Jump to content

Advertisements




Nguyên lý Prana


12 replies to this topic

#1 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 02/03/2012 - 02:57

Nguyên Lý Prana


by

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

on Friday, September 16, 2011 at 3:09pm ·




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nguyên lý Prana là nguyên lý vĩ đại nhất trong vũ trụ , là tiên đề sinh ra mọi quy luật vũ trụ. Ai hiểu hay không hiểu thì nguyên lý Prana vẫn mặc nhiên trường tồn hơn 15 tỷ năm vận hành toàn thể vũ trụ và sự sống. Sự vĩ đại ấy không có cái gì để so sánh ngang hàng, kể cả những thành tựu được cho là niềm tự hào nhất của nền văn minh hiện đại 200 năm nay, cũng không có sự trường tồn, vì luôn bị lạc hậu, bị thay thế bởi cái mới, và đứng trước nguy cơ phá sản môi trường.

Theo các nhà hiền triết Phương Đông, Prana dịch nghĩa là Khí, hay Hơi thở sự sống. Prana là Năng lượng khởi thủy đầu tiên tạo nên vũ trụ, có bản chất là năng lượng thanh tịnh vi tế nhất, là chất liệu cấu tạo hoạt động TINH THẦN và mọi sự VẬN ĐỘNG. Đây là nguyên lý thiết thực nhất, là văn hóa đầu tiên để sống. Không biết nguyên lý Prana là đánh mất một phần cuộc đời, vì Tinh thần là cái quyết định sự sống. Mọi người sống bằng năng lượng Prana nhưng không biết, hoặc tình cờ sử dụng mà không biết ( những khả năng khác thường ).

Năng lượng Prana nuôi dưỡng sự sống con người, qua nhiều hình thức, hoặc trực tiếp ( Tiên thiên khí ), hoặc gián tiếp ( Địa khí, Nguyên khí ), thể hiện sự gắn kết Thiên Địa Nhân giữa Trời Đất và Người. Sai lầm lớn nhất là không biết nguyên lý Prana. Đời người qúa ngắn ngủi, cặp mắt bé nhỏ muốn nhìn xa chiều dài vũ trụ cần phải đi hết 15 tỷ năm tốc độ ánh sáng. Vì vậy chỉ có một cách thế hệ nối tiếp thế hệ kế thừa quan sát đúc rút kinh nghiệm hiểu biết về vũ trụ. Di sản văn hóa lớn nhất loài người là tri thức về Prana. Trong phạm vi có thể nhận thức được nguyên lý Prana từ thực tiễn liên quan trực tiếp với sức khỏe, tinh thần đã cho chúng ta thấy vai trò hàng đầu của Prana.

Sự hiện thị rõ rệt của Prana là hoạt động hô hấp và kinh mạch huyệt đạo, tạo nên hoạt động của phổi thể hiện qua hơi thở. Nếu hệ thống này ngừng vận hành Prana, thì tinh thần bị mê sảng và sự sống chấm dứt. Tuổi trẻ có nguyên khí mạnh mẽ, kinh mạch hoạt động tốt, cung cấp dồi dào Prana, hơi thở êm nhẹ sảng khoái, vận động mềm dẻo linh hoạt. Người cao tuổi nguyên khí đã vơi cạn khiến hoạt động kinh mạch yếu, giảm cung cấp Prana, thì hơi thở yếu, có tiếng rít khò khè, người xanh xao, hoặc có rối loạn chuyển hóa nội tiết béo phì nhưng không có sức khỏe, hơi thở nặng nhọc, vận động khó khăn, chậm chạp..

Hoạt động kinh mạch huyệt đạo trải rộng trên khắp cơ thể, phân phối sinh khí đến khắp tế bào. Nghành Đông y dựa trên phương pháp châm cứu, day, bấm, xoa xát để tăng cường hoạt động kinh mạch huyệt đạo, đã chữa được nhiều bệnh. Nhưng Đông y cũng không chữa được bách bệnh, vì còn liên quan giải pháp tổng thể: Thân và Tâm. Điểm Trường sinh ở giữa ngón chân cái, không có tên trong Đông y, không thuộc kinh mạch nào, nhưng lại là 1 trọng điểm quyết định tổng thể hoạt động của kinh mạch huyệt đạo. Đây là điều bí mật của cơ thể không giải thích được bằng cơ chế Đông y. Đặt tay vào điểm Trường sinh làm kinh mạch vượng lên, sẽ phục hồi sức khỏe, vì vậy tôi đặt tên là Trường sinh. Trường sinh còn là điểm cấp cứu hồi sức hiệu quả hơn hẳn huyệt đạo Nhân trung, Bách hội. Trường sinh là điểm được quan tâm số 1 trong phương pháp vô thức, làm cho kinh mạch vượng thì hấp thụ nhiều Prana.

Sự hiện thị rõ nhất của Prana là hoạt động Tâm thức. Tâm thức là trí tuệ với bản chất là Prana, thanh tịnh, trong sáng, mạnh mẽ vô tận, nhạy bén chính xác, tự chủ, không sợ hãi, trường tồn. Bản thể con người là Tâm chân nguyên Prana, là một phần của Khối sáng Prana. Do quá trình sinh sống đã xâm nhiễm năng lượng xấu từ môi trường ô nhiễm bao phủ dày đặc, làm cho tâm thức đen tối, hoang mang, sợ hãi, yếu đuối năng lượng, mù quáng sinh ra độc ác. Vì vậy phải tu tập sửa đổi gạt bỏ ô trược, tìm về sức mạnh bản thể, mới có trí tuệ thông minh và thiện ích.

Khi tâm đầy đủ Prana, thì tâm có sức mạnh năng lượng rất lớn, tâm chú ý vào đâu là rót Prana vào đó, có thể chữa bệnh, tác động môi trường, thay đổi đời sống tốt đẹp hơn, tạo hiệu quả đắc lực cho quá trình luyện tập tự chữa trị bệnh. Tâm chú ý vào hơi thở, hơi thở sẽ chất lượng hơn. Tâm chú ý vào ngón tay, ngón tay sẽ diệu dụng. Đặt tay vào chỗ đau phát tâm: “Con cần Prana, xin giúp đỡ con” bạn đã nhận được sự giúp đỡ của Prana tức thì bất cứ lúc nào. Khi gạt hết lớp ô nhiễm trong tâm, sẽ thấy một thực tại Prana luôn bên cạnh, nhờ đó trí tuệ thấm dần sự siêu việt chính xác, nhờ đó con người thông minh và không còn lầm lỡ.

Prana là kết tinh sức mạnh lớn lao của môi trường, Prana là sợi dây liên kết môi trường và sự sống . Phá hủy môi trường đã chặt đứt huyết mạch Prana, sẽ dẫn tới hủy diệt . Thiếu tri thức Prana là nguyên nhân phát sinh hành động sai lầm , gây ô nhiễm phá hủy môi trường sống . Việc cảnh báo nguy cơ phá hỏng môi trường được nói đến từ giữa thế kỷ 20, nhưng ít người có chuyển biến về nhận thức, phá hoại môi trường nhiều hơn, dữ dội hơn. Các nhà khoa học đã quan tâm nhiều hơn khi có thông điệp của bộ tộc KOGI năm 1993.

Bộ tộc KOGI sống biệt lập trên đỉnh Sierra ( vùng Colombia, Nam Mỹ) trong vùng rừng sâu núi thẳm, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, không biết chữ, chỉ học cách sống hòa hợp Thiên nhiên. Các em bé được rèn luyện tính cách tự lập từ 7 tuổi, khỏang 21 tuổi, thanh niên được gửi theo học với các trưởng lão. Nơi học là một hang tối, hay một túp lều đơn sơ dựng nơi thanh vắng trong rừng sâu. Tại đây họ ngồi im lặng thiền định, quay mặt vào vách đá để nghe ông trưởng lão ngồi ở phía sau giảng dạy. Thời gian học là từ 7 đến 9 năm, sau đó mới lập gia đình. Một trưởng lão giải thích: “Đời sống là một sự mầu nhiệm, nếu con người biết tu dưỡng thân và tâm để ý thức được đời sống một cách trọn vẹn thì người ta sẽ cảm nhận được nhiều việc khác phi thường hơn”.

Nếu sống đến lúc trưởng thành thì người Kogi có tuổi thọ rất cao, tuổi trung bình của họ là khoảng một trăm hay hơn thế nữa. Một Trưởng Lão cho biết: “Theo quan niệm của chúng tôi thì sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Bệnh tật chỉ là hậu quả của những gì trái với thiên nhiên. Ngoài ra sự tương giao giữa con người với thiên nhiên hết sức mật thiết và khi thiên nhiên bị phá hoại, chắc chắn con người sẽ bị ảnh hưởng theo, do đó con người phải biết tìm môi trường thích hợp để sống”. Đầu năm 1993, ký giả Alan Ereira, được tin bộ lạc Kogi từ lâu không tiếp xúc với ai, đã chấp thuận cho anh được phỏng vấn 3 ngày.

Giáo sư Võ Quý là những người hiếm hoi được tiếp xúc 1 lần duy nhất với bộ tộc KOGI. Cuộc tiếp xúc cho thấy, người Kogi biết rất nhiều điều bí ẩn về thiên nhiên.Sức mạnh về cuộc sống tinh thần của họ thật kỳ lạ, sống tách rời nền văn minh nhưng họ biết hết vận hạn của thế giới văn minh: “Chúng tôi đã thảo luận rất kỹ về điều chúng tôi muốn nói. Chúng tôi muốn gửi một thông điệp cho các em trong gia đình nhân loại. Chúng tôi nói bằng trái tim, những lời nói chân thành nhất rằng hiện nay nhân loại sắp bước vào một thảm họa rất lớn mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra.”

“Trải qua bao thế hệ mà các em không những chẳng học hỏi được gì, lại còn tiếp tục phá hoại gia tài Trái đất…Làm sao có thể nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao, không thể vi phạm được? Lòng các anh vô cùng đau đớn vì các anh thấy rằng trái đất đã khô kiệt rồi, mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ còn trong giây lát. Do đó các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng hãy thức tỉnh, ngưng ngay những việc có tính cách phá hoại đó lại, nếu không thì trễ quá mất rồi!”.

“Sống xa Mẹ đã lâu, các em quên hẳn người Mẹ đã sinh ra các em, săn sóc che chở, nuôi dưỡng các em. Vì thiếu ý thức, các em đã phá nát gia tài Mẹ để lại, phá hoại một cách không thương tiếc! …Các em đang dày xéo lên thân thể Mẹ mà các em không biết rằng các em đang giết hại chính đấng sinh thành ra mình! Các anh biết rõ việc này, nên chỉ muốn khuyên các em hãy dừng lại, quan sát và ý thức việc làm hiện nay của các em, vì giết hại đấng sinh thành ra mình là giết hại mình đó”.

Đến nay dù quá muộn màng cũng phải học cách sống hòa hợp Thiên nhiên . Cuốn sách Sức mạnh Vô thức đã giới thiệu phương pháp giải trừ ô nhiễm cho cơ thể. Thông qua phương pháp này chúng ta sẽ ý thức được tầm quan trọng của môi trường Prana gắn liền với tính mạng của mình, trái tim chúng ta biết rung động với vũ trụ, cần bảo vệ ngôi nhà trái đất. Phương pháp luyện tập vô thức là một trong những giải pháp sử dụng Prana. Được kế thừa tất cả kinh nghiệm quý giá của cổ nhân, và sáng tạo giải pháp khai mở Hà Đào Thành đào thải ô nhiễm.

Việc giải ô nhiễm cho cơ thể đã được sáng tỏ, có vai trò tối quan trọng của Hà Đào Thành, là một “lỗ hổng vô hình” trong não bộ . Hà Đào Thành không phải là Bách hội hay luân xa 7 ( dù cùng vị trí ), không thuộc hệ thống kinh mạch, không có tên trong Đông y, không phải bánh xe quay như luân xa. Luân xa hấp thụ năng lượng vũ trụ, cả tốt và xấu, năng lượng tốt nhiều hơn. Khi tâm thức sai lầm sẽ thu hút năng lượng ô nhiễm, rước nghiệp quả.

Hà Đào Thành có một nắp đậy, luôn đóng kín trong nhiều kiếp sống. Khi luyện tập đúng cách sẽ mở được cái nắp này. Đây là một bí mật lớn nhất khó nhất trong tu luyện yoga của Ấn độ, được mô tả trong cuốn Hành trình về Phương Đông. Hà Đào Thành được khai mở sẽ tương thông 2 chiều với vũ trụ, nhận năng lượng tốt, thải năng lượng xấu. Nhờ thải năng lượng xấu đã sửa chữa được tất cả khiếm khuyết, làm con người luôn tươi mới . Đó là chức năng cực kỳ quý báu của Hà Đào Thành, là niềm mơ ước lâu đời của các đạo sĩ Yoga.

Nhiều người luyện tập vô thức đã cảm nhận rõ sự vận hành sinh khí 2 chiều ngược nhau. Khí trược bị thải ra, với rất nhiều hiệu ứng, đã nhanh chóng phục hồi sức khỏe. Bên cạnh hiệu qủa về sức khỏe, một thành quả rất quan trọng là cải tạo hệ thần kinh nhạy bén chính xác hơn. Trước đây não bộ ù lỳ xơ cứng vì ô nhiễm, nay có những phản ứng rõ ràng trước những tác nhân có hại, hay có lợi. Mỗi khi giận dữ, cãi cọ, dù quát mắng con vật, sẽ thấm thía cảm giác mệt đau, giúp ta trải nghiệm sự nóng giận làm hại mình trước hết, nhờ đó mới biết tu dưỡng tính thiện, biết thay đổi phương pháp, không muốn căng thẳng, không muốn tái phạm.

Ngay cả vấn đề ăn uống, cũng có những phản ứng mạnh mẽ với thức ăn có hại, không ăn bừa phứa . Có cảm xúc rõ ràng trước người tốt, người xấu. Có rung động sâu sắc trước vẻ đẹp sức mạnh lớn lao của Đất Trời, do đó thấy được niềm vui sống lạc quan. Tất cả những thay đổi đó, do não bộ hết nhiễm trược đã phát triển Trực giác, giác quan thứ sáu, giúp chúng ta cảm nhận chính mình, cảm nhận sự sống, cảm nhận được nguyên lý Prana, tự sửa mình sâu sắc hơn, hướng tới trực giác nhiều hơn. Thói quen tham sân si tự nhiên bị chôn vùi từ lúc nào không biết. Các vị giáo sư muốn tiếp xúc Prana cũng phải tu tập như mọi người đạt được sự thăng hoa của não bộ.

Quá trình đào thải ô nhiễm, cơ thể phải trải qua quá trình thanh lọc sổ trược, có thể đau, mệt, ốm thời gian ngắn ban đầu. Đặt tay điểm Trường sinh, và giải trược cho 12 đường kinh mạch là hết đau mệt. Luật nhân quả rất chính xác. Giải hết ô trược là thành công ban đầu quan trọng nhất, mở đường cho các bước phát triển Prana. Giải trừ năng lượng ô nhiễm đã tạo nên cuộc cách mạng bên trong con người, vì lợi ích chính mình, không vì giáo điều nào. Một trong những đỉnh cao phát triển Prana là hiện tượng Kudalini là một hiện tượng kỳ bí của cơ thể .

Hiện tượng Kudalini : Ở đốt sống cụt cuối cùng có một tiểu thể tam giác Muladhara ở đó nằm cuộn khúc “con rắn lửa Kudalini”. Người bình thường thì Kudalini bị đông cứng trong tam giác Muladhara , nên trí tuệ cũng như sức khỏe bị hạn chế. Khi luyện tập Vô thức mà có dấu hiệu những luồng khí nóng thô trược thỉnh thoảng bốc lên dọc cột sống, chuẩn bị Kudalini lay tỉnh . Khi có nguồn sức nóng, rất nóng từ Trường Cường thức dậy từ từ chậm chạp đi dọc cột sống, chỗ nào có huyệt bệnh, sẽ dừng lại lâu hơn đốt trược. Với các phương pháp dưỡng sinh khác vô tình mà Kudalini thức dậy, sức nóng không có lối thoát làm cho rất khó khăn, gọi là trường hợp “Tẩu hỏa nhập ma”.

Với bài luyện tập vô thức khai mở Hà Đào Thành, nếu có trường hợp Kudalini thức tỉnh đi lên cột sống thì sức nóng được thải hết ra ngoài qua Hà Đào Thành, rất bình an tốt đẹp. Khi Kudalini lên đến đỉnh đầu Hà Đào Thành, thì não bộ đạt tới khả năng tri giác hiểu được vũ trụ , thấy được hành trình đúng đắn của đời người, phát triển siêu thức, là tri thức tầng sâu cội nguồn sự vật mà xã hội không có khả năng cập nhật. Nếu chịu khó tinh tấn quan sát học hỏi người này sẽ lĩnh hội được kho tàng trí tuệ vĩ đại của loài người đã tích lũy nhiều ngàn năm.

Sự thăng hoa trí tuệ nhờ yếu tố Kudalini là vấn đề quan trọng giúp người đó tồn tại vững chắc. Sự thức tỉnh Kudalini hiếm khi có được , còn phụ thuộc vào công phu tu tập từ nhiều kiếp trước, không quá 1% , vì vậy Kudalini không phải là chủ đề luyện tập vô thức, nhưng tôi giảng rõ để một số anh chị em khi tập vô thức có thể đạt được. Bất kể ngày hay đêm khi có hiện tượng bốc hơi nóng dọc cột sống thì ngồi thiền yên lặng vài giờ lưng cổ thẳng, thả lỏng người, không tập hít thở, để tự nhiên sắp đặt. Thiền định cho đến khi hơi nóng bốc thoát hết qua Hà Đào Thành, rất an toàn, và thành công mỹ mãn. Khi hơi nóng bốc lên, nếu sợ hãi không ngồi thiền định, mà đi lại thì Kudalini sẽ không đi lên, và có thể mất cơ hội ngàn năm một thưở để Trưởng thành.

Năng lượng vũ trụ có rất nhiều trạng thái khác nhau, không phải lúc nào cũng là Prana. Tùy theo chuẩn mực luyện tập thanh tịnh sẽ thu được năng lượng tương ứng. Dưỡng sinh mà yếu kém vai trò thải trược hoặc gây thêm nhiễm trược, sẽ không có Prana, lâu dài có thể tổn thọ.

Người nắm vững nguyên lý Prana sẽ vui sống khỏe mạnh trọn đời.

Tác Giả: Đoàn Thanh Hương.

---------

Nguồn: Facebook Khai Sáng

Thanked by 3 Members:

#2 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 02/03/2012 - 13:26

Năng Lượng Sinh Học


by

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

on Monday, September 12, 2011 at 2:04pm ·




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nhân Điện (‘human electricity’) trong tiếng Việt là từ ngữ nôm na thông dụng để chỉ năng lượng của con người và vũ trụ (human & universal energy) hay nói cách khác, là năng lượng mà con người thu hút được trong vũ trụ. Từ ngữ ‘điện’ (electricity) thường dễ làm cho người ta liên tưởng đến ‘điện’ phát ra từ các máy phát điện dùng để chạy các dụng cụ điện trong nhà hay trong kỹ nghệ. Sự liên tưởng đó khiến cho người ta dễ liên kết với những đặc tính của điện như: ‘câu điện’, ‘truyền điện’, ‘điện giật’ ‘mở điện, ‘tắt điện’, ‘làm cháy bóng đèn’, chạy máy, ‘mát…điện’,v.v…



Trong khi chưa có từ ngữ nào khác thích hợp hoặc súc tích hơn, từ ngữ ‘Nhân Điện’ được tạm dùng để diễn tả năng lượng của vũ trụ mà con người thu hút được. Thật ra từ ngữ ‘điện’ (electricity) được dùng không phải hoàn toàn lệch lạc. Năng lượng (energy) mà con người thu hút được luân lưu trong cơ thể mình và có thể truyền cho người khác để giúp chữa bệnh mang khá nhiều tính chất của một dòng điện (electrical current), sự khác biệt chỉ ở chỗ mức rung động và cường độ của Nhân Điện nhẹ ‘điện’ hơn từ máy phát điện mà thôi. Cơ thể và đặc biệt là bộ óc con người được cấu tạo bằng các hợp chất dùng để cấu tạo một cục pin (battery) và không có gì lạ khi ‘cục pin người’ này cũng phát ra điện.

Nếu dòng điện (electrical current) không thể thấy được nhưng có thể cảm giác được thì năng lượng của con người hoàn toàn vô hình, vô ảnh. Gần đây, người ta đã có thể dùng máy móc mới phát minh để đo năng lượng con người cũng như xác định được cơ thể con người luôn luôn có sự luân lưu của năng lượng. Ngoài ra chẳng những con người có thể có cảm giác dòng Nhân Điện luân lưu mà còn có thể thấy được bằng mắt thường dưới một số điều kiện. Thử làm thí nghiệm dưới đây để ‘nhìn thấy’ hoặc có ‘cảm giác’ về sự hiện hữu của năng lượng trong chính cơ thể mình.

Vào lúc bầu trời trong, hướng về nền trời xanh ngược chiều với hướng mặt trời. Nếu ở trong nhà thì chọn chỗ tường có màu đen hoặc xám, đèn đừng quá sáng, đứng xoay mặt vào tường và đèn nằm ở vị trí sau lưng. Để cho tâm hồn thật tĩnh lặng, đưa thẳng hai cánh tay về trước mặt cao hơn đầu, từ từ cho 2 ngón trỏ lại sát nhau rồi kéo rời ra trong khoảng cách 4 hay 5 phân, sau đó lại đưa 2 ngón trỏ sát lại vào nhau thật chậm và lại tách rời 2 ngón tay ra. Nếu ta nhìn vào phạm trường xung quanh 2 ngón tay- đừng nhìn quá chăm chú vào 2 ngón tay mà nên để cho mắt thư giãn, tầm mắt như hướng về cuối chân trời hay ở điểm thật xa - ta sẽ thấy một vùng màu trắng đục như sương, như khói nằm giữa hai ngón tay và bao phủ chính 2 ngón tay đó.

Lớp màng trắng đục đó cũng xuất hiện khi chập hai bàn tay lại vào nhau trong tư thế vừa nói - chập sát vào nhau rồi kéo từ từ ra và đưa lại gần nhau nữa. Ta cũng có thể có cảm giác 2 ngón tay tê nhè nhẹ hoặc cảm giác có những tia thật nhỏ từ 2 bàn tay hay ngón tay trỏ bắn vào nhau hoặc nghe cảm giác giữa hai lòng bàn tay ấm hơn. Có khi ta cũng cảm giác có một lực đẩy hay hút hai bàn tay lại với nhau. Màng trắng đục thấy được bằng mắt chính là tầng năng lượng bao phủ cơ thể con người. Hơi ấm, các tia nhỏ bắn ra là cảm giác ghi nhận được khi năng lượng con người luân lưu trong cơ thể và theo lòng bàn tay thoát ra ngoài. Có người gọi đó là tầng etheric.

Tầng năng lượng này cũng có thể thấy được ở thú vật, cây cối và cả các loại đá phát năng lượng như amethytic. Muốn thấy hay muốn có những cảm giác về luồng năng lượng này đòi hỏi hai điều kiện. Thứ nhất là tâm hồn, tinh thần phải ở trong trạng thái thật tĩnh lặng (transquility), thật bình ổn, thư thái và thứ nhì là đừng quá chú mục vào hai ngón tay mà để cho mắt thật thư giãn, nếu cần đừng mở lớn, đưa thị tuyến về một điểm thật xa đàng sau hai ngón tay (loose your focus at a poin far behind). Người đã tập luyện Nhân Điện sẽ rất dễ thấy tầng năng lượng màu trắng đục này cũng như có cảm giác ấm và các tia năng lượng bắn ra từ ngón tay hay lòng bàn tay nhiều hơn.

Một cách khác nữa là đưa thẳng cánh tay trái về phía trước mặt, lòng bàn tay ngửa lên và một người khác đã tập luyện Nhân Điện đặt úp lòng bàn tay trái của họ xuống lòng bàn tay của ta ở khoảng cách từ 2cm đến 4cm, ta sẽ không có cảm giác gì cho đến khi người tập luyện Nhân Điện cố ý bức xạ năng lượng ra lòng bàn tay họ. Chừng đó ta sẽ nghe rõ cảm giác ấm giữa hai lòng bàn tay và các tia năng lượng bắn ra từ lòng bàn tay người tập luyện Nhân Điện vào lòng bàn tay ta, có khi các tia năng lượng này chạy suốt vào cánh tay hoặc đi xa hơn nữa. Trong cảm xạ học, người ta sử dụng quả lắc như đã đề cập để biết được sự luân lưu của năng lượng bằng ‘cảm xạ’ nhưng thể hiện qua đường kính của vòng quay quả lắc.

Một thí nghiệm khác giản dị hơn của Mersmer là dùng một dụng cụ hết sức đơn giản để ‘đo’ Nhân Điện. Dụng cụ này cần 3 vật: một cọng rơm hay cỏ khô dài khoảng một gang tay (20cm) một cây kim gút và một nút chai rượu bằng cây . Cắm cây kim gút xuyên qua giữa cọng rơm hay cỏ khô và sau đó cắm đầu kim còn lại trên nút chai cho kim đứng thẳng và cọng rơm nằm ở vị trí nằm ngang song song với mặt bàn. Có thể xoay kim vài vòng để cọng rơm dễ di động hơn khi gặp lực hút hay đẩy phát từ bàn tay.

Xòe bàn tay ra đặt bên cạnh cọng rơm khô, năng lượng chúng ta hay Nhân Điện sẽ làm cọng rơm di chuyển. Cọng rơm bị đẩy hay hút, mạnh hay yếu tùy thuộc vào năng lượng của chính cơ thể người làm thí nghiệm. Nếu đổi bàn tay trái sang bàn tay mặt có thể thấy hiện tượng hút, đẩy khác nhau.

Cho đến nay, trong vũ trụ, ngoài các hành tinh vận chuyển trong không trung - các khối năng lượng đã kết tinh thành vật thể theo tốc độ vận chuyển - vẫn còn có sự luân lưu không ngừng của các luồng năng lượng, không một sinh vật nào có thể hiện hữu và trường tồn mà không có cùng đặc tính với môi trường bên ngoài: kết cấu bằng năng lượng và luôn có sự luân chuyển của năng lượng. Như mọi sinh vật khác trong vũ trụ, trong cơ thể con người cũng có những luông năng lượng luân lưu không ngừng và cơ thể con người cũng cần có sự di chuyển năng lượng để có thể ‘sống’ được trong thiên nhiên, vũ trụ.

Ngoài các chứng bệnh do vi trùng, vi khuẩn tác hại, nhiều chứng bệnh khác do sự tắc nghẽn hay lưu thông không điều hòa của luồng năng lượng trong cơ thể hoặc do sự ‘thất thoát’ năng lượng không có cơ hội bù đắp mà ra. Nguồn năng lượng lưu thông trong cơ thể dồi dào, còn có tác dụng của một hệ thống ‘miễn nhiễm’ (immunitation system) ngăn ngừa hay làm giảm bớt sự tác hại của vi trùng và các biến chứng của nó trên cơ thể con người.


I. Nhu cầu năng lượng của con người

Không phải chỉ mới gần đây con người mới khám phá ra mọi cơ thể vật chất đều có năng lượng và rất cần năng lượng (energy) để sống. Năng lượng mà cơ thể con người cần để đáp ứng nhu cầu cho cơ thể có đầy rẫy trong vũ trụ. Từ trên 6000 năm trước, kinh ‘Verda’ đã nhắc đến tia ‘prana’ trong vũ trụ và cho rằng cơ thể con người rất cần tia prana này và xem nó như thành phần cơ bản, nguồn gốc của sự sống. Các thiền sư Yoga tĩnh tọa và hít thở theo phương thức riêng để thu hút năng lượng vũ trụ (thu nhận ’ngoại khí’) nhằm quân bình năng lượng trong cơ thể, giữ gìn sức khỏe và chữa bệnh.

5000 năm trước, người Trung hoa gọi năng lượng vũ trụ này là ‘Khí’ (Qi) (một loại ‘tiên thiên khí’) trong đó hàm chứa hai lực ‘âm, dương’ vừa đối nghịch, vừa tương tác lẫn nhau và sự bất quân bình giữa hai khí âm dương này trong cơ thể làm cho cơ thể suy yếu và sinh bệnh tật. Thuyết thần bí Kablalah của Do thái tin rằng Năng lượng vũ trụ là ánh sáng của tinh tú trong vũ trụ bao la và Kinh Cựu ước cũng có đề cập đến vùng ánh sáng bao bọc quanh cơ thể con người. Trường phái Phythagore cảm nhận Năng lượng vũ trụ dưới dạng vật thể sáng và tin rằng loại thể sáng này tạo ra các tác động khác nhau với cơ thể kể cả việc chữa trị bệnh hoạn.

Vào đầu thế kỷ 12, hai nhà bác học Boirac và Liebault phát giác ra cơ thể con người có một năng lượng có thể gây tác động với các cơ thể khác từ xa và làm cho cơ thể khác lành bệnh hay bị ốm đau. Ở đầu thế kỷ 19, nhà toán học Helmont lại hình dung năng lượng vũ trụ như một dòng chảy ‘chất lỏng vũ trụ’ lan tỏa một cách tự nhiên, là một thứ ‘sinh linh thuần khiết’ có thể thâm nhập vào mọi cơ thể và đương nhiên cơ thể sinh vật cũng có thể ‘thu nạp’ chất lỏng vũ trụ này.

Từ đầu thế kỷ 20, nhiều khám phá mới về năng lượng con người cũng như nhu cầu của cơ thể con người đối với năng lượng vũ trụ. Giữa thập niên 1900, hai bác sỹ George de la Warr và Ruth Drown chế tạo một dụng cụ phát điện bức xạ từ các mô sống, khởi đầu ngành nghiên cứu về bức xạ học nhằm phát triển hệ thống dò tìm, chẩn đoán và chữa trị từ xa bằng cách sử dụng năng lượng sinh học của con người.

Năm 1911, Bác sĩ Willam Kirlian chế tạo máy ảnh với kính lọc màu cobal có thể chụp được các tầng năng lượng bao quanh cơ thể conngười. Khám phá của Kirlian cho thấy lớp ‘hào quang’ này khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, sức khỏe và tâm tình. Bệnh tật cũng biểu lộ qua các tầng hào quang này. Viện nghiên cứu nguyên tử lực Shanghai của Viện hàn lâm Trung Hoa và gần đây, bác sĩ Zheng Rongliang của Đại học Tổng hợp Lanzhou đã dùng máy dò sinh học đo được trường sinh lực của con người và cho thấy các vị thầy dạy Khí công phát ra một trường sinh lực dưới dạng sóng có tần số rất thấp và năng lượng ‘khí’ phát ra dưới dạng một dòng chảy vi hạt với đường kính khoảng 60micron và vận tốc từ 2,4m đến 7m một giây.

Gần đây, Viện Nghiên cứu thông tin sinh học A.S. Popov của Nga đo được tần số rung động của năng lượng phát ra từ các sinh vật thay đổi từ 300 đến 2000namonet và đặt tên cho năng lượng này là ‘bioplasma’. Riêng những người có khả năng truyền biolasma cho người khác tích tụ số lượng bioplasma lớn hơn người thường rất nhiều.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Năm 1988, Bác sĩ Valerie Hunt cùng các cộng sự viên đã ghi nhận được màu sắc và tần số rung động tại các ‘Luân xa’ (giao điểm sinh lực) của con người (xem chương Luân xa) như sau:

Luân xa

Màu sắc

Tần số rung động

Luân xa 1:
Đỏ
1.000- 1.200 Hz

Luân xa 2:
Cam
950- 1.050 Hz

Luân xa 3:
Vàng
500- 700 Hz

Luân xa 4:
Lục
250- 475 Hz

Luân xa 5 :
Lam (xanh)
250- 275 Hz


Luân xa 6:
Tím
1.000- 2.200 Hz

Luân xa 7:
Trắng
1.100- 2.000 Hz

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Một số nhà nghiên cứu về ngành y học cổ truyền (alternative or complementary medicines) trong hậu bán thế kỷ 20, nhất là trong thập niên 90 đã đóng góp khá nhiều công sức trong việc tìm hiểu, thực nghiệm và chữa (heal) lành khá nhiều chứng bệnh bằng năng lượng vũ trụ và con người (Nhân Điện) mà Tây Y không giải quyết được. Trong ‘trường sinh học’ (bioenergy field), người ta nhắc đến loại trường nănglượng biopasma hay trường năng lượng điện từ (magnetic ernergy field) dùng trong việc chữa bệnh là thứ ‘medecine energy’ một loại ‘thuốc năng lượng’.

Các dụng cụ khoa học tối tân gần đây có thể đo được nhu cầu năng lượng vũ trụ của con người nhưng chưa phổ quát đến mọi người để ai ai cũng chấp nhận một cách dễ dàng. Trước khi các loại máy đo tối tân này được sử dụng rộng rãi, trước khi ai cũng có điều kiện thấy được tận mắt các kết quả đo lường bằng dụng cụ khoa học, ta có thể trắc nghiệm nhu cầu và sự hiện hữu của năng lượng con người bằng cách quan sát. Những học viên Nhân Điện hoặc người từng được chữa trị bằng Nhân Điện thấy rõ hơn ai hết nhu cầu năng lượng của cơ thể và kết quả của việc khai thông các bế tắc của luồng năng lượng khi chữa các chứng mất ngủ, vết sưng, bầm, kể cả cầm máu, phỏng, v.v…


Một số nhà nghiên cứu người Mỹ như Babarra Ann Brennaon, James Redfield, Caroline Myss,v.v… gần đây đã khẳng định là nhờ tập luyện một giác quan linh mẫn, họ có thể nhìn thấy được sự di chuyển của tầng năng lượng bao quanh cơ thể con người cũng như nhìn thấy được qua tầng năng lượng đó bộ phận nào trên cơ thể bị bệnh. James Redfield trong quyển ‘The Celestine Prophecy’ quyển sách bán chạy kỷ lục trong cuối thế kỷ 20, cho rằng với thiền tịnh (meditation), người ta có thể thấy được một tầng năng lượng màu trắng đục bao phủ cây cối và nếu dùng năng lượng con người truyền vào hoa màu, hoa màu sẽ tươi tốt và cho năng suất cao hơn.

James Refield còn cho rằng khi tập trung tinh thần để thu hút năng lượng vũ trụ vào cơ thể, người ta có thể quan sát tầng năng lượng bao quanh cơ thể con người và còn thấy được tầng năng lượng này di chuyển theo tình cảm chính người đó. Khi quan sát hai người đối thoại hay tranh chấp nhau, James Refield còn cho biết có thể thấy được năng lượng của người này chạy sang người khác. Người mất năng lượng có thể do bị người kia ‘cướp’ (robe) mất hoặc do tự nguyện cho người kia. Việc bị cướp năng lượng hay tự nguyện hiến tặng năng lượng cho người khác phát sinh từ vô thức nhưng người bị mất năng lượng cảm thấy mệt mỏi, ủ rũ sau khi tiếp xúc và người ‘lấy’ thêm được năng lượng thì cảm thấy thỏa mãn và thoải mái hơn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trong quyển Anotomy of Spirits - the Seven Stages of Power and Healing (1996), tiến sĩ Caroline Myss đã nhờ vào giác quan linh mẫn của mình qua sự luyện tập và thiền tịnh đã có thể nhìn thấy được màu sắc của tầng năng lượng bao phủ cơ thể con người cũng như màu sắc của tầng năng lượng tại các trung tâm giao điểm sinh lực (Chakras) và đoán được nguyên nhân gây ra bệnh. Caroline Myss cho rằng thay đổi môi trường hay thói quen từng làm mất năng lực hay sức lực của người bệnh trong nhiều ngày tháng đồng thời tiếp trợ năng lực cho vùng giao điểm sinh lực bị thiếu có thể chữa lành được bệnh.

Tiến sĩ Babarra Ann Brennaon, một nhà vật lý học người Mỹ từng phục vụ trong cơ quan Ngiên cứu Không gian của Hoa Kỳ (NASA) nhờ thiên bẩm và những tao ngộ đặc biệt đã nghiên cứu sâu xa về năng lượng con người cũng như thực hành nhiều chứng bệnh bất trị theo Tây y.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Trong quyển sách nổi tiếng Hands of Light (1989), Babarra Ann Brennaon xác nhận bà có thể nhìn thấy tầng năng lượng nhiều màu sắc bao phủ cơ thể con người và các màu sắc này thay đổi tùy theo cá nhân, tùy theo cảm xúc và bệnh hoạn của cá nhân đó. Dựa vào màu sắc của tầng năng lượng này, Babarra Ann Brennaon đã tìm cách định được nguyên nhân của căn bệnh và chữa trị bằng cách truyền năng lượng vào người bệnh (thao tác lên trường năng lượng) để giúp khai thông các tắc nghẽn khiến năng lượng lưu thông điều hòa. Bà Brennan mở một trung tâm nghiên cứu và chữa trị bằng năng lượng cũng đã có nhiều học viênMỹ và Âu Châu theo học các khóa huấn luyện để chữa bệnh bằng năng lượng phát ra từ bàn tay.

Tuy nhiên khi khám phá ra phương cách đào luyện giác quan linh mẫn nhìn được tầng năng lượng bao phủ con người, Babarra Ann Brennaon, Caroline Myss đã không đi xa hơn để sáng chế các máy móc chứng minh sự hiện hữu của tầng năng lượng mà chỉ đem những khám phá của mình viết sách, tổ chức hội thảo hoặc định bệnh và chữa bệnh cho những ai tuyệt vọng với Tây y. Thành quả mà họ đạt được trong việc dùng năng lượng con người để chữa bệnh không thể phủ nhận hay cho rằng các kết quả đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Trong vũ trụ năng lượng vận chuyển không ngừng. Quả địa cầu, một phần tử của vũ trụ, kết tinh từ năng lượng và năng lượng vẫn tiếp tục luân lưu trong lòng và trên mặt quả địa cầu. Sinh vật, con người không thể tồn tại trên quả địa cầu, trong vũ trụ nếu không có cùng bản chất với vũ trụ tức là không có luồng năng lượng luân lưu trong cơ thể. Triết lý Đông phương gọi nguyên lý này là Vạn Vật Đồng Nhất Thể.

Mặc dù có người có những khả năng thiên phú này có thể đi xa hơn những khoa học gia, những nhà vật lý, sinh học khác là sau khi khám phá ra trường năng lượng con người - thực tế chỉ là xác định một hiện tượng có sẵn- đã có thể căn cứ vào đó để chữa trị cho một số người. Họ cũng đã đào tạo một ít môn sinh nhưng không thể trong thời gian ngắn đào tạo cho nhiều người khác - những người không có những tao ngộ đặc biệt, khả năng thiên bẩm và sự kiên tâm rèn luyện như họ- một khả năng chữa bệnh gần bằng họ.

Nguyên nhân của việc chữa bệnh bằng khí, bằng năng lượng bị chìm vào quá khứ trong những thế kỷ qua vì ‘thuốc năng lượng’ (nói theo từ ngữ của Caroline Myss) quá khó tìm. Nhân Điện xuất hiện trong hơn một thập niên qua là đáp án cho vấn nạn khan hiếm ‘thuốc năng lượng’ này.

Các hành giả Nhân Điện trong suốt thập niên qua đã chữa giúp lành hàng triệu người ở hầu hết các quốc gia trên thế giới mang những chứng bệnh kéo dài trong nhiều năm tháng mà các phương cách chữa trị khác không mang đến kết quả. Hầu hết những ai học Nhân Điện đều có khả năng để chữa bệnh, đều biết cách thu hút năng lượng vũ trụ qua khai mở Luân xa và thiền tịnh để bồi bổ năng lượng cho cơ thể, chữa bệnh cho chính mình và có thể truyền sang cho người bệnh để thăng bằng năng lượng và làm cho luồng năng lượng trong cơ thể người bệnh lưu thông, điều hòa. Người bệnh hết được bệnh nhờ năng lượng được tăng cường và lưu thông điều hòa là một minh chứng rõ rệt cho nhu cầu năng lượng của con người.

Ưu điểm của Nhân Điện là ngoài việc chữa trị hiệu quả, có thể học được một cách dễ dàng mà không đòi hỏi người học phải có một năng khiếu đặc biệt nào ngoại trừ một tấm lòng từ ái, thương người. Ngành Nhân Điện nhờ đặc tính dễ học và thực hành hiệu quả hi vọng sẽ là một ngành y học bổ khuyết cho các phương thức chữa trị khác, giúp con người giảm bớt đau khổ và bệnh hoạn trong kiếp người.



Nguồn: Facebook Khai Sáng





Bí mật về Nhận Thức, Tiềm Thức, và Siêu Thức


by

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

on Tuesday, November 23, 2010 at 10:27am ·




Nhận thức, tiềm thức và siêu thức. Thật là lộn xộn? không như vậy cho tới khi bạn đọc xong bài viết này. Tâm trí bạn có sức mạnh lớn hơn rất nhiều so với những gì bạn nghĩ.

“Ngay khi bạn quyết định, cả vũ trụ sẽ hiệp lực giúp bạn” - Ralph Waldo Emerson.

Điều mà tôi muốn chia sẻ với bạn ở đây không phải là cái gì đó siêu hình hay môt học thuyết mới. Đó là những gì mà Napoleon Hill đã từng nhấn mạnh “Nó là phần quan trọng nhất trong toàn bộ học thuyết về sự thành công”.

Vậy chúng ta có bao nhiêu tâm trí?

Nói một cách ngữ nghĩa, mỗi chúng ta chỉ có một tâm trí. Nhưng nó gồm có 3 phần: nhận thức, tiềm thức và siêu thức. Hai cái đầu nằm bên trong chúng ta nhưng siêu thức thì không. Nó là loại tâm trí nằm bên ngoài

Sức mạnh của nhận thức

Nhận thức là phần duy nhất của tâm trí thực hiện việc suy nghĩ. Đó là lý do tại sao hầu hết mọi người đều sử dụng nhận thức để giải quyết vấn đề và đạt được mục tiêu. Tuy nhiên sức mạnh của nhận thức lại là hữu hạn, trong sự so sánh với tiềm thức và siêu thức.Sức mạnh quan trọng nhất của nhận thức là sức mạnh của sự quyết định. Nó có sức mạnh để quyết định loại thông tin gì sẽ đi vào tiềm thức, nhưng hầu như mọi người không sử dụng sức mạnh này. Họ để rác rưởi đi vào tiềm thức, và theo cách đó những điều vô nghĩa đi vào, đi ra.

Nhận thức của bạn còn có sức mạnh trong việc lập trình lại tiềm thức, chủ yếu là thông qua sự lặp lại(repetition). Lấy ví dụ như khi bạn học lái ô tô. Bạn sẽ phải nghĩ một cách có ý thức rằng điều khiển từng bước như thế nào, sang số ra sao. Nhưng giờ bạn không còn phải ý thức về những hành động này nữa. Chúng trở nên tự động và như vậy bạn đã thực hiện điều đó một cách tiềm thức. Thông qua sự lặp lại bạn đã lập trình cho tiềm thức của mình. Ngay khi nó nằm trong tiềm thức của bạn, nó trở nên tự động.

Khi mà điều đó đúng với việc lái ô tô, thì nó cũng đúng với việc đạt được thành công trong cuộc sống.

Sức mạnh của tiềm thức

Tiềm thức đóng rất nhiều vai trò trong cuộc sống của bạn. Như những gì tôi biết, chúng ta có thể phân loại chức năng của tiềm thức thành 5 loại.

1. . Nó duy trì và cân bằng trạng thái khỏe mạnh của cơ thể bạn. Đó là lý do tại sao cơ thể của chúng ta có thể tự chữa lành. Nó có sức mạnh chữa lành mọi bệnh tật mà bạn có thể nghĩ tới. Đó là nền tảng của tất cả những cái được gọi là liệu pháp tâm lý.

2. Nó bảo vệ chúng ta và đôi khi là những người mà chúng ta yêu quí khỏi tình trạng khẩn cấp hoặc nguy hiểm

3. Nó là một kho lưu trữ hàng triệu ký ức. Nó cất giữ tất cả những trải nghiệm trong quá khứ.

4. Nó giống như một thanh nam châm. Nó có sức mạnh để lôi kéo những thứ cộng hưởng với niềm tin của nó.

5. Nó giống như một chiếc radar. Nó gửi và nhận thông tin đế và đi từ siêu thức. Đây là chức năng mà chúng ta sẽ bàn đến trong một bài viết khác.

Mối quan hệ giữa nhận thức, tiềm thức và siêu thức có thể hiểu một cách nôm na như thế này

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nhận thức của bạn được kết nối với tiềm thức và rồi qua đó lại được kết nối với siêu thức. Điều này đúng với tâm trí của tôi cũng như của các bạn.

Từ sơ đồ này bạn có thể thấy rằng, tất cả chúng ta đều được kết nối với cấp độ của siêu thức thông qua tiềm thức riêng lẻ của mỗi người. Nhận thức không kết nối trực tiếp với siêu thức. Chúng ta dựa trên tiềm thức để gửi thông tin đến và nhận thông tin từ siêu thức.

Vì nhận thức của bạn khắc sâu niềm khao khát, mong ước của bạn trên tiềm thức và tiềm thức lại khắc sâu nó trên siêu thức để rồi hiệp lực với nhau khiến cho điều đó xảy ra, như Ralph Waldo Emerson đã nói, “Ngay khi bạn quyết định, cả vũ trụ sẽ hiệp lực giúp bạn”

Sức mạnh của siêu thức

Napoleon Hill gọi nó là sự thông minh vô hạn (Infinite Intelligence). Các nhà khoa học gọi nó là tâm trí của vũ trụ (Universal Mind). Thuật ngữ siêu thức được Brian Tracy sử dụng khá rộng rãi và tôi thích sử dụng thuật ngữ này hơn. Gọi nó là gì thì không quan trọng, cái chính là nó có thể làm gì cho bạn. Đây là những điều mà tôi biết về siêu thức.

* Chỉ có một siêu thức duy nhất (Tâm trí của vũ trụ) cho tất cả chúng ta kết nối tới

* Nó giúp ta đưa ra những quyết định đúng đắn, vì nó có trí thông minh vô hạn. Nó có tất cả những câu trả lời bạn muốn, ngay cả lợi nhuận của ngày mai.

* Nó là nguồn của tất cả những phát minh thực. Những nhà phát minh lớn như Thomas Edison và Albert Einstein đã làm chủ được kỹ thuật tiếp nhận ý tưởng từ siêu thức. Bạn có nghĩ còn nơi nào khác để họ nhận những ý tưởng mới mẻ không?

* Nó giúp bạn đạt được những mục tiêu. Điều này sẽ được giải thích ở đoạn kế tiếp đây.

Siêu thức cũng giống như một siêu máy tính mà sắp đặt tất cả thông tin mà tất cả các máy tính con kết nối tới nó. Bằng việc nhấn mạnh mục tiêu của bạn trên tiềm thức, siêu thức sẽ hồi đáp lại một cách phù hợp. Người mà bạn cần sẽ xuất hiện trong cuộc sống của bạn, các cơ hội sẽ đến và những bài học sẽ cung cấp cho bạn sức mạnh nếu bạn cần. Mọi thứ sẽ chuyển động một cách hài hòa để giúp bạn đạt được ước nguyện. Ngay khi hiểu được sự thật về sức mạnh của siêu thức, bạn sẽ nhận ra rằng thành công không phải do may mắn.

(st)


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nguồn: Facebook Khai Sáng


Thanked by 2 Members:

#3 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 02/03/2012 - 13:30

Con Mắt Thứ 3


by

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

on Sunday, September 4, 2011 at 10:47am ·

<p>

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Giới Thiệu

Từ khi loài người xuất hiện trên quả đất, hiện tượng tâm linh và lĩnh vực ma thuật đã bắt đầu phát triển. Các nhà khảo cổ, các nhà sử học và nhân chủng học đã khám phá ra nhiều bằng chứng về sự phát minh và phát triển của ma thuật thuở loài người còn sống theo kiểu ăn lông ở lỗ. Các dấu tích về các vật dụng để thờ cúng, từ đá và xương cốt hay các hình vẽ trên các vách đá trong cách hoạt động cho thấy, sinh hoạt thời hỗn mang đó của loài người đã có những buổi lễ tôn vinh thần linh ma quỷ. Lúc bấy giờ cũng phát sinh các pháp sư, thầy phù thủy đầy uy lực và uy quyền.


Một số nhà khảo cổ và nhân chủng học cho giống người Neantherdale là văn minh nhất. Nhưng các khám phá sau đó lại cho thấy giống người Cromangnon có nhiều đặc điểm tiến hóa cao về lĩnh vực đời sống tâm linh, qua các bằng chứng cổ xưa từ các hình vẽ trên vách đá các buổi lễ thờ cúng, và các hình ảnh về ma thuật đầy màu sắc. Đặc biệt là người chết được đem chôn theo các nghi lễ đầy vẻ huyền bí.

Lý luận của một nhà nghiên cứu về nhân chủng học, dân tộc học thường cho rằng khi con người còn man dã chưa tìm ra được lửa thì mỗi khi màn đêm xuống, nỗi lo sợ đã đổ ập lên người họ, rồi khi sống trong các hang động và tìm được lửa thì những hình ảnh chập chờn ma quái lại càng khiến họ sợ sệt hơn thêm, qua những hình ảnh lạ lùng. Và ma quỷ phát sinh nhiều hơn thêm qua trí tưởng tượng họ. Về thần linh thì sấm sét, núi lửa, động đất là những nguyên nhân làm họ tin tưởng đến sức mạnh vô hình nào đó, sức mạnh của các thần linh.

Ngày nay loài người đã sống văn minh hơn nhưng vẫn còn một số vùng hoang vắng được xem như tận cùng của quả đất, nơi có vài bộ lạc còn sống cuộc đời man dã giống như thời đại đồ đá của loài người trước đây. Điều kỳ lạ là nhiều nhà thám hiểm đã len lỏi tận cùng các vùng xa xôi hẻo lánh để tiếp xúc với loài người được xem là sơ khai, họ bắt gặp được nhiều điều kỳ diệu mà các phù thủy ở đó đã thực hiện. Một thí dụ điển hình là nhóm nhà báo của Paris Match nổi tiếng của Pháp đã lặn lội tiến vào một nơi được xem là sống biệt lập với thế giới loài người tại một hoang đảo xa xôi tận Thái Bình Dương. Trên đường đi có một ký giả bị té ngã khi đi qua một con suối và bị gãy chân phải khiêng cáng. Khi đoàn ký giả này tới thì thấy một người đàn ông ngồi yên lặng, trên người chỉ một miếng da thú quấn ngang hạ bộ mà thôi. Người đàn ông ra dấu đặt người ký giả bị gãy xương nằm xuống trên một miếng da gấu, hai bên đặt hai bó đuốc bằng gỗ thông, xong ông đưa tay lên trời huơ huơ mấy cái, vừa huơ tay vừa đọc một tràng thổ ngữ kỳ lạ rồi bất ngờ chỉ vào người bị gãy xương và ra hiệu ngồi dậy.

Lạ lùng thay, người ký giả này tự nhiên không còn đau đớn nữa và đứng dậy một cách tự nhiên. Người đàn ông sau khi ra tay cứu giúp người ký giả bị nạn liền quay qua bên cạnh chỉ vào một cái thùng sắt sét rỉ ra dấu như ngầm bảo: các ông hãy đem vật này ra khỏi nơi đây! Rồi lặng lẽ đi vào một cái hang sâu đầy rêu và rễ cây che phủ. Cùng lúc đó dân trong bộ lạc đứng nhìn từ xa trên các gộp đá cũng thoăn thoắt chạy vào hang động. Đoàn ký giả quan sát kỹ cái thùng sắt thì thấy ngoài thùng có chữ mờ nhạt về dấu hiệu quân đội Đức. Có lẽ vật này từ một máy bay Đức bị lạc hướng đã rơi xuống trong thời thế chiến thứ II và dân trong bộ lạc không muốn giữ lại những gì từ thế giới đầy vật chất bên ngoài. Sự lẩn tránh của họ đã nói lên điều đó. Đoàn ký giả không tìm ra được người nào trong bộ lạc, tất cả ẩn tránh không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Các hang động đều đóng kín bởi các khối đá lớn. Các ký giả Pháp suy đoán rằng người đàn ông ngồi chờ họ là trưởng bộ lạc hoặc nhà phù thủy.

Điều kỳ lạ là không hiểu nhờ đâu mà ông ta biết được đoàn ký giả này sẽ đến và trong đoàn có người bị tai nạn gãy chân để chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết. Ngoài ra phương cách trị gãy xương như vậy rõ ràng vượt khỏi tính cách khoa học của ngành Y khoa hiện đại nhưng kết quả lại hoàn toàn thành công. Phải chăng cư dân ở đây chữa trị chỉ bằng hiện tượng siêu linh huyền bí? William Hals Rivers (1864-1992), nhà nghiên cứu nổi tiếng về văn minh của các bộ tộc hoàng gia, đặc biệt là các vùng hoang đảo thuộc các Châu Đại Dương đã cho rằng nhiều nơi tuy cư dân thưa thớt, man dã nhưng đời sống tâm linh lại rất cao.

Theo Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương (1989) thì có những thổ dân chữa bệnh không cần thuốc như tại Phi Luật Tân, nhiều nhà phẫu thuật đã dùng loại năng lực thuộc lãnh vực tâm linh để giải quyết thành công các ca phẫu thuật, có người cho rằng họ là con cháu của những người thuộc bộ lạc Kahyna đã mai một. Có lẽ thiên nhiên quá gần gũi với họ đã hòa tâm hồn vào vũ trụ cùng với biển cả bao la, lại không bị vật chất ràng buộc nên trí óc họ sáng và dễ thu nhận những sự kiện huyền diệu thuộc lãnh vực tâm linh chan hòa trong vũ trụ tự nhiên. Theo Rives thì nhiều bộ tộc có lắm người truyền cho nhau tư tưởng qua không gian như hiện tượng telepathic (thần giao cách cảm). Phải chăng điều nhận xét của nhà nghiên cứu lỗi lạc Rivers đã chứng minh rõ ràng qua chuyến thám hiểm của đoàn ký giả Pháp vừa kể trên.

Năng lượng tinh thần


Những nhà khoa học tiên phong xâm nhập thế giới huyền bí để nghiên cứu tìm hiểu xem năng lượng tinh thần là phần quan trọng trong vấn đề nghiên cứu hiện tượng siêu hình. Theo họ não bộ người là một cái bình Ác-quy siêu đẳng và huyền bí rất nhiều. Bộ não người phát sóng và thu sóng, phát điện và thu điện trong tự nhiên vũ trụ. Tuy nhiên sự vận hành, thu phát, chuyển biến còn tùy ở cơ thể người mang bộ não. Dưới mắt nhà khoa học họ không chỉ tập chú vào các vị Lạt ma, các nhà tu hành nơi các hang động thâm sâu hay trong các đạo viên khuất sau rặng tuyết sơn mà nghiên cứu toàn thể bộ não người. Lý do là những con người không trải qua quá trình tu luyện nào cả nhưng vẫn có được một năng lượng tinh thần rất lớn, họ có thể nhìn xuyên qua vách tường, xuyên qua sắt thép, xuyên qua khoảng cách rất xa. Có người còn dùng năng lượng tinh thần để làm cháy đồ vật hay làm cho các hạt nảy mầm, có người sử dụng năng lượng tinh thần để chữa bệnh hay chuyển di tư tưởng, tiếp nhận ý nghĩ của người khác v.v...

Nga từ lâu đã thành lập viện nghiên cứu óc não. Viện này quy tụ nhiều nhà khoa học lỗi lạc. Họ hy vọng việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám phá ra những điều mới lạ, đồng thời mở được cả cánh cửa Huyền môn để vào thế giới mà từ lâu loài người thường cho là thế giới vô cùng huyền bí. Bề ngoài thế giới chỉ biết được mục đích của việc nghiên cứu này ở Moscow là tìm hiểu sự liên hệ giữa bộ óc và thiên tài, năng khiếu của một con người như thế nào. Nhưng tàng ẩn bên trong là những nghiên cứu có liên quan đến các sự kiện vượt ra ảnh hưởng của trường vật lý của quả đất mà con người đang sống. Những sự kiện mà từ lâu con người bán tín bán nghi như ma quỷ, sự xuất hồn hay nhập hồn, sự thông linh, suy đoán tương lai, sự đọc, hiểu tư tưởng kẻ khác hay nghe, thấy từ khoảng cách rất xa theo kiểu thiên lý nhĩ, thiên lý nhãn...

Hoa Kỳ cũng không bỏ qua lãnh vực nghiên cứu vừa kể. Viện nghiên cứu óc não của họ được trang bị đầy đủ các loại máy móc tối tân với vô số các nhà bác học lỗi lạc tập trung nghiên cứu. Nơi đây các bộ não được lưu trữ không những là của các danh nhân thế giới sau khi qua đời mà còn là của những con người bình thường nhưng có khả năng kỳ diệu về thấu thị, về chuyển di tư tưởng, chữa bệnh qua khoảng cách, nhìn xuyên suốt không gian v.v... Ví dụ như bộ não của Edgar Cayce người Hoa Kỳ, ông chỉ là một người bình thường như bao người khác nhưng vào năm 35 tuổi ông tự nhiên thấy rõ được quá khứ xa xăm của những người bị bệnh ngồi hay nằm trước mặt ông và khi đó ông đi vào giấc ngủ thôi miên.

Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời nên ngỏ ý tặng viện nghiên cứu óc não bộ óc của mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng, nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí. Mới đây, các nhà khoa học còn tìm thấy một cơ phận kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh: đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài.

Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng của bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi. Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng mã phát mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của viện nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết.

Nhiều người bình thường như bao người khác, họ không phải là các đại sư đã hằng bao năm khổ hạnh tu luyện trong các hang động, rừng sâu núi thẳm hay các phù thủy lừng danh nhưng đôi khi lại có năng lực kỳ diệu phát sinh từ bộ não.

Tâm linh huyền bí nơi xứ đỉnh trời


Từ xưa đến nay có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và tài tử về hiện tượng siêu hình, đã đi sâu vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự kiện huyền bí, để chứng kiến tận mắt những hiện tượng lạ lùng không thể giải thích được. Thời ấy các nhà khoa học và dân tộc nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold... đặc biệt là một người đàn bà, một nữ văn sỉ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của đỉnh trời là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận chỗ những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong hang động, nơi mà Trời và Đất gần như hòa nhau thành một.

Điểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận thức, bộ não luôn luôn được trong sáng nên họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là biểu lộ bằng lời nói hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người khác đang dự tính trong đầu. Ngoài ra những vị này còn có khả năng kỳ diệu là phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng tốt hay xấu mà người đó đang dự định.

Năng lực của con mắt thứ ba: Thần nhãn hay Huệ nhãn?


Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng kẻ khác cũng như thấy rõ và phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự kiện có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng. Lý do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ này thì thời xưa ấy, người Tây Tạng ai cũng có một nhãn lực đặc biệt, nhãn lực này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con mắt thứ ba này mà người xưa gọi là Thần nhãn hay nói theo kinh điển là Huệ nhãn. Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong sạch, sáng suốt. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ ba trở thành u tối không còn sử dụng được nữa.

Các nhà nghiên cứu về Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích con mắt thứ ba. Khi khảo sát bộ xương của loài khủng long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ý tới một chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã đoán nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là con mắt thứ ba.

Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các loài động vật thời cổ không những thấy mà còn biết thêm hay cảm nhận trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió nhất là các vật thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu. Những khám phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà khoa học đã cho biết là trong não người có một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tố đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện với tất cả thành tâm hay vào các giai đoạn con người ở tình trạng nguy biến, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến Tùng quả (Pineal gland).

Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc bình thường không có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal gland còn có liên quan tới bộ phận mà người Tây Tạng gọi là con mắt thứ ba.

Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì mới có được Huệ nhãn. Chính phần lớn các vị Đại sư Tây Tạng, những người ẩn cư nơi vùng núi cao tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm là có thể có năng lượng thượng thừa ấy mà thôi. Tuy nhiên theo các vị đại sư thì không phải tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần nhãn hay Huệ nhãn như ta tưởng, vì muốn có được Thần nhãn thì người đó phải hội đủ các điểm cần yếu như đã nói trên mà còn phải có Thần lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được. Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ nhãn. Một khi đã có Huệ nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.

Tại Tây Tạng, nơi nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa hai người này sẽ ở vị trí xa hơn. Cứ thế mà về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ đạo viện này đến đạo viện khác, từ hang động này đến hang động khác... Theo bà Alexandra David Neel thì nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ im lìm hoang vắng nhưng lại là nơi các nguồn tư tưởng của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi.

Các cường quốc đang nghiên cứu về con mắt thứ 3


Nga, Trung Quốc, Mông Cổ và Hoa Kỳ cùng Anh đều đã và đang nỗ lực nghiên cứu, thí nghiệm về năng lực chuyển di tư tưởng dựa vào những kết quả nghiên cứu về năng lực lạ lùng của các vị Lạt Ma và Đại sư Tây Tạng. Năm 1959, hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện một cuộc thí nghiệm bí mật về chuyển di tư tưởng (thí nghiệm kéo dài trong 5 ngày- từ 22 tháng 6 năm 1959 đến 26 tháng 6 năm 1959). Hai nhân vật có khả năng về chuyển di tư tưởng được bí mật chở tới hai nơi thí nghiệm. Một người tới địa điểm X còn người kia vào trong chiếc tàu ngầm Nautilus xuống sâu 2 nghìn cây số ở vị trí Y. Từ hai vị trí xa nhau ấy, hai nhân vật vừa kể lần lượt tập trung tư tưởng nhìn vào những con bài khác biệt rồi đưa tư tưởng có các hình ảnh qua không gian hướng về người kia. Thứ tự về các con bài, giờ giấc và số lần thực nghiệm chuyển di tư tưởng của người thí nghiệm ở X và Y đều được ghi chép lại cẩn thận. Kết quả so sánh đối chiếu cho thấy độ tiếp nhận đạt chính xác đến 92%.

Hoa Kỳ và Nga đã cùng nhau hợp tác thí nghiệm hiện tượng tương tự nhưng dưới hình thức hơi khác. Bác sĩ người Nga tên là Dzhuma Davitashvili và bác sĩ Hoa Kỳ là Keith Harry được bí mật đưa đến hai điểm cách xa nhau trên đất Hoa Kỳ (thuộc San Francisco), vậy mà họ vẫn mô tả được hình ảnh vị trí của nhau rất rõ ràng. Trong các năm từ 1976 đến 1979 nhiều cuộc thí nghiệm về lãnh vực này cũng đã được thực hiện tại tiểu bang Chicago (Hoa Kỳ). Tại Liên Xô vào năm 1967, báo Sự thật đã đưa tin rằng: cuộc thực nghiệm chuyển di tư tưởng giữa hai nhà thí nghiệm ở hai vị trí cách xa nhau: Leningrad và moscow đã đạt kết quả thành công.

Người Âu, Mỹ gọi hiện tượng kỳ diệu này nằm trong lãnh vực Telepathic hay Thần giao cách cảm và hiện tượng được gọi là Clairvoyance (nhìn xuyên suốt qua mọi vật) hay hiện tượng ý thức lan rộng bành trướng trong không gian, điều mà các nhà quân sự hiện nay đang lưu tâm nghiên cứu và ước vọng trong tương lai sẽ nhờ đó mà thăm dò tìm hiểu rõ ràng các căn cứ bí mật quân sự của đối phương hay biết được các âm mưu, kế hoạch của địch... Hiện nay, các trường Đại học ở Hoa Kỳ, cùng với các bệnh viện, các phòng thí nghiệm quân sự và các viện nghiên cứu đang tập trung nghiên cứu các hiện tượng này.

Một số lớn các nhà nghiên cứu Tây Âu đã chú tâm tìm hiểu về nguyên gốc phát sinh những khả năng đặc biệt đó, nguồn gốc phát sinh theo nhận thức của họ là Con mắt thứ 3 hay Huệ nhãn. Trong các tư liệu viết về Chakras là các trung tâm tích tụ năng lực con người thì có trung tâm Ajna được xem là một trong các trung tâm quan trọng nơi phần đầu của cơ thể, con đường trung tâm Ajna nằm giữa hai chân mày.

Một số tư liệu liên quan đến con mắt thứ 3

Sự kiện liên quan đến Huệ nhãn hay con mắt thứ 3 đã có một số tư liệu tại Việt Nam nói đến từ lâu như trong các kinh điển Phật giáo, trong các báo phát hành khoảng năm 1950 tới 1960 như báo Đại Chúng và các báo liên quan đến khoa học huyền bí. Thí dụ như phần nói về nghệ thuật chuyển di tư tưởng là một trong các bộ môn huyền thuật ở Tây Tạng. Theo khoa này thì người thực tập cần phải tự mình huấn luyện làm sao để có khả năng tập trung cao để có thể%2

Thanked by 2 Members:

#4 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 07/03/2012 - 01:10

Một số tư liệu liên quan đến con mắt thứ 3 (tiếp)


Sự kiện liên quan đến Huệ nhãn hay con mắt thứ 3 đã có một số tư liệu tại Việt Nam nói đến từ lâu như trong các kinh điển Phật giáo, trong các báo phát hành khoảng năm 1950 tới 1960 như báo Đại Chúng và các báo liên quan đến khoa học huyền bí. Thí dụ như phần nói về nghệ thuật chuyển di tư tưởng là một trong các bộ môn huyền thuật ở Tây Tạng. Theo khoa này thì người thực tập cần phải tự mình huấn luyện làm sao để có khả năng tập trung cao để có thể phát ra những luồng tư tưởng. Phải giữ cho đầu óc minh mẫn và mẫn cảm để dễ dàng tiếp thu luồng tư tưởng của người khác.

Nếu tìm hiểu hiện tượng này qua lãnh vực khoa học thì tư tưởng con người là những làn sóng thuộc về tâm thức. Một khi tư tưởng được tập trung thì cường độ của sóng này sẽ được gia tăng mạnh mẽ, làn sóng nhờ đó mà lan rộng hơn và rung động theo tần số nào đó. Khi hai người trao đổi, truyền đi luồng tư tưởng cho nhau thì đồng thời họ sẽ trì tụng thần chú để tạo những âm thanh rung động, nhờ đó mà phát sinh được những chu kỳ rung động của tư tưởng và các tần số sẽ dễ dàng bắt được khiến họ nhận rõ tư tưởng của nhau. Như vậy, nguyên tắc và sự vận hành cũng giống như sự phát sóng của đài phát thanh và sự bắt được làn sóng của những cái radio.

Cũng từ sự kiện này mà có thể suy đoán thêm rằng: cuộc sống ở chốn thị thành huyên náo dễ làm cho con người mắc bệnh tâm thần bởi lý do chính là tại nơi đây đã tập trung vô số nguồn tư tưởng hỗn tạp, tạo nên những âm ba lộn xộn ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng, trí óc mỗi người khiến họ không còn khả năng điều khiển nổi tư tưởng của mình nữa, tâm trí bị phá hoại, hao tán nên tinh thần không được minh mẫn dễ rơi vào những tình huống xấu xa, tội lỗi kéo theo sự suy nhược thần kinh và cơ thể sẽ bị nhiều thứ bệnh hoành hành phổ biến nhất là loại bệnh tâm thần... Cũng theo tư liệu này thì khi tập trung tư tưởng con người dễ dàng tiếp nhận được các làn sóng rung động khác. Đây là một quyền năng còn thâm sâu vi diệu hơn nữa trong lĩnh vực chuyển di tư tưởng hay tiếp nhận tư tưởng của kẻ khác. Có nghĩa là sẽ nhận được nhiều tư tưởng trên khắp các tần số, băng tần...

Vấn đề tập trung tư tưởng có khả năng siêu việt nữa là làm phát sinh một năng lượng tinh thần rất lớn lao, sự kiện này ngày nay tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga đang chú tâm nghiên cứu sau khi mỗi quốc gia này đều có một số người đạt khả năng kỳ diệu ấy. Việc tập trung tư tưởng mạnh sẽ làm cho các nguyên tử tập trung lại tạo nên hình ảnh mà người đó đã nghĩ đến. Đó là nguyên lý của sự kiện gọi là Hình tư tưởng. Sự biến mất các hình thể nào đó thì theo nguyên tắc ngược lại: đó là tập trung tư tưởng để làm cho các nguyên tử phân tán mỏng ra. Về mặt sinh lý cơ thể thì khi tập trung chăm chú quá độ, con người thường cảm thấy mỏi mệt và đôi khi cảm thấy đầu óc nóng lên. Đó cũng là một trong những giải thích về sự tập trung tư tưởng là tập trung năng lượng vậy.

Theo YK (Tổng hợp từ báo nước ngoài)

Nguồn: FB Khai Sáng

Sửa bởi hoahoanglan18: 07/03/2012 - 01:10


Thanked by 2 Members:

#5 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 07/03/2012 - 01:14

Sự thật về linh hồn

Trích ghi từ con đường thiền định và những hiện tượng thiền định

Trên càn khôn vũ trụ này, mỗi chúng ta chỉ là một sinh vật nhỏ bé, ở bất cứ thời điểm nào, hoàn cảnh nào, mỗi chúng ta như đang tìm kiếm cho mình sức khỏe, sự thịnh vượng, sự hòa ái, trí tuệ và trên hết là một cuộc sống hoàn tòan an lạc, khỏe mạnh. Mỗi chúng ta phải phấn đấu hết sức vất vả để tìm ra những điều đó nhưng liệu những điều đó có đạt được hay không? Vâng, những điều đó hòan toàn có thể tìm được nếu như chúng ta hiểu thanh điển vũ trụ (Năng lượng Vũ trụ thanh khiết) và tìm ra được chính bản thân mình.

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu về thanh điển vũ trụ. Thanh điển vũ trụ tồn tại khắp nơi trên vũ trụ, thanh điển vũ trụ là sự gắn kết giữa các dãi ngân hà, các hành tinh, con người và các nguyên tử. Thanh điển vũ trụ là khoảng không giữa mỗi vật và mọi vật. Sự gắn kết này để giữ toàn thể vũ trụ hoạt động theo cách quỹ đạo trật tự. Thanh điển vũ trụ là nguồn năng lượng của sự sống. Thanh điển vũ trụ cung cấp năng lượng cho tất cả các chức năng cơ thể hoạt động. Thanh điển vũ trụ là động năng thiết yếu duy trì trật tự sự sống, và giúp nâng cao trí tuệ của linh hồn.

Khi tâm thức hoàn toàn yên tĩnh và trong những giấc ngủ thật sâu thì ta có thể nhận một ít năng lượng, chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này cho các hoạt động của trí óc như nhìn, nghe, nói, suy nghĩ và tất cả các hoạt động khác của cơ thể. Nguồn năng lượng ít ỏi thu được trong giấc ngủ ngon này không đủ để trang trải cho các hoạt động đó. Đó là lí do tại sao chúng ta cảm thấy uể ỏi, mệt mỏi, căng thẳng và gần như kiệt sức. Điều này dẫn đến tất cả các bệnh tật về tinh thần cũng như thể xác. Cách duy nhất để vượt qua khổ ải này là làm sao thu được nhiều thanh điển. Thanh điển vũ trụ là yếu tố thiết yếu duy trì trật tự sự sống của chúng ta, làm cho cơ thể của chúng ta khỏe mạnh, đời sống thân tâm an lạc, giúp cho mọi người có thể xuyên qua hoàn cảnh khó khăn đang đối mặt, và sau cùng giúp mở rộng trí tuệ sáng suốt của mỗi phần hồn.

Cách duy nhất để thu hút được nhiều thanh điển là thực hành thiền định.

Ghi chú: Thanh điển tức Năng lượng Vũ trụ.
Thể vía thu hút năng lượng của vũ trụ (thanh điển) để cho xác thân sử dụng. Năng lượng này được biến thành sinh khí (Prana) nuôi sống vạn vật. Sinh khí này chạy dọc theo dây thần kinh liên kết các thể như một chiếc cầu tâm thức.

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#6 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 07/03/2012 - 01:16

Sự thật về linh hồn (tiếp)

Trích ghi từ con đường thiền định và những hiện tượng thiền định


Ngủ là một trạng thái thiền vô thức, do đó nhận được rất ít năng lượng. Trong khi hành thiền, hành giả sẽ nhận được một khối lượng rất lớn thanh điển, nguồn thanh điển này giúp tăng cường sức khỏe về thể chất, tinh thần và trí tuệ. Giúp khai mở giác quan thứ sáu và còn nhiều hơn nữa. Do được hấp thu năng lượng càng ngày càng nhiều trong suốt quá trình thiền định, hành giả sẽ khỏe mạnh và thanh tịnh, có thể xây dựng được một Xá Vệ quốc.
Thiền định không phải là cái gì cao sâu ngoài một chuyến du hành của hành giả để tự tìm hiểu chính mình. Trong suốt quá trình hành thiền hành giả sẽ du hành để tìm hiểu từ thể xác đến kí ức, từ kí ức đến trí tuệ, và từ trí tuệ đến chân tâm của chính mình và cao hơn thế nữa.
Để hành thiền trước tiên chúng ta phải ngưng tất cả các hoạt động có liên quan đến xác thân và tinh thần đó là nhìn, nói, suy nghĩ và tất cả các hành động khác.
Bây giờ chúng ta tìm hiểu xem làm thế nào để thiền định. Đối với thiền định, điều đầu tiên là tư thế của bạn. Bạn có thể ngồi bất cứ tư thế nào, nhưng tư thế ngồi phải rất thoải mái và vững chắc. Chúng ta có thể ngồi thiền trên ghế hoặc trên sàn, chúng ta có thể thiền bất cứ nơi nào cảm thấy thật thoải mái. Ngồi phaỉ thoải mái, xếp bằng lại, bắt ấn tam muội, bây giờ hãy nhắm mắt lại, ngưng nói huyên thiêng bên ngoài hoặc bên trong, không cầu xin, chỉ thả lỏng, hoàn toàn thả lỏng, chỉ thả lỏng.
Khi chúng ta ngồi xếp bằng và bắt ấn tam muội, vòng tròn từ trường sẽ được hình thành bao quanh bản thể và hành giả sẽ được an tòan hơn. Mắt là cửa sổ của tâm vì vậy mắt phải nên nhắm lại. Cầu xin hay niệm chú thầm ở bên trong hay ngoài cũng làm cho động tâm. Do đó tất cả nên dừng lại. Khi bản thể được thả lỏng tâm thức sẽ bước sang cảnh giới kế tiếp, đó là những kí ức. Kí ức không là gì khác hơn ngoài những ý nghĩ miên man, rất nhiều vọng niệm miên man luôn đến trên bề mặt trí não. Khi vọng niệm đến, hành giả gặp được rất nhiều điều đã biết hoặc chưa hề hay biết.
Để vượt qua nghiệp tâm, hành giả phải biết quan sát hơi thở. Theo dõi hơi thở là khả năng tự nhiên của bản thân nên hành giả chỉ việc đối chiếu với hơi thở. Đừng hít thở một cách chủ động, đừng chủ động hít vào hay chủ động thở ra, để hơi thở tự nhiên ra vào, chỉ theo dõi hơi thở ra vào một cách bình thường mà thôi. Đây là chìa khóa, đây là kim chỉ nam. Đừng chạy theo những ý nghĩ miên man đó, đừng cuốn theo những vọng động đó, hãy bình tâm lấy lại quyền chủ nhân ông, trở về với hơi thở, theo dõi hơi thở một cách bình thường, chỉ có hơi thở mà thôi. Sau đó mật độ của nghiệp tâm sẽ giảm xuống, hơi thở trở nên nhẹ nhàng, mảnh hơn và ngắn hơn.
Cuối cùng hơi thở trở nên nhẹ nhất và tụ lại như tia sáng lóe lên giữa trung tâm chân mày, trong trạng thái này hành giả sẽ không còn thở và không còn vọng niệm, trạng thái tâm không. Đây còn gọi là trạng thái tĩnh tâm hay nhập định.
Trong trạng thái này, chúng ta sẽ tắm mình trong thanh điển. Thiền định càng nhiều, hành giả sẽ nhận càng nhiều thanh điển. Nguồn thanh điển này tuôn chảy khắp bản thể được bao quanh bởi từ trường. Đây được gọi là thể dĩ thái hay thể phách. Thể phách gôm tụ thành hình từ hơn 72 ngàn ống tiếp năng lượng chạy khắp cơ thể vật chất. Tất cả tiếp ống năng lượng bắt đầu từ đỉnh đầu. Vùng này được gọi là hà đầu thành. Tất cả tiếp ống năng lượng giống như cành cây và rễ cây. Thể phách là căn nguyên hoạch định kiếp sống của chúng ta, là nguồn gốc quyết định nghiệp quả sinh tồn của mỗi chúng ta.
Thể phách có thể nhận được rất ít thanh điển vũ trụ trong những giấc ngủ thật sâu và trong thiền định. Chúng ta dùng nguồn năng lượng này cho các hoạt động thể chất và tinh thần như nghe, nói, nhìn, suy nghĩ và tất cả các hoạt động thể chất khác. Sự vận hành của tất cả các cơ quan chức năng trên hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn thanh điển vũ trụ vào. Đường vào của luồn thanh điển vũ trụ phụ thuộc vào ý niệm của chúng ta. Khi tâm sanh niệm mê chấp thì đường vào của nguồn thanh điển vũ trụ bị tắt nghẽn.
Nói cách khác, vọng niệm như chướng ngại vật làm bịt kín nguồn thanh điển tràn vào. Khi nguồn thanh điển bị yếu đi, thanh điển trong các tiếp ống năng lượng bị hút ra hết. Sự thiếu hụt năng lượng này tạo ra các mãng vá từ trường trong thể phách. Những mãng vá từ trường của thể phách sẽ dần dần dẫn đến bệnh tật lên thân xác của vật chất. Nói cách khác, nguồn gốc gây ra các bệnh tật của thể xác là do thiếu hụt thanh điển.
Khi thiền định, chúng ta nhận được rất nhiều thanh điển, thanh điển sẽ tràn khắp các tiếp ống năng lượng trong thể phách của chúng ta. Bởi vì nguồn thanh điển tràn vào rất mạnh nên nó sẽ làm sạch tất cả các mãng của từ trường trên thể phách. Khi các mãng vá bị lau sạch thì tất cả các bệnh tật sẽ không còn. Khi thanh điển bắt đầu tràn xuyên qua hà đầu thành thì chúng ta cảm thấy nặng nặng ở vùng đầu hoặc khắp cơ thể.
Khi thanh điển làm sạch các đường kinh mạch hoặc một vùng nào đó thì chúng ta cảm giác ngứa ngứa hoặc đau nhức ở đó. Đôi khi chúng ta chịu đựng đau nhức ở rất nhiều phần khác nhau trong cơ thể. Tất cả những đau nhức đó sẽ biến mất nếu công phu thiền định tinh tấn. Bởi ngày càng nhận được nhiều thanh điển vũ trụ trong quá trình hành thiền nên chúng ta vượt khỏi tất cả các bệnh về thể xác và tinh thần.
Nếu chúng ta thiền trong kim tự tháp, trạng thái nhập định có thể nhanh hơn ở ngoài gấp 3 lần. Bây giờ chúng ta tìm hiểu kim tự tháp và sức mạnh kim tự tháp. Kim tự tháp là một kiến trúc vững chắc nhất trên trái đất. Kim tự tháp có thể thu được nhiều thanh điển vũ trụ. Kim tự tháp phải được xây dựng đúng tọa độ: 52 độ, 51 phút. Và bởi vì xây đúng tọa độ này nên kim tự tháp thu hút được nhiều thanh điển nhất. Kim tự tháp phải được đặt đúng tuyệt đối 4 hướng: nam, bắc, tây và đông.
Thanh điển vũ trụ tập trung nhiều nhất tại điểm 1/3 chiều cao của kim tự tháp, tính từ đáy của kim tự tháp lên đỉnh, khu vực này gọi là phòng nhà vua. Thanh điển vũ trụ sẽ đạt lượng cực đại tại phòng nhà vua và lan tỏa khắp kim tự tháp. Một viên đá pha lê đặt trên chóp đỉnh kim tự tháp sẽ nhân lên và phân chia thanh điển vũ trụ cho toàn kim tự tháp. Nếu hành thiền trong kim tự tháp, trạng thái tỉnh tâm sẽ giúp hành giả tiến nhanh hơn gấp 3 lần. Kim tự tháp có thể được sử dụng để tiếp xúc với các tầng số cao hơn. Hành thiền trong kim tự tháp giúp mau hết bịnh của xác thân và giúp đạt được những ấn chứng.
Bây giờ một lần nữa chúng ta hãy tìm hiểu xa hơn, thiền định là một cuộc du hành tìm chính mình. Để đạt được chúng ta phải vượt qua thân tâm, điều này được thể hiện ở tư thế ngồi thoải mái. Bản thể hoàn toàn thả lỏng làm cho chúng ta vượt qua sự căng thẳng của thể xác thật dể dàng. Do theo dõi hơi thở bình thường, chúng ta sẽ vượt qua vọng tâm. Khi vượt qua được thể xác và tinh thần, ngay sau đó thanh điển sẽ đổ xuống. Thanh điển vũ trụ sẽ làm sạch tất cả bệnh tật của thể xác, do đó chúng ta sẽ khỏe mạnh mà không cần dùng đến thuốc.
Càng có nhiều thanh điển càng giải được nhiều bệnh của nghiệp tâm. Khi chúng ta thiền càng nhiều thì tâm thức càng trở nên thanh tịnh, rỗng rang. Điều này làm cho năng lực trí nhớ tăng lên, trí tuệ càng nên sáng suốt, những điều đó giúp chúng ta có mối quan hệ hòa ái với mọi người. Thiền định sẽ làm tăng hạnh phúc cuộc sống gia đình, tâm thức sẽ thanh bình. Thiền định sẽ làm cho chúng ta vui khỏe.
Thiền định sẽ giúp chúng ta giải đáp tất cả những nghi vấn. Thiền định có thể thực hành bất cứ nơi nào, thiền định có thể thực hành bất cứ khi nào ngay cả khi đang đi du lịch. Trong một lần hành thiền, hành giả nên thực hành một thời gian tương đương với độ tuổi của hành giả đó. Ví dụ một hành giả 30 tuổi thì nên ngồi ít nhất 30 phút trong một lần hành thiền. Để hành thiền, bạn không cần rời xa gia đình, mọi người có thể hành thiền, trẻ em là những thiền sư giỏi nhất, chúng ta có thể bắt đầu hành thiền ở độ tuổi 5. Để thiền định bạn không cần phải đi tìm bất cứ người thầy uy tín nào. Người thầy uy tín chính là minh sư trong bạn. Hơi thở của bạn chính là người thầy trong bạn, hơi thở của bạn chính là minh sư của bạn. Thiền định dành cho tất cả mọi người.
Thiền định là một chuyến du hành của tâm thức đi tìm hiểu chính mình. Để nhập định, chúng ta phải vượt qua bệnh của xác thân và tâm. Khi đã vượt qua nghiệp tâm và thân, thì sẽ thấy được chính mình, ngay sau đó chúng ta nhận được rất nhiều thanh quang vũ trụ. Thiền định càng tinh tấn thì càng thấy được tánh vía của mình rõ hơn.
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu xem trí tuệ là gì. Thiền định sẽ dẫn chúng ta đến các lĩnh vực trí tuệ cao hơn. Trí tuệ không là gì khác hơn ngoài những kinh nghiệm đã từng nếm trải. Kinh nghiệm từng nếm trải cũng không là gì khác hơn ngoài những bài học hoàn toàn có liên quan đến chính ta. Do hành thiền tinh tấn, chúng ta sẽ nhận được những tầng số điển quang cao hơn và các tầng giới trong mỗi trạng thái cao hơn. Thông qua những hiểu biết đó, chúng ta sẽ đạt được những tư duy thông thái.
Với trí tuệ này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta không chỉ có xác thân tứ đại và phần tánh. Chúng ta hiểu ra rằng chúng ta đang tồn tại ở thế gian này một cách phi thường. Chúng ta hiểu ra rằng tất cả các bài học chúng ta mà chúng ta đã trải qua và vượt qua là nhờ trí tuệ sáng suốt hơn. Tầng số thanh điển cao hơn và sự hiểu biết cao hơn đã mở rộng kiến thức cho phần hồn. Sự mở rộng trí tuệ của phần hồn là mục đích của mỗi chiếc hồn chúng ta xuống cõi trần gian này. Trí tuệ đó chỉ có thể đạt được bằng những giác quan cao hơn như huệ nhãn và thể vía.
Huệ nhãn là công năng đầy thần thông của phần hồn. Để nhìn để cảm nhận và để nghe những tầng giới cao hơn, khả năng này còn gọi là minh nhãn thông. Thiền định càng tinh tấn, càng nhận được nhiều thanh điển. Nhiều thanh điển sẽ giúp khai mở huệ nhãn, đây là một ấn chứng tuyệt vời của hành giả. Vào thời điểm huệ nhãn được khai mở, chúng ta sẽ cảm giác ngứa ngứa hoặc nhói nhói ở vùng trán. Chúng ta thấy ngũ sắc hoặc ngũ quang xoay quanh chúng ta. Chúng ta nghe âm thanh xì xào, những âm thanh rất sống động.
Chúng ta cảm giác như đang nhào lộn trong một đường hầm tối đen. Khi thể phách nhận đủ thanh điển trong quá trình hành thiền, huệ nhãn của chúng ta sẽ được khai mở hoàn hảo. Chúng ta có thể nhìn thấy từ vùng này đến vùng khác rất sáng trong rõ rệt. Huệ nhãn hoàn thiện có thể nhìn thấy nhiều sự vật một cách rõ rệt hơn đôi mắt bình thường. Chúng ta nhìn thấy các tầng số rung động khác. Chúng ta thấy nhiều thứ mà ngũ quan không thể nào nhận ra được. Chúng ta thấu đạt được nhiều điều mà không thể nào miêu tả bằng ngôn ngữ.
Chúng ta nghe được nhiều giọng nói, nhiều âm thanh tiếng nhạc du dương ở những tầng số khác nhau trong bản thể mình. Chúng ta đảnh lễ các vị Minh Sư mình tôn kính mà không còn ở cõi trần gian bằng xác thân. Chúng ta nhìn thấy các Vị ở các hình thể xác phàm như chúng ta đã hằng nhớ trong tâm thức. Sau khi tiếp tục hành thiền nhiều thêm, chúng ta bắt đầu nhìn thấy các Vị như khối linh quang sáng chói. Dù thấy bằng khối linh quang nhưng chúng ta vẫn cảm nhận sự đồng nhất. Chúng ta có thể nghe được từng lời dạy của các Vị.
Chúng ta cảm giác như đang bay trong một đường hầm và sau cùng hợp nhất cùng khối linh quang sáng ngời. Sau khi trải qua các ấn chứng huệ nhãn, nghe được các lời giảng dạy bằng các vị Phật sự hoặc nhìn thấy được các tầng số khác, hoặc bằng tâm tâm tương ứng chúng ta sẽ nhận ra, chúng ta sẽ giải đáp được tất cả những vẫn đề phức tạp đang đối mặt. Do vậy hành động của chúng ta sẽ thay đổi, niềm tin của chúng ta sẽ thay đổi, sự hiểu biết của chúng ta sẽ thay đổi. Sau các ấn chứng huệ nhãn, chúng ta sẽ thấy sự thay đổi nhận thức của chúng ta về thế giới vật chất này.
Bây giờ chúng tôi sẽ cho bạn thấy một công năng khác của phần hồn đó là thể vía. Vía là một công năng của phần hồn chúng ta để nhận biết những tầng số rung động khác. Vía là thể tri giác, hình dáng giống như xác thân của chúng ta. Chúng ta nhìn thấy thể vía trong giấc ngủ mà ta thường gọi là nằm mộng.
Hành giả thì có thể chủ động nhìn thấy thể vía trong thiền định. Vía có thể du hành xuyên qua không gian và thời gian. Sau một cuộc du hành đó chúng ta có thể hiểu thêm được nhiều triết lý mới. Khi hành thiền sau khi nhận được một lượng lớn thanh điển, tâm thức chúng ta bắt đầu tập trung về một điểm, trong khi tập trung chúng ta chịu những cú xoắn mạnh, giật thình lình, chúng ta cảm giác như cơ thể đang trôi nổi bồng bềnh, chúng ta không còn cảm nhận chân tay nữa, chúng ta cảm nhận cơ thể rất nhẹ nhàng, nhẹ như lông vũ. Có rất nhiều ấn chứng khác nhau trong cơ thể đôi khi có hành giả cảm nhận toàn bộ cơ thể mình đang trôi nhanh.
Đó là những chuyển động của thể vía. Hành thiền càng nhiều càng thu được nhiều thanh điển, khi đó thể vía xoay rất nhanh. Điều này gây ra một cuộc cách mạng tâm linh lớn, sau đó thể vía thoát ra ngoài thể xác với một sợi dây nối kết được gọi là sợi dây bạc. Sợi dây bạc là tầng tầng sóng rung động rất cao dùng để truyền đạt những tư tưởng, ý nghĩ của xác thân đến thể vía và ngược lại. Bằng sợi dây bạc này chúng ta đi du hành bằng thể vía. Đây là chuyến du hành của tâm thức chúng ta đến những nơi những tầng giới mà chúng ta đã biết hoặc chưa từng biết đến.
Du hành bằng thể vía, chúng ta sẽ có trí tuệ cao nhất và hiểu được chính mình. Khi du hành, thể vía có thể xuyên qua tất cả vật chất như đất, nước, lửa, gió và trên hư không. Vía không bị hạn chế khi du hành các tầng giới khác. Sau khi ra khỏi thể xác, hành giả sẽ thấy được xác thân của mình. Ấn chứng này là một trí tuệ tuyệt vời. Anh ta hiểu rằng anh ta không chỉ có thể xác. Anh ta chỉ ở tạm thời trong thể xác này mà thôi. Đây là một trí tuệ tuyệt vời. Mọi người nên du hành bằng thể vía. Nếu làm được những hiểu biết hạn chế của chúng ta sẽ biến mất và chúng ta hiểu ra rằng khả năng của chúng ta là vô cùng tận.
Chúng ta sẽ thấy được nhiều khía cạnh mới của sự sống. Càng tinh tấn hành thiền, chúng ta càng nhận ra được nhiều thanh điển. Thanh điển sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả những hoàn cảnh mà chúng ta đang đối mặt. Do càng ngày càng thấy được mối liên quan giữa thể xác và linh hồn. Chúng ta càng hiểu được tất cả những bài học mà bề trên đưa đến. Sự hiểu biết này không gì khác hơn ngoài sự quán thông. Người bình thường chỉ trải qua kinh nghiệm mà không hề quán thông các bài học. Bởi vì anh ta chỉ dùng thể xác để đánh giá các sự việc, nhưng một người có hành thiền thì sẽ hiểu hết trọn vẹn ý nghĩa các bài học.
Đó là vì hành giả biết rằng, anh ta không chỉ có xác thân, anh ta hiểu rằng anh ta chỉ tạm thời lưu trú trong thể xác tạm bợ. Anh ta hiểu rõ rằng các bài học đưa đến là để giúp cho phần hồn của anh ta tiến hóa. Sau khi trải qua tất cả những ấn chứng thiền định đó và bổ sung vào đời sống thực tế, chúng ta sẽ đạt được trình độ trí tuệ tuyệt vời. Trí tuệ này mở ra hàng ngàn cánh cửa, đưa đến nhiều triết lý sống mới.
Sự am hiểu của chúng ta, sự nhận định của chúng ta, và trí tuệ của chúng ta sẽ mở rộng rất nhiều. Điều này dẫn đến phần hồn chúng ta sẽ thông thái hơn, chúng ta sẽ đạt được trí tuệ của hoa sen vàng ngàn cánh. Mỗi cánh sen là một trí huệ mới. Do ngày càng nhận được nhiều chân lý mới, chúng ta ngày càng hiểu hơn những quy luật của sinh tồn. Với trí tuệ này chúng ta sẽ hiểu ra rằng không có ai là chết cả và chúng ta là bất tử. Chúng ta hiểu sinh là gì, tử là gì.
Phần hồn của chúng ta đến quả địa cầu như một chiếc linh quang trong vũ trụ. Trong khi đến từ nguồn cội, chúng ta đến bằng hình thể của thể phách. Đây là sự thiết lập của linh hồn. Chúng ta đến quả địa cầu để học hỏi những bài học riêng biệt. Để trải qua những trạng thái đó, chúng ta tự chọn cho mình cha mẹ, hoàn cảnh và bài học. Tất cả bài học trong suốt cuộc đời đều đã được phần hồn ấn định trước. Sau khi lựa chọn người mẹ, linh hồn nhập vào tử cung và bào thai, bắt đầu một sự sống mới. Sự định hình của thể xác tùy thuộc vào tầng số thanh điển trong thể dĩ phách và căn nguyên.
Phần hồn sẽ thường xuyên liên lạc với nguồn cội cho đến khi định hình hơi thở đầu tiên. Sau khi lọt khỏi lòng mẹ, linh hồn thở hơi thở đầu đời. Đây được gọi là sinh. Từ ngày đầu tiên đến năm 7 tuổi, tâm hồn có ý thức của nguồn cội. Thể trí định hình từ năm 7 tuổi. Năng lực trí tuệ bắt đầu hoạt động từ năm 14 tuổi và hoàn thiện vào năm 21 tuổi. Từ năm 21 tuổi đến năm 28 tuổi, anh ta chịu đựng sự pha trộn của thể xác, tinh thần, và trí tuệ. Từ năm 28 tuổi, nếu không còn ý thức được nguồn cội, tâm thức anh ta sẽ nằm giữa thể xác và lý trí.
Cuộc đời anh ta sẽ phụ thuộc vào chính mình. Do đó bất hạnh bắt đầu đến, anh ta không thể quán thông các bài học, mọi thứ trở nên khốn khổ với anh ta. Anh ta tự phá hỏng chính mình bằng sự mê chấp, cứng nhắc. Sự mê chấp, cứng nhắc sẽ phá luồng thanh điển nhận từ nguồn cội. Do đó anh ta phải chịu đựng bệnh thể xác và tinh thần.
Anh ta trải qua những tháng ngày mà không biết mình đang làm gì. Anh ta không thể hiểu được mục đích sống thực sự của mình. Anh ta lướt tuổi thơ ấu đến trưởng thành rồi đến tuổi già và sau cùng là chết đi mà không hiểu mục đích mình xuống quả địa cầu. Đây là điều mà chúng ta gọi là tử. Ngay cả sau khi chết, những hiểu biết sai lầm trong tâm thức, không cho phép linh hồn trở về nguồn cội. Bởi những khái niệm sai lầm này anh ta tự tạo thiên đàng và địa ngục riêng cho chính mình.
Do đó linh hồn phải ở tầng giới thấp hơn. Nếu một người nào đó, bắt đầu một cuộc đời mà thấy rõ được chính mình, anh ta sẽ luôn luôn vui trú trong an lạc. Sau khi rời bỏ xác thân. Linh hồn không thể ở tầng giới thấp hơn, sẽ trở về được với nguồn cội.
Thông qua huệ nhãn và sự du hành thể vía, chúng ta sẽ đạt được trí tuệ hoàn thiện hơn. Đó là trí tuệ của sinh và tử, của thể xác, trí óc, huệ giác và sự tự biết chính mình và nguồn gốc của sự sống. Chúng ta thấu hiểu được rằng phần hồn là sự kết hợp của thanh điển và tuệ trí. Phần hồn đến hành tinh này để nhận được nhiều thanh điển hơn và để học được tụê trí cao hơn và để sáng tạo. Bằng sự tồn tại học hỏi tiến hóa luôn luôn như vậy, anh ta bắt đầu đạt được trí tuệ cao hơn về sự hiện hữu của càn khôn vũ trụ.
Với tuệ giác này, anh ta sẽ là người sáng tạo phi thường. Bất cứ điều gì anh ta nói điều chính xác, bất cứ điều gì anh ta nghĩ điều chính xác, bất cứ điều gì anh ta làm là một sự sáng tạo. Đây gọi là đắc đạo.

Sửa bởi hoahoanglan18: 07/03/2012 - 01:17


Thanked by 2 Members:

#7 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 07/03/2012 - 01:23

Nhờ bác manager sửa giúp HL dòng cuối cùng ở post #5:

Ghi chú: Thanh điển tức Năng lượng Vũ trụ.

Thể vía thu hút năng lượng của vũ trụ (thanh điển) để cho xác thân sử dụng. Năng lượng này được biến thành sinh khí (Prana) nuôi sống vạn vật. Sinh khí này chạy dọc theo dây thần kinh liên kết các thể như một chiếc cầu tâm thức.



Thanked by 1 Member:

#8 minhduc

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 587 Bài viết:
  • 945 thanks

Gửi vào 10/03/2012 - 08:37

dear HoangLan,

Có nghiên cứu gì mấy vụ này mà sưu tầm ghê vậy...

Khoa học mà nghiên cứu mấy cái siêu tâm linh này thì nhân loại sắp bị tuyệt diệt... coi như sắp có thêm nền văn minh Atlantic thứ 2... híc

Ôi sự tò mò, ôi lòng tham...

Ờ mà còn có thứ năng lượng khác vi tế hơn khí/Prana nữa... Prana chỉ là sự thể hiện hồn nhiên của nó... khi nào gặp đúng cơ duyên tui sẽ nói... Thiền cũng không phải gì là quan trọng cũng không phải là cách duy nhất để thu hút thanh điển....

Sửa bởi minhduc: 10/03/2012 - 08:56


Thanked by 1 Member:

#9 RainbowWarrior

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 49 Bài viết:
  • 93 thanks

Gửi vào 10/03/2012 - 09:36

Hi minhduc,

HL đc dạy là con ng sẽ sớm cminh đc mọi thứ chỉ là hiện tượng vật lí mà thôi. Bản thân hl cũng luôn tin là vậy dù chưa thể cminh. Bây giờ thấy trên tg có nhiều ng, đặc biệt là giới trẻ đã và đang đc đánh thức. Họ đều đang cố gắng đi tìm và giải thích những hiện tượng đc cho là huyền bí. Họ đi tìm với suy nghĩ tích cực nhất, tâm hồn trong sáng nhất.

Ngay ở sài gòn hl biết có nhiều bạn cũng đang trên con đg tìm tòi, họ cố gắng chia sẻ sự hiểu biết của mình mong mọi ng xung quanh thức tỉnh, và đều có tâm linh phát triển. Đương nhiên vẫn phải chia sẻ một cách thông minh, làm sao mang lại hiệu quả tốt và có lợi nhất cho public. Hl đc biết có những em có tâm linh pt rất cao nữa kìa.

Hl cũng đang trong quá trình tìm hiểu thôi, cóp nhặt thông tin và chia sẻ với mọi ng. minhduc hãy cùng chia sẻ với mọi ng nhé.

Sửa bởi hoahoanglan18: 10/03/2012 - 09:38


Thanked by 1 Member:

#10 Thanh.Long

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1075 Bài viết:
  • 1444 thanks
  • LocationTuyệt Tình Cốc

Gửi vào 12/03/2012 - 10:44

TL nghĩ là con người phải tu tập để có thể yêu thươnghơn .Một người không tu tập khi ở chung với họ , tính cách của họ sẽ có rất nhiều tiêu cực khiến mình mệt mỏi , đó là nguyên nhân những bất hạnh trong cuộc sống . Bản thân mình phải tự biết nỗ lực Thiền định để làm trong sạch tâm hồn thì mới có thể mang lại niềm vui cho người khác, và bản thân người khác cũng phải tu tập để tương tác với mình

Thanked by 1 Member:

#11 minhduc

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 587 Bài viết:
  • 945 thanks

Gửi vào 12/03/2012 - 10:51

dear Rồng xanh có tàn lọng che,

Mấy người viết bài pha học tâm linh nào là kundalini, mắt thứ 3 hay luân xa gì đó có chắc gì tu tới được đẳng cấp đó đâu... tóm lại đều là dân đứng bên ngoài cửa rào ngó vô rồi so sánh lấy cái thế giới này gán ghép...

Cho nên mấy bài đó đọc chơi thui, có ăn nhậu gì tới cách tu giải thoát sinh tử phá màn vô minh đâu... tóm lại chả có ích lợi gì hết mà chỉ gợi lòng tham mấy chuyện thần thông, năng lực siêu nhiên... giống như mấy đứa con nít khoái chơi đồ chơi màu mè...

Tốt nhất là hãy gặp mấy vị mà tui có giới thiệu để thọ pháp và hành trì theo ngài... còn chuyện đọc trên đó chả ích lợi gì vì nó toàn là thế giới A-tu-la, đọc bài cũng hiểu tác giả người viết đang ở level nào.

Sửa bởi minhduc: 12/03/2012 - 10:52


Thanked by 1 Member:

#12 Thanh.Long

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1075 Bài viết:
  • 1444 thanks
  • LocationTuyệt Tình Cốc

Gửi vào 12/03/2012 - 11:22

hi anh minhduc , những vấn đề như mắt thứ 3 , kundalini gì đó .. là chỉ xem cho biết , T cũng nghĩ là ko nên quan tâm quá vì cuối cùng mình cũng ko được gì . TL nghĩ rằng mục đích tu tập là để sống hạnh phúc hơn , những đặc dị công năng nếu có chỉ là phụ thôi nó không quyết định hạnh phúc của chúng ta, có khi còn làm tệ hại hơn nếu con người ta không tốt , cho nên tự nhiên đã niêm phong nó lại . Người không tu tập sẽ gây rất nhiều phiền phức đau khổ cho người khác , có thể sống trong yêu thương mới là đều quan trọng nhất

Thanked by 1 Member:

#13 minhduc

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 587 Bài viết:
  • 945 thanks

Gửi vào 12/03/2012 - 11:35

dear Rồng,
Tình thương hay lòng từ bi chỉ là một trong số những thứ phát triển được trong và sau khi tu hành đúng pháp thôi, còn rất nhiều thứ khác...


Anyway thì nó cũng là thứ rất quan trọng vì càng có từ bi thì càng có thể thu hút được năng lượng lớn và tốt lành, và nhờ vậy mới có thể đạt thần lực rất lớn thoát khỏi tam giới - là 3 thế giới vốn bị chi phối bởi luật luân hồi sanh tử - cái này giống như tên lửa thoát lực hút trái đất vậy cha lụi...

Sửa bởi minhduc: 12/03/2012 - 11:38


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |