Y1 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng
Đây là phần quan trọng nhất của phương pháp tính điểm hạn này. Thường thì các can chi trong tứ trụ không thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm của chúng không thay đổi, nhưng vào một năm nào đó can chi trong tứ trụ có sự hợp hóa thành hành khác thì điểm vượng vùng tâm của chúng có thể bị thay đổi. Trong một số trường hợp can chi trong tứ trụ thay đổi hành của chúng thì điểm vượng vùng tâm của các hành phải được tính lại. Sau đó ta phải xác định lại dụng thần và điểm hạn của các hành. Tiếp theo có thể ta phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận và tiểu vận để xác định chính xác độ lớn của các hành ở năm đó (điểm vượng tính thêm ở tuế vận này không có khả năng làm thay đổi dụng thần cũng như điểm hạn của các hành, trừ một vài trường hợp ngoại lệ).
A – Hành kỵ 1 và hành kỵ vượng
Nếu 1 hành là kỵ thần có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại hoặc tính thêm các can và chi động ở tuế vận) lớn hơn các kỵ thần khác thì nó được gọi là hành kỵ 1 và nếu nó lớn hơn các hành là hỷ dụng thần từ 10đv trở lên thì nó được gọi là hành kỵ vượng và can hay chi của nó trong một số trường hợp có điểm hạn và các điểm hạn này được gọi là các điểm kỵ vượng.
B - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm
Cách tính lại các điểm vượng trong vùng tâm là lấy chính điểm vượng trong vùng tâm của các can hay các chi này từ khi mới sinh (điểm vượng này được tính từ khi mới sinh nên chúng không bao giờ thay đổi). Do vậy nếu 1 can hay 1 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của can hay chi này thì hành của hóa cục đó được thêm số điểm của các can hay chi này còn hành của các can hay chi này bị giảm đi số điểm như vậy. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành thay đổi, vì vậy dụng thần hay điểm hạn của các hành trong vùng tâm có thể thay đổi. Đối với các sách cổ về mệnh học thì dụng thần thay đổi là phần khó nhất, nhưng với phương pháp này thì nó không phải là quá khó.
1B - Điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại trong các trường hợp sau :
1/(10;35;86;206) - Nếu có ít nhất 1 can trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục. Khi đó các can chi động trong tứ trụ được tính như bình thường và các điểm vượng ở lưu niên của các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục cũng được tính vào trong vùng tâm, nhưng các điểm vượng ở lưu niên của các chi ở tuế vận hợp với các chi trong tứ trụ hóa cục không được tính vào trong vùng tâm.
2/ - Tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận (?).
Riêng trường hợp này thì sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành được xác định như từ khi mới sinh (nghĩa là các can chi ở tuế vận hóa cục được xem như ở trong Tứ Trụ từ khi mới sinh).
3/30 - Nếu các can của tuế vận và can tiểu vận hóa cục mà có thêm hóa cục của các địa chi có cùng hành liên kết giữa tứ trụ với tuế vận.
4/13 - Trong tứ trụ có hóa cục từ khi mới sinh nếu nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành.
5/6 - Giữa tứ trụ với tuế vận có các hóa cục, trong đó có ít nhất 2 chi ở trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành của chúng.
6/29 - Hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá mà có ít nhất 1 chi của nó hợp với tuế vận hóa cục.
7/9 – Các chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành và có tổ hợp của thiên can liên kết tứ trụ với tuế vận.
2B - Điểm vượng vùng tâm không phải tính lại
8/28 - Nếu các chi trong tứ trụ ở trong hay ở ngoài các tổ hợp không hóa thì khi chúng hợp với tuế vận hóa cục mà trong chúng chỉ có 1 chi trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành.
9/53 - Các tổ hợp của các địa chi trong tứ trụ không hợp với tuế vận hóa cục (khi có thần dẫn ở tuế vận) hoặc chúng bị phá (kể cả chúng hóa cục từ khi mới sinh).
3B – Tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận
(Các can chi ở tuế vận và tiểu vận được xem là động khi nó xung, khắc hay hợp với các can chi khác)
10/6 – Sau khi tính lại các điểm vượng trong vùng tâm (chỉ xét các can chi trong tứ trụ và các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục) nếu hành kỵ thần 1 ở trạng thái động thì phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (viết tắt là tính thêm điểm vượng ở tuế vận), nếu hành kỵ 1 là tĩnh thì không phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận (trừ một vài trường hợp ngoại lệ như câu 11/30...).
11/30 - Sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm nếu một hành là kỵ thần nhưng không phải là kỵ 1 hay hành kỵ 1 là tĩnh, mà các hóa cục của nó có tổng cộng từ 6 can chi trở lên thì phải tính thêm điểm vượng tuế vận (đây là một trường hợp ngoại lệ).
11a/ - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân vượng thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, quan sát không bao giờ là kỵ 1 hay kỵ vượng cho dù nó lớn hơn các hành khác từ 10đv trở lên.
12/50 - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân thay đổi hay không thay đổi thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của các hành sẽ không thay đổi (trừ các trường hợp ngoại lệ: 2/ ; 12a/215; 29/(98;99) ;...), nói chung hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần, nhưng nếu nó có tam hợp hay tam hội cục trong Tứ Trụ thì các điểm kỵ vượng của nó chỉ bị giảm 50% nếu điểm vượng của hành kỵ vượng này không nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần 10đv (?).
12a/215 - Nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà cách "Lưỡng Vượng" (kể cả các cách độc vượng (?)) bị phá thì sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận điểm hạn của ngũ hành mới có thể được thay đổi như bình thường.
4B - Cách tính thêm điểm vượng ở tuế vận
13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, nhưng với chi của lưu niên thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197), còn với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212).
13b/ - Điểm vượng của can tiểu vận chính là điểm vượng của nó tại tiểu vận (nghĩa là tại chi của tiểu vận và xem chi tiểu vận như lệnh tháng).
13c/ – Điểm vượng của chi đại vận và chi tiểu vận là điểm vượng trung bình của chúng tại đại vận (nghĩa là tại chi của đại vận và xem chi đại vận như lệnh tháng) và 2 lần điểm vượng của chúng tại lưu niên (thái tuế).
13d/208 - Nếu Nhật can hợp với tuế vận hóa thành cục nhưng điểm hạn của hóa cục này bị các can khắc mất hết hoặc chúng hóa thành cục có hành khác với hành của Nhật can thì điểm vượng trong vùng tâm từ khi mới sinh của Nhật can không bị mất và hành mới hóa cục không được thêm số điểm này.
. 13e/ - Nếu các can là tranh hợp thật thì các can này không có điểm vượng (?).
13f/10 - Nếu điểm hạn của hóa cục bị khắc mất x% thì chỉ có các điểm vượng của các can (hay các chi ?) có điểm hạn của hóa cục này mới bị giảm x%, nhưng các điểm kỵ vượng của chúng (nếu có) không bị giảm.
Ví dụ : Nếu đại vận là Bính Thân, tiểu vận là Kỷ Dậu và năm Nhâm Ngọ thì điểm vượng của các can chi này ở năm Nhâm Ngọ được tính như sau:
1 - Kỷ tiểu vận có 6đv tại Dậu tiểu vận .
2 - Bính đại vận có 10đv tại Ngọ của lưu niên (thái tuế).
3 - Nhâm lưu niên có 4,1đv tại Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 4,1.2đv, nếu Nhâm hợp với can trong tứ trụ hóa cục thì điểm vượng này không được gấp đôi.
4 - Ngọ lưu niên có 10đv tại chi Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 10.2đv
5 - Dậu tiểu vận có 10đv tại Thân của đại vận và 4,8đv tại Ngọ của lưu niên nhưng nó được gấp đôi thành 2.4,8đv, vì vậy điểm vượng của Dậu ở lưu niên là (10đv + 4,8.2đv).1/3 đv = 6,53đv.
6 – Thân đại vận có 9đv tại Thân của đại vận và 7.2đv = 1,4đv tại Ngọ của lưu niên, vì vậy điểm vượng của Thân ở lưu niên là (9đv + 7.2đv).1/3 = 7,67đv.
C – Hành và điểm kỵ vượng
14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng của vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...)..
14a/135 - Nếu dưới 12 tháng tuổi thì điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi mặc dù hành kỵ vượng lớn hơn hỷ dụng thần 20đv trở lên.
15/9 - Nếu can đại vận là kỵ vượng khi khắc được can trong tứ trụ mới có điểm kỵ vượng (kể cả khi nó bị hợp), khi đó các can kỵ vượng ở các vị chí khác có điểm kỵ vượng chỉ khi chúng ở trong các trạng thái động.
16/(12;176) - Các can trong tứ trụ là kỵ vượng bị can đại vận khắc thì chúng mới có điểm kỵ vượng, khi đó các can kỵ vượng khác ở trong trạng thái động mới có điểm kỵ vượng.
Điểm kỵ vượng của các can bị khắc giảm tỷ lệ thuận theo các lực khắc chúng.
17/67a - Nếu can đại vận là kỵ vượng hợp với can trong tứ trụ thì nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó bị khắc bởi can trong tứ trụ có hành của dụng thần, khi đó các can khác trong tổ hợp này là kỵ vượng mới có điểm kỵ vượng.
18/12 - Nếu các chi trong tứ trụ, tuế vận và tiểu vận là kỵ vượng xung khắc nhau thì chỉ có các chi ở tuế vận, tiểu vận mới có điểm kỵ vượng.
Các điểm kỵ vượng của các chi không bị giảm khi chúng bị xung hay bị khắc.
19/10 - Nếu các can ở trong các hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận hay giữa tuế vận và tiểu vận mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng.
20/8 - Nếu các chi ở tuế vận hay tiểu vận ở trong các hóa cục mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng.
21/(10;101) - Điểm kỵ vượng của các can hay các chi trong hóa cục không bị giảm khi điểm hạn hóa cục của chúng bị khắc.
22/17 - Một hành sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mới là kỵ 1 và nếu nó là kỵ vượng thì các điểm kỵ vượng này không được tăng gấp đôi mặc dù nó có 20đv nhiều hơn hỷ dụng thần
23/8 - Nếu sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà một hành mới là kỵ 1 và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, các điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi.
24/11 - Nếu điểm vượng vùng tâm của kỵ 1 từ khi mới sinh không lớn hơn điểm vượng vùng tâm của hỷ dụng thần và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi.
25/210a – Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của các hành là hỷ dụng thần hoặc nó nhỏ hơn hành kỵ thần mới (sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận) ít nhất 10đv.
26/15 - Nếu điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi cả khi tính lại điểm vượng vùng tâm thì khi tính thêm điểm vượng tuế vận nếu điểm vượng của hỷ dụng thần không lớn hơn điểm vượng của kỵ vượng thì điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi.
D - Các trường hợp ngoại lệ
27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên.
28/ – Bỏ vì sai.
29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu).
30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng ít nhất ¼ lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, ít nhất ½ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, ¾ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 30đv trở lên, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 40đv trở lên (?)....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược và ngược lại)).
Ví dụ minh họa.
Ví dụ 6 : Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Tháng 8/1991 là năm Tân Mùi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Kỷ Mùi.
1 - Mệnh này Thân nhược mà Quan Sát Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Canh ở trụ năm.
2 – Trong tứ trụ có Tị hợp với Dậu và Ất hợp với Canh đều hóa Kim.
Vào đại vận Kỷ Mùi và năm Tân Mùi, 2 Mùi hợp với 2 Ngọ hóa Thổ (bởi vì bán hợp Kim của Tị với Dậu trong tứ trụ không bị phá nên tam hội Tị Ngọ Mùi không thể được tạo thành).
Nếu sử dụng giả thiết 5/6 thì trong Thổ cục có 2 chi Ngọ ở trong tứ trụ thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 4đv được thêm 1,5đv của Ngọ trụ năm và 1,8đv của Ngọ trụ giờ thành 7,3đv. Hỏa có 3,3đv, nó bị mất hết (vì hóa thành Thổ). Vì vậy Thổ vẫn là kỵ 1.
Bán hợp Thổ cục có 1đh và có thêm 0,25đh (vì Thổ cục có chi thứ 4).
Nếu sử dụng giả thiết 114/6 thì Thổ cục là kỵ thần không sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần.
3 - Dụng thần Canh vượng ở lưu nên có -1đh.
4 - Nếu sử dụng giả thiết 61/6 thì Nhật can Quý mộ ở đại vận có 1đh (vì Thân nhược) và Quý mộ ở lưu niên có 1đh.
5 – Tân lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh.
6 - Nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì đất ven đường của trụ năm có Canh được lệnh nên khắc nước sông của trụ ngày có 1đh (không bị giảm ¼ đh, vì mặc dù can và chi của nạp âm này đều bị hợp nhưng có chi Ngọ của nó hợp với tuế vận hóa Thổ có hành giống với hành của nạp âm).
Đất trên tường đại vận có Kỷ vượng ở lưu niên khắc nước sông có 1đh.
Tổng số là 4,00đh. Số điểm này không thể chấp nhận được.
Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng giả thiết 10/6 thì sau khi tính lại điểm vượng vùng tâm Thổ vẫn là kỵ 1 và động nên phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Thổ có 7,43đv được thêm 8đv của Mùi đại vận và 8.2đv của Mùi lưu niên, vì vậy (hành) Thổ tại năm Tân Mùi có 7,43đv +24đv = 31,43đv (can Tân và Kỷ ở tuế vận không động nên điểm vượng của chúng không được tính).
Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng tiếp các giả thiết 13a/ và 14/6 thì Thổ là kỵ vượng, vì vậy mỗi chi Mùi ở tuế vận có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Nếu điểm vượng tại lưu niên của Mùi thái tuế không được tăng gấp đôi thì Thổ không phải là kỵ vượng).
Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (vì phương pháp này có sai số từ -0,1đh đến +0,1đh).
Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thổ quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu, bởi vì Thủy là hành của Thân và nó có thể hóa Kim (Kim khá mạnh đủ để hóa Thổ để sinh cho Thủy, vì vậy nó không cần thêm) để sinh cho Mộc, Mộc trở thành vượng mới có thể chế ngự được kỵ thần Thổ (bởi vì Mộc là kỵ thần nhưng nó quá yếu mà Thổ thì quá vượng).
Trong tứ trụ có Ngọ hợp với Mùi thái tuế hóa Thổ gây ra hạn cho nên tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ nhưng ở đây nó đã xẩy ra vào tháng Mùi bởi vì tháng Mùi là tháng mà Mộc nhập Mộ và nó đã tác động với 2 Ngọ trong tứ trụ làm cho tai họa xẩy ra.
Ất (Mộc) trong tứ trụ ở trạng thái tử tuyệt và nó bị hóa thành Kim mà Kim là quá vượng còn được Thổ cục sinh cho, vì vậy nó cực vượng còn Mộc nhập mộ 3 lần (ở đại vận, lưu niên và tháng Mùi). Do vậy người này bị khối u ở não (vì Mộc đại diện cho đầu, thần kinh, gan...).
Qua ví dụ này chúng ta nhận thấy nếu một hành quá nhược thì nó không cần phải bị khắc hay bị phản khắc bởi một hành khác, nó vẫn có thể gây ra tai họa liên quan tới hành đó.
- Nếu không có điểm kỵ vượng thì điểm hạn quá thấp nên không thể chấp nhận được.
- Nếu tam hội Tị Ngọ Mùi phá được Kim cục thì cũng không hóa được Hỏa (vì không có thần dẫn) thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được.
- Nếu Thổ cục là kỵ thần sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được.
- Nếu lực khắc của nạp âm vẫn bị giảm ¼ thì tổng điểm hạn là 4,75 có thể là hơi thấp.Các ví dụ minh họa :
Ví dụ 18: Bé trai sinh ngày 6/1/1983 lúc 0,00’ sáng. Chết vào tháng 7 năm 1983.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Tháng 7/1983 là năm Quý Hợi thuộc đại vận Quý Sửu (tiểu vận Quý Sửu).
1 - Tứ trụ này có Thân vượng và kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Mậu tàng trong Tuất trụ năm. Thủy là kỵ vượng.
2 - Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158), 105/18 và 123/6 thì vào đại vận Quý Sửu và năm Quý Hợi, giữa tứ trụ với tuế vận có tam hội Hợi Tý Sửu hóa Thủy cục có 4 chi có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đva, Sửu và Hợi ở tuế vận, mỗi chi có 0,5.5/4đh = 0,63đh kỵ vượng (bởi vì Ngọ trụ ngày xung gần 2 Tý trong tứ trụ không thể phá được tam hội có 4 chi, cũng như điểm hạn của Thủy cục được tăng gấp đôi và điểm kỵ vượng được tăng 1/4)
3 - Dụng thần Mậu tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – 2 Quý ở tuế vận, mỗi Quý có 1 cát thần có -0,25đh.
6 - Nước biển ở trụ năm và lưu niên có Nhâm và Quý vượng ở lưu niên khắc kim trong cát, mỗi lực có 1đh.
Tổng số là 5,01đh. Số điểm này là chấp nhận được. Từ ví dụ này chúng ta khẳng định tam hội cục ngoài tứ trụ chỉ có 2 chi trong tứ trụ mà 2 chi này giống nhau thì điểm hạn không được giảm (giả thiết 267/(26;18).
Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thủy là quá vượng. Do vậy ta phải dùng Hỏa và Thổ, nhất là Thổ để giải cứu (năm 1983, đứa bé này phải được đưa về phương nam và sống trong....như câu 2 phần II ở chương 18).
Năm Quý Hợi là năm mà Thủy vượng còn có thêm tam hội Thủy, Thủy là quá vượng, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Thân bởi vì nó là tháng mà Hỏa và Thổ bắt đầu suy yếu còn Thủy bắt đầu vượng khắc Hỏa và sinh cho Thân (Mộc). Thân (Mộc) càng thêm vượng khắc dụng thần Thổ.
Chị của bé trai đã kể :
“Trước đây rất nhiều người bảo phải bán khoán đứa em này cho nhà chùa thì mới nuôi được. Tuy nhiên bố mẹ tôi không tin nên hậu quả là khi bị bệnh rồi thì không còn kịp nữa. Em của tôi bị bệnh mà các bác sỹ không chuẩn đoán ra bệnh gì. Nó khóc 23 hôm thì mất”.
Nếu theo tứ trụ này thì chúng ta nhận thấy vào năm Quý Hợi xuất hiện tam hội Hợi Tý Sửu, nó đại diện cho các vị thần linh, vì vậy nó thường là tốt. Nhưng ở đây nó hóa Thủy mà trong tứ trụ Thủy là kỵ thần đã quá vượng và không có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ nên điểm hạn không được giảm, vì vậy nó trở thành cực kỳ xấu cho cháu bé (nghĩa là các vị thần đã xuất hiện nhưng lại muốn mang cháu bé đi theo họ chăng ?).
Ví dụ 158 : Ngày 15/4/1912 Tầu Titanic bị tai nạn. Nghĩa của từ Titanic là khổng lồ, vĩ đại, vì vậy nó mang tính của phái mạnh tức đàn ông.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Ngày 15 tháng 4 năm 1912 là năm Nhâm Tý thuộc đại vận Mậu Tuất (tiểu vận đầu tiên).
1 - Mệnh này Thân vượng kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Giáp tàng trong Hợi trụ năm.
2 – Vào đại vận Mậu Tuất và năm Nhâm Tý có.
Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý trụ tháng hóa Hỏa (xuất hiện trước, năm 1911) và tam hội Hợi Tý Sửu có 4 chi hóa Thủy (xuất hiện sau, năm 1912), vì vậy Hỏa cục và Thủy cục đã gây ra đại chiến.
Vì có Quý ở trụ tháng hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Thổ có 20đv bị mất 10đv của Sửu còn 10đv. Thủy có 5đv được thêm 10đv của Sửu thành 15đv.
Điểm hạn và điểm vượng vùng tâm đã thay đổi như sau :
1............0,5..........-1.........-0,5............0,5
Mộc......Hỏa........Thổ..........Kim............Thủy
#4,8.........2.........10............9,8.............15
Thân trở thành nhược và thực thương Thủy là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn Kỷ ở trụ giờ.
Thủy là kỵ 1 (động) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 2đv được thêm 2,62đv của Quý trụ tháng và 4,1đv của Mậu đại vận, thành 8,72đv. Thủy có 15đv bị mất 2,62đv của Quý trụ tháng, thêm 2.10đv của Tý thái tuế và 2.10đv của Nhâm lưu niên thành 52,38đv. Do vậy Thủy lớn hơn hỷ dụng thần Thổ và Kim trên 40đv.
Điểm hạn của tam hội Thủy cục có 4 chi có 1.2đh +0,25đh (vì Thủy là kỵ 1). Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng của Tý thái tuế được tăng gấp 4 lần có 4.0,5đh = 2đh. Hỏa cục có 0,5đh và điểm hạn của ĐC có 6.0,4đh = 2,4đh.
3 - Trụ tháng Quý Tị TKĐK với trụ giờ Kỷ Hợi có (0,25 + 0,05)đh = 0,3đh (vì Kỷ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
4 - Dụng thần Kỷ tuyệt ở lưu niên nên có 1đh.
5 - Nhật can Tân vượng ở lưu nên có -1đh.
6 - Kỷ trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có 1đh và khắc Nhâm lưu niên có 0đh (vì Thủy cục có 4 chi có điểm hạn và điểm hạn được tăng gấp đôi - giả thiết 80/(32;36;55) - “Các can trong tứ trụ không khắc được một hóa cục có 4 hay 5 chi nhưng các can cùng hành với hóa cục này vẫn bị khắc như bình thường nếu hóa cục này không có ít nhất 2 chi có điểm hạn và điểm hạn này phải được gấp đôi”.
7 - Đất trên tường trụ ngày có Tân vượng ở lưu nên khắc nước sông trụ tháng có 1đh, vì vậy nước sông không khắc được kim trang sức ở trụ năm.
Gỗ đồng bằng trụ giờ có Kỷ được lệnh nên khắc được gỗ dâu lưu niên có 0,25đh.
Tổng số là 10,2đh. Tam hội 4 chi ngoài tứ trụ mà trong tứ trụ có 3 chi mà có 2 chi khác nhau nên điểm hạn được giảm 1,25đh và 2 trong 3 chi này là Hợi cùng hành với Thủy cục. Do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn (10,2 -1,25).1/2.đh = 4,48đh. Số điểm này không thể chấp nhận được.
Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 149/158:
“Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến có 0,5đh nếu hóa cục chủ khắc có 1 can chi nhiều hơn so với can chi của hóa cục bị khắc, 0,6đh nếu nó có 2 can chi nhiều hơn, 0,7đh nếu nó có 3 can chi nhiều hơn,...” (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này).
(Chú ý: Tôi vừa mới sửa lại giả thiết này nên nó có khác một chút với Bài 22).
Nếu áp dụng giả thiết này thì tam hội Thủy cục là chủ khắc có nhiều hơn Hỏa cục 2 chi nên điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,6đh. Vì vậy điểm hạn của ĐC này là 6.0,6đh = 3,6đh. Tổng số là (11,4 -1,25).1/2.đh =
5,08đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.
Có Thủy khắc Hỏa và trong tứ trụ có Hợi và Sửu hợp với thái tuế hóa Thủy gây ra ĐC, do vậy vào các tháng Hợi và Sửu của mùa Đông tai họa dễ xẩy ra. Nhưng đại vận Mậu Tuất của năm Nhâm Tý (từ 4/2/1912 tới 31/5/1912) chỉ có các tháng Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn và Ất Tị. Trong đó chỉ có tháng Ất Tị là xấu nhất bởi vì nó TKĐX với trụ giờ Kỷ Hợi và nó là tháng và mùa mà Hỏa vượng còn Thủy ở tử tuyệt. Nhưng ở đây tai họa đã xẩy ra vào tháng Giáp Thìn. Tại sao như vậy ? Có thể tháng Giáp Thìn TKĐX với đại vận Mậu Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ.
Các nguyên nhân chính gây ra hạn ở đây là các điểm hạn của ĐC và nạp âm thì hiện giờ Tôi chưa có cách nào để ngăn chặn.
Hy vọng thời gian tới, tôi hoặc ai đó sẽ tìm được giờ sinh khác hoặc cách chứng minh khác cho tai họa của con tầu Titanic có tính thuyết phục hơn cách chứng minh này.