Jump to content

Advertisements




Bài viết của chú Vuivui!


2 replies to this topic

#1 namha

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 106 Bài viết:
  • 41 thanks

Gửi vào 04/10/2011 - 23:17

Trước hết tôi nói rõ, người nghiên cứu khoa học, dù nhận
giải nobel hay fields cũng vậy không phải là người có lá
số được xếp vào hạng phi thường cách theo thái thứ Lang.
Chứ tôi không nói họ không phải là người phi thường. Nếu
họ là những người phi thường, thời đương nhiên phải có lá
số phi thường. Song những lá số phi thường này, từ xưa
tới nay, chưa có sách vở nào đề cập đến nó cả.
Từ xưa đến nay, chúng ta tuy không có những phân định về
mặt nguyên tắc, nhưng cũng đều ngầm định mà hiểu với nhau
rằng, có những nhà khoa học lớn và những nhà khoa học
xuất sắc. Những nhà khoa học lớn là những người tiên
phong, mang tầm vóc tư tưởng lớn, có học thuyết mang tính
khai sáng. Nhưng nhà khoa học xuất sắc là những người có
những công trình xuất sắc, giải được những bài toán đặc
biệt, ...cho nên, chúng ta có thể thấy, có những nhà khoa
học xuất sắc được giải thưởng lớn, mà cũng có những nhà
khoa học lớn lại không có giải thưởng nào. Hoặc có nhà
khoa học lớn lại được giải thưởng ở những công trình
không phải tầm vóc của họ. Chẳng hạn như Einstein, là nhà
khoa học lớn, nhưng được giải thưởng Nobel về công trình
hiệu ứng quang điện, trong khi tầm vóc của ông, ông là
nhà vật lý lớn bởi lý thuyết hấp dẫn của ông. Khi phân
biệt như vậy, ta dễ dàng thấy rằng, những nhà khoa học
lớn như vậy, mới chính là phi thường nhân, ứng với những
lá số có phi thường cách. Còn những nhà khoa học xuất
sắc, đương nhiên lá số của họ cũng sẽ có những cách cục
đặc biệt, nhưng không thể là phi thường cách được.
BCN là nhà toán học xuất sắc. Có thể so sánh trực tiếp,
chứ không cần so sánh đâu xa, ngay với Robert Langlands
cũng không thể so được. Có thể nói, BCN vẫn chỉ là một
người giải toán. Một người giải toán xuất sắc, có số may
mắn được thế giới đánh giá đúng giá trị của công trình
bởi giải thưởng Fields. Tôi không biết Langlands có được
giải thưởng fields hay không. Nhưng cho dù không được,
cũng không vì thế mà liệt Langlands dưới hạng tài năng só
với BCN được. Tầm vóc tài năng hai con người này khác hẳn
nhau. Một người khai phá và mở ra chân trời mới, có tầm
vóc tư tưởng lớn. Một người là anh thợ cày, cày trên
những thửa ruộng đất cằn sỏi đá. Thành thử, có thể xem
Langlands là phi thường nhân toán học, nhưng BCN thì
không thể xem là phi thường nhân toán học được, mà là nhà
toán học xuất sắc.
Xem xét như vậy, việc định ra lá số sẽ đơn giản hơn rất
nhiều. Như 12 lá số trong ngày 28/06 dương lịch ấy, không
thể tìm đâu ra một lá số phi thường được. Cho dù đó là số
phi thường không theo cách xác định của VDTTL.
Ta hãy xem xét liệt kê tiêu chuẩn số mà Thất Sát đã kê
toa:
-Ngoài lý TPVT Khoa Quyền Lộc sặc sỡ, thì Sát tinh đắc
cách.
Trước hết, một nhà Khoa học hàng đầu, có nhiều công trình
sáng tạo, có tính cách mạng thì không thể có bộ TPVT làm
chủ được. Cho dù có được KQL (Khoa Quyền Lộc) sặc sỡ bao
nhiêu đi nữa. Tại sao vậy. Đã gọi là làm chủ, thì cách
cục đó, hay bộ đó phải là chủ đạo, chi phối mệnh người có
số. Ta biết, bộ này là bộ chính tắc, mang tính quy cũ,
theo lề lối truyền thống. Với chính trị thì những người
này rất hạp, rất tốt bởi sự phụng sự thiên hạ, đưa tới
những sự phát triển ổn định của xã hội. Bộ này rất ghét
cách mạng, rất ghét sự thay đổi mang tính cách mạng, sự
lật đổ. Có đặc điểm trung thành với truyền thống, sự cống
hiến cho sự phát triển tuyền thống, chứ không làm đảo lộn
nó bằng những cải cách cách mạng, dù chỉ là trong tư duy.
Vì vậy, bộ này càng hội cát tinh, càng sặc sỡ bao nhiêu
thì tính "bảo thủ" càng lớn bấy nhiêu. Trong nckh muốn
sáng tạo, rất kỵ điều này.
Nhưng Sát tinh đắc cách thì được. Nhưng chỉ với sát tinh
đắc cách thôi, thì nặng về kỹ thuật, thừa hành, cho dù
tính thực hành đó có sáng tạo bao nhiêu đi chăng nữa,
cũng chỉ trở thành một Edixon hay Faraday mà thôi.
-Mang VCD. Những người này thông minh thì có thông minh,
nhưng chỉ là VCD thì chỉ là loại khôn vặt. Song ở những
người này có những đặc tính cần có của người nckh, sáng
tạo khoa học, lý thuyết gia. Đó là sự mẫn cảm, nhạy cảm
hơn bình thường. Song cần nhớ rằng, không phải cứ người
có sự nhạy cảm thì phải là VCD. Sự nhạy cảm của người VCD
thường buông lung, bất định, nên sự tham gia của tư duy
logic là rất hạn chế. Ở họ, nếu không có những cách cục
định hướng tư duy thì chỉ có thể làm nghệ thuật mà thôi.
-Không Kiếp. Kể cả đắc hay hãm, với người làm KH thì đặc
biệt tốt. Nhưng chỉ với KK thôi thì không được. Bộ này
phải được "chỉ huy" bới lực lượng khác mới phát huy tính
cách mạng, sáng tạo phi thường được. Tuy nhiên, chớ có vì
thế mà cho rằng có Phá quân đi với KK là hay !. Bởi bộ
này chỉ hay với cách mạng xã hội mà thôi, do bản chất Phá
quân phiêu lưu, lông bông bất định, lại là sao lớn, rất
khó có sao định hướng được nó. Ở cấp độ NBC, thì bộ này
không hợp lý. Đối với một nhà Khoa học có KK tham gia,
nếu có cách cục thích ứng thì nhà khoa học đó sẽ là nhà
khoa học lớn. Còn như không có KK mà thay vào bộ khác thì
cũng không ênn cơm cháo gì, nếu có Thiên không Kiếp sát
thì cũng chỉ tới tầm xuất sắc mà thôi. Cho nên, khi xem
xét một lá số của một nhà KH mà có KK tham gia, thời phải
rất cẩn thận, bởi rất dễ lầm lẫn một kẻ Khùng với một Nhà
Khoa Học Vĩ Đại.
-Chính tinh cực hãm hay cực miếu. Điều này chung chung
quá, nó có cũng đúng mà không có cũng chẳng sai. Khó có
thể dùng để luận được chính xác một lá số.
Bài sau, Tôi sẽ liệt những tiêu chuẩn trên lý số cho một
người làm khoa học, và tầm vóc của các tiêu chuẩn đó.


Ta biết rằng, mỗi con người đều có tư duy logic và tư duy
sáng tạo. Ở mỗi loại người trong xã hội, trình độ lý luận
và mức độ sáng tạo có khác nhau. Có người nặng về lý
luận, có người nặng về sáng tạo. Người nặng về lý luận,
tư duy logic chiếm tỷ trọng cao hơn hẳn tư duy sáng tạo
thì thường hành nghề luật, thầy cãi, làm chính trị, ...
Tư duy logic mà nặng thực hành thì thường làm kỹ thuật,
thực nghiệm. Tư duy sáng tạo chiếm tỷ trọng cao thì
thường có thiên hướng văn học nghệ thuật. Người nghiên
cứu khoa học không hẳn nghiêng về phía tư duy logic chiếm
tỷ trọng cao, cũng không hẳn nghiêng về phía tư duy sáng
tạo chiếm ưu thế. Ở những người làm công tác nghiên cứu
khoa học, thường thì cả tư duy logic và tư duy sáng tạo
đều ở tầm mức cao độ. Khiến cho đứng ở góc độ nào cũng
không thể liệt họ về một bên này hay bên kia.
Nói như thế, không có nghĩa là bất cứ nhà khoa học nào
cũng đầy đủ tư duy logic và tư duy sáng tạo. Cũng có
những nhà khoa học nặng về tư duy logic thuần túy và cũng
có những nhà khoa học thiên về tư duy sáng tạo. Nhưng với
những nhà khoa học loại này, có những đặc điểm rất dễ
nhận ra, và có một sự phân loại đơn giản, mà lại rất
chính xác.
Ở những nhà khoa học nặng tư duy logic, thì óc sáng tạo
của họ bị vùi lấp. Những nhà khoa học này, có thể kiến
thức họ bao la, họ đọc thiên kinh vạn quyển, nói năng,
trình bày khúc chiết, chặt chẽ. Có thể nói, cái gì họ
cũng biết. Nếu đi học, thường họ là những người học rất
giỏi, thầy cô và bạn bè thán phục với những thành tích
học tập rất cao. Nhưng đứng ở góc độ của người làm khoa
học mà có phát minh, sáng chế, thì sẽ nói họ như là những
người: Cái gì cũng biết, nhưng thật sự là họ chả biết cái
gì cả. Thật thế, nói tới sách vở thì họ có thể trích lục,
sao dẫn chính xác, đầy đủ không thể chế được. Nhưng trao
đổi với họ những vấn đề còn đang là hóc búa, hay chưa
được nghiên cứu, hay còn mới mẻ, thì họ ngọng. Họ có thể
trở thành những giáo sư, những nhà sư phạm giỏi, nhưng cả
đời chẳng có phát minh nào cả. Nhưng đừng nói họ không
thể có những công trình. Nói thế là sai. Bởi họ vẫn có,
thậm chí những công trình có tầm vóc. Chẳng hạn như đó là
những công trình có tính biên tập, khảo cứu, hệ thống
hóa. Với những người này, những lĩnh vực thích hợp là
khảo cứu lịch sử, viết sách giáo khoa, kể cả khoa học tự
nhiên và xã hội, biên tập đại bách khoa toàn thư, ...
Ở những nhà khoa học nặng tư duy sáng tạo, thì đó là
những nhà phát minh, những chuyên gia về ý tưởng. Họ có
thể trình bày những ý tưởng, những đề án phát minh lớn
lao. Song 10 may ra được 1, bởi những tư duy buông lung,
mà người ta hay gọi đó là trí tưởng tượng phong phú. Ở
những người này, thời đi học, họ thường là những học sinh
bướng bỉnh, khó bảo, bất phục, được đánh giá là rất thông
minh, nhưng thành tích học tập thường không ổn định,
nhiều môn, ngành họ phải chấp nhận thành tích rất yếu,
nhưng có những môn, ngành họ có thành tích xuất chúng, ít
người bì kịp.
Làm một nhà khoa học thực thu, nhất thiết phải có cả hai.
Và tầm vóc của nhà khoa học đó tương ứng với tầm mức của
cả hai loại tư duy này. Thế nhưng, oái oăm thay, hai loại
tư duy này xung đột nhau, chèn ép nhau. Ở trong cùng một
con người, với tầm vóc thấp thì chúng còn cùng tồn tại.
Nhưng ở trình độ cao thì chúng khó mà dung nhau, khó mà
đồng thời cùng có những thể hiện xuất sắc. Bởi môt bên,
tư duy logic là loại tư duy bảo thủ, trói buộc, lệ thuộc.
Còn tư duy sáng tạo là loại tư duy cách mạng, cải cách,
phá bỏ những lệ thuộc, không chịu sự ràng buộc. Loại tư
duy này rất cần sự mẫn cảm, sự nhạy bén. Vì thế, khi phát
triển tới trình độ cao – không nhất thiết là do được đào
tạo, mà phần lớn có được bởi năng khiếu bẩm sinh – thì
nước lửa không dung nhau.
Khi người nghiên cứu khoa học, cho dù là tương lai, có
tầm vóc tư duy lớn. Ở họ, thiên nhiên, hay nói là trời
cho, đã cho họ một đường "thoát" ra khỏi sự xung đột của
hai loại tư duy đó. Đường thoát đó, chính là sự thăng
hoa, mà người đời gọi đó là sự thăng hoa của trí tuệ. Khi
trí tuệ của họ thăng hoa, hiệu ứng này nó liên hệ với
những biểu hiện của khả năng, tính tình, cá tính đặc
biệt. Có người thì có năng lực thể hiện âm nhạc – như
Einstein, có người thể hiện ra khả năng làm thơ, có người
làm họa, nặn tượng, có người thể hiện ra sự ở sinh lý.
Tuy nhiên, sự thể hiện loại này cần phải phân biệt với
nhiều loại khác, chẳng hạn như họ không phải là người dâm
dật, cũng không phải là loại tiện dâm, ..mà ở họ, chỉ đó
là sự thăng hoa về sinh lý, một sự háo sắc đặc biệt,
thông qua thể hiện những si cuồng bão táp trong tình yêu.
Họ yêu mãnh liệt, tôn thờ tình yêu, yêu ngấu nghiến,
nhưng không phải bởi sức lực tràn trề, mà đó là bởi sự
ham muốn đặc biệt mạnh mẽ. Cũng có kẻ thăng hoa ở lĩnh
vực khác, như thích tranh biện, đấu trí với đời, như làm
những việc chẳng giống ai, nghịch thường, chống lại cả
nhân loại, xã hội – kể cả làm mafia. Phương tây xem xét
những người như thế, và phát hiện ra rằng, họ thường dễ
mắc những bệnh như là Thống phong chẳng hạn.
Có một điểm cần lưu ý, những người có biểu hiện như vậy,
chưa chắc đã là người nckh, nhưng những người làm công
tác nckh mà có những biểu hiện xuất sắc như vậy thì họ có
những tiền đề của một nhà khoa học lớn.
Tử vi xem xét vấn đề này rất sâu sắc và rất cụ thể. Nhưng
để có thể xem xét được, thời phải có phương pháp giải
đoán, chí ít cũng phải giải được bài toán, vấn nạn của tử
vi. Đó là bài toán sinh cùng năm tháng ngày giờ, bài toán
sinh đôi, sinh ba, sinh tư, ...bài toán sinh cùng tứ trụ
– cách nhau 60 năm, ... Theo lý, như từ trước tới nay,
chúng ta đều biết, tổng toàn bộ số lá số khả dĩ chỉ có
khoảng trên dưới nửa triệu. Nhưng số người trên trái đất
này cỡ khoảng 6 tỷ người. Số người sinh ra cùng một giờ
trên toàn trái đất, là bất định. Khi ấy, theo lẽ thường,
số người có cùng một lá số là bất định, mặc dù về con số
trung bình là xác định cỡ 12000 người. Nhưng bản chất nó
vốn là bất định. Một khi bài toán này không giải được,
thì khả năng phân biệt tầm vóc tư duy như trình bày ở
trên là bất định. Bởi vậy, trở ngại này phải được khắc
phục.
Lý thuyết mệnh chủ, cho phép một lá số có nhiều cuộc đời.
Về lý thuyết, số cuộc đời ứng với một lá số, tuy đã có
giới hạn, bởi số lượng sao và tổ hợp khả dĩ của các sao
trong một lá số là giới hạn, nhưng đó là một số rất lớn,
và số mệnh chủ cụ thể, vốn có bản chất là bất định. Con
số giới hạn mệnh chủ khả dĩ, chỉ là về mặt thực tế, chứ
về mặt lý thuyết, nó có thể được bổ sung đến vô hạn, bởi
trên phương diện lý thuyết, số lượng sao trong lá số tử
vi, không có gì ngăn chặn nó chỉ có từng ấy sao như chúng
ta đã biết hiện nay.
Với lý thuyết mệnh chủ, chúng ta hoàn toàn có thể khảo
sát bài toán về Giới NCKH.
(Còn Tiếp)




Giờ tôi xin tiếp tục chủ đề bị dang dở.
Ở bài trước, tôi có đề cập tới hai loại tư duy, xung đột
nhau, nhưng lại cùng tồn tại trong một con người. Ở tầm
vóc cao, sự xung đột này được hóa giải bới sự thăng hoa.
Kết luận này được phát biểu, sẽ có nhiều người nghi ngờ
mà đặt câu hỏi: Tại sao lại là thăng hoa mà không phải là
được hóa giải bởi những biến hóa khác, những thể hiện ở
dưới dạng khác mà không phải là thăng hoa ?.
Như đã mô tả sơ lược ở trên, sự thăng hoa đó biểu hiện
qua như: Sự bộc lộ về khả năng âm nhạc, thơ văn, nghệ
thuật, hay những cá tính khác thường về sinh lý, tình
cảm. ... Điều này không phải là sự suy đoán, mà đó là từ
thực tiễn. Chúng ta hoàn toàn có thể nghiệm chứng bằng
những thực tê. Chẳng hạn, chúng ta tưởng tượng như sau:
Có một người bị bắt, nhốt trong lao tù. Khi ấy, họ sẽ đối
mặt với những xung đột lớn trong tâm lý. Thứ nhất, người
ta sẽ ở trong trạng thái trói buộc, tù túng. Và khát vọng
tự do sẽ trỗi dậy trong con người của họ. Khát vọng tự do
càng lớn, thì sự cảm nhận về tù túng, trói buộc càng cao.
Hai thứ tình cảm này xung đột nhau dữ dội. Từ đó sẽ xảy
ra những trường hợp sau.
-Người đó sẽ rơi vào khủng hoảng tâm sinh lý. Một trong
hai trạng thái đó là tuyệt vọng đến hóa điên, tâm trí mất
khả năng kiểm soát, thần kinh trở nên hỗn loạn. Trạng
thái nữa là sự suy sụp, khuất phục trước hoàn cảnh hiện
tại, cũng dẫn đến những thể hiện tuyệt vọng. Cả hai, đó
là những trạng thái của người đã bị mất thăng bằng.
-Người đó vẫn giữ vững được tinh thần. Nhưng ở họ, chúng
ta sẽ thấy. Rất phổ biến như khi họ bị biệt giam, để hóa
giải tình trạng xung đột, họ hát to lên, hát nhiều, đến
mức cai ngục những tưởng họ bị điên. Nhưng không phải, đó
là liệu pháp tinh thần của họ. Có người thì tỉ mẩn làm
những việc không đâu như lau chùi chỗ mình cư ngụ rất
sạch sẽ, nhặt từng hạt bụi, lau đến bóng loáng, sạch như
không thể sạch hơn được nữa, tỉ mẫn theo dõi những con
kiến, đếm đi đếm lại, ...khiến cho người bình thường khi
nhìn thấy thế, cũng tưởng là họ điên. Có người thì đánh
cờ trong tưởng tượng, có người thì làm thơ – cho dù là
thơ con cóc, ... đó chính là những liệu pháp hóa giải
xung đột tâm lý của họ. Chúng ta có thể nghiệm chứng qua
những thực tế mà chúng ta đã thấy. Như tôi thì đã thực
chứng, chẳng hạn qua trường hợp GS Đoàn Viết Hoạt hát lên
trong những ngày bị biệt giam. Nữ anh hùng Võ thị Sáu,
hát lên khi ra pháp trường, ... Nhiều lắm, đếm không hết.
Quay trở lại hình thái của hai loại tư duy này. Cần nhớ
rằng, chúng song song tồn tại trong mỗi con người. Chỉ là
ít hay nhiều, lệch hay cân bằng. Khi tư duy logic chiếm
ưu thế, chúng ta có những con người bảo thủ. Họ có thể
rất giỏi, uy tín cao. Song sự nghiệp của họ ở đỉnh cao
thì không thể sáng chói. Hay nói cách khác, họ không bao
giờ đạt đến tầm vóc đỉnh cao trí tuệ của nhân loại được.
Họ chỉ có thể là những con Gà to, đẹp mã trong một đàn
gà, chứ không thể trở thành những con Công, con Phượng
được.
Khi tư duy sáng tạo chiếm ưu thế. Họ cũng có thể rất
giỏi, nhưng là giỏi ở một lĩnh vực hẹp nào đó, nhiều sáng
kiến, tư duy độc đáo. Song sự phát triển thường thái quá
mà dẫn đến phóng túng, thiểu kiểm soát, thành ra thường
có những ý tưởng điên rồ, không tưởng, thiếu thực tế, và
trên hết, khả năng hiện thực hóa rất khó khăn.
Một sự cân bằng giữa hai loại tư duy này là một trạng
thái cân bằng, nhưng thể hiện bởi sự khác thường trong
tâm sinh lý. Với những người làm công tác nghiên cứu khoa
học. Cả ba trạng thái đều khả di, đó là loại tư duy logic
chiếm ưu thê, tư duy sáng tạo chiếm tỷ lượng cao hơn, và
loại cân bằng được hai loại tư duy trên. Chỉ những người
cân bằng được hai loại tư duy trên mới cho ra được những
nhà khoa học xuất sắc, phi thường. Ở chủ đề này, chúng ta
xem xét những nhà nckh loại đó.
Tư duy logic đòi hỏi sự chặt chẽ, có tính tổ chức, quy
trình thực hiện và hành động đều được sắp đặt có thứ tự,
theo những quy tắc, thể chế. Tư duy có điều khiển, có lớp
lang, ...
Tư duy sáng tạo đòi hỏi sự nhạy bén, mẫn cảm, tính tự do,
thoáng đạt. Không bị rằng buộc, hay trói buộc bởi những
định kiến, không bảo thủ, mà luôn hướng tới sự sáng tạo,
tìm ra cái mới. Vì thế, với họ, những người này khi tư
duy, họ như chìm vào miên man, như nhập vào, hóa thân vào
đối tượng mà họ đang quán xét. Có thể nói khi đó, họ như
"nhập đồng" vậy. Ở họ, ta nói họ là những người có Ngộ
tính cao. Sự hiểu biết của họ, đó là sự Giác Ngộ.
Người nckh, khi có cả hai, họ là những người có dấu hiệu
phi thường nhân.
Trong tử vi, rất may là có tất cả những hệ sao này.
Hệ sao Giác Ngộ.
-Trước hết phải kể đó là các sao Không – Vong.
Tử vi có Lục kông – vong, đó là những sao: Địa không, Địa
kiếp. Tuần, Triệt. Thiên không, Kiếp sát. Tuy nhiên, mức
độ, hay tầm vóc có sự phân loại, và sự khác biệt rất rõ
ràng. Như sao Không thì ngộ tính chiếm ưu thế so với sao
Vong. Có thể nói, khi nói đến ngộ tính, người ta nghĩ đến
các sao không là chính. Sao vong, có chăng chỉ có sao
Triệt là còn có ý nghĩa. Còn địa kiếp và kiếp sát, ngộ
tính của nó tập trung vào sự thăng hoa vô hạn của cá
tính, như kiếp sát thì nóng nảy vô hạn, địa kiếp thì hung
hãn vô độ. Khi đạt tới sự thăng hoa, ngộ tính xuất hiện.
Song đáng tiếc, dù cho ngộ tính xuất hiện, thì hậu quả đã
xảy ra, nên người đời chẳng có mấy khi còn có thể chứng
kiến sự kiện giác ngộ của những sao này. Chỉ khi những
sao này có sao kiềm chế, thì ngộ tính của chúng mới thể
hiện. Đó là những điểm chói sáng, như ánh chớp trong bầu
trời đêm vậy.
Xem xét trên thang bậc của sự giác ngộ, thì bậc nhất phải
là hai sao Địa không và Địa kiếp. Thứ mới đến Tuần và
Triệt, sau cùng là Thiên không, Kiếp sát. Nếu như sự phân
loại này được phân theo chủ nghĩa kinh nghiệm, thì có thể
nhiều người sẽ phản đối, bởi vì họ có thể cho rằng, thiên
không mới là sao giác ngộ bậc nhất, kế đến thì thường
thấy là tuần không, sau chót là địa không. Nhưng thực thì
không phải như vậy. Đó chỉ là do bởi ở họ, chưa thấy rõ
bản chất và nguồn gốc của các sao Không này. Đồng thời,
trong khi xem xét các trường hợp cụ thể, phương pháp luận
giải cũng không hẳn đã chuẩn xác, theo đó mà có những
minh chứng chuẩn xác về từng sao !.
Tôi tuy không trình bày cụ thể bản chất và nguồn gốc của
các sao không này ra đây. Nhưng có một lối có thể chỉ rõ
và dễ dàng hiểu được hơn. Đó là, như chúng ta đều biết
thiên không – câm đèn chạy trước ô tô. Địa không – đại
nghịch bất đạo. Tuần không – trung dung. Cứ như thứ bậc
hay cấp độ đó mà xét, địa không là mạnh nhất, tuân không
trung dung mạnh nhì, và thiên không đứng cuối bảng, chỉ
xem như là sự giác ngộ. Khi đó, chúng ta hiểu rằng, cấp
độ của địa không là sáng tạo, nên người có địa không mà
hỏng, là khùng khùng, điên điên, hành vi chả giống ai.
Nên mới nói, phi thường là ở chỗ này, bất phi thường nhân
thì thành khùng nhân. Với tuần không, chỉ có thể đưa
người ta tới những bậc chân nhân, thấu hiểu lẽ biến hóa
của trời đất. Với thiên không con người có thể giác ngộ.
Sự phân loại này chỉ là tương đối trên một bình diện về
thang bậc mạnh yếu, chứ không thể nói người tuần không,
hay địa không thì không giác ngộ, cũng như người thiên
không thì khó có sáng tạo. Bởi vậy, 6 sao này, quan trọng
nhất là ba sao Không, đối với tư duy, chủ về sự sáng tạo,
giác ngộ.
-Hai sao Nhật Nguyệt.
Cũng là hai sao sáng tạo, nhưng ở hai sao này, sự sáng
tạo không cực đoan như các sao Không Vong. Ở chúng có sự
hài hòa, nên mang tính triết lý rất cao, đồng thời có
tính mẫn cảm, sự nhạy bén mà ta thường gọi đó là những
thông minh đĩnh ngộ, học một biết 10.
-Các sao mẫn cảm: Đó là các sao như: Đào, Hồng, Thai,
Thiên riêu, Hóa khoa, Hóa kỵ, Khúc, Xương, Đà la, Phục
binh, Thiên cơ, thiên mã, Thât sát. ...
Tuy nhiên, các sao này có khác nhau, đối với giơi nckh
thì các sao có trọng lượng là: Thiên riêu, Đà la, Khoa,
Kỵ, Phục. Xếp theo thứ tự thì Riêu, Phục, Khoa, Kỵ, Đà.
Nghệ thuật thì có Hồng, Đào, Xương, Khúc đứng đầu bảng
Có thể có nhiều người sẽ bảo rằng tôi phân loại theo cảm
tính. Nhưng như đã trình bày với các sao không, thì sự
phân loại ở đây cũng theo tiêu chuẩn xuất phát từ nguồn
gốc các sao vậy.
Hệ sao Logic.
Điển hình là các Sao:
Thiên hình, Thái tuế, Liêm trinh, Cự môn, Thái dương,
Thiên lương, Khốc, Hư, ...
Riêng với những người làm Toán, không thể không có những
sao: Thiên hình, Thái tuế, Cự, Liêm trong kết cấu mệnh.
Thái dương khi làm chủ đối với người làm nckh thì sẽ có
thiên hướng, triết học, Vật lý, kỹ thuật, hoặc nếu làm
trong ngành Hóa thì đó phải là Hóa Lý. Hoặc văn chương,
nghệ thuật tùy theo sự gia hội thêm các sao.
Sơ lược là như vậy.
Khi xét một con người cụ thể, ta phải có sự phối hợp,
giao hội các sao, các thế đứng cũng như nhiều sự phối chế
khác nữa. Trên cơ sở lý mệnh chủ thì sự phối hợp mới rõ
ràng được.
Bài tới, tìm lá số.
Thân ái.

Thanked by 1 Member:

#2 Thanh.Long

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1075 Bài viết:
  • 1444 thanks
  • LocationTuyệt Tình Cốc

Gửi vào 05/10/2011 - 10:43

bài này bác vui vui viết thật là công phu , thật là chuẩn ..

#3 letmesee

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 76 Bài viết:
  • 39 thanks

Gửi vào 05/10/2011 - 21:56

Tuy nhiên, luận trên lá số cụ thể thì khó đấy.






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |