Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
thatsat, on 27/04/2011 - 17:18, said:
CẶP TIỀN ĐẠO KHÔNG-THỜI
Phi lộ
Chúng ta không đổ nước vào nước để quan sát dòng chảy, chúng ta đổ nước vào sỏi để quan sát dòng chảy.
Chúng ta không ném sỏi vào sỏi để quan sát chuyển động của sỏi, chúng ta ném sỏi xuống nước để quan sát chuyển động của sỏi.
Chúng ta không ném dương vào dương, không ném âm vào âm.
Chúng ta ném dương vào âm, âm vào dương.
Chúng ta không đưa một bà cụ vào nhóm 4 bà cụ khác, để các bà ấy buôn dưa lê từ làng trên đến xóm dưới.
Chúng ta dẫn cụ ra bến sông, tại đó cụ sẽ ném đá rơi vài cái phản lực.
Chúng ta không ném thời gian vào thời gian để quan sát, chúng ta ném thời gian vào không gian để quan sát, chúng ta có Tử Vi.
Chúng ta không ném không gian vào không gian để quan sát, chúng ta ném không gian vào thời gian để quan sát, chúng ta có Tử Bình.
Sau bài post trước, không có bạn nào hỏi vậy thời gian của Tử Vi nằm ở đâu, không gian trong Tử Bình nằm ở đâu. Bất cứ môn nào nếu thiếu một trong 2 đều không thể dụng.
Không ai có thể tách thời gian ra khỏi không gian và ngược lại không ai có thể đồng nhất thời gian và không gian.
A. ĐỊA BÀN:
Trong Tử Vi, như đã nói trên, 12 cung là 12 phương vị trên mặt đất nên gọi là Địa Bàn. 10 can và 12 chi là thời gian, không cần bàn cãi. 60 năm hoa giáp cũng đại diện cho thời gian. Nhưng 12 cung trong tử vi tuy là Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi nhưng là cung, cung Tý cung Sửu v.v…cung Hợi, là phương vị Tý phương vị Sửu phương vị Dần,v.v…,phương vị Hợi chứ không phải 12 chi thời gian. Nói rõ hơn ở phần F.
Cho nên tiên quyết 12 cung địa bàn là không gian chủ phương vị, chứ không phải thời gian.
B. VÌ SAO CAN CHI LÀ THỜI GIAN:
Quay lại, vì sao can chi là thời gian. Rất đơn giản, khi xét 2 năm khác nhau không thể phân biệt giữa không gian năm này và không gian năm khác từ vị trí tương đối giữa mặt trời mặt trăng và trái đất. Vì mỗi năm trái đất xoay quanh mặt trời một vòng. Lấy mặt trời làm cố định (người xưa lấy trái đất) rồi thì sao có thể phân biệt hoàn cảnh năm nay và năm khác, mặt trời đâu có di chuyển theo một mốc chuẩn khác. Rõ ràng dòng thời gian không quay lại. Cho nên phải đặt can chi cho năm. Hai năm khác nhau không khác nhau trong không gian, nhưng phân biệt bởi can và chi. Năm Giáp Tý khác năm Ất Sửu ở các chữ Giáp, Tý, Ất, Sửu.
Cho nên can chi đại biểu cho thời gian.
Đem can chi gieo xuống địa bàn là đem thời gian gieo xuống không gian mà thành sao. Sao là đánh dấu của thời gian trên không gian.
Đem thời gian gieo xuống thời gian không thể thành sao, nhầm lẫn 12 cung tử vi thành 12 thời chi là hết sức nguy hiểm, xâm hại nghiêm trọng đến nền móng tử vi.
C. LƯU NIÊN THÁI TUẾ:
Trong tử vi, còn yếu tố nào chủ thời gian đứng ngoài 12 phương vị của lá số. Yếu tố đó chắc chắn phải gây ảnh hưởng rất mạnh lên lá số. Có thể coi như dòng thời gian trườn qua không gian lá số. Đó chính là lưu niên Thái Tuế. Là sự phân biệt năm này và năm kia, không có lưu niên Thái Tuế thì năm nào cũng giống năm nào.
D. YẾU TỐ KHÔNG GIAN TRONG TỬ BÌNH:
Sang Tử Bình, thời điểm sinh là một điểm trên đường thẳng, là một vết chém trên khúc gỗ. Một điểm này trượt trên dòng thời gian thì sao xem được số. Cho nên phải tạo không gian cho điểm này.
Chúng ta biết rằng năm chứa tháng tiết lệnh, tháng tiết lệnh chứa ngày, ngày chứa giờ.
Để biểu diễn thời điểm sinh thì:
Nếu dùng đơn vị năm thì không thể biểu diễn tháng.
Nếu dùng đơn vị tháng có thể biểu diễn năm = 12 tháng
Nếu dùng đơn vị ngày. Lúc đó không cần dùng đơn vị tháng và năm, tháng và năm có thể biểu diễn qua ngày, tháng = 30 ngày, năm = 365 ngày.
Nếu dùng đến đơn vị giờ, thì không cần đơn vị năm tháng ngày.
Vậy tại sao Tử Bình phải giữ lại cả 4 yếu tố năm tháng ngày giờ ?
Câu trả lời là để tạo không gian cho tử bình, tạo ra 4 trụ (cột) để tương tác, phân ngôi vị ta và ngoài ta như Quan Sát Ấn thụ v.v… để tương tác. Phân trên dưới để xét tương tác. Đó là không gian, chứ không phải thời gian. Không gian mới có trước sau trên dưới trong ngoài, thời gian chỉ có một mạch trước sau là hết.
Vậy Tử Bình cho cả khối không gian 4 cột trượt trên dòng thời gian mà ra số.
E. DỊCH:
Ở đây, ta còn thấy Tử Bình mượn thời gian tạo không gian (4 cột). Còn tử vi mượn không gian tạo thời gian (các cung đại vận). Đó chính là Dịch, là Âm Dương, là một cặp tương hỗ Không-Thời. Vì Dịch bao quát Không Thời nên áp dụng Dịch nên Tử Vi giống như áp dụng Dịch lên Tử Bình thì khó tránh khỏi sai lầm. Dịch lý là một nhưng tất cả các môn khác nhau xét trên Dịch đều phải khác nhau. Nếu giống nhau thì các môn đâu còn khác nhau.
F. SỰ NGỘ NHẬN 12 ĐỊA CHI LÀ 12 CUNG VỊ:
Lá số dùng để biểu diễn Không Gian còn Thời Gian không cần biểu diễn trên lá số (tử vi biểu diễn 12 cung và hơn 100 sao, tử bình biểu diễn 4 trụ), chỉ có lưu ảnh của thời gian trong tử vi là sao và trong tử bình là thần sát cần biểu diễn trên lá số.
(Thiên can + Địa chi) = Thời gian
Thời gian + Cung vị = (Thiên can+Địa chi)+Cung vị.
+ ở đây là tương tác đối ngẫu âm dương.
Người xưa dùng 12 chi biểu diễn 12 thời của cung vị phối hợp với 10 can mà thành lục thập hoa giáp. Do cung vị tuần hoàn năm nào cũng giống năm nào nên buộc phải dùng Can vì nếu không dùng Can sẽ không phân biệt được thời của 12 cung vị, chỉ dùng 12 chi gán lên 12 cung vị thì một cung vị sẽ mãi mãi gắn với 1 chi, việc biểu diễn thời của cung vị là vô nghĩa.
Thời gian được biểu diễn bằng cả hai trục Can và Chi, thiếu một trục không thành thời gian. Nếu muốn biểu diễn thời gian thành cung thì phải có 60 cung mới đủ.
Trong thời gian thì can chi là một cặp âm dương nhưng khi xét tương tác Thời Gian và Không Gian thì Can Chi được bao hàm và xuất hiện đồng thời trong Thời Gian. Khi nói 10 can gieo lên 12 chi, có nghĩa là xét tương tác âm dương nội hàm trong thời gian mà sinh ra 60 hoa giáp. Đó là chuyện nội bộ thời gian chứ không phải tương tác trên lá số tử vi. Tất cả các biểu diễn tương tác 10 can lên 12 chi đều là chuyện nội bộ trong yếu tố thời gian kể cả việc gieo 10 Can là thiên để gieo lên yếu tố Chi là địa. Trong thời gian thì Thiên là Thiên Can, Địa là Địa Chi. Còn trong tương tác thời gian và không gian thì Thiên là thời gian còn Địa là cung vị. Nói cách khác 12 chi thời là thuộc tính thời gian của 12 cung vị, 12 thời chi là hình chiếu của 12 cung vị lên trục thời gian (nếu biểu diễn thời gian bằng trục).
Có lẽ nhiều bạn ngộ nhận tại chỗ này. Mang tương tác nội bộ can chi gán lên địa bàn là không thể và không cần thiết. Không cần thiết vì kết quả của tương tác này chỉ là 60 năm hoa giáp. Không thể vì nếu 12 cung là 12 chi thì không lẽ xét tương tác chi lên chi ? để an các sao.
Bài này đọc xong tôi phải cám thán đúng là "Hậu sinh khả úy", "sông dài sóng sau đè sóng trước"!
Các bạn trẻ đều nên đọc kỹ.
Văn phong của anh Thất Sát nhắc tôi đến ông Tuệ Canh, một nhân tài kiệt xuất của thời Tử Vi trăm hoa đua nở của Đài Loan. Tiếc rằng sau khi bùng vỡ với một số kiệt tác trong một thời gian ngắn, ông Tuệ Canh đã ngừng viết hẳn, dù bạn thân của ông là Liễu Vô cư sĩ nài nỉ cũng nhất định không viết. Tôi thỉnh thoảng tự hỏi nếu ông Tuệ Canh tiếp tục viết thì phong trào trăm hoa đua nở ở Đài Loan sẽ biến chuyển ra sao? Dĩ nhiên đặt lại mọi chữ "nếu" để tìm cách lùi về thời quá khứ đều là việc làm vô nghĩa, nhưng vì ông Tuệ Canh có xử dụng Tuần Triệt khi luận mệnh, tôi cho rằng ông rất có thể đã trở thành một lực đối trọng chống lại phong trào bỏ Tuần Triệt mà chúng ta biết là cuối cùng đã ưu thắng ở Đài Loan.
Tại sao không thể dùng lý liên tục của thời gian để định can tứ Hóa của đại hạn?
Trở lại vấn đề. Bài trên của anh Thất Sát đã hàm chứa cái lý mà tôi muốn trình bày kế tiếp đây.
Một khi đã nhìn nhận rằng lá số Tử Vi là một mô hình không gian của bài toán số mệnh thì sẽ thấy mỗi phương vị "ứng chính" với một tháng, nên mỗi phương vị sẽ chứa hai tính can và chi của tháng tương ứng. Như tháng giêng năm Giáp Tí về chi ta biết ứng với cung Dần, nhưng tháng giêng năm Giáp Tí là tháng Bính Dần, nên cung Dần là phương có can Bính.
Xét trường hợp một người mệnh an ở cung X. Dương nam âm nữ thì các đại hạn lần lượt là các cung X, X+1, X+2, X+3 v.v… Nếu là âm nam dương nữ thì ngược lại là X, X-1, X-2, X-3 v.v… Tạm không bàn tại sao lại có chuyện chuyển từng cung một để tính hạn, ở đây chúng ta chỉ đặt câu hỏi là khi vào một cung thì bị ảnh hưởng bởi những yếu tố gì ở cung đó. Câu trả lời hiển nhiên là: bị ảnh hưởng bởi can và chi.
Ảnh hưởng của chi: Cho phép chúng ta áp dụng các luật tam phương tứ chính vào cách cục. Đây là cách xem hạn truyền thống. Chú ý rằng cách xem tam phương tứ chính chỉ có lý nếu các cung ứng với không gian (lý cộng hưởng phương vị) mà không ứng với thời gian. Nếu các cung ứng với thời gian thì không thể nào có chuyện cách cục ở các cung khác nhau cộng hưởng với nhau được (bởi chẳng lẽ tháng Dần lại cộng hưởng với tháng Thân là một tháng chưa xảy ra?).
Ảnh hưởng của can: Là vấn đề mà các sách xưa không bàn đến, ta hoàn toàn không thấy can của cung được nhắc đến trong việc luận hạn trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư cũng như Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập. Ngay cả hai bộ sách kinh điển tương đối mới là Đẩu Số Tuyên Vi (tập 1 ra năm 1928, tập 2 năm 1935) và tập giáo trình “Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa” của ông Lục Bân Triệu thuộc một chi của Trung Châu phái cũng không nói đến việc dùng can cung hoặc can tháng để luận hạn. “Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa” có lẽ là đã được viết trong thập niên 1950s (nhưng mãi đến thập niên 1980s mới được phổ biến ra ngoài bởi chưởng môn một chi phái khác của Trung Châu phái là ông Vương Đình Chi).
Thế nên mặc dù không rõ phép dùng can để an tứ Hóa cho đại hạn bắt đầu bao giờ, ta có thể khẳng định rằng phép này chỉ được phổ biến ra ngoài sớm nhất là từ thập niên 1960s trở đi, tức là theo mốc thời gian hôm nay (2011) thì chỉ trong vòng 50 năm trở lại thôi.
Theo lời tự thuật của ông Tử Vân thì ông bắt đầu học Tử Vi với thầy ông là cụ Hà Mậu Tùng từ thập niên 1960s, và vì ông Tử Vân cho rằng cách dùng can để an tứ Hóa cho đại hạn là “cách xem truyền thống” (sách “Đẩu Số luận nhân sinh”) ta cần biết thêm dữ kiện nữa, cũng do ông Tử Vân tự thuật, là trước khi học với cụ Hà ông hoàn toàn không biết một chút xíu gì về mệnh lý. Từ những dữ kiện này, có thể đoán là cụ Hà đã xử dụng thành thục phép dùng can để an tứ Hóa cho đại hạn và truyền phép này cho các môn đồ của cụ (trong đó có ông Tử Vân) từ thập niên 1960s. Điểm đáng lưu ý ở đây là cụ Hà không hề nhận là cụ, hoặc phái của cụ bày ra phép này. Và cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết phép dùng can để định đại hạn tứ Hóa do môn phái nào sáng chế ra hoặc xử dụng đầu tiên.
Phép này có lý hay không đòi hỏi một cuộc nghiên khảo khác, nhưng ta biết một điều là mô hình không gian của lá số Tử Vi đòi hỏi phép này phải dùng can của tháng trong năm sinh tương ứng với phương vị, mà không thể áp dụng lý liên tục của thời gian để định can khi chuyển từ Sửu sang Dần hoặc ngược lại.
Cách hay nhất là xét một thí dụ. Thí dụ sau đây cho người sinh năm Mậu hoặc năm Quý. Các tháng và 12 cung tương ứng là
Tháng < > Can chi cung tương ứng
Giêng < > Giáp Dần
Hai < > Ất Mão
Ba < > Bính Thìn
Tư < > Đinh Tị
Năm < > Mậu Ngọ
Sáu < > Kỷ Mùi
Bảy < > Canh Thân
Tám < > Tân Dậu
Chín < > Nhâm Tuất
Mười < > Quý Hợi
Một (11 ta) < > Giáp Tí
Chạp < > Ất Sửu
Khi muốn định can đại hạn thì nhất luật theo bảng trên, mà bất chấp lý liên tục của thời gian khi qua ải Sửu/Dần.
Như mệnh ở Tí, dương nam âm nữ tất 4 hạn đầu là Giáp Tí, Ất Sửu, Giáp Dần, Ất Mão mà không phải là Giáp Tí, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão. Ấy bởi vì Bính Dần, Đinh Mão ứng với tháng Giêng và tháng 2 năm Kỷ Mùi, tức thuộc về năm kế của năm Mậu Ngọ, mà không thuộc về năm Mậu Ngọ.
Tương tự, mệnh ở Mão, âm nam dương nữ tất 4 hạn đầu là Ất Mão, Giáp Dần, Ất Sửu, Giáp Tí mà không phải là Ất Mão, Giáp Dần, Quý Sửu, Nhâm Tí. Ấy bởi vì Quý Sửu, Nhâm Tí ứng với tháng Chạp và Một (11 ta) của năm Đinh Tị, tức thuộc về năm trước của năm Mậu Ngọ mà không thuộc về năm Mậu Ngọ.
Edited by VDTT, 12/05/2011 - 01:36.