←  Khoa Học Huyền Bí

Tử Vi Lý Số :: Diễn đàn học thuật của người Việt

»

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG

hiendde's Photo hiendde 30/10/2011

Sự nẩy nở song song của Tâm Thức và cơ thể. Hạch mũi và Tùng quả tuyến là những giác quan. Sự khích động những bộ phận ấy bởi luồng Hỏa xà.

Thưa bà Hội Trưởng,
Thưa quí Ông, quí Bà,
Thưa chư Huynh đệ.

Tối hôm nay tôi bắt đầu một trong bốn bài giảng lý, thứ nhất, về những quyền năng siêu đẳng và phi thường của con người. Ba bài tiếp theo đó thì tôi sẽ trình bày nội trong tháng tám tới đây.

Thông Thiên Học dạy là con người vốn có hai thứ quyền năng siêu nhiên. Hai thứ quyền năng đó là:

1. Những quyền năng chủ động

2. Những quyền năng thụ động

Những quyền năng thụ động tiếng Pháp gọi là Pouvoirs négatifs, thuộc về tánh chất thụ động của con người. Những quyền năng đó thường thường được dùng bởi những người mà ta gọi là médiums. Những quyền năng đó có những sở đoản của nó khi người ta dùng nó làm khí cụ để khảo cứu sưu tầm. Nó không phải do nơi luyện tập cái trí hay cái xác thân, hoặc do nơi sự tu luyện mà có. Những quyền năng đó xảy đến cho ta một cách tự nhiên, chứ không phải do ý chí. Người ta không thể dùng nó làm khí cụ để khảo cứu hay sưu tầm về một khoa nào. Xét vì nó là những quyền năng thụ động nên nó đến cho con người do nơi những động lực từ bên ngoài. Những quyền năng ấy thường là vô sở cứ, và người ta không thể thử thách hay thí nghiệm được.

Vì lẽ đó cho nên người Thông Thiên Học thường chú trọng về những quyền năng mà người ta gọi là quyền năng chủ động hơn; bởi vì người ta nhận thấy rằng: những quyền năng thụ động mà những người médiums dùng để thực hành khoa đồng bóng, thường đem tới cho người ta những điều nguy hiểm vô cùng. Những người thực hành khoa đồng bóng thì ý chí của họ càng ngày càng trở nên yếu kém đi, bởi vì họ luôn luôn nạp mình, cả ý chí lẫn xác thân, lẫn tư tưởng cho những sức mạnh từ bên ngoài. Sự thực hành khoa đồng bóng đó làm cho người ta càng ngày càng trở nên lụn bại về tinh thần. Ngoài ra những điều nguy hiểm đó, những chuyện đồng bóng còn làm cho người ta bị ma quái ám ảnh. Những người lên đồng cốt sẽ trở nên những vật thụ động, rất dễ bị xâm chiếm bởi những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài mà họ không thể nào tự chủ được.

Và lần lần, họ bắt đầu nghe những tiếng nói vô thinh, nó làm cho họ luôn luôn bị ám ảnh và mất thăng bằng. Những tiếng nói đến cho họ từ những cõi vô hình càng ngày càng mang đến cho họ những điểu quái gở tai dị. Sau dần, thì họ bị những ảnh hưởng ma quái xâm nhập vào mình và họ không thể tự chủ được. Có rất nhiều người, về phương diện tư tưởng, họ không phải là những người mất trí hay loạn óc, nhưng họ là những người bị ma quái ám ảnh. Tình trạng đó khó mà trị cho dứt. Người ta có thể dùng ý chí để xua đuổi mất đi những điều ma quái ám ảnh đó. Nhưng ý chí của nạn nhơn đồng bóng càng ngày càng kém hèn và họ trở nên những vật hoàn toàn thụ động có thể bị ám ảnh nhiều lần sau nữa. Vì những lẽ ấy mà người Thông Thiên Học chúng ta chú trọng đến những quyền năng chủ động hơn là những thứ quyền năng nguy hại như thế.

Những quyền năng chủ động có thể luyện tập được và có thể dùng bất cứ lúc nào khi người ta muốn, để làm khí cụ cho sự khảo cứu sưu tầm về mọi phương diện, không phải chỉ một lần mà bất cứ lúc nào tùy ý. Như thế thì những điều gì người ta khảo cứu tìm tòi nên có thể lập đi lập lại nhiều lần, để thí nghiệm xem coi có đúng chơn lý hay không. Chúng ta sẽ có dịp học hỏi tới những phương pháp đó sau này. Chúng tôi sẽ trình bày bằng những hình màu rọi để cho chư huynh đệ thấy rõ những cơ quan làm chủ động cho những quyền năng đó. Những quyền năng siêu nhiên có thể vận dụng được trong khi người ta vẫn tỉnh táo như thường.

Quyền năng đó có thể chia làm ba loại:

- Thứ nhất là Thần nhãn, tức là có thể thấy được những vật vô hình;

- Thứ hai là Thần nhĩ tức là nghe thấy đặng tiếng động nơi cõi vô hình;

- Thứ ba là Kiến tánh, nghĩa là trong khi hoàn toàn thức tỉnh, người ta có thể nhận thức được sự hợp nhất bản ngã của mình với Đại ngã của Vũ trụ; hay là sự hợp nhất của mình với mọi vật, mọi loài trong Trời Đất.

Đó là cái quyền năng tối cao và lớn nhất mà người học Đạo có thể thực hiện được. Như tôi đã nói trong những kỳ trước thì điều đó chính là cái mục đích tối thượng, mục đích rốt ráo mà người học Đạo tìm cách thực hiện trong đời học Đạo của họ.
Trích dẫn

hiendde's Photo hiendde 30/10/2011

Thần Nhãn

Trước hết chúng ta hãy xét về vấn đề Thần nhãn và thử xem Thần nhãn nghĩa là gì? Nên nhớ rằng: tôi muốn nói Thần nhãn, mà người ta có, do nơi sự tập luyện và người ta có thể dùng ý chí để kiểm soát được. Thần nhãn đó có thể chia ra làm hai phần: Thần nhãn thuộc về xác thể và Thần nhãn thuộc về siêu linh.

Thần nhãn thuộc về thể chất tức là Thần nhãn thông suốt như quang tuyến X vậy, vì do nó người ta nhìn thấy xuyên mọi vật đông đặc, cứng rắn. Thí dụ: người ta có thể nhìn xuyên qua xác thân con người, khi người ta muốn dùng Thần nhãn để mà khán nghiệm và xem bệnh tật. Do Thần nhãn đó người ta thấy rõ ràng những bộ phận và ngũ tạng lục phủ của con người. Những cơ quan trong con người như huyết mạch, gân cốt, tế bào, ngũ tạng lục phủ và tất cả những cơ quan trong thân thể... đều có thể dùng Thần nhãn xem xét tỉ mỉ tùy ý mình muốn. Nhờ đó người ta có thể xem bệnh một cách chắc chắn, không bị sai lầm và dùng nó mà khán nghiệm một bộ phận nào trước khi mổ. Tất cả những điều đó có thể làm với Thần nhãn thuộc về quang tuyến.

Loại Thần nhãn thứ hai gọi là Thần nhãn phóng đại để dùng xem mọi vật nhỏ phóng đại ra như kính hiển vi vậy. Nhờ Thần nhãn đó mà người ta nhìn thấy những vật rất nhỏ bé li ti như tế bào, hạt nguyên tử. Người ta nhìn thấy những vật nhỏ đó bằng cách phóng đại nó ra như những vật lớn thường vậy. Người ta có Thần nhãn đó là do nơi bí huyệt, hay là luân xa giữa hai chơn mày và do sự hoạt động của một bộ hạch trong óc gọi là glande pituitaire. Bộ hạch óc nối liền với bi huyệt giữa hai chơn mày bằng một cái ống dài độ bảy phân tây. Người ta có thể dùng ống đó để nhìn rõ ràng những vật muốn thí nghiệm như nhìn vào trong kính hiển vi vậy.

Khi người ta luyện tập để dùng Thần nhãn đó thì có thể nhìn thấy bất cứ vật nhỏ bé nào. Do quyền năng ấy người ta có thể đặt tâm thức mình vào trong lòng hạt nguyên tử rất nhỏ bé để thí nghiệm xem xét coi vũ trụ bao lớn. Theo bên Ấn Độ Giáo người ta gọi phương pháp thí nghiệm đó là hòa hợp mình với hạt nguyên tử, tức là làm cho tâm thức mình thu nhỏ lại ở trong lòng của hạt nguyên tử. Danh từ tiếng Phạn gọi nó là “Anima”, tức là Thần nhãn phóng đại mọi vật.

Loại Thần nhãn thứ ba gọi là viễn vọng Thần nhãn (Clairvoyance téléscopique). Do quyền năng đó người ta có thể xem xét những vật rất xa xôi như những tinh cầu trong không gian.

Loại thứ tư thuộc về Thần nhãn của cái phách. Do quyền năng đó người ta có thể thấy cái phách của quả địa cầu và nhìn thấy bất cứ vật nhỏ li ti nào từ quả địa cầu thoát ra. Người ta cũng nhìn thấy những hạt vi trần (particules) rất nhỏ thoát ra từ những hành tinh khác. Khi người ta dùng thần nhãn đó để thí nghiệm, thì sẽ thấy rằng: trong vũ trụ này có biết bao nhiêu vạn ức điểm vi trần (particules) rất nhỏ bay lơ lửng trong không gian. Những hạt bụi vi trần li ti đó nhảy nhót lung tung và phát ra ánh sáng. Đó là những hạt nguyên tử của những chất lơ lửng trong không gian.

Khi người ta xem xét cái phách của quả địa cầu, thì thỉnh thoảng thấy có luồng ánh sáng bừng lên, chạy từ chỗ này qua chỗ khác. Có khi người ta cũng nhìn thấy ánh sáng đó ở trong khóe mắt của chúng ta. Phân tách luồng ánh sáng ấy, người ta nhận thức rằng: đó là những hiện tượng thuộc về những Tinh linh trong cõi vô hình. Những Tinh linh đó là những sinh vật có khắp mọi nơi ở xung quanh chúng ta. Những Tinh linh ở cõi vô hình đó thuộc về ngũ hành như những loại Tinh linh của Đất, của Nước, của Gió và của Lửa. Những đầu đề đó thuộc về bài giảng sắp tới và tôi sẽ bắt đầu nói trong buổi diễn thuyết tối mai.

Thần nhãn của cái phách là một quyền năng rất có ích để dùng khám bệnh. Do đó mà cái phách con người có thể xem xét tỉ mỉ được. Khi dùng Thần nhãn thì người ta thấy cái phách chói sáng và có thứ màu đặc biệt. Trong phách có những luồng sinh lực nhiều màu khác nhau. Sự xem xét những bí huyệt và đường sinh lực trong cái phách có thể giúp cho ta nhận thấy rằng: người ta có bệnh tật hay không. Có lẽ trong chư huynh đệ cũng biết người ta có hào quang gọi là hào quang của sức khỏe. Từ hào quang sức khỏe đó người ta thấy phát ra đủ thứ sinh lực có sẵn trong mình.

Những người khỏe mạnh thì hào quang đó phát ra những tia ngay ngắn và dựng đứng. Những tia đó có thể thấy trong những chỗ nhọn của châu thân, như đầu ngón tay, ngón chơn và các góc cạnh trong mình. Những người có sức khỏe thì các tia đó phát ra từ đỉnh đầu mà lên. Trái lại những người bệnh tật thì hào quang của họ có những tia cúp xuống và xụi lơ. Những tia cúp xuống đó có thể thấy ở nơi những bộ phận bị đau đớn hay là khắp toàn thân. Nếu những tia đó ở khắp cả châu thân thì người ấy bị những chứng bệnh bại hoại kinh niên. Nếu những tia cúp xuống đó chỉ thấy ở trong một bộ phận nào mà thôi, thì chính bộ phận đó bị tê liệt hay đau bại. Như thế chúng ta thấy rằng: cách dùng Thần nhãn đó có thể làm phương pháp để khám bệnh rất hiệu quả.

Quyền năng kế đó gọi là Thần nhãn siêu đẳng hay là siêu thiên nhiên. Thần nhãn đó có nhiều cấp bực khác nhau. Có thứ Thần nhãn nhìn cõi Trung giới, có thứ Thần nhãn để nhìn cõi Thượng giới và trên cao hơn nữa. Do Thần nhãn đó, người ta có thể thấy ánh sáng phát ra từ hào quang con người và luân xa hay bí huyệt con người.

Xét vì những nguyên nhân bệnh tật con người phần nhiều do nơi tình cảm hay tư tưởng sinh ra, vậy thì dùng Thần nhãn đó tức là truy nguyên nguồn gốc mọi bệnh tật vậy. Dùng Thần nhãn đó có thể thấy được bệnh tật phát sinh do nơi những tư tưởng sai lạc quấy quá của con người. Những người mang bệnh đó thì thường thường sinh lực của họ bị bại hoại. Người ta thấy hào quang của họ bị hư hỏng xiên vẹo về một phía nào; thí dụ những người bị tuyệt vọng, thất vọng, những người trác táng quá độ, hoặc những người bị cơn kiềm chế quá mạnh mẽ. Những người đau khổ quá nhiều thì trong hào quang của họ có những vết như vết thẹo.

Trong những thể vô hình tức là những thể thanh cao của con người, thì bộ máy tuần hoàn khác hẳn bộ máy tuần hoàn trong xác thân vật chất này; và trong những thể vô hình đó luôn luôn có sự vận chuyển không ngừng của những luồng sinh lực. Có những nguyên nhân thuộc về kiếp trước, do nơi sự sinh hoạt không đúng phép, do sự sinh hoạt trái đạo làm cho một phần trong các thể vô hình đó bị rối loạn và sự tuần hoàn trong những thể đó bị mất trật tự. Nếu tình trạng ấy tiếp diễn, nếu không tìm cách để trị nó, thì nó có thể mang ảnh hưởng đến xác thể vật chất; và do đó mà bệnh tật phát sinh.

Như thế chúng ta thấy rằng những quyền năng siêu đẳng là quan trọng như thế nào, nếu trong thế hệ tương lai người ta biết dùng nó làm khí cụ để khám bệnh. Người ta cũng có thể dùng nó để khảo cứu sưu tầm về những vấn đề như là tính chất căn nguyên của vật chất hay những vấn đề liên hệ. Khi người ta luyện tập dùng Thần nhãn đó một cách thuần thục, thì có thể đi du lịch nơi cõi Trung giới được. Như thế nghĩa là trong khi ta hoàn toàn thức tỉnh, ta có thể xuất vía ra khỏi xác thân để đi châu du khắp nơi ở cõi Trung giới, rồi trở về xác thân trong khi ta vẫn tỉnh táo như thường.

Những điều nhìn thấy, kinh nghiệm được ở cõi Trung giới, khi ta trở về với xác thân này thì vẫn nhớ rõ ràng tất cả. Những điều đó làm cho cảm giác trí não người ta hoạt động đến cực độ. Vì lẽ đó mà những người bận rộn việc đời không nên thử dùng phương pháp đó; mặc dầu những phương pháp thí nghiệm để tìm tòi chơn lý thì ai ai cũng có thể thí nghiệm được. Với những quyền năng siêu nhiên như thế, người ta có thể thám hiểm quan sát các cõi vô hình và xem xét những hiện tượng, những nhân vật hay những vị Thiên thần sống trên các cõi đó. Khi quyền năng con người được tăng gia thì có thể đi từ cõi này sang cõi khác, mỗi lúc càng cao hơn.

Khi luyện tập nó đến một trình độ cao thì người ta có thể xem xét được “trí nhớ của vũ trụ” (mémoire de la Nature). Chừng đó có thể dùng Thần nhãn để thấy rõ những hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ, những việc thuộc về lịch sử. Người ta có thể thấy những việc quá khứ xảy ra trong lịch sử, bởi vì trong cõi thiên nhiên có một thể chất rất tế nhị, tinh anh, mà tiếng Phạn gọi là “Akasha”. Những hình ảnh của các hiện tượng in dấu vết trong cái thể tinh anh của vũ trụ đó gọi là “cliché akashique” (tiên thiên ký ảnh). Đó là những phương pháp rất thú vị và ich lợi mà người ta có thể dùng để khảo cứu tìm tòi. Nếu cần, ta có thể dùng phương pháp đó để xem xét những kiếp quá khứ của con người, hầu tìm cách giúp đỡ họ. Thần nhãn đó dùng xem xét được lịch sử các nước trên quả địa cầu, để khảo cứu học hỏi thêm. Tất cả lịch trình quá khứ của nền văn minh nhân loại có thể khảo cứu được.

Nếu người nào chưa tiến hóa cho lắm, tức là trình độ Thần nhãn của họ chưa được cao, thì cần phải có một vật gì cụ thể trong không gian và thời gian để thí nghiệm tìm tòi. Trước hết cần phải có một vật gì cụ thể để cầm trong lòng bàn tay, rồi dùng Thần nhãn truy nguyên ra nguồn gốc, lịch sử và tất cả những hiện tượng đã xảy ra xung quanh vật đó. Người ta có thể xét tới những sự kiện đã xảy ra, thuộc về lịch sử của vật gì mà họ cầm trong tay. Thường thường khi dùng phương pháp đó để khảo cứu, thì người ta thấy những hiện tượng bày ra rõ ràng trước mắt, chẳng khác nào một cuốn phim diễn ra trước mắt cho ta xem vậy. Lần lần tâm thức của ta mở rộng đến một một trình độ, cho ta sống hẳn với thời đại xa xăm của lịch sử mà người ta đang khảo cứu tìm tòi đó.

Người ta nhìn thấy những nhân vật, với đầy đủ mọi chi tiết đại khái như mặc y phục gì, phong tục tập quán của họ ra làm sao trong thời kỳ lịch sử mà họ đang xem xét. Không phải người ta nhìn vào lịch sử với tư cách một người của thế kỷ XX này, mà người ta có cảm giác như đứng lơ lửng trên không để nhìn xuống một cách khách quan, những gì đang diễn ra trong lịch sử vào thời đó. Người ta có thể mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi được mùi của sự vật đang diễn ra trong lúc đó, chẳng khác nào họ đang sống lại lúc bấy giờ vậy. Nhưng lẽ tất nhiên, người ta không thể can thiệp được vào những điều gì đã xảy ra trong lúc đó, họ chỉ là những người khách quan đi tìm tòi mà thôi.

Những điều tôi nói qua về Thần nhãn thuộc về thể chất và Thần nhãn siêu đẳng thì bấy nhiêu đó cũng là tạm đủ.

Nói tóm lại, Thần nhãn đó chia làm bốn loại:

- Loại thứ nhất là Quang tuyến Thần nhãn nhìn xuyên mọi vật (như Rayon X).

- Thứ hai là Thần nhãn phóng đại (xem những vật nhỏ, như là kính hiển vi).

- Thứ ba là Viễn vọng Thần nhãn (clairvoyance télescopique) nhìn những vật ở xa, như viễn vọng kính.

- Thứ tư là Thần nhãn thuộc về cái phách (clairvoyance éthérique).

Ngoài ra lại còn những Thần nhãn dùng quan sát những cõi Trung giới, cõi Thượng giới và mở rộng tâm thức. Và còn Thần nhãn gọi là Thần nhãn của thời gian, do đó người ta có thể nhìn vào cái thể tinh anh của vũ trụ (Akasha). Với Thần nhãn thời gian, những nhà huyền bí học có thể nhìn thấy những sự vật sẽ xảy ra trong tương lai. Họ có thể đặt ra những câu hỏi khó khăn về tương lai con người, là những vấn đề thuộc về định mạng hay là ý chí.
Trích dẫn

hiendde's Photo hiendde 31/10/2011

Thần Nhĩ

Bây giờ tôi xin nói đến vấn đề Thần nhĩ. Cũng như Thần nhãn là một giác quan giúp cho người ta thấy được sự vật ở cõi vô hình, thì Thần nhĩ là một giác quan giúp cho ta nghe được những tiếng động ở cõi vô hình. Do những năng khiếu đó, giác quan người ta mở rộng từ cõi hữu hình này đến cõi vô hình khác. Những quyền năng đó có thể giúp ta tiếp xúc với những Đấng vô hình ở các cõi trên.

Do đó người ta có thể tiếp xúc được với kẻ thân yêu vừa quá cố, với những vị Thiên thần ở cõi trên, và nếu được phép, thì họ có thể tiếp xúc với những nhân viên Quần Tiên Hội.

Còn một bực cao hơn nữa là quyền năng giúp ta nghe được tiếng nói trong nội tâm, tức là tiếng nói của Thượng Đế trong lòng mỗi người vậy. Nghĩa là tiếng nói của linh hồn, tiếng nói của Chơn nhơn luôn luôn vọng lại cho ta để làm khí cụ nối liền Chơn nhơn với Phàm nhơn. Tiếng nói Vô thinh đó luôn luôn giúp ta một nguồn cảm hứng và dìu dắt ta trong mỗi hành động hằng ngày của ta. Bằng phương pháp Tham thiền, người ta có thể nghe được tiếng nói của lòng, từ Chơn nhơn thốt ra, hay là bằng ý chí cũng có thể tiếp xúc được với Chơn nhơn của mình. Điều đó chẳng khác nào mình đánh thức Chơn nhơn bằng một (cú) điện thoại vậy. Lẽ tất nhiên mình phải biết số điện thoại đó thì mới có thể kêu nó được. Chúng ta cần phải biết cái ngôn ngữ, cái tiếng nói của Chơn nhơn nói với ta. Tiếng nói của tâm hồn ấy là Tiếng nói của Sự Sống Thiêng Liêng, là tâm thức chung của vũ trụ, của nhân loại.

Với các quyền năng đó người ta có thể nhận thức rõ những Chơn lý tối thượng. Do đó người ta biết được những Luật lớn của Trời Đất, những điều huyền bí của vũ trụ và vạn vật. Những Chơn lý đó người ta lãnh hội được không phải do nơi sự tiết lộ cho ta biết, mà là do nơi sự kinh nghiệm trực tiếp của mình.

Bây giờ tôi xin nói đến những quyền năng đó đã được phát triển đến đâu trong giai đoạn tiến hóa của nhân loại hiện đại. Thông Thiên Học dạy rằng : trên bước thang tiến hóa của nhân loại, thì người ta chưa đạt đến mục đích. Trong giai đoạn tiến hóa hiện thời thì người ta chỉ mở được năm giác quan mà thôi. Còn hai giác nữa sẽ được phát triển, nghĩa là sẽ khai mở được trong tương lai. Hai giác quan đó tức là Thần nhãn và Thần nhĩ vậy. Sự khai mở các giác quan đó phải đến cho ta một cách có trật tự, có phương pháp, nghĩa là được khai mở từ giống dân này đến giống dân khác.

- Giống dân thứ nhất tức là giống dân mà xác thân của họ chỉ có cái vía và cái phách mà thôi, thì họ đã mở giác quan đầu tiên, tức là thính giác.

- Giống dân thứ hai có thể xác đông đặc hơn giống dân thứ nhất, thì đã khai mở giác quan gọi là xúc giác.

- Giống dân thứ ba đã hoàn toàn nẩy nở xác thân, họ đã phát triển được thị giác tức là giác quan của con mắt.

Thị giác đó trước tiên do nơi con mắt độc nhất ở trên đỉnh đầu. Bên xứ Nouvelle Zélande có giống thằn lằn có ba con mắt. Con mắt ở ngay đỉnh đầu mọc trước nhất, trong sáu tháng đầu nó vừa sinh ra. Sau thời gian đó thì da đầu nó liền lại và lấp bít con mắt đó. Rồi hai con mắt kia mới mọc lên, đó là di tích của con người có một con mắt trên đỉnh đầu thuộc giống dân thứ ba. Trong truyện thần thoại có nói tới một giống người gọi là Cyclopes, giống người đó chỉ có con mắt giữa trán. Đó là người ta diễn tả những giai đoạn trong lịch sử mà loài người bắt đầu chỉ có một con mắt mà thôi. Có nhiều quái thai mà những đứa trẻ mới sinh ra có một con mắt ở giữa trán, đó là những di tích còn sót lại của các giai đoạn lịch sử xa xôi đã mất trong ký ức của loài người.

- Giống dân thứ tư là giống dân Atlante mở vị giác hay giác quan của cái lưỡi.

- Giống dân thứ năm thì mở khứu giác hay giác quan của mũi.

Trải qua dòng thời gian khi loài người càng tiến hóa, thì những giác quan đó càng ngày càng phát triển thêm nhiều.

- Giống dân thứ sáu thuộc về nhân loại tương lai sẽ mở được giác quan thứ sáu, tức là Thần nhãn và Trực giác.

Hiện thời bây giờ có một vài người phát triển được giác quan thứ sáu, và đó chính là đầu đề để chúng ta học hỏi về những quyền năng siêu nhiên của con người.

- Còn giống dân thứ bảy là giống dân cuối cùng của nhân loại trên quả địa cầu, nó sẽ phát triển tất cả mọi giác quan một cách hoàn toàn.

Ngoài ra, giống dân thứ bảy đó lại còn khai mở được Thần nhĩ và thực hiện được sự hợp nhất mình với tất cả mọi loài. Xét về sự tiến hóa của nhân loại, thì đến giống dân thứ bảy, người ta sẽ đạt tới sự phát triển của mọi giác quan. Sau giai đoạn đó, thì quả địa cầu sẽ chìm trong một giấc ngủ triền miên, và tất cả nhân loại sẽ do luồng sóng sanh hoạt dắt dẫn qua một quả tinh cầu khác, và cứ mỗi lần như thế, thì người ta lại càng phát triển thêm đủ mọi quyền năng.

Sau cùng thì người ta có thể hỏi rằng: “Vậy chớ cơ quan nào làm chủ động cho giác quan siêu nhiên vừa nói đó?” Theo như tôi đoán thì có lẽ chư huynh đệ cũng biết rõ về những điều ấy. Những bộ phận đó hiện thời chưa lộ ra ngoài xác thể của ta như năm giác quan mà ta đang có. Đó là bộ hạch trong óc gọi là pituitary gland, là cơ quan của Thần nhãn và bộ Tùng quả tuyến gọi là pineal gland, tức là cơ quan của Thần nhĩ. Hai cơ quan đó là của Thần nhãn và Thần nhĩ, nó thuộc về giác quan siêu đẳng của con người.

Do những cơ quan đó, người ta có thể phát triển được tâm thức thuộc về Thượng trí và Bồ đề. Bây giờ chúng ta hãy xem xét cái động lực nào, cái sức mạnh nào làm phát động những cơ quan đó. Có một năng lực thần bí tiềm tàng trong vũ trụ và trong con người. Người ta gọi nó là ngọn Lửa Thiêng sáng tạo. Nó là nguyên nhân mọi sự sanh hóa, mọi sự sinh nở của muôn loài trong Trời Đất. Nó ẩn trong tủy xương sống con người, khoanh tròn lại bảy vòng như hình con rắn và nằm trong xương mông dưới chót xương sống. Hiện bây giờ nó đang thức tỉnh một phần nào. Một khoanh trong bảy vòng đó đang khích động. Chính cái khoanh đó làm cho thần kinh hệ của chúng ta hoạt động và nó cũng là cơ quan truyền tiếng nói của ta nơi cõi vô hình.

Khoanh thứ hai trong bảy khoanh đó cũng đang khích động, chính nó chủ động của sự sanh hóa và làm cho người ta có thể sinh nở được. Do nơi công phu luyện đạo, ngọn Lửa Thiêng đó bị khích động và đi lên đến đỉnh đầu. Sức mạnh thần bí đó gọi là Kundalini, một sức mạnh thuộc về điện lực, khi nó lên thì nó đi theo một đường vòng trôn ốc, rồi chui vào trong óc, là như nó phát điện cho bộ óc của ta vậy, nghĩa là làm cho bộ óc ta nhạy cảm thêm, và làm cho ta có thể đáp lại hay nhận thức được tiếng nói của Chơn nhơn. Nó cũng làm cho hai bộ hạch óc pituitary và pineal được khích động. Bộ óc của ta bị khích động bằng phương pháp đó thì nó làm cho ta nhận thức được những sự vật xảy ra trong cõi Trung giới và các cõi vô hình.

Đó là những giáo lý mà Thông Thiên Học dạy ta về những quyền năng siêu đẳng của con người, và địa vị của nó ở trên những nấc thang tiến hóa của nhân loại, nghĩa là những giai đoạn thuộc về quá khứ, về hiện tại của loài người. Nó cũng dạy ta về năng lực của những bộ phận do đó mà ta có những quyền năng siêu đẳng, và ngọn Lửa Thiêng thuộc về điện khí làm khích động được những quyền năng đó. Như thế chúng ta thấy rằng chúng ta phải biết ơn giáo lý Thông Thiên Học đem đến cho chúng ta những tài liệu rất đầy đủ và sáng suốt, để chúng ta hiểu được những điều huyền bí trong vũ trụ.

Ngoài những điều thuộc về xác thân, giáo lý Thông Thiên Học còn dạy chúng ta các điều thuộc về những cõi tư tưởng và tinh thần nữa. Chính cái đó nó làm cho giáo lý Thông Thiên Học có giá trị. Đó là nguyên nhân vì sao mà người Thông Thiên Học chúng ta cần phải biết ơn những vị Chơn Sư đã tiết lộ các điều bí mật đó. Chính những vị Chơn Sư ấy đã khám phá các điều bí mật của vũ trụ và truyền cho nhân loại từ điều này sang điều khác, nhất là hai vị Chơn Sư đã thành lập Hội Thông Thiên Học. Do nơi Hội Thông Thiên Học mà những giáo lý thâm sâu và huyền diệu đó được tiết lộ cho nhân loại, để giúp đỡ họ trên con đường tiến hóa. Như thế chúng ta có thể tin rằng thật là một điều vinh hạnh vô cùng cho chúng ta được làm một người Thông Thiên Học !
Trích dẫn

hiendde's Photo hiendde 31/10/2011

SỰ THAM THIỀN CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN TRỰC GIÁC

Phần Hai

TÂM THỨC – KHOA PHÁP MÔN YOGA.

Kính thưa Bà Hội Trưởng,

Kính thưa chư quí vị thính giả,

Bây giờ tôi xin tiếp tục nói về vấn đề tham thiền nối theo đầu đề ngày hôm qua và tôi xin trình bày cho chư huynh đệ một đầu đề về Tâm thức mà bên Ấn Độ giáo, người ta đã nói rõ trong khoa pháp môn Yoga. Nếu thời gian cho phép thì tôi xin lần lượt giải bày về bảy phái triết học ở bên Ấn Độ.

Các nhà triết học Ấn Độ nói rằng: “Sự hiểu biết của loài người đều căn cứ trên sự kinh nghiệm; nếu ta chỉ nhận thức được sự vật bên ngoài toàn bằng giác quan mà thôi, thì sự đó không đem đến cho ta sự hiểu biết chắc chắn nào”. Họ chủ trương rằng: phương pháp duy nhất để đạt được sự hiểu biết hoàn toàn, là trừ ra khi nào mình hợp nhất được với điều gì mình muốn biết. Ta cũng có thể biết rõ một sự gì, là khi nào ta có thể hợp nhất được với sự đó, bấy giờ thì ta mới có thể biết chắc chắn vật đó ra sao, chớ không phải là chúng ta chỉ biết được cái vỏ bên ngoài của nó mà thôi.

Khoa pháp môn Yoga là khoa dạy cho ta làm cách nào để hợp nhất được con người của ta, với sự sống thiêng liêng duy nhất của vũ trụ. Chính khoa pháp môn giúp ta hỗn hợp được với đời sống thiêng liêng của Thượng Đế. Khi nào ta còn cách biệt với một sự vật mà ta muốn biết, thì khi đó ta vẫn chưa có thể biết được vật đó. Và khoa pháp môn Yoga đó lấy sự lý luận ấy làm phương pháp tu học. Người ta gọi nó là Yoga, và những tu sĩ tu theo pháp môn đó có tên là Yogi. Khoa pháp môn Yoga chẳng khác nào cái khoa thể thao cho cái trí của mình.

Chiều hôm nay tôi xin cố gắng trình bày cái phương pháp làm thế nào để lần lần luyện cái trí. Trong khoa học đó, thì cái Chơn ngã của ta hoàn toàn tách ra khỏi tâm thức của xác thể, để hợp nhất với chơn lý đại đồng. Nếu ta có thể tách ra khỏi xác thân của ta để hỗn hợp với tâm thức đại đồng thiêng liêng duy nhất trong vũ trụ (và khi ta trở về thì tâm thức của ta trở về với xác thân ta), thì ta đem theo một kho tàng rất là quí báu, một kho hiểu biết vô song do sự kinh nghiệm của ta.

Và những nhà đạo sĩ bên Ấn Độ chủ trương rằng: khoa pháp môn Yoga tức là cái chìa khóa giúp ta mở được cửa huyền bí đó, và họ nói rằng khoa pháp môn Yoga tức là một người giữ cửa để mở cửa cho ta vào kho tàng quí báu đó. Thế thì khoa pháp môn Yoga là người giữ cửa khoa hiểu biết. Như ta đã nghe tối hôm qua, thì khoa pháp môn Yoga là một khoa huyền bí để tìm thấy cái Chơn ngã của mình. Nó bao trùm tất cả mọi sự kinh nghiệm về đời sống tinh thần, dẫu ta có biết hay không có biết. Chữ Yoga đó do nơi chữ Phạn “Yuj” mà ra, nó có nghĩa là sự hợp nhất tinh thần trong thân của mỗi người, với tinh thần chung của vũ trụ, tức là nó dạy ta phương pháp làm thế nào cho Chơn ngã của mỗi người hợp nhất với bản ngã của vũ trụ.

Có tất cả bảy môn phái triết học ở trong khoa triết học Ấn Độ. Chúng nó không thật khác nhau hết. Nhưng vì sự trình bày, sự hiểu biết chơn lý của chúng nó khác nhau tùy theo mỗi môn phái. Bây giờ tôi xin nói bảy môn phái triết học đó:

Phái thứ nhất là HATHA YOGA. Môn phái đó dạy ta hợp nhất với Thượng Đế bằng sự kiểm soát hơi thở, kiểm soát xác thân và kiểm soát sinh lực. Cái bộ óc vật chất của ta có thể phát triển được năng lực của nó, là nhờ pháp môn Hatha Yoga.

Pháp môn thứ hai là MANTRA YOGA. Theo khoa pháp môn đó thì âm thanh và tiếng động được dùng một cách chặt chẽ để đạt được mọi quyền năng. Những tiếng ca hát, hoặc ngôn ngữ, phát ra những rung động âm thanh, đều là những phương pháp dùng để thực hành khoa pháp môn đó. Mantra là một âm thanh, một tiếng động mà khi người ta đọc lên một cách đúng phép, thì nó có thể phát lên một động lực huyền bí vô cùng. Theo sự hiểu biết của tôi thì pháp môn Mantra Yoga là một cái gì liên quan tới Manas, tức là thuộc về cái trí.

Pháp môn thứ ba là LAYA YOGA. Chữ Laya có nghĩa là tan ra hay là chìm đắm vào một cái gì đó. Theo pháp môn Laya Yoga thì sự chủ trị ý chí là mục đích duy nhất. Thi hành theo pháp môn đó thì nhà đạo sĩ tìm cách để mà hợp mình với tâm thức chung của Thượng Đế. Khoa pháp môn đó theo ý tôi thì nó liên hệ tới Atma.

Khoa pháp môn kế đó là khoa KARMA YOGA. Theo khoa pháp môn ấy thì người đạo sĩ rán sức để hành động, rán sức để cải thiện mọi hành động của mình và để phụng sự đời. Khoa Karma Yoga đó liên quan tới cái thể trực giác Bồ Đề.

Khoa pháp môn thứ năm là BHAKTI YOGA. Bhakti có nghĩa là sự sùng kính. Khoa pháp môn Yoga đó giúp cho nhà đạo sĩ mở được đức tánh sùng đạo, sùng kính, sùng bái Thượng Đế. Nhà đạo sĩ thực hành khoa pháp môn Yoga đó dùng sự sùng kính như là như là cái phương tiện để đạt được sự hòa hợp với Thượng Đế. Mọi tình cảm tốt đẹp thiêng liêng của người đạo sĩ đều được phát huy ra một cách mạnh mẽ, để có thể giúp y đạt được mục đích. Theo ý tôi, thì khoa pháp môn Bhakti Yoga giúp cho nhà đạo sĩ mở được mọi tình cảm thiêng liêng tốt đẹp. Nó liên hệ đến cái vía của con người.

Pháp môn kế đó gọi là JNÂNA YOGA, tức là khoa Pháp môn mở trí hiểu biết. Theo khoa pháp môn môn đó thì nhà đạo sĩ tìm cách mở trí hiểu biết một cách sâu xa, để nhờ đó mới có thể đạt đến Thượng đế. Theo tôi hiểu thì khoa Jnâna Yoga đó liên quan tới hạ trí và nó giúp cho con người mở trí sâu rộng.

Khoa pháp môn thức bảy gọi là RÂJA YOGA. Chữ Râja theo tiếng Phạn có nghĩa là ông vua, thì Râja Yoga đó có nghĩa là khoa pháp môn chúa, cao cả hơn mọi Yoga. Khoa pháp môn Yoga đó là sự tổng kết, là sự kết hợp tất cả mọi khoa pháp môn khác. Phương pháp mà tôi trình bày cho chư huynh đệ hồi tối hôm qua thuộc về khoa pháp môn Râja Yoga. Khoa pháp môn đó dạy ta con đường hợp nhất một cách trực tiếp với sự sống đại đồng duy nhất trong vũ trụ, và có thể giúp cho ta đạt được quyền năng thiêng liêng của Thượng Đế.

Nhưng ta hãy nhớ rằng: tất cả mọi phương pháp, mọi pháp môn đều có một mục đích duy nhất mà thôi. Đó tức là sự hợp nhất với Thượng Đế và với tất cả muôn loài. Thay vì người ta đem tâm thức chú ý đến ngoại cảnh, ngoại vật, thì theo phương pháp môn đó, người ta tập trung ý chí, tập trung tư tưởng vào đời sống bên trong để có thể đạt được cái mục đích tối cao. Như thế thì chữ Yoga có nghĩa là hiệp nhất. Yoga chẳng khác nào như một cái cầu nối liền con người với Thượng Đế. Nó là cái cầu nối liền mọi vật tương quan lẫn với nhau.

Có tám giai đoạn ở trong sự thực hành Yoga mà ta cần phải thực hành trước hết, trước khi ta muốn thành công trên đường đạo lý. Nên nhớ rằng, tất cả mọi triết học, mọi pháp môn đều do các bậc Chơn sư, các bậc Đại Thánh từ nghìn xưa đã phát minh và truyền lại cho đời. Tám giai đoạn mà ta cần phải thực hành trong khoa Pháp môn Yoga là:

1. Thứ nhất là “Yama” có nghĩa là bất bạo hành và tinh luyện đời sống bên trong, để có thể giúp cho ta tập luyện tinh thần. Bất bạo hành đối với mọi sinh vật, nghĩa là không làm đau khổ, không giết chóc bất cứ một sinh vật nào. Đó là điều kiện cốt yếu cho người học đạo. Bất bạo hành đó chữ Phạn gọi là “Ahimsa”, tức là không có gây sự đau khổ.

2. Giai đoạn thứ hai gọi là “Niyama”, có nghĩa là trong sạch, tự bằng lòng với số phận của mình. Trì giới, khổ hạnh, kiểm soát đời sống vật chất của mình. Kế đó là sự học vấn và sùng bái Thần thánh.

3. Giai đoạn thứ ba là “Asana”, tức là tập luyện phương pháp tĩnh tọa, nghĩa là ngồi thế nào cho nó đúng phép.

4. Giai đoạn thứ tư là “Prânâyâma”, tức là phương pháp tập kiểm soát hơi thở và do đó kiểm soát sinh lực.

5. Giai đoạn thứ năm là “Pratyâhâra”, tức là phản chiếu tư tưởng vào nội tâm.

6. Giai đoạn thứ sáu là “Dhârana”, tức là tập trung tư tưởng.

7. Giai đoạn thứ bảy là “Dhyâna”, tức là Tham thiền.

8. Giai đoạn thứ tám là giai đoạn cuối cùng và khó khăn nhất, tiếng Phạn gọi là “Samâdhi”. Có nghĩa là tâm thức siêu đẳng.

Bây giớ chúng ta hãy xét qua mỗi môn phái Triết học đó. Bắt đầu là phương pháp Hatha. Pháp môn Hatha Yoga đó thường bị người ta lợi dụng, lạm dụng rất nhiều. Khoa thực hành đầu tiên của Pháp môn Hatha Yoga đó là kiểm soát hơi thở và kiểm soát sinh lực trong cơ thể con người. Xác thân là một khí cụ do đó người ta có thể dùng hoặc để thỏa mãn sự khoái lạc vật chất của mình, hoặc dùng nó làm phương tiện để đạt lấy mọi quyền năng của Thượng Đế. Khoa Hatha Yoga dạy rằng: sự cải thiện hoàn toàn xác thân của mình là làm sao cho nó được mỹ lệ được sự uyển chuyển, được sức mạnh và làm cho nó cứng rắn. Mọi quyền năng trong cơ thể đều được khích động lên cho đến khi xác thân của ta được trở nên hoàn toàn.

Họ nói rằng: theo khoa pháp môn đó người ta có thể làm chủ được sự chết và nhờ xác thân tráng kiện đó, tư tưởng có thể hoạt động một cách mạnh mẽ phi thường, và sau cùng thì cái Trí của con người có thể hoàn toàn hợp nhất được với Thượng Đế. Người ta thường hay lợi dụng cái phương pháp Hatha Yoga như là khoa thể thao vậy. Điều đó đôi khi cũng có ích, nhưng ta không nên quên rằng: cái mục đích duy nhất, cuối cùng của khoa Pháp môn là hợp nhất với Thượng Đế. Hatha Yoga là phương pháp để kiểm soát, để làm cho hơi thở của ta được điều hòa. Nhà đạo sĩ thực hành khoa pháp môn đó luyện hơi thở bằng cách hít ra hít vào do nơi lỗ mũi bên mặt và lỗ mũi bên trái. Phương pháp đó gọi là thở theo Thái dương hay Thái âm, nghĩa là hít vào do nơi lỗ mũi bên mặt tức là hô hấp theo Thái dương hoặc thở ra do nơi lỗ mũi bên trái, tức là hô hấp theo Thái âm. Một bên lỗ mũi thuộc dương, một bên thuộc âm.

Phương pháp đó làm cho nhà đạo sĩ luyện được xác thân trở nên hoàn toàn để mà sẵn sàng bắt đầu những giai đoạn cao hơn. Pháp môn Hatha Yoga giúp người ta được thăng bằng về xác thể và có được sự kiểm soát xác thân để chuẩn bị nhà đạo sĩ bước qua pháp môn Raja Yoga. Đó là một vấn đề rất sâu rộng nhưng bây giờ tôi xin nói phớt qua để mà bắt qua Mantra Yoga.

Mantra tức là một thần chú, để làm kích động những năng lực huyền bí. Một thần chú mantra có thể là một tiếng nói hay là một câu có nhiều tiếng. Khi người ta đọc nó một cách đúng phép, thì nó có thể kích động được những sức mạnh rất phi thường. Một câu thần chú Mantra khi người ta đọc lên, nó uyển chuyển để đem tới những sự rung động thần bí và nó có thể giúp ta đạt được ý muốn. Trong Bà la môn giáo thì những câu thần chú Mantra đó đều rút trong kinh Véda.

Người ta thường gọi một trong những câu thần chú đó là tiếng nói rung động, hay tiếng nói có phần linh động thần bí. Đó tức là tiếng thần bí AUM. Người ta đọc nó là OM nhưng mà người ta viết nó ba chữ A U M. Tiếng thần bí đó tượng trưng ba ngôi của Thượng Đế; tuy ba nhưng mà là một. Khi người ta đọc lên danh từ Aum đó, thì chữ M đằng sau chót phải dài ra. Khi đọc nó, thì người ta phải tập trung tư tưởng vào sự sống thiêng liêng của vũ trụ, và người ta tìm cách hợp nhất chơn ngã của mình với chơn ngã của vũ trụ. Khi đọc tiếng AUM bảy lần, mà mỗi lần như vậy, thì nó có thể kích động được mỗi cảnh giới trong vũ trụ. Và khi đọc nó, thì trí của ta cũng tập trung vào một trong bảy cảnh giới của vũ trụ.

Và tôi chắc rằng: trong chư huynh đệ cũng biết, bên Phật giáo đôi khi người ta cũng có đọc câu thần chú: OM MANI PADME HUM... Những câu thần chú đó có cái sức rung động rất phi thường, vậy khi người ta đọc nó lên thì người ta phải làm cho cái tâm chứa đầy bác ái mà thôi. Khi người ta đọc những câu thần chú đó thì nó làm kích động những huyệt bí hiểm ở trong thân người. Và người ta sẽ nhận thức rằng sự nhịp nhàng uyển chuyển của linh hồn người cũng nhịp nhàng đúng điệu với sự rung chuyển của tâm thức vũ trụ. Pháp môn Mantra Yoga giúp cho người ta có thể điều khiển được mọi âm thanh, mọi tiếng động và do đó có thể đạt được mọi quyền năng.

Bây giờ tôi xin nói pháp môn kế là Laya Yoga. Pháp môn đó có khi người ta cũng gọi nó là Kundalini Yoga, bởi vì khoa pháp môn này dạy người ta tập làm kích động được một sức mạnh huyền bí gọi là Hỏa hậu nó ngự trong thân thể của mỗi người. Tôi sẽ có dịp nói đến cái Kundalini ấy trong những bài thuyết pháp tới đây và bây giờ tôi xin miễn nói tới vấn đề đó. Nhưng theo pháp môn Laya Yoga hay là Kundalini Yoga, thì nhà đạo sĩ hình dung mình ở giữa một ngọn lửa thiêng, ngọn lửa bất diệt trong vũ trụ. Và biết rằng: ngọn lửa đó vẫn luôn luôn bừng cháy, và linh động nhất trong mỗi người.

Với phương pháp đó người ta có thể hợp nhất ngọn lửa thiêng trong mình với ngọn lửa thiêng của vũ trụ; người ta có thể đạt được quyền năng sáng tạo của Thượng Đế và người ta có thể kích động cái quyền năng sáng tạo của Thượng Đế đó ngự trong thân thể của mỗi người. Bởi thế cho nên nó là một khoa pháp môn rất nguy hiểm và người ta chỉ nên thực hành khoa đó dưới sự chỉ dạy của một Chơn Sư mà thôi. Laya Yoga giúp cho người ta thống trị được những quyền năng sáng tạo, những quyền năng vô vi của ngọn lửa thiêng.

Bây giờ tôi xin nói đến Karma Yoga. Trong Thánh kinh Bhagavad Gita thì Đức giáo chủ Krishna có nói như thế này: “Karma Yoga là một hành động đúng phép. Và mục đích duy nhất tối cao của pháp môn đó là làm sao đạt được sự toàn thiện trong những hành động, mỗi việc làm. Và việc làm thiêng liêng đó phát hiện ra bằng những việc làm trong đời sống hằng ngày”. Những lý tưởng của khoa pháp môn Karma Yoga là làm sao để thực hiện được sự mỹ lệ ở dưới trần gian này. Do đó mà thiên chức của con người mới có thể làm tròn được.

Khi tư tưởng của con người được sáng suốt, vị tha và minh triết thì nó hoàn toàn tách ra khỏi những gì xấu xa ở đời mà được nhắm vào cái mục đích cao cả và tốt đẹp. Cái trí của người ta do đó sẽ được luyện tập luôn luôn cho đến khi trở thành một khí cụ hoàn toàn có hiệu quả. Chừng ấy cái trí không còn là một cái gì nhảy nhót lung tung nữa, và trực giác con người lần lần nẩy nở có thể giúp con người đạt được mọi sự. Và khi đó thiên nhãn sẽ mở để giúp con người hiểu được cái Chơn ngã của mình. Karma Yoga là pháp môn giúp cho con người thấu triệt được mọi bí quyết của hành động. Đó là khoa pháp môn dạy người ta làm việc, hành động và phụng sự nhân loại. Người ta phụng sự bằng những hành động, làm việc khéo léo.

Bây giờ thì chúng ta xét đến pháp môn Bhakti Yoga, nghĩa là sùng tín, sùng bái. Pháp môn đó có nhiều Dòng bên Thiên Chúa Giáo vẫn áp dụng và thực hành. Tất cả những đạo sĩ ẩn dật đều thực hành khoa khoa pháp môn Bhakti Yoga để đạt đến Thượng Đế. Đối với một vài hạng người thì khoa pháp môn đó có thể giúp họ đạt được ý muốn. Trong một cơn thiền định mà họ tập trung lòng bác ái của họ vào lòng Bác Ái của Thượng Đế thì nhà đạo sĩ Bhakti Yoga nhận thấy, cảm thông được sự hiện diện của Thượng Đế trong lòng của họ. Khoa Bhakti Yoga đó dạy người ta thế này:

Hãy làm tròn bổn phận mình đối với người. Làm việc cho Thượng Đế chớ không phải làm việc riêng cho mình. Hãy hiến dâng mọi sự thông minh, trí tuệ của mình cho Thượng Đế. Hãy học bằng cách kính mến và hãy tập nhìn thấy mọi vật đều ở trong Thượng Đế. Hãy hiến thân mình trọn vẹn cho Đức Thượng Đế cao cả. Ngài ngự trong tâm của mọi vật. Như thế thì nhà đạo sĩ của khoa pháp môn Bhakti Yoga hiến trọn vẹn thân mình cho lý tưởng cao cả. Người ấy hiến dâng tất cả mọi tinh lực của y thuộc về xác thể, thuộc về tình cảm, thuộc về lý trí và tất cả mọi phương diện. Y hiến dâng trọn thân mình của y dưới bàn thờ bác ái và sùng kính. Bhakti Yoga giúp người ta chủ trị được những tình cảm thiêng liêng quí báu, tình bác ái, tình đồng loại, và giúp cho người ta có thể hợp nhất với Thượng Đế bằng sự bác ái và sự sùng đạo.

Bây giờ thì tôi xin nói đến khoa pháp môn Jnâna Yoga. Jnâna có nghĩa là hiểu biết. Pháp môn đó giúp người ta phát triển và bành trướng cái trí cho đến mức cùng tột. Và sau chót người ta có thể dùng trí để hợp nhất mình với tất cả mọi loài, mọi vật. Và người đạo sĩ về phái Jnâna Yoga tập luyện cái trí mình như thế nào để cho cái trí trở nên mạnh mẽ và có thể dùng làm lợi khí để hợp nhất. Vì đó mà người ta nói rằng cái trí là phần linh thiêng, phần chủ động mọi việc làm của con người. Và sau cùng thì sự hiểu biết về vũ trụ, về Thượng Đế là cứu cánh của nhà đạo sĩ đó; y có thể đạt đến tâm thức thiêng liêng của vũ trụ, của Thượng Đế. Jnâna Yoga có thể giúp người ta chủ trị được cái trí và đem đến mọi sự hiểu biết.

Bây giờ thì chúng ta hãy xét đến pháp môn cuối cùng, nó tổng kết, hợp nhất mọi pháp môn, đó là Raja Yoga. Khoa Raja Yoga giúp người ta chủ trị được tất cả mọi pháp môn Yoga khác và giúp cho người ta có được những quyền năng sáng suốt, những quyền năng phân tách, những quyền năng trí tuệ để đạt được Chơn ngã của mình. Như tôi đã nói tối hôm qua thì pháp môn đó là tinh hoa của mọi pháp môn. Nhờ nó mà Đức Thượng Đế ẩn hiện trong mình chúng ta được hoàn toàn bộc lộ ra ngoài và người ta do đó có thể đạt được cái mà người ta gọi là Chơn ngã. Người ta sẽ nhận thức được rằng cái Chơn ngã hay linh hồn của mình vốn là Một với Đại Ngã của vũ trụ.

Do khoa pháp môn đó người ta có thể trở thành vị đệ tử của một Chơn Sư. Theo giáo lý Thông Thiên Học thì vị Chơn Sư đó không phải là một người thầy bằng xương bằng thịt mà người ta có thể tìm thấy được ở ngoài đời. Mặc dầu ông thầy đó đôi khi có thể giúp ích cho ta. Riêng phần tôi, tôi cũng đã từng gặp gỡ những nhà đạo sĩ chơn tu ẩn mình trong những chốn rừng sâu, hẻo lánh bên Ấn độ, hay là những nhà đạo sĩ điều khiển dưới tay những môn phái, những trường dạy đạo, những đạo viện hoặc là những đền đài bên Ấn Độ. Sự thật những nhà đó chính là những nhà chơn tu, họ có thể đạt đến Samadhi tức là Đại định một cách dể dàng. Samadhi tức là làm cho xác thân mình hoàn toàn không hay biết gì cả trong khi linh hồn của họ xuất ra, nhưng theo giáo lý Thông Thiên Học thì khi mà chúng ta nói Chơn sư tức là chúng ta nói đến những bực Chơn Tiên hoàn toàn giải thoát.

Bởi vì trong hàng các vị Chơn sư đó có những vị thâu nhận đệ tử. Người ta có thể gặp các Ngài trong giấc ngủ hay là trong khi người ta hoàn toàn xuất ra ngoài xác thân của mình. Chính những sự gặp gỡ đó mới là chân thật rõ ràng với người học đạo. Nếu khi nào người ta được hân hạnh gặp vị Chơn Sư đó, thì Ngài sẽ giúp ta cảm hứng dồi dào để giúp ta đạt được những quyền năng của khoa Yoga. Vị Chơn Sư đó sẽ che chở đệ tử của mình dầu người này là đàn ông hay đàn bà trong những giai đoạn đầu tiên và nguy hiểm của người học Đạo. Cũng như bà Chase đã nói hôm chúa nhật vừa rồi thì những vị Chơn Sư đó đối với chúng ta quả là những người có thật bằng xương, bằng thịt. Và những vị Chơn Sư đó ta có thể gặp được.

Một phương pháp giúp ta gặp được những vị Chơn Sư đó là con đường phụng sự, nhất là phụng sự những mục đích Thông Thiên Học của chúng ta. Chính Hội này là phong trào của các Ngài thành lập ra. Phụng sự phong trào Thông Thiên Học tức là con đường đưa chúng ta đến chơn các Đức Thầy và đưa chúng ta đến sự Minh triết thiêng liêng. Nhưng phụng sự không phải là nói một cách suông, nhưng là phụng sự một cách cụ thể. Trong Thiên Chúa giáo thì có câu dạy như thế này : Kẻ nào làm việc tức là kẻ đó cầu nguyện vậy. Đó chính là hình thức của Karma Yoga.

Bởi vì tại cõi trần đây là nơi chúng ta phụng sự, nơi chúng ta hoạt động. Nó là con đường đưa đến Chơn sư. Chúng ta là những người Thông Thiên Học chúng ta cần phải học hỏi giáo lý Thông Thiên Học một cách cẩn thận. Chúng ta hãy cố gắng sửa đổi tâm tánh của chúng ta. Chúng ta hãy làm bất cứ việc gì mà chúng ta có thể làm một cách sốt sắng, một cách tận tụy để giúp đỡ công việc Hội của chúng ta. Chúng ta hãy làm tất cả những công việc đó nhơn danh của những vị Chơn Sư. Chừng đó thì cửa Đạo sẽ mở rộng cho chúng ta hiệp nhất được với Thượng Đế. Và đó, tôi xin nhắc lại, chính là mục đích của tất cả mọi pháp môn Yoga vậy.


Tác Giả: Đại Đức Geoffrey Hodson

Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt

Trích dẫn

gialuong's Photo gialuong 14/12/2011

bài hay. đọc ý nghĩa. vậy Học thuât muốn rèn luyenej phải có phương pháp. vậy PP luyện tập đấy là gì vậy. Có thể luyện như thế nào. Theo mình được biết các nướ có môn Khí Công nếu luyện đến mức thượng thùa có thể đạt được và dùng được theo như ý muốn và thần nhan, thanaf nhĩ, và có các khả năng khác nua, ngoài khả năng chưa bệnh bằng khí công như ta đã biết ở một số ngưoif và một số nước có các kỳ nhân như vậy. Mà hiện tại theo tài liệu cho biết ở Việt nam ta có 1 ngưoi đạt trình như thế. Có cái lạ là họ không học thầy hiện hữu mà vẫn bảo là có thầy nhưng không ai biết chỉ ngưoif đấy nói là có. Còn khả năng của họ đã được thừa nhận và kiểm chứng.
Trích dẫn

Durobi's Photo Durobi 14/12/2011

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

gialuong, on 14/12/2011 - 13:33, said:

bài hay. đọc ý nghĩa. vậy Học thuât muốn rèn luyenej phải có phương pháp. vậy PP luyện tập đấy là gì vậy. Có thể luyện như thế nào. Theo mình được biết các nướ có môn Khí Công nếu luyện đến mức thượng thùa có thể đạt được và dùng được theo như ý muốn và thần nhan, thanaf nhĩ, và có các khả năng khác nua, ngoài khả năng chưa bệnh bằng khí công như ta đã biết ở một số ngưoif và một số nước có các kỳ nhân như vậy. Mà hiện tại theo tài liệu cho biết ở Việt nam ta có 1 ngưoi đạt trình như thế. Có cái lạ là họ không học thầy hiện hữu mà vẫn bảo là có thầy nhưng không ai biết chỉ ngưoif đấy nói là có. Còn khả năng của họ đã được thừa nhận và kiểm chứng.

Người nào ở VN vậy bạn ?
Trích dẫn