Lục sát tinh gồm có 3 cặp sao: Không Kiếp, Hỏa Linh, và Kình Đà. Đó là những vị trí trái ngược âm dương trên lá số, và được người xưa hình tượng thành 6 sao. Vì trái âm dương nên tác họa, tác họa mạnh nên phong là sát tinh (tức sao giết người).
Cặp Không Kiếp thuộc hỏa, ở đây không nói là âm hay dương hỏa vì âm dương phải có cặp. Chỉ lưu ý người đọc, Hỏa Linh cũng thuộc hỏa nhưng khác hỏa của Không Kiếp. Hỏa nào là dương hỏa nào là âm thì không cần thiết phải gán ghép, vì gán cũng không để làm gì. Chỉ cần nắm vững là nó khác nhau. Không Kiếp chuyên khắc phá Tử Phủ. Trong khi Tử Phủ không hề ngại Hỏa Linh. Tử Phủ thuộc thổ biểu tượng của trung ương, của chuẩn mực. Xét theo ngũ hành thì hỏa của Hỏa Linh sinh được cho Tử Phủ còn hỏa của Không Kiếp không sinh mà còn trái khoáy với thổ của Tử Phủ. Nếu coi thổ của Tử Phủ là dương thổ, thì hỏa của Hỏa Linh là dương hỏa, còn hỏa của Không Kiếp là âm hỏa. Không Kiếp hại Tử Phủ đại diện thế lực chính quy, nhưng rất hợp Phá Quân âm thủy về tính chất cũng như ngũ hành. Thứ nhì, là hợp Thiên Tướng dương thủy về tính lý nhưng ngũ hành kém hợp hơn Phá Quân vì âm dương sai khác nên khắc chế không hiệu quả. Hơn nữa, dù sao Thiên Tướng cũng là chính quy, khó có thể hợp sự vô nguyên tắc của Không Kiếp như Phá Quân được. Muốn chế Không Kiếp, phải dùng Quang Quý. Chế được rồi muốn hóa được ra thành công thành quả thì phải có Khôi Việt. Cho nên chế hóa Không Kiếp cần Quang Quý Khôi Việt. Nói chế hóa cũng không hẳn đúng, mà thực ra đó là cách cục mà sát tinh thành công, tính sát đắc dụng mà quý hiển.
Hỏa Linh thì có khác một chút, có thể nói cùng Không Kiếp tạo thành cặp phản đề. Hỏa Linh là hỏa nhưng có tượng là ngọn lửa, tức ít ra còn có lúc là lửa thật, chứ không phải hỏa khí hỏa tính như Không Kiếp. Cho nên gán Hỏa Linh cho dương, Không Kiếp cho âm không phải không có lý. Hỏa Linh lúc là lửa là điện thì gây cháy nhà sét đánh. Lúc mang nghĩa bóng, thì Hỏa Linh hàm ý được tôn thờ. Vua chúa nhiều người có Hỏa Linh ở mệnh thân hàm ý họ được tôn thờ, tất nhiên Hỏa Linh đó đã được chế hóa. Hỏa Linh là khắc tinh của Cơ Nguyệt Đồng Lương, bộ sao thủy mộc có tính chất ôn hòa lương thiện. Gặp Hỏa Linh như đồng khô cỏ cháy, như người lương thiện nhưng suốt ngày cáu bẳn thành ra khó nói là lương thiện. Nhưng Hỏa Linh hợp với Tham Lang. Hỏa Linh là ngọn lửa cho tham vọng của Tham Lang bùng cháy. Với phụ tinh, Hỏa Tinh là khắc tinh của Bạch Hổ, nhưng khắc tinh ở đây không phải chế hóa con hổ này mà làm con hổ này phát điên cắn phá lung tung. Cho nên nếu thấy Hổ lại thấy Hỏa Tinh là coi chừng tác họa của Hổ. Khi đó, cần có Thiên Phúc thì có thể hóa giải được họa Hỏa Tinh+Bạch Hổ. Về ngũ hành, thì Hỏa Tinh thuộc hỏa khắc hành kim của Bạch Hổ, nhưng do trái lệch âm dương mà thành ra oái oăm, cho nên kích phát tính điên loạn của Bạch Hổ. Giống như đại đao có thể chém cụt đầu con hổ là xong, nhưng không có đại đao chỉ có cái kim chích vào mông nó thì làm gì nó không điên. Ngoài ra, về màu, Bạch Hổ màu trắng, Hỏa Tinh màu lửa đỏ. Chúng ta chỉ nghe nói trắng hồng, chứ không ai nói trắng đỏ. Trắng đỏ là cảnh máu đỏ tang trắng, không phù hợp chút nào. Muốn chế hóa Hỏa Linh, cần dùng Thai Tọa Quan Phúc. Ở đây Quan Phúc để chế, có thể chế bớt hỏa tính của Hỏa Tinh. Thai Tọa để hóa, có thể đưa tổ hợp Quan Phúc Hỏa Linh đến thành công.
Đến đây, ta nắm vững được cách chế hóa tứ sát thuộc hành hỏa là Hỏa Linh Không Kiếp. Nhưng đừng nhầm thuốc nọ cho bệnh kia. Dùng Khôi Việt cho Hỏa Linh, và dùng Quan Phúc cho Không Kiếp là đại họa râu ông nọ cắm cằm bà kia. Sự đời nhiều thứ hao hao, sai một li là đi một dặm. Khôi Việt Hỏa Linh là cách cục sét đánh đỉnh đầu, trời đã phải đánh thì biết nó trái lý âm dương tới mức nào. Còn Quan Phúc Không Kiếp là những Quan Phúc phải chịu thử thách ghê gớm (theo lý của tác giả VDTT) đạo đức làm người, chứ không phải những thầy tu đạo mạo như Quan Phúc Hỏa Linh. Tu là phải có đèn nến hương khói. Tu gì không có đèn chẳng có hương. Biết ngay ông tu hú.
Cuối cùng là bộ Kình Đà. Bản chất sát tinh của Kình Đà có khác so với tứ sát còn lại. Với chính tinh, Kình Đà là khắc tinh của Nhật Nguyệt, nhưng rất hợp với Thất Sát. Vì Kình Đà chủ sự sai lệch, đứng hai bên Lộc Tồn chủ sự chuẩn mực. Đà là muộn quá, còn Kình là sớm quá. Đà là tự kỷ còn Kình là tăng động. Đều không hợp với Nhật Nguyệt. Nhật Nguyệt định thời gian thì phải chuẩn mực cần đi với Lộc Tồn, đi với Kình Đà thì đồng hồ sai, lịch xé nhầm. Xét về ngũ hành thì tính hợp và khắc của tinh đẩu rất phong phú đa dạng. Có khi là rút khí như Tử Phủ với Hỏa Linh, có khi là khắc chế như Phá Quân với Không Kiếp. Có khi lại đồng hành như Kình Đà với Thất Sát. Trong Tham Sân Si, thì Thất Sát là sân (nóng giận, hận thù), Tham Lang là tham, Phá Quân là si (cuồng si hoặc đam mê). Mỗi chính tinh quản một cặp sao. Phá thì quản Không Kiếp, Tham thì quản Hỏa Linh, Sát thì quản Kình Đà. Nhưng Hỏa Linh Không Kiếp đều có các bộ sao đi kèm để đưa đến thành công là Thai Tọa Quan Phúc và Quang Quý Khôi Việt, còn với Kình Đà là gì.
Với Kình Đà, là bộ Long Phượng. Trong đó, Kình Dương hợp với Phượng Các, vì Kình là bay lên, Phượng là đôi cánh, bay lên mà không có cánh thì lượn làm sao. Đà La hợp với Bạch Hổ vì Đà La là chìm xuống nằm xuống, mãnh hổ nằm phục xuống rình con mồi và trốn thợ săn. Từ đó thấy rằng Kình Dương không hợp Bạch Hổ, vì con hổ trồi lên thì con mồi chạy mất và thợ săn phát hiện thì khó thoát. Đà La thì không hợp Phượng Các vì con phượng phải bay, đôi cánh phải tung trời chứ con phượng rớt xuống bụi thì gà chó nó chà đạp không ra gì. Thất Sát hợp Kình Đà cho thấy bộ Sát Phá Tham rất hợp Long Phượng Hổ Cái. Ta biết Sát Phá Tham có thể coi là điểm trũng của lá số tử vi, nơi hàm chứa những gì xấu xa tội lỗi nhất, nếu Tử Phủ là đỉnh núi cao thì Sát Phá Tham là vũng lầy, cho nên Sát Phá Tham rất cần thành công (Phượng Các) để khẳng định mình hữu dụng, rất cần chính danh (Long Trì Bạch Hổ) để được thừa nhận mình là quân chính quy chứ không phải bọn trộm cướp võ biền. Sát Phá Tham khát khao Long Phượng Hổ Cái hơn bất cứ nhóm sao nào khác. Điều đó ẩn chứa sau sự chế hóa của Kình Đà.
Tử Phủ Vũ Tướng cần Tuế Hổ Phù, sự chính danh, sự chính thống của vương triều hơn bao giờ hết. Tử Phủ Vũ Tướng không cần tiền, không cần quyền, chỉ cần chính danh. Chính danh sẽ có quyền tiền. Nguyễn Ánh khôi phục giang sơn từ chiếc thuyền thúng, không hề có quyền tiền, chỉ hô: tôi là chính danh dòng chúa Nguyễn, giúp tôi.
Sát Phá Tham cần Phượng Các, sự thành công từ gian khó, sự thành công từ đối nghịch. Đối nghịch Tang Tuế Điếu mà không có thành công thì nói không ai nghe. Phản truyền thống, phản trào lưu mà không có thành công thì không ai ủng hộ. Nên với Sát Phá Tham thì Phượng Các mới là ưa thích nhất, thứ nhì mới là Tuế Hổ Phù. Cho thấy bộ Tang Phượng hành động rất mạnh mẽ, mạnh mẽ nhất trong vòng thái tuế.
Thái Dương, Cự Môn cần Thiên Không, thích tam minh Đào Hồng Hỷ. Lại như Nhật Nguyệt, ta hỏi Nhật Nguyệt có hợp với Long Phượng Hổ Cái. Câu trả lời là không. Vì Nhật Nguyệt không hợp Kình Đà, càng ghét Diêu Đà Kỵ tam ám làm lu mờ ánh sáng của Nhật Nguyệt. Thái Dương cần tam minh Đào Hồng Hỷ, bên đó lấp ló ẩn hiện Thiên Không. Thái Dương cần Thiên Không, cần khoảng trống, cần khoảng trời để tỏa sáng hơn là Long Phượng Hổ Cái. Người xưa ẩn ý để Thiếu Dương cùng Thiên Không để phò trợ cho Thái Dương, lại nói xa gần cả Đào Hồng Hỷ là tam minh.
Thái Âm, cùng bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, thích Âm Long Trực, thích tứ Đức. Tục ngữ hay gọi là âm đức là vì thế. Cự Nhật cần sáng, sáng mới là cốt yếu của Nhật, sau đó mới cần đức. Thái Âm cần tứ đức, đức mới là nền tảng của Nguyệt, sau đó mới cần sáng. Cho nên, nếu Thái Dương đi cùng tứ đức, Thái Âm đi cùng tam minh thì cũng tốt nhưng xếp sau trường hợp Dương Minh và Nguyệt Đức.
Cho thấy tứ tượng của 14 chính tinh, và tứ tượng của thái tuế bày ra rất chặt chẽ chứ không bừa phứa. Càng không thể xét qua loa cho rằng bộ chính tinh nào cũng phù hợp vòng Thái Tuế. Nhìn lại, mới thấy lá số Tôn Trung Sơn phù hợp với Âm Long Trực. Nhìn lại, mới thấy lá số Tưởng Giới Thạch không hẳn không hợp với thế Thiên Không.
Sửa bởi thatsat: 12/06/2015 - 15:53