Jump to content

Advertisements




Hành dụng Can Chi trong quẻ Dịch.

Vấn - Đáp

7 replies to this topic

#1 Hà Uyên

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 1518 Bài viết:
  • 4964 thanks

Gửi vào 07/01/2012 - 08:34

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VuThuong, on 06/01/2012 - 19:45, said:

Kính Bác Hà Uyên!
Cháu có một thắc mắc nhỏ không biết hỏi ở đâu nên viết vào mục này. Các quẻ Dịch được nạp Can và Chi khi luận quẻ người ta chỉ căn cứ vào ngũ hành của Chi, còn không thấy nói gì đến Can cả. Bác có thể cho ý kiến về vấn đề này được không?
Kính.


Chào bạn VuThuong

Bạn có thể cho một ví dụ cụ thể hơn, để cho vấn đề trao đổi được thuận tiện hơn.

#2 Minh An

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 498 Bài viết:
  • 1737 thanks

Gửi vào 07/01/2012 - 18:05

Kính chào bác Hà Uyên.

Cháu cũng có thắc mắc tương tự.

Chẳng hạn
Càn nạp giáp
Khôn nạp ất
Cấn nạp bính
Đoài nạp đinh
v.v...

Việc nạp Can này được sử dụng như thế nào trong luận đoán 1 quẻ Dịch ạ?

Cháu cả ơn bác rất nhiều.

Thanked by 1 Member:

#3 VuThuong

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 85 Bài viết:
  • 74 thanks

Gửi vào 07/01/2012 - 21:53

Kính Bác Hà Uyên!
Trong phần nạp Can cho quẻ Dịch có viết như sau:
Nhâm Giáp phùng Càn, Ất Quý Khôn
Cấn Bính, Đinh Đoài, Kỷ Ly môn
Tốn Tân, Khảm Mậu, Chấn Canh dồn

Quẻ Càn ba hào nội quái được nạp Can Giáp; ba hào ngoại quái được nạp Can Nhâm.
Quẻ Khôn ba hào nội quái được nạp Can Ất; ba hào ngoại quái được nạp Can Quý.
Quẻ Cấn cả 6 hào đều nạp Can Bính.
Quẻ Đoài cả 6 hào đều nạp Can Đinh.
Quẻ Ly cả 6 hào đều nạp Can Kỷ.
Quẻ Tốn cả 6 hào đều nạp Can Tân.
Quẻ Khảm cả 6 hào đều nạp Can Mậu.
Quẻ Chấn cả 6 hào đều nạp Can Canh.

Ví dụ: Quẻ Thuần Càn nạp Can chi như sau:
Nhâm Tuất hào 6 ___
Nhâm Thân hào 5 ___
Nhâm Ngọ hào 4 ___
Giáp Thìn hào 3 ___
Giáp Dần hào 2 ___
Giáp Tí hào sơ ___

Cháu không thấy nói gì đến về thập Can trong quẻ cả. Kính mong được Bác giải đáp.
Kính.

Sửa bởi VuThuong: 07/01/2012 - 21:58


Thanked by 1 Member:

#4 Hà Uyên

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 1518 Bài viết:
  • 4964 thanks

Gửi vào 08/01/2012 - 11:10

Chào Vuthuong và Minh An


Vấn đề hai Bạn nêu ra, theo suy luận của Tôi, phải chăng được bắt nguồn từ Bốc phệ chính tôngGiã Hạc Lão Phu, thuyết của hai quyển sách này được phổ cập lưu hành rộng rãi và được nhiều người theo. Đây là hoàn cảnh khách quan, để lại cho giới nghiên cứu, hay những người yêu thích truy tìm thông tin bằng quẻ Dịch còn bị hạn chế, có thể do nguồn tư liệu, cũng có thể do dịch thuật, ... nên những thuyết của các Dịch gia khác ít được đề cập tới.


VuThuong nói: Các quẻ Dịch được nạp Can và Chi, khi luận quẻ, người ta chỉ căn cứ vào ngũ hành của Chi, còn không thấy nói gì đến Can cả.

Hai chữ: người ta ở đây, thì Tôi hiểu là sách viết tập trung vào phối ngũ hành của Chi với từng Hào của một quẻ Dịch, mà sách chưa chú giải tới Thiên can. Điều này ta có thể hiểu rằng, đối với "học trò" của môn phái, thì người Thầy giảng giải ý nghĩa khi hành dụng thiên can, còn khi sách viết để xiển dương quảng bá cho môn phái của mình, thì lại mang tính xã hội nên nội dung học thuật thường bị lược bỏ nhiều, đôi khi còn mang tính "mật truyền" của từng môn phái. Cho nên, vấn đề mà VuThuong và Minh An nêu ra là vấn nạn chung trong giới nghiên cứu lẫn giới hành nghề Chiêm phệ.

Trở lại với nội dung chính của vấn đề, thì chúng ta cùng nhau khảo sát sự thăng giáng của âm dương, thông qua biến hóa của 6 hào trong mỗi quẻ, để có được lời chú giải một cách thỏa đáng vậy.

Cổ nhân nhận thấy, 1 hào trong quẻ, vận hành hết thăng lại giáng, hết giáng lại thăng, sau 20 lần như vậy, thì trở về tới Bản cung (nguyên quái). Kết cấu 64 quẻ 384 hào đều như vậy.

Nhưng, riêng hào Sơ và hào Nhị, trong quá trình thăng - giáng, thì hai Hào này đều trải qua 4 lần trong Nội quái rồi chuyển ra Ngoại quái. 64 quẻ thì hào Sơ và hào Nhị đều cho ta biết quy luật như vậy. Đối với hào Tam - Tứ - Ngũ - Thượng, đều trải qua 5 lần biến hóa. Mở rộng ra, quy luật này được một số Dịch gia lập thuyết cho rằng: 4 lần thăng - giáng thuộc về lý của Đất, còn 5 lần thăng - giáng của các hào 3 - 4 - 5 - 6, biến hóa thì thuộc về lý của Người và lý của Trời. Do vậy, đi sâu khai thác về cái Lý của Đất, thì tập trung vào nguồn dữ liệu ban đầu từ địa chi vậy.

Một thuyết khác, căn cứ vào nhu cầu mở rộng thông tin, lấy cơ sở Ngày làm chủ, quẻ Ngày thống suất 12 quẻ Giờ. Ví dụ: ta gặp câu hỏi của vận nhân: "Sang năm tôi định làm nhà, thì tốt hay xấu?", như vậy có trường phái cho rằng phải căn cứ vào quẻ Năm, thì thông tin có tính chính xác và mang độ tin cậy cao hơn. Lại ví như, ta gặp câu hỏi của vận nhân: "Tháng tới tôi dự định đi du lịch Thái lan, thì tốt hay xấu?", để trả lời, cũng có trường phái cho rằng, phải căn cứ vào quẻ Tháng để truy tìm thông tin, .v.v...

Như vậy, thiên can đã được chú trọng. Ý nghĩa đầu tiên, đó là số thứ tự của từng cặp can chi trong 60 hoa Giáp. Số thứ tự này tùy theo yêu cầu của từng thuyết, để biết được Nạp âm, hoặc bỏ tuần (10) để xác định thông tin, hoặc để thiết lập quẻ cho năm - tháng - ngày - giờ..v.v...

Ví dụ như hôm nay 08/01/2012, năm Tân Mão được số 28, tháng Tân Sửu được số 38, ngày hôn nay là Mậu Thìn được số 5, giờ Đinh Tị được số 54. Tổ hợp số được 28 + 38 + 5 + 54 = 125, từ đây thiết lập quẻ Tứ trụ như sau:

..............Năm.................Tháng................Ngày..................Giờ
..........Tân Mão...........Tân Sửu...........Mậu Thìn.............Đinh Tị
..............Bí.....................Tiệm.................Hàm................Đại súc

Theo đó, được 4 quẻ ứng với năm tháng ngày giờ, tùy theo câu hỏi của Vận nhân để xác định truy tìm thông tin từ quẻ ứng với cặp can chi Năm, hay cặp can chi Tháng mà hành dụng vậy.

Qua đây, chúng ta thấy tùy theo từng trường phái hành dụng quẻ Dịch, căn cứ theo nhu cầu của từng loại thông tin (câu hỏi) để có thể chọn lựa thuyết mà ứng dụng, khi Vuthuong và Minh An theo thuyết của Bốc phệ chính tông, thì nhu cầu thông tin cần khai thác có thể chưa chú trọng vào Thiên can là vậy.

VuThuong và Minh An thấy còn vấn đề gì cần trao đổi, thì các Bạn nêu ra, chúng ta cùng học hỏi.


HaUyen

Sửa bởi HaUyen: 08/01/2012 - 11:15


Thanked by 3 Members:

#5 VuThuong

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 85 Bài viết:
  • 74 thanks

Gửi vào 08/01/2012 - 14:13

Trích dẫn

Chào Vuthuong và Minh An


Vấn đề hai Bạn nêu ra, theo suy luận của Tôi, phải chăng được bắt nguồn từ Bốc phệ chính tôngGiã Hạc Lão Phu, thuyết của hai quyển sách này được phổ cập lưu hành rộng rãi và được nhiều người theo. Đây là hoàn cảnh khách quan, để lại cho giới nghiên cứu, hay những người yêu thích truy tìm thông tin bằng quẻ Dịch còn bị hạn chế, có thể do nguồn tư liệu, cũng có thể do dịch thuật, ... nên những thuyết của các Dịch gia khác ít được đề cập tới.


VuThuong nói: Các quẻ Dịch được nạp Can và Chi, khi luận quẻ, người ta chỉ căn cứ vào ngũ hành của Chi, còn không thấy nói gì đến Can cả.

Hai chữ: người ta ở đây, thì Tôi hiểu là sách viết tập trung vào phối ngũ hành của Chi với từng Hào của một quẻ Dịch, mà sách chưa chú giải tới Thiên can. Điều này ta có thể hiểu rằng, đối với "học trò" của môn phái, thì người Thầy giảng giải ý nghĩa khi hành dụng thiên can, còn khi sách viết để xiển dương quảng bá cho môn phái của mình, thì lại mang tính xã hội nên nội dung học thuật thường bị lược bỏ nhiều, đôi khi còn mang tính "mật truyền" của từng môn phái. Cho nên, vấn đề mà VuThuong và Minh An nêu ra là vấn nạn chung trong giới nghiên cứu lẫn giới hành nghề Chiêm phệ.

Trở lại với nội dung chính của vấn đề, thì chúng ta cùng nhau khảo sát sự thăng giáng của âm dương, thông qua biến hóa của 6 hào trong mỗi quẻ, để có được lời chú giải một cách thỏa đáng vậy.

Cổ nhân nhận thấy, 1 hào trong quẻ, vận hành hết thăng lại giáng, hết giáng lại thăng, sau 20 lần như vậy, thì trở về tới Bản cung (nguyên quái). Kết cấu 64 quẻ 384 hào đều như vậy.

Nhưng, riêng hào Sơ và hào Nhị, trong quá trình thăng - giáng, thì hai Hào này đều trải qua 4 lần trong Nội quái rồi chuyển ra Ngoại quái. 64 quẻ thì hào Sơ và hào Nhị đều cho ta biết quy luật như vậy. Đối với hào Tam - Tứ - Ngũ - Thượng, đều trải qua 5 lần biến hóa. Mở rộng ra, quy luật này được một số Dịch gia lập thuyết cho rằng: 4 lần thăng - giáng thuộc về lý của Đất, còn 5 lần thăng - giáng của các hào 3 - 4 - 5 - 6, biến hóa thì thuộc về lý của Người và lý của Trời. Do vậy, đi sâu khai thác về cái Lý của Đất, thì tập trung vào nguồn dữ liệu ban đầu từ địa chi vậy.

Một thuyết khác, căn cứ vào nhu cầu mở rộng thông tin, lấy cơ sở Ngày làm chủ, quẻ Ngày thống suất 12 quẻ Giờ. Ví dụ: ta gặp câu hỏi của vận nhân: "Sang năm tôi định làm nhà, thì tốt hay xấu?", như vậy có trường phái cho rằng phải căn cứ vào quẻ Năm, thì thông tin có tính chính xác và mang độ tin cậy cao hơn. Lại ví như, ta gặp câu hỏi của vận nhân: "Tháng tới tôi dự định đi du lịch Thái lan, thì tốt hay xấu?", để trả lời, cũng có trường phái cho rằng, phải căn cứ vào quẻ Tháng để truy tìm thông tin, .v.v...

Như vậy, thiên can đã được chú trọng. Ý nghĩa đầu tiên, đó là số thứ tự của từng cặp can chi trong 60 hoa Giáp. Số thứ tự này tùy theo yêu cầu của từng thuyết, để biết được Nạp âm, hoặc bỏ tuần (10) để xác định thông tin, hoặc để thiết lập quẻ cho năm - tháng - ngày - giờ..v.v...

Ví dụ như hôm nay 08/01/2012, năm Tân Mão được số 28, tháng Tân Sửu được số 38, ngày hôn nay là Mậu Thìn được số 5, giờ Đinh Tị được số 54. Tổ hợp số được 28 + 38 + 5 + 54 = 125, từ đây thiết lập quẻ Tứ trụ như sau:

..............Năm.................Tháng................Ngày..................Giờ
..........Tân Mão...........Tân Sửu...........Mậu Thìn.............Đinh Tị
..............Bí.....................Tiệm.................Hàm................Đại súc

Theo đó, được 4 quẻ ứng với năm tháng ngày giờ, tùy theo câu hỏi của Vận nhân để xác định truy tìm thông tin từ quẻ ứng với cặp can chi Năm, hay cặp can chi Tháng mà hành dụng vậy.

Qua đây, chúng ta thấy tùy theo từng trường phái hành dụng quẻ Dịch, căn cứ theo nhu cầu của từng loại thông tin (câu hỏi) để có thể chọn lựa thuyết mà ứng dụng, khi Vuthuong và Minh An theo thuyết của Bốc phệ chính tông, thì nhu cầu thông tin cần khai thác có thể chưa chú trọng vào Thiên can là vậy.

VuThuong và Minh An thấy còn vấn đề gì cần trao đổi, thì các Bạn nêu ra, chúng ta cùng học hỏi.



HaUyen
Cảm ơn Bác đã trả lời. Đúng là quẻ lục hào được biết tới từ Bốc phệ chính tôngGiã Hạc Lão Phu.
Nếu ta dùng nạp âm 60 hoa giáp để luận hào có được không ạ?
Kính mong được nghe ý kiến từ Bác.

#6 Phù Suy

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 846 Bài viết:
  • 3440 thanks

Gửi vào 08/01/2012 - 20:59

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VuThuong, on 08/01/2012 - 14:13, said:

Cảm ơn Bác đã trả lời. Đúng là quẻ lục hào được biết tới từ Bốc phệ chính tôngGiã Hạc Lão Phu.
Nếu ta dùng nạp âm 60 hoa giáp để luận hào có được không ạ?
Kính mong được nghe ý kiến từ Bác.
Chào bạn Vu Thuong,

Mình xin góp ý vài hàng trong khi ngồi Nghe và tham Khảo thêm về PP luận của bác Hà Uyên - Nếu bạn muốn ĐÀO tung gốc rễ về cách Nạp Giáp cho Quẻ Dịch cũng như tại sao lại Nạp như vậy thì nên tham khảo đầu sách '' Hiệp Kỷ Biện Phương Thư - Quyển 1 ''. Nó hơi dài nên mình không tiên đưa lên đây. Còn trong Bốc Phệ '' Bốc Thệ '' thì phần Can cũng có được Nhắc và Dùng đến, nhưng nó được sử dụng hãn hưu thôi, như trương Gia Trạch cũng có câu phú '' Sơ hào canh Tý giếng....... '' và trương phần Mộ cũng có dùng đến.

Bạn đọc bài trên của bác Hà Uyên có thấy nhắc đền Thăng Giáng thì trong Bốc Phệ cũng có nhắc mà dùng đến..... chẳng qua cái này đòi hỏi trình độ luận rất Cao nên giờ ít người sử dụng. Vì nếu luận Cát Hung một việc có thể dùng Ngũ Hành sinh khắc là có kết quả tốt xấu rồi ! Còn luận được Thăng Giáng tức ta luận được cái tuơng lại xa hơn về việc chiêm Bốc đó..... Cũng giống như Thần Sát trong Bốc Phệ cũng vậy thôi, rất ít được dùng..... vì Nó khó sử dụng và tùy từng Trương, tùy Dụng Thần khác nhau mà dụng Thần Sát khác nhau.

Vài hàng góp ý và trao đổi cùng bạn.......

Phù Suy.

Thanked by 1 Member:

#7 Hà Uyên

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 1518 Bài viết:
  • 4964 thanks

Gửi vào 10/01/2012 - 14:02

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VuThuong, on 08/01/2012 - 14:13, said:

Nếu ta dùng nạp âm 60 hoa giáp để luận hào có được không ạ?



Chào VuThuong


Về câu hỏi này, có thể xảy ra 2 tình huống: 1-) Trả lời là Không. 2-) Trả lời là Có.

Khi trả lời là không, thì Ta có thể hiểu rằng chắc là chưa có điều kiện tiếp cận với những môn phái, hay những trường phái ít được phổ biến, chỉ đệ tử "chân truyền" mới được học. Cũng có thể hiểu với lý do nguồn tư liệu thuộc vào dạng "quý hiếm" (quý vật tầm quý nhân). Cũng có thể hiểu rằng, đó là do trình độ của mỗi cá nhân, khi khảo cứu về một học thuyết nào đó, có Thầy hoặc không có Thầy hướng dẫn, kèm theo vốn kiến thức về "Cổ Hán Ngữ", những cụm từ chuyên ngành thuộc lĩnh vực Huyền học, ... cho nên, cùng một cuốn sách, cùng một học thuyết, mà mỗi người đọc hay nghiên cứu, sẽ thu được những giá trị khác nhau vậy.

Khi trả lời là , thì đòi hòi người trả lời cho câu hỏi mà Vuthuong nêu ra, một khối lượng kiến thức đủ trải rộng hơn 20 môn phái, đã từng trải nghiệm để biết "gạn lọc khơi trong", kèm theo là thời gian đủ dài để trở thành "dân chuyên nghiệp", với trình độ chuyên sâu, ...

Để trả lời: "Có dùng Nạp âm 60 hoa Giáp để luận Hào", thì cổ nhân đặt ra những điều kiện, những định lệ, những khuôn khổ, ... buộc người hành dụng phải thông tỏ những nguyên lý mà cổ nhân đã đặt nền móng xây dựng theo suốt chiều dài của Lịch sử. Các Dịch gia thường tư biện, mỗi nhà mỗi trường phái đều có những nét đặc sắc riêng, vậy nên để nghiên cứu đòi hỏi một khoảng thời gian đủ để đáp ứng cho công việc này, đôi khi là cả đời người vậy.

Lấy một ví dụ: để biết tại sao cổ nhân đã để lại nhiều định lệ như vậy? Khi nói "Tam hợp", thì khi nào được gọi là Tam hợp và khi nào thì được gọi là Tam hội? Đối với trường phái tượng - số, Cổ nhân khảo sát quá trình thăng - giáng tiêu tức của âm dương, nhận thấy trong 64 quẻ Dịch, thì quẻ Chấn và quẻ Khôn đã bộc lộ ra mối quan hệ của địa chi, cụ thể như sau:

1-) Quẻ Chấn, một mẹ Chấn sinh ra 6 con:
- Chấn hào Sơ biến được Dự, phối ứng can chi Ất Mùi
- Chấn hào Nhị biến được quẻ Quy muội, phối ứng can chi Đinh Mão
- Chấn hào Tam biến được quẻ Phong, ứng tại thời gian can chi Kỷ Hợi
- Chấn hào Tứ biến được quẻ Phục, tại thời điểm can chi Quý Sửu
- Chấn hào Ngũ biến được quẻ Tùy, tại thời điểm ứng với can chi Đinh Dậu
- Chấn hào Thượng biến được quẻ Phệ hạp, ứng can chiKỷ Tị

Như vậy, quẻ Chấn nội quái cho ta biết 3 chi là Hợi - Mão - Mùi, còn ở ngoại quái cho ta biết 3 chi là Tị - Dậu - Sửu.

2-) Quẻ Khôn, một mẹ Khôn sinh thành 6 con như sau:
- Khôn hào Sơ biến Phục, tương ứng can chi Canh
- Khôn hào Nhị biến Sư, tại thời gian can chi Mậu Thìn
- Khôn hào Tam biến Khiêm, ứng với thời điểm can chi Bính Thân
- Khôn hào Tứ biến Dự, ứng thời gian can chi Canh Ngọ
- Khôn hào Ngũ biến Tỷ, ứng với can chi Mậu Tuất
- Khôn hào Thượng biến Bác, ứng can chi Bính Dần

Như vậy, quẻ Khôn nội quái cho ta biết 3 chi là Thân - Tý - Thìn, đối với ngoại quái cho ta biết 3 chi là Dần - Ngọ - Tuất.

Đối với 3 chi Hợi Mão Mùi thuộc nội quái quẻ Chấn, tại thời gian ứng với can chi Tân Sửu và Tân Dậu, thì hào Sơ và hào Tam giao nhau, ứng với môi trường quẻ Hằng (thời). Đầu Thân và cuối Mùi giao nhau ! từ đây cổ nhân cho rằng, để được gọi là tam hợp, thì phải thỏa mãn điều kiện: trong môi trường hoàn cảnh nào? ( quẻ Hằng) và tương ứng với thời gian nào? (Tân Sửu và Tân Dậu) Khi không thỏa mãn 2 điều kiện này thì chỉ được gọi là tam hội. Đối với quẻ Khôn cũng lập luận tương tự như vậy !

Hay như quẻ Càn, một mẹ sinh 6 con, gồm Cấu, Đồng nhân, Lý, Tiểu súc, Đại hữu, Quải, thì hào Sơ của 3 quẻ Cấu - Đồng nhân - Lý, tương ứng với can chi Tân Sửu - Kỷ Sửu - Đinh Sửu; còn hào Sơ của 3 quẻ Tiểu súc - Đại hữu - Quải thì tương ứng với can chi Tân Mùi - Kỷ Mùi - Đinh Mùi. Từ đây, mà cổ nhân cho rằng, quẻ Càn đã cho ta biết về sự hình thành "trục" Sửu - Mùi, những nguyên tắc kèm theo khi hành dụng tới trục Sửu - Mùi, nguyên lý Quý nhân xuất từ trục Sửu - Mùi, .v.v...

Lại thêm một ví dụ về điều kiện ràng buộc: để trả lời là , khái niệm về cung Tý, hay cung Sửu, thì khái niệm về cung khác nhau rất cơ bản đối với ngũ hành của chi, ví như chi Tý ngũ hành là Thủy, còn cung Tý thì khái niệm lại rất khác (?). Cho nên, đối với giới nghiên cứu, hay đối với những người yêu thích khai thác thông tin từ Dịch, thì cũng nên nắm vững những điều mà cổ nhân đã để lại. Đối với khái niệm chỉ gọi là biết chơi chơi, thì chẳng bàn làm gì, cứ theo một thuyết duy nhất, được gọi là Chính Tông thì cũng đủ rồi.

Trở lại với nội dung câu hỏi khi trả lời là , thì những điều kiện ràng buộc gồm những nguyên tắc nào? khi nào thì ứng dụng? ... để dùng ngũ hành nạp âm luận Hào. Vậy, luận Hào theo trục Sửu - Mùi, hay là theo Tam hội, hay Tam Hợp đây ? ... hay theo tam phương hội để chờ "thời" mà được tam hợp. Vậy chờ "thời" để làm gì ? Đó là chờ "thời" để được tam hợp hóa hướng cát tránh hung vậy. Cũng có thể cho qua thời "tam hợp" để chờ "Tam hội" ! Hoặc đã được Tam hợp rồi mà không "hóa", thì khi nào "biến" thành Tam tai? Cổ nhân đã nói "tam hợp biến tam tai" mà không nói: "tam hợp hóa tam tai". Như vậy, khi nói Tam hợp "biến" Tam tai, thì cũng phải hội đủ điều kiện kèm theo với nó, khi đó tình trạng Tam tai mới có thể xảy ra. Cho nên nói hội hè thì đông vui mà mấy ai được hợp !

Khả năng của Tôi cũng có chừng mực, sách vở và nguồn tư liệu cũng đơn sơ mộc mạc, những khái niệm nói trên, là để Bạn hiểu thêm quan điểm của Tôi đối với câu hỏi của Bạn vậy.

HaUyen

Sửa bởi HaUyen: 10/01/2012 - 14:56


Thanked by 2 Members:

#8 VuThuong

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 85 Bài viết:
  • 74 thanks

Gửi vào 10/01/2012 - 20:30

Cháu xin cảm ơn những ý kiến uyên bác về Dịch của Bác.
Kính chúc Bác sức khỏe và an lành.
Kính.






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |