính của điều ấy trong thế giới hiện tượng.
Có liên kết chặt chẽ với Karma, hay đúng hơn là không thể tách rời khỏi nó, là luật tái sinh, tức sự trở lại của con người tinh thần trong chuỗi dài gần như vô tận một loạt các phàm ngã. Phàm ngã tựa như y trang và nhân vật mà một kịch sĩ thủ vai. Trong vài tiếng đồng hồ kịch sĩ đồng hóa mình với vai tuồng và khán giả đồng hóa họ với vai ấy.
Con người thật bên trong, kẻ thủ diễn các vai, suốt lúc đó biết rằng trong khoảng mấy tiếng đồng hồ mình là vai Hamlet trong vài màn ngắn ngủi, tượng trưng nơi cõi huyễn ảo của con người trọn cuộc đời của Hamlet. Và anh hiểu rằng đêm trước mình là vua Lear, và đêm trước nữa mình lại là một vai khác; trọn lúc ấy mỗi vai trò phải tỏ ra không biết gì về sự kiện này.
Trong đời sống thực sự hằng ngày, không may là sự thiếu hiểu biết đó rất thực. Dầu vậy, phần cá nhân thường hằng tức chân ngã lại có ý thức trọn vẹn sự kiện trên; bởi con mắt tinh thần nơi thể xác bị thui chột, hiểu biết đó không thể gây ấn tượng lên tâm thức của phàm ngã.
Chân nhân trong căn thể (causal body - thể tàng trữ mọi căn nguyên) là phần chủ trì mỗi phàm ngã mà Karma cưỡng ép nó phải đầu thai vào. Nó phải trải qua một chu kỳ bất tận gồm bao lần tái sinh, mỗi lần như vậy nó bị cho là có trách nhiệm và phải đau khổ. Trọn những điều này nghe có vẻ trái nghịch và rối trí, nhưng có nhiều người ý thức chuyện rõ ràng vì họ hiểu tính chất của chân nhân mà luôn cả những khía cạnh của nó. Để làm việc rõ nghĩa hơn, ta cần khởi sự từ đầu và ghi ra đôi dòng về chân nhân.
Hãy thử tưởng tượng một thần linh, người trời, hoặc ta có thể gọi bằng một tên nào khác, có bản chất thiêng liêng nhưng chưa đủ thanh khiết để là một với Đại Ngã. Muốn được vậy nó phải thanh tẩy bản tính của mình hầu cuối cùng đạt tới mục đích ấy. Nó chỉ có thể làm thế bằng cách tự mình trải riêng rẽ (tức về mặt tinh thần và thể chất) qua mỗi kinh nghiệm và cảm xúc có trong vũ trụ thiên hình vạn trạng. Do đó, sau khi học qua kinh nghiệm như thế ở những loài thấp và càng ngày càng đi lên những nấc thang tiến hóa cao hơn, nó phải trải qua mỗi kinh nghiệm trong những cõi của người. Karma là con đẻ của phàm ngã, là kết quả của hành động của cái cây tức phàm ngã hiển hiện cho ai cũng thấy, và cũng là trái của mọi tư tưởng và ngay cả động cơ của cái 'tôi' tinh thần.
Karma không sao có thể điều chỉnh sự quân bằng quyền lực trong đời sống và sự tiến bộ của thế giới, trừ phi nó theo đường lối hành động rộng rãi và tổng quát. Karma có tính cá nhân là phần ai nấy trả, mà cũng có tính khác là liên kết mọi thành phần của sự sống. Về mặt đó, sự tùy thuộc lẫn nhau của nhân loại là nguyên nhân cho việc nhân quả chia sẻ. Đây là luật cho giải đáp với câu hỏi về sự đau khổ tập thể và việc giải trừ nó. Hơn nữa, nó còn là luật bí truyền nói rằng không ai có thể cải thiện khuyết điểm của mình mà không nâng cao, dù ít oi thế mấy, trọn khối nhân loại mà họ là một phần trong đó. Cũng y vậy, không ai có thể phạm tội hay chịu ảnh hưởng của tội lỗi một mình. Trong thực tế, không có điều gì là sự chia rẽ, và nếu có thì chỉ thấy qua ý tưởng hay động cơ ích kỷ.
Cá nhân không thể tách rời mình với giống dân, hay giống dân tách rời khỏi cá nhân. Luật Karma áp dụng đồng đều cho tất cả, tuy rằng không phải mọi người phát triển đồng đều như nhau. Khi giúp sự phát triển của người khác, học viên TTH tin rằng không phải anh chỉ giúp họ làm tròn Karma của họ, mà anh còn, theo nghĩa rất sát, làm tròn Karma của mình. Nó là sự phát triển của nhân loại, cái khối mà anh và người khác là một phần nằm trong đó, và anh luôn luôn biết rằng thất bại nào về phần mình trong việc đáp ứng với phần cao nhất trong tâm, sẽ gây chậm trễ không những cho chính anh mà luôn cho tất cả mọi người về sự tiến bước của họ. Do hành động của mình, anh có thể làm cho công chuyện hóa khó hay dễ hơn cho nhân loại trong việc đạt tới trình độ cao hơn.
Nói chung và trong một giới hạn nào đó, Karma không thể bị thúc đẩy hay làm trì hoãn việc thi hành luật, dầu vậy cũng có ngoại lệ như ta nghe nói là ai muốn đi mau trên đường Đạo thì khi đủ sức, họ có thể yêu cầu được cho trang trải số lượng lớn nhân quả trong một thời gian ngắn, thay vì phân bố nó ra trong nhiều kiếp và tiến bước thong thả hơn.
Đôi khi Karma của một người không trang trải hết hẳn trong một kiếp, phàm ngã kiếp ấy có thể bị hoàn cảnh ngăn cản làm cho nó không nhận được hết phần Karma mà lẽ ra phải nhận dù xấu dù tốt. Nhưng luật nhân quả không hề bị sự may rủi không suy xét làm cho sai lạc. Việc đền bù nếu không thể giải quyết cho xong trong kiếp nào thì phần còn lại sẽ được mang sang kiếp tới, điều chi chưa làm trọn bây giờ sẽ được trở lại để hoàn tất về sau, và những kiếp sống của cá nhân được ví rất sát như các trang giấy một cuốn tập kế toán, Cuốn Sổ Đời.

II. Chu Kỳ và Karma

Ta xem Karma là luật tối hậu của vũ trụ, là căn do, nguồn gốc của mọi luật khác hiện hữu trong khắp thiên nhiên. Nó là luật không sai chạy, điều chỉnh hệ quả đối với nguyên nhân nơi các cõi sinh hoạt là vật chất, trí tuệ và tinh thần. Bởi không có nguyên nhân nào mà không có hệ quả tương xứng từ lớn nhất tới nhỏ nhất, từ sự xáo trộn ở mức vũ trụ tới cử động của bàn tay, và bởi nhân nào sinh quả đó, Karma là luật vô hình điều chỉnh khôn ngoan, sáng suốt, công bằng mỗi hệ quả với nguyên nhân, truy được từ cái trước đến nguồn sinh ra nó. Tuy không thể biết luật chính ra là như thế nào và bản chất của nó, ta biết được cách nó tác động, và có thể định nghĩa cùng mô tả hành động chính xác của nó.
Để hiểu cách làm việc của Karma trong sự tuần hoàn của vũ trụ, và để làm cho nó hóa rõ ràng, dễ hiểu hơn, ta cần xem xét các chu kỳ nhân quả. Câu hỏi là những chu kỳ rộng lớn như Kiếp (Yuga) và Đại Kiếp (Kalpa) dài hằng triệu năm của Ấn giáo và ý niệm tương tự của Hy lạp cổ thời, có liên hệ trực tiếp gì cho đời sống con người ? Ta được dạy rằng có những chu kỳ trong không gian và thời gian vô tận, có chu kỳ vật chất và rồi chu kỳ tiến bộ tinh thần, chu kỳ giống dân, quốc gia và cá nhân. Hiểu biết bí truyền cho ta cái nhìn sâu hơn ra sao về cách hoạt động của chúng ?
Đời sống địa chất của trái đất được ấn định trước, và tương tự vậy là sự ấn định cho giống dân và quốc gia. Điều này có liên hệ chặt chẽ với Karma và các chu kỳ. Luật tiến hóa hiện giờ đưa ta theo vòng cung đi lên trong chu kỳ của chúng ta, để rồi hệ quả lại hòa vào và trở thành nguyên nhân lần nữa, và mọi chuyện bị ảnh hưởng bởi hệ quả ấy này có được trở lại sự hòa hợp ban đầu. Nó là một chu kỳ nhỏ trong chu kỳ rộng lớn hơn, nhân dẫn đến quả rồi quả tới phiên nó thành nhân cho kiếp tới.
Giống như trái đất đi hết một vòng quanh mặt trời trong một năm, mà cùng lúc xoay quanh trục của mình một vòng mỗi 24 giờ, tức có nhiều chu kỳ nhỏ trong một chu kỳ lớn, thì những chu kỳ nhỏ loại khác cũng đi trọn rồi khởi đầu trở lại bên trong một Kiếp hay Đại Kiếp. Rồi triết lý cổ thời còn dạy rằng sự xoay vần của thế giới vật chất đi kèm với xoay vần tương tự của thế giới trí tuệ - tâm linh, cả hai diễn ra chu kỳ.
Như vậy ta thấy trong lịch sử có sự thay phiên đều đặn các lượn sóng tới lui của sự tiến bộ con người. Lịch sử cho thấy các đế quốc, vương quốc trên thế giới sau khi lên tới mức vĩ đại tột đỉnh, sẽ đi xuống trở lại theo cùng một luật được áp dụng cho nó khi đi lên, để rồi khi xuống tới điểm thấp nhất nhân loại tự chỉnh đốn và tiến lên lần nữa. Kỳ này, do luật tiến triển theo chu kỳ, đỉnh mà nó sẽ lên tới thì cao hơn đỉnh của lần đầu.
Tuy nhiên các chu kỳ ấy, là bánh xe trong hệ thống bánh xe răng cưa khác, không ảnh hưởng hết tất cả nhân loại cùng một lúc. Vì vậy, đó là khó khăn trong việc hiểu và phân biệt ảnh hưởng giữa chu kỳ này với chu kỳ khác, hay ảnh hưởng tinh thần và vật chất của từng chu kỳ, khi ta chưa thấu đáo cặn kẽ sự liên hệ của chu kỳ với quốc gia và giống dân, vận mạng và cuộc tiến hóa của chúng. Kế tiếp, có những chu kỳ nhỏ cho quốc gia, cho chi chủng trong mẫu chủng (giống dân phụ trong giống dân chính). Ta không hiểu được hệ thống này nếu phần tinh thần của chu kỳ, được Karma ấn định sẵn, bị tách rời với phần vật chất; lại nữa các chu kỳ lớn nhỏ diễn ra độc lập với nhau.
Ta còn có thể nói rằng cách luật tác động là do chính ta làm ra, vì chúng ta, tập thể hay cá nhân, đã chuẩn bị chúng. Karma đồng nghĩa với 'Ý Trời' mà không có tính thiện hay ác gán cho nó. Huyền bí gia hay triết gia sẽ không nói tới chuyện 'Ý Trời' lành hay dữ, mà xem đó là Karma và dạy rằng nó thưởng người lành trong kiếp tới, và trừng phạt người dữ kiếp sau hay nhiều đời sau, bao lâu mà sự xáo trộn rất đỗi nhỏ bé gây ra cho sự hòa hợp trong cõi vô cùng chót hết vẫn chưa được điều chỉnh. Karma là luật duy nhất - vĩnh cửu và bất biến - về sự hòa hợp tuyệt đối trong cõi vật chất lẫn tinh thần. Bởi vậy Karma không thưởng hay phạt, mà đó là chúng ta tự thưởng hay phạt mình tùy theo ta có làm việc cùng và thuận với thiên nhiên, tuân theo luật mà sự hòa hợp tùy thuộc, hay ta phá các luật ấy.
Vậy thì, với những lời phạm thánh và trách móc Thượng đế trong đạo của họ mà con người thốt ra, không lời nào tệ hơn hay không thể tha thứ hơn khi do lòng khiêm tốn gần như luôn luôn giả tạo, tín đồ được xem là 'ngoan đạo' nói rằng đó là ý Trời mỗi khi có điều bất hạnh xẩy đến cho mình.
Học viên TTH không tin vào việc có ai chết thay cho tội lỗi người khác, cũng như không có thần linh nào xá tội dù là tội thật nhỏ bé. Điều ta tin là có sự công bằng chặt chẽ, vô tư. Quan điểm của ta về Karma nói rằng ấy là một Quyền Năng không thể sai lầm, và do vậy không có sự giận dữ hay thương xót mà chỉ có lẽ Công Minh tuyệt đối, để cho mỗi nguyên nhân dù to hay nhỏ, đưa tới hệ quả không thể tránh được.
Vì thế ta khuyến khích các đức hạnh nhân từ, bố thí và tha thứ lầm lỡ của nhau, và cho rằng khuyến khích thế mấy cũng không đủ. Lời dạy 'Lấy ân báo oán' nói lên tính cách không sai sót của Karma. Bởi khi ai dành quyền làm luật thay cho luật trời thì dù sao đi nữa, đã phạm thánh về một mặt nào đó. Luật của con người có thể dùng biện pháp giới hạn mà không có tính trừng trị, nhưng ai tuy tin vào Karma mà vẫn trả thù, và không muốn quên đi thương tổn của mình để lấy ân đền oán, thì là kẻ tội phạm và chỉ làm hại mình. Bởi Karma chắc chắn sẽ trừng phạt kẻ đã làm quấy với anh, còn khi tìm cách trừng phạt kẻ thù của mình thay vì để Karma lo liệu việc quân bằng ân oán, anh đã thêm vào đó phần của mình, và do vậy sinh ra nguyên do khiến trong tương lai kẻ thù được phần thưởng và anh bị phạt. Luật điều chỉnh không sai chạy và ảnh hưởng mỗi kiếp sau theo tính chất của kiếp trước, cùng dựa theo tổng số công và tội những kiếp đã qua.
Ta có thể mô tả Karma như là luật điều chỉnh, luôn có khuynh hướng tái tạo sự quân bình bị xáo trộn trong các cõi; Karma không luôn luôn tác động theo cách này hay cách kia, mà nó luôn luôn tác động để lập trở lại sự hòa hợp, và duy trì sự quân bằng nhờ đó vũ trụ hiện hữu.
Hãy hình dung một hồ nước, viên sỏi rơi vào đó sinh ra nhiều lượn sóng làm xáo động mặt hồ. Những lượn sóng này lan tới lui cho đến khi năng lực tiêu tan và chúng ở trong trạng thái nghỉ, nước trở lại tình trạng an tĩnh, tĩnh lặng. Tương tự vậy, mọi hành động ở mỗi cõi đều sinh ra xáo trộn cho sự hòa hợp cân bằng của vũ trụ, các rung động từ đó sinh ra sẽ tiếp tục lan tới lui nếu đó là vùng giới hạn, cho đến khi quân bình được tái tạo. Nhưng bởi mỗi xáo trộn như thế bắt đầu từ một điểm nào đó, chuyện rõ ràng là sự quân bình và hòa hợp chỉ có thể được tái tạo bằng cách tụ về cùng điểm ấy hết mọi lực đã từ đó phát ra. Và như thế bạn có bằng chứng là hệ quả của hành động, tư tưởng v.v. của một ai phải tác động trở lại lên chính họ, với cùng sức mạnh mà họ đã phát chúng ra.
Karma cũng không phải là không chi phối được nếu ta làm việc trong sự đồng lòng và hòa hợp, thay vì phân rẽ và tranh chấp. Việc không biết cách Karma tác động - có người gọi đó là ý trời, phức tạp và bí hiểm, người khác thì cho ấy là định mệnh mù quáng, và người nữa tin nó chỉ là chuyện may rủi không có thánh thần hay quỉ ma can dự - chắc chắn sẽ mất đi nếu ta hướng chúng về nguyên nhân đúng thật. Với hiểu biết xác đáng, hay với niềm tin vững vàng là người bên cạnh sẽ không làm hại ta cũng như ta không làm hại họ, nhiều điều ác trên thế giới sẽ biến mất ngay. Nếu không ai hại ai, Karma sẽ không có duyên cớ để tác động, hay vũ khí để sử dụng.
Sự hiện diện thường trực của tranh chấp và đối kháng giữa chúng ta, và sự phân rẽ của các sắc dân, quốc gia, xã hội, cá nhân thành kẻ thù của nhau, là nguyên do chính cho 'ý Trời'. Nhưng sự thực là không một tai nạn nào trong đời ta, không một ngày xui xẻo, hay điều bất hạnh nào mà không thể truy ngược trở lại chuyện ta đã làm trong kiếp này hay kiếp xưa.
Cách làm việc của Karma là việc làm lành hay phạm luật và tội lỗi xẩy ra ở cõi vật chất nơi ta biểu lộ, thì không thể có thưởng hay bị trừng phạt ở cõi tâm linh. Học viên TTH không tin có nơi chốn nào là địa ngục hay thiên đàng, không có lửa cháy đời đời, ngạ quỉ hành hạ người hay cõi trời có đường phố dát vàng ngọc. Điều họ tin là tình trạng sau khi chết, ấy là trạng thái tâm linh giống như ta ở trong giấc mơ sống động.
Việc học hỏi MTTL hóa thú vị khi ta đối chiếu nhiều nguồn tài liệu về điểm này hay kia. Trong bài này đề cập đến tính chu kỳ của Karma, theo đó sự biểu lộ của tinh thần trong vật chất sẽ tái đi tái lại, vật chất trong lần biểu hiện này mang tính chất của lần trước và mục tiêu của lần này là làm cho vật chất thăng hoa thêm một nấc trên thang tiến hóa. Nói khác đi, vật chất của thế giới hiện giờ có sẵn mầm bất toàn và bổn phận của ta là làm cho nó trở nên toàn thiện, tức cứu chuộc chúng (việc tinh lọc vật chất này được nói tới trong sách Con Đường Lành Bệnh đã đăng trên PST).
Lại nữa, khi bàn về Karma đa số tư tưởng thường chỉ chú trọng vào con người hơn là vào tổng thể mà con người là một phần trong đó. Tính cách chu kỳ được đề cập ở trên cho ra cái nhìn mới về Karma, và cũng bởi luật nhân quả có liên hệ mật thiết không thể tách rời với luật tái sinh, một số lớn người hiện nay xưa kia ở châu Atlantis nay trở lại, và lo giải trừ nhân quả sinh ra trong kiếp làm người Atlantis. Nhân quả ấy thường có một số đặc tính giống nhau chẳng hạn nặng về tình cảm, nên biểu lộ thành hình thức bệnh cũng giống nhau, thí dụ như ung thư. Vì có đông kẻ như vậy nên vào lúc này ung thư là bệnh gây chết người hàng đầu trên thế giới. Đây là một điểm cho thấy lợi ích của việc nghiên cứu TTH, nó cho ta tầm nhìn rộng lớn hơn, thấy được vị trí sự việc trong khung cảnh và hiểu ra ý nghĩa của chúng.

Theo:
- The Secret Doctrine, HPB.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi YOYO: 29/08/2020 - 09:44


Thanked by 1 Member:

#4 YOYO

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 294 Bài viết:
  • 131 thanks

Gửi vào 29/08/2020 - 10:02

KARMA

Trước hết, ta hãy định nghĩa Karma. Karma là luật Nhân Quả. Không có quả nào mà không có nhân, cũng như không có trẻ con nào mà không có cha mẹ. Bạn gieo điều chi thì sẽ gặt điều ấy. Luật này áp dụng không những cho những gì ta thấy chung quanh mình, mà áp dụng luôn cho tình cảm, tư tưởng, hành động và lời nói. Điều gì ta tạo ra, ta sẽ nhận hệ quả trở lại. Nếu có hệ quả thì bắt buộc phải có nguyên nhân; nếu có nguyên nhân thì sẽ có hệ quả.
Nếu nhân loại thật sự hiểu luật này thì mọi người hẳn đã không ở dưới thế, nhưng chúng ta đang ở đây và hoặc sẽ còn ở đây cho tới khi ngày cuối của thái dương hệ, hoặc học thuộc luật này và giải thoát mình khỏi khổ não, đau lòng, âu lo, chiến tranh và cách mạng. Từ lúc sinh đến lúc tử, con người gieo và gặt điều họ đã gieo. Khi ai đó suy nghĩ, họ gửi mầm tư tưởng vào không gian. Bất cứ điều gì họ nói đều là một mầm trong không gian, bất cứ tình cảm và phản ứng nào họ có cũng là mầm trong không gian; bất cứ hành động nào mà họ thực hiện cũng là mầm trong không gian. Những hạt mầm này sẽ tăng trưởng và một ngày kia họ phải đối diện với quả của nó. Nếu trừ được nguyên nhân là diệt được hệ quả, hoặc là ảnh hưởng hoặc là phản ứng. Đây là một luật mà không ai có thể thoát.
Ở những nơi xa xôi trên trái đất, vì có cảm ứng tâm linh mạnh hơn và có thể thiên về tinh thần nhiều hơn, người ta không dùng tên cầu kỳ để gọi luật Nhân Quả. Họ gọi nó là Luật của Âm Vang. Tôi hay đi vào núi và lắng nghe tiếng nói của mình vang trở về. Có lần tôi ở trong kim tự tháp của Ai Cập, tôi xướng thánh ngữ 'OM' rồi chờ. Vài phút sau tôi nghe 'OM' vang trở lại theo những cung bậc khác nhau. Người Ai Cập cổ quả là khoa học gia siêu quần. Chữ 'echo - âm vang' có một nghĩa bề mặt mà cũng có những nghĩa huyền bí sâu xa hơn. Khi có hành động về vật chất, tiếng vang thứ nhất có nét vật chất, tiếng vang thứ hai có nét tình cảm, tiếng vang thứ ba thuộc về trí tuệ và tiếng vang thứ tư là tinh thần. Nó có nghĩa mỗi hành động tạo ra ở bất cứ mức độ nào sẽ có vang vọng ở hết các cõi. Không sao thoát được việc ấy. Từ đây ta đi tới kết luận là vũ trụ, cảnh đời này, là cơ chế có ý thức tác động theo toán học, tâm lý học và khoa học.
Khi ta phát triển và tiến hóa, tiếng vang của ta trở thành trong trẻo và thanh khiết hơn. Chẳng hạn ta có thể làm một việc rất hay về mặt vật chất, và âm vang thanh khiết sẽ sinh ra ở cõi tình cảm, trí, trực giác, chân thần và thiêng liêng. Những âm vang này làm ra sự hòa nhịp và hòa tấu cho đời của ta. Còn có một tính chất khác của âm vang mà nó có thể lập lại mãi không thôi, cho đến khi tai của ta không còn nghe được nữa. Bạn vào núi hét to, bạn có thể nghe một âm vang, nhưng nếu bạn khôn lanh và nhậy cảm, bạn sẽ thấy rằng âm lan ra những rặng núi khác và lập lại nữa, cho dù bạn có thể không cảm nhận được nó. Ấy là chuyển động liên tục, vô tận của vũ trụ. Nó có nghĩa rằng bạn sẽ mãi mãi phải đối đầu với hệ quả của bất cứ hành động, tư tưởng tình cảm hay lời nói nào theo hình thức của âm vang.
Karma theo tiếng Phạn có nghĩa là hành động, hoạt động; mà ngay cả Phạn ngữ cũng không nói tới kết quả và nguyên nhân. Đó là vì Phạn ngữ trực nhận rằng không có hệ quả mà luôn luôn có nguyên nhân. Trí não tây phương thấy điều này khó hiểu, tuy vậy hệ quả là nguyên nhân nhỏ, hệ quả sinh ra trở thành nguyên nhân cho một hệ quả khác. Thế nên đi tới rốt ráo thì mọi việc đều là nguyên nhân, chuyện này dẫn tới chuyện kia theo một diễn trình liên tục.
Những đấng Cao Cả dạy rằng chúng ta phải nỗ lực từng giây phút để ý thức điều ta đang làm về mặt vật chất, tình cảm và trí tuệ, hầu thấu đáo nguyên nhân mà ta sẽ tạo. Đây là chỉ dạy lớn lao nhất của đức Phật, ngài muốn chúng ta ý thức đủ để biết điều gì đã sinh ra chuyện đang có lúc này. Cho mỗi hành động, có một phản ứng bằng y vậy mà đối nghịch phát ra trong cõi trần, tình cảm, trí và tinh thần. Ta sẽ ý thức như thế nào ? Ta sẽ cho ra hành động gì, và có thể mong chờ phản ứng gì trở lại ?
Những tên khác nhau của karma thì giống như nhiều mặt của một viên kim cương, chúng khác nhau tuy vậy mỗi mặt để lộ một khía cạnh khác của cùng một đề tài. Karma còn gọi là Luật Đền Bù. Đền Bù được hiểu theo nghĩa mỗi người phải cẩn thận đền bù cho mình và người khác. Các thể xác, tình cảm, trí, bạn bè của mình v.v. phải được đền bù. Bởi thể xác của ta làm việc, nó phải được nuôi dưỡng, cho mặc ấm và tắm rửa – tức đền bù. Rồi ta cũng phải chăm sóc cho thể tình cảm và trí giống vậy. Ý này cũng áp dụng cho người mà ta có liên hệ. Đền Bù là sự hiểu biết tế nhị, nói rằng bạn được cho điều gì thì phải hoàn trả lại điều ấy. Lúc sinh ra bạn không có gì thì khi qua đời bạn cũng sẽ ra đi tay không.
Khi tôi đến một vùng hẻo lánh ở Syria và nói chuyện với người theo phái Sufi, một người trong bọn dùng tên Luật của Gương để nói về Karma. Đời sống một người ra sao thì đó là điều họ là, vì họ phản chiếu trong đời mình chuyện gì họ thật sự là. Nếu gương mặt họ thay đổi, hình ảnh của họ trong gương cũng thay đổi theo.
Tình cảm gây ưu tư và cách sống thì đích thực là phản ảnh những gì ta đã làm trước đây. Tình trạng thể chất, tình cảm, và trí tuệ là sự phản chiếu đích xác của những hành động trước đó. Đời sống của ta là tấm gương phản ảnh điều chúng ta là. Muốn hiểu đời mình, ta chỉ cần nhìn vào phản ảnh. Ta đi tới trước gương và nói:
– Trang điểm coi không đẹp.
và ta chữa lại. Nếu ai thực sự hiểu điều này họ sẽ không còn than phiền về người khác, vì chuyện gì xẩy ra trong đời họ đều là phản ảnh cho điều họ là. Chúng ta có thể dùng gương để thay đổi chính mình, nhưng vấn đề là ta yêu quí hình thấy trong gương. Khi có chuyện đó thì không còn hy vọng, và đó là thảm kịch của thế giới đương thời. Nó thương yêu phản ảnh.
Ta có thể thay đổi đời mình bằng cách thay đổi thực tại của điều ta là, và gương sẽ phản ảnh y hệt ta đã thay đổi ra sao. Luật của Gương là lời giải thích tuyệt vời về karma. Điều gì áp dụng cho một cá nhân cũng ứng dụng y vậy cho quốc gia và nhân loại như là một khối. Bất cứ điều gì xẩy ra cho đời sống quốc gia hay toàn cầu là phản ảnh của tâm thức quần chúng. Muốn thay đổi phản ảnh đó, ta phải thay đổi thực tại, cái vật thể được phản chiếu.
Bạn có biết ai điên khùng tới mức đứng trước gương tay cầm bàn chải tìm cách sửa đổi hình mình trong gương, tin rằng sửa đổi phản ảnh thì sẽ thay đổi được chính mình chăng ? Vậy mà đó là điều ta làm ngày đêm. Ta tìm cách thay đổi cái hình thay vì nguyên do sinh ra hình, thay vì cải hóa chính chúng ta. Người xưa gọi đó là khoa học giả hình. Bạn ăn mặc cách khác, thay kiểu tóc, có dáng đi mới, đổi giọng v.v. tức bỏ công chăm chút hình phản chiếu của mình. Chuyện đáng buồn về việc này là khi dùng bàn chải sửa hình, cuối cùng bạn sẽ không sao thấy được gương mặt thật của mình trong đó.
Khi đứng trước gương, hãy ráng nhìn cho đúng điều gì bạn là. Gương là đời sống của bạn, cách mà bạn sống, điều kiện sống của bạn, tình trạng sức khỏe thể chất, tình cảm, trí, tâm tư xào xáo và hoang mang trong đời bạn, sự dại khờ, chín chắn hoặc điên loạn.
Karma là sự tranh đấu giữa điều bạn làm và điều bạn muốn trở thành. Bạn muốn thành điều này mà làm đúng chuyện ngược lại. Bạn muốn có tự do, nhưng lại tìm cách thành nô lệ. Bạn muốn có tình yêu, mà lại tạo những điều kiện làm ai cũng ghét bỏ bạn. Tất cả chúng ta đều làm những chuyện này một cách không ý thức.
Trận chiến giữa điều bạn làm và điều bạn muốn trở thành là trận chiến thật sự. Bạn là mớ rối nùi nhân quả vì cả hai việc đều sinh ra kama. Khi có hành động là bạn tạo nên karma và khi muốn là điều gì bạn cũng sinh ra karma. Hai điều chỏi nhau và bạn bị rối trí hoàn toàn. Người như vậy có xung đột tâm lý bên trong và bên ngoài, giữa điều họ là và điều họ muốn trở thành.
85 % điều ta làm thì đối chọi với điều ta muốn thành. Ta làm việc ngược với quyền lợi tốt nhất của mình, thế nhưng ta vui sướng làm vậy. Ta muốn có hạnh phúc, sức khỏe, phát đạt, tình thân hữu, mỹ lệ, tự do v.v., mà ta không biết chuyện gì mang lại những điều này. Ta phải học chỉ làm những hành động nào tương ứng với điều ta muốn trở thành. Nếu có xung đột là có karma.
Một tên khác cho karma là Thiên Xứng. Con người tựa như chiếc cân, chuyện gì họ đem vào bản tính của mình sẽ nâng họ lên hoặc hạ xuống thấp. Rồi còn có âm vang đến từ những hành động trước đó, những kiếp trước, như thủy triều lan vào bờ. Năm ngày hay năm trăm năm sau thủy triều ấy sẽ đụng vào họ khi anh đâm đầu ra biển. Ta học những điều này để trong tương lai ta có thể ngăn việc tạo nên thủy triều.
Ta phải tự hỏi mình đặt điều gì lên bàn cân. Nó là lòng giả dối, tư lợi, cái tôi, sợ hãi, lạm dụng và bóc lột người khác ? Nếu đó là những điều ta đặt lên cân thì ấy là những điều ta sẽ được nhận. Nếu ai được đối xử theo một cách nào đó, nó có nghĩa họ đã hành xử theo cách ấy trong quá khứ.
Karma còn có khi được gọi là Luật của Bẫy Tự Gài. Ta tự đặt bẫy cho mình và trong lúc làm vậy ta thấy rất vui. Ta đặt bẫy vật chất, tình cảm, trí tuệ bằng lời nói, chữ viết v.v. của mình. Ta muốn thoát khỏi bẫy nhưng càng vùng vẫy ta càng bị trói chặt. Giống như con chuột bị mắc bẫy, nếu đừng cử động thì ta có thể sống thêm vài phút; nếu cử động lập tức ta gẫy cổ ngay.
Ta đã đặt bao nhiêu bẫy cho mình rồi ? Chính con người trở thành một cái bẫy. Ai tạo nên bẫy trong đời mình là trở thành cái bẫy nguy hiểm nhất cho người khác. Khi bẫy tới phiên họ bị kẹt trong bẫy của người khác thì không có mấy hy vọng thoát ra. Ấy là điều ta đang làm cho nhau, tìm cách bẫy sập nhau và mình trở thành cái bẫy. Nếu điều này tiếp tục, một cái bẫy trở thành hàng trăm cái bẫy khác thì còn có cơ hội nào để thoát thân ?
Khi ai đó bị kẹt bẫy trong chính điều lầm lỡ của mình, lời nói sai, suy nghĩ không đúng, và tình cảm hồ đồ, họ bị bẫy do chính điều tạo ra. Giả thử họ thấy kẻ khác bóc lột và có thủ đoạn, họ bèn tìm cách cũng bóc lột và có thủ đoạn, rồi bị kẹt bẫy trong lúc làm vậy. Họ mất đi sự sáng suốt, đường hướng; khi có ai nói chuyện với họ, họ dẫn dụ kẻ khác sai đường và đưa người ta vào bẫy. Ý thức được mình đang ở trong bẫy là dấu hiệu rất tốt.
Khi than phiền về sức khỏe, hạnh phúc, mối liên hệ v.v., nó có nghĩa bạn bắt đầu hiểu mình đang ở trong bẫy và bạn muốn thoát ra. Nhiều người không muốn tìm cách thoát, nhưng họ than van. Đó là nhạc của con người, nhạc nhân quả !
Karma còn được gọi là Luật Vay Trả. Điều gì bạn cho thiên nhiên, thiên nhiên sẽ trả lại cho bạn. Đó là lý do tại sao ta phải có sự công bằng với chính mình và với người khác. Nếu có ai giúp bạn 50 đồng, bạn phải trả lại 50 đồng ấy. Nếu họ cứu sống bạn, bạn phải cứu sống họ. Dầu vậy, ta nghĩ mình khôn ngoan khi làm chính điều ngược lại. Ta nghĩ nếu trộm cướp và lấy cắp người khác, lấy được nhiều tiền của họ là ta sẽ được hạnh phúc. Nhưng ngày kia ta sẽ thấy có nước lụt dâng, cuốn trôi đi hết những gì ta tạo tác, luôn cả chính mình, vì cũng phải trả thuế. Xét ra, xử sự công bằng, hoàn toàn đúng lẽ thì khôn ngoan hơn.

Cách để Gia Tăng, Nhân Bội Karma.

Karma gia tăng và mang lại phức tạp lớn hơn khi bạn tuân theo sự thúc đẩy và ham muốn của thể xác, tình cảm và trí, và xử sự theo đòi hỏi của các thể này. Nếu bạn thuận theo các thèm muốn và thôi thúc ấy, cuối cùng bạn sẽ thấy mình bị kẹt bẫy. Còn khi bạn dùng ham muốn và thúc đẩy của mình để gài bẫy người khác, bạn đang tạo một cái bẫy trong cái bẫy khác. Khi có những thói tật đáng chê trách là ta tạo karma thật rối rắm cho mình; ta sinh ra một lượng karma to tát khi không sống công bằng, tôn trọng quyền của người khác và của chính chúng ta. Ta cần phải ngay thẳng, chính đáng. Sự công chính được chọn làm đức hạnh tiêu chuẩn vì nó là nguyên lý hàng đầu.
Karma tăng bội khi người ta tiến đến những cõi tinh tế hơn. Nếu có ai làm lỗi về mặt vật chất, dùng biểu tượng để nói thì karma bằng 4 x 4; nếu họ làm lỗi về mặt tình cảm, hệ quả sẽ bằng 4 x 4 x 4, ở mức trí tuệ nó sẽ là 4 x 4 x 4 x 4, và cứ như thế tăng bội.
Có khi ta ở trong cảnh ngộ mà mối liên hệ trong gia đình hay cá nhân trở nên hết sức căng thẳng. Trường hợp như thế cho ta hai chọn lựa:
- Một là tập tánh dửng dưng thiêng liêng (divine indifference),
- Hai là bỏ cuộc và rút lui. Cách này là giải pháp mạnh mà đôi lúc nếu ta không rút lui thì cũng bị gạt ra lề.
Giữa hai cách này tôi sẽ chọn thái độ dửng dưng thiêng liêng. Cứ để ai làm tôi bực mình nói nhăng nói cuội muốn làm gì thì làm, tôi sẽ tập tánh dửng dưng thiêng liêng vì họ đúng là người giúp tôi học và luyện tập tánh. Nó là cơ hội để tập dứt bỏ và quan sát chuyện gì xẩy ra, tại sao nó xẩy ra, làm sao xẩy ra, kết quả là gì v.v. Nếu họ hỏi ý kiến hay lời khuyên của tôi, tôi sẽ bảo với sự dửng dưng không tình cảm là họ đang đâm đầu vào tai họa.
Đời sống tinh thần là có kỷ luật đều đặn và xây dựng trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta tạo nên và phát triển các thể và cơ chế, những điều này không thể nẩy nở trong khung cảnh tốt lành. Chuyện không may là cách tốt nhất làm tăng trưởng các thể và cơ chế là có nghịch cảnh. Nếu ta nghĩ đến một trường hợp khó khăn gặp phải hồi mười năm về trước, ta sẽ thấy nó đúng là hoàn cảnh làm ta lớn mạnh, thức tỉnh và khai mở. Thường khi ta không thấy biết ơn mà lẽ ra phải thấy vậy trong khung cảnh như thế.
Bạn tăng bội và gia tăng karma của mình khi sống đời giả dối. Nếu bạn xấu xí thì cho người khác biết bạn xấu xí sẽ tốt hơn là dấu mình đi. Khi dấu con người mình, bạn khiến người khác hiểu lầm. Đừng giả cách như mình tốt đẹp hơn người, mà bạn là sao thì sống là vậy, nếu có thể được.
Tôi cảm thấy vui lòng và biết ơn nếu người ta mong muốn làm cho họ được xinh đẹp hơn, ấy là chuyện tự nhiên. Nhưng con người không nên thay đổi mặt mày, hoặc dùng son phấn để gạt chính mình hầu có hình dung đẹp hơn. Tập thể dục và làm cho cơ thể xinh đẹp hơn là điều tốt, mà cũng còn những cách tự nhiên khác để giữ cho thân xác đừng mau già. Một cách là ăn đúng loại thức ăn đúng đắn có chứa chất dinh dưỡng thích hợp, cũng như là nghỉ ngơi và ngủ đủ. Gò má bạn sẽ rực sáng như gương.
Tham lam, ghen tỵ, thù ghét cũng như là nỗi hân hoan làm thay đổi gương mặt của bạn. Con người là phó bản y hệt của điều họ là bên trong. Tại sao không tìm phương pháp thông thường thay vì bỏ tiền cho hóa chất trích tinh từ cơ quan của thú vật ? Chúa, Phật đều dạy ta phải sống tự nhiên. Tách rời khỏi điều gì tự nhiên là tự phá hủy mình.
Mỹ lệ không hề tạo karma, mà ngược lại, khi ta làm việc để tạo mỹ lệ thì nét thiêng liêng của ta thể hiện. Ta không thành điều gì mà chuyện là Chân Ngã được biểu lộ. Làm việc để có mỹ lệ làm giảm nhân quả vì sự xấu xí tạo nên karma. Nói 'Hãy trở nên đẹp đẽ' là điều giản dị, nhưng người ta phải đẹp về thể chất, tình cảm, trí tuệ đẹp đẽ, có động cơ tốt lành hòa hợp với các nguyên tắc thiêng liêng.
Khi đi thăm nhà tâm thần, bệnh viện và nhà tù, chúng ta chứng kiến hệ quả của karma xấu. Hành vi có tính tốt lành làm giảm thiểu karma, và ta không tạo karma mới. Hành vi có tính Thiện, Lành, Chính Đáng, Mỹ Lệ, Hân Hoan, và Tự Do làm giảm thiểu karma. Kinh điển khuyên ta không làm điều xấu cho người khác, ngay cả khi họ làm điều xấu cho ta. Khi làm theo lời khuyên này, ta không tạo nên nhân quả.
Hãy gia tăng niềm vui của người khác. Đừng làm người ta buồn, giận hay nổi khùng để ta có lợi. Nếu bạn lấy đi niềm vui của người khác bạn sẽ không hề có được niềm vui; nếu cho ra niềm vui thì niềm vui của bạn sẽ tăng gia. Đừng giới hạn sự do của người khác. Nếu giới hạn tự do thì bạn sẽ không được tự do.
Karma tăng gia và tạo nên thủy triều tác động lên các thể thanh, nếu ta xem thường người và vật, và dùng tâm lý để bóc lột. Đừng xem thường người và tình thế, làm như họ thuộc về bạn. Ngay cả khi bạn ngồi dưới gốc thưởng thức hương thơm của cây, hãy ngỏ lời tạ ơn trước khi rời chỗ đó, và làm cho cây điều gì bạn làm được.

Torkhom Saraydarian.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |