II. AI Ở TRÊN MẶT TRĂNG?
Tất nhiên cư dân nổi tiếng nhất của mặt trăng mà phần lớn người á đông đều biết đó là Chị Hằng, tên thật Hằng Nga. Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ, Hậu Nghệ lại là thượng cổ thần tiễn, chuyện xưa kể rằng Ngọc Hoàng có 10 đứa con trai vô công rồi nghề, hóa thành 10 mặt trời, 10 ông này luân phiên, mỗi ngày một ông làm nhiệm vụ chiếu sáng nhân gian. Một ngày nọ, một ông nhõi nào đó trong 10 ông hứng chí, gầy độ nhậu cho các anh em, thế là cả 10 ông cùng tề tựu một lúc. 10 mặt trời cùng chiếu thì chả cây cối hay con vật nào sống nổi cả, dân chúng khi ấy chỉ có nước kêu trời. Bấy giờ dưới hạ giới là thời nhà Hạ, vua nhà Hạ là Trọng Khang là dòng dõi Hạ Vũ, trong số bảo bối mà ông tổ Vũ để lại có Xạ Nhật Cung và 12 mũi Truy Nhật Tiễn từ thời Vua Nghiêu. Trọng Khang khi ấy đập bàn thét: Đcm, hàng nóng bây giờ không dùng thì đến khi nào mới dùng? - Rồi bèn cho triệu Hậu Nghệ vào, giao cho cung tên và sứ mạng giải cứu thế giới. Hậu Nghệ ra đi, leo lên núi Thái Sơn, giương cung đặt tên bắn luôn 9 phát, 9 ông trời con bị headshot rụng như mít, còn một ông hoảng quá lặn mất, thế gian lại chìm trong màn đêm vĩnh cửu. Mãi về sau nhờ con gà thần cất tiếng gáy báo hiệu an toàn rồi thì ông trời con còn lại mới ló dạng và tiếp tục chiếu sáng ... đến tận ngày nay. Do có công lao vô tiền khoáng hậu như vậy nên Hậu Nghệ được Trọng Khang ban cho một viên linh đơn và dặn rằng:
-Thuốc này mạnh lắm, cắn vào một viên là phê tới nóc, trình như chú nên tập dần dần, cắn từ nửa viên trước đã, không là thăng thiên luôn đấy.
Hậu Nghệ có vợ yêu là Hằng Nga, Nghệ dự định khi già sẽ cùng với Hằng Nga cắn thuốc rồi cùng thăng thiên thành tiên nên cất kỹ viên thuốc. Trong thời gian đợi già thì Hậu Nghệ đâm ra kiêu ngạo, tham lam, vơ vét của cải của dân chúng, vì vậy dân chúng oán ghét khởi nghĩa chống lại. Phùng Mông là học trò của Hậu Nghệ về phe dân chúng chống lại thầy, Nghệ còn một học trò nữa tên là Ngô Cương, vì sợ Cương theo gương sư huynh nên lột sạch chức tước, binh quyền, bắt Cương ngồi nhà trông chừng Hằng Nga và viên thuốc thần. Một ngày nọ, nhân lúc Ngô Cương say rượu lăn ra ngủ, Hằng Nga lén mở kho ra xem, bất thần có người báo Hậu Nghệ đã về đến cổng, Hằng Nga vội lủm nguyên viên thuốc định phi tang, nào ngờ hàng chuẩn thiên tử ban cho có khác, Hằng Nga một phát lên tới nóc, cả người nhẹ bỗng, trực chỉ thăng thiên, trong tay chỉ kịp với theo con thỏ trắng cùng lên cung trăng.
Hậu Nghệ trở về nhà, tiếc vợ thì ít mà tiếc hàng ngon thì nhiều, sẵn thằng học trò Ngô Cương đang say bí tỉ, Hậu Nghệ lao vào bóp cổ Cương chết lè lưỡi. Ngô Cương tự cho là chết oan, hồn không siêu thoát, bay lên cung trăng tìm Hằng Nga đòi mạng, một ông già xưng là Nguyệt Lão hiện ra phân tích cho Ngô Cương về lẽ sai đúng, thiệt hơn. Cương vẫn một mực tự cho là mình chỉ thờ thầy và làm theo thầy chứ không có sai gì cả, vẫn đòi Hằng Nga phải đền mạng. Nguyệt Lão bèn chỉ một cây quế cổ thụ trên mặt trăng và bảo Cương mang búa ra mà đốn, hễ đốn đổ được cây quế đó thì được trả lại thân xác mà hồi sinh. Nhưng cứ hễ Ngô Cương gần chặt đổ được cây thì thân cây lại tự động liền lại, cứ như vậy suốt mấy ngàn năm qua, người ta chỉ lên mặt trăng, nhòm vào đốm đen trong trăng mà bảo rằng đó là Ngô Cương đang đốn cây.
III. CÁC MÓN ĂN NGÀY TRUNG THU
Tất nhiên, trung thu thì không thể thiếu Bánh Trung thu được. Bánh trung thu là thứ "đương nhiên phải có" trong mâm cỗ cổ truyền của người Trung Hoa. Sự ra đời của bánh trung thu gắn liền với một sự tích lịch sử quan trọng: Vào thế kỷ XIV, 88 năm sau khi người Mông Cổ thiết lập ách cai trị trên toàn cõi Trung Hoa, để loại trừ cơ hội nổi dậy của người Hán, người Mông Cổ cấm họ sở hữu vũ khí, không cho phép tụ tập đông người, thậm chí thức ăn cũng bị chia khẩu phần. Năm 1368, thủ lĩnh của cuộc nổi dậy là Chu Nguyên Chương được quân sư Lưu Bá Ôn bày cho một kế hoạch. Nhân Tết Trung thu đang đến, Lưu Bá Ôn tung tin đồn sắp có một bệnh dịch chết chóc và cách duy nhất để vượt qua là ăn bánh Trung thu. Khi người dân đi mua bánh, Lưu Bá Ôn cho người bí mật nhét vào tất cả các nhân bánh Trung thu một mẩu giấy ghi rõ ngày giờ nổi dậy, chính là vào ngày Tết này. Do người Mông Cổ không ăn bánh Trung thu (vì họ đếch có tết trung thu) nên kế hoạch thành công và Chu Nguyên Chương lên ngôi lập ra triều Minh. Từ đó về sau, cùng với sự hoàn thiện dần của bánh Trung thu, người Trung Hoa ăn bánh Trung thu vào ngày Rằm tháng Tám để kỷ niệm sự kiện này. Bánh trung thu nguyên bản chỉ là cái vỏ bánh nướng lên, bên trong ... đếch có gì (vì để chứa mật thư), về sau, người ta biến tấu ra nhân bên trong bằng các loại hạt, mứt xay nhuyễn, nhưng phổ biến nhất là các loại đậu, vừa rẻ tiền, vừa dễ làm, dễ kiếm. Bánh trung thu có nhân trứng muối là sau này người ta bắt chước bánh pía, chứ bánh truyền thống của Trung Quốc không có trứng. Sau đó đến nhân thập cẩm (hạt sen, hạt dưa, mứt gừng, mứt bí, lạp xưởng, mỡ) là loại bánh truyền thống của người Việt cùng với bánh dẻo. Các nước Đông Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có những loại bánh trung thu của riêng họ. Với người Việt gốc Hoa, bánh trung thu nhất định phải hình tròn. Người Tiều có món bánh Trung thu riêng đặc biệt. Nó cũng hình tròn, nhân khoai môn, đậu xanh nhuyễn giống bánh pía nhưng to hơn nhiều, khoảng gần bằng bàn tay, mỏng dẹp hơn, có ba lớp vỏ bột mỏng và được nướng giòn lên, gọi là bánh mặt trăng.
Ngoài
Khoai môn là một món bắt buộc. Bây giờ, ngay ở Trung Quốc người ta vẫn cúng món khoai môn với ý nghĩa tên của nó
(芋头 yutou) đồng âm với “hữu phúc bên trong”, nhưng có thể cắt lát, hấp chín hoặc chiên vàng rưới sirô, hoặc nấu canh… Còn ở các gia đình người Hoa Chợ Lớn, đĩa khoai môn vẫn để nguyên củ tròn trịa. Món này gắn liền với các điển tích nuôi dưỡng ý chí kháng chiến chống giặc Hồ của người Trung Hoa (Hồ: tên không coi trọng, chỉ sắc dân tại Trung Á và Tây Á, được sử dụng phổ biến trong các sử tịch và văn hiến thời nhà Đường) vì khoai môn" đồng âm với "Hồ thủ" nghĩa là đầu của quân giặc Hồ. Cũng có những tích khác như bưởi và khoai môn là hai thứ thực phẩm được trời ban cho Quang Võ Đế nhà Hậu Hán trong cuộc nổi dậy chống Vương Mãng vào ngày trăng tròn tháng Tám. Từ đó về sau nhà vua tạ ơn trời đất và thưởng trăng bằng hai sản vật này rồi lưu truyền khắp dân gian.
Người Quảng Đông, Phúc Kiến thường dùng món ốc sông. Có nhà dùng ốc bươu, có nhà lại dùng ốc len xào dừa. Sở dĩ người ta ăn ốc trong mùa thu vì đây là lúc ốc không có con và tích trữ năng lượng chuẩn bị ngủ đông nên ốc mùa thu là béo nhất và giàu vitamin A nhất, nên ăn sẽ bổ mắt. Ở phía bắc Trung Quốc, người vùng Thượng Hải, Giang Tô, Chiết Giang nơi có nhiều sông hồ sẽ ăn cua mặt trăng vì tháng 9, tháng 10 là mùa cua ngon nhất, giàu protein và axit amin. Ngoài ra còn có củ sen và mì trường thọ, loại mì với sợi nhỏ nhưng thật dài với mong ước được sống thật lâu. Tục cúng trăng cổ truyền gồm có
Tế nguyệt và Thưởng nguyệt. Tế nguyệt là bày mâm cỗ cúng dưới ánh trăng. Thưởng nguyệt là phá cỗ, chơi trăng, rước đèn, đố chữ, múa rồng lửa để trừ tà… phá cỗ thường dành cho trẻ con, ở miền bắc Việt Nam xưa kia, các nhà nông dân sẽ làm các món kẹo mạch nha và các loại mứt cho trẻ em trong ngày Trung Thu, người lớn sẽ chơi thả thơ, giải câu đố và uống rượu hoa cúc.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
IV. SỰ TÍCH LỒNG ĐÈN
Nhắc tới Trung Thu thì không thể thiếu lồng đèn, nhưng từ khi đèn điện được phát minh thì lồng đèn đã không còn thông dụng như ngày xưa nữa. Ngày xưa, người ta chia lồng đèn thành hai loại: Loại thả lên trời và loại cầm trên tay. Người nghĩ ra loại đèn thả lên trời theo dân gian là Gia Cát Lượng nên đến ngày nay người ta còn gọi đèn trời là đèn Khổng Minh. Người ta dùng đèn trời không chỉ để soi sáng mà còn để truyền tin, báo hiệu trong quân sự. Đèn trời vốn được làm bằng vải, vì giấy sẽ không chịu được gió lớn khi lên cao, chính vì vậy mà khi rơi xuống hoặc khi bất cẩn sẽ rất dễ gây hỏa hoạn. Ngày nay lễ hội thả đèn trời lớn nhất được tiến hành vào tháng 10 hàng năm ở phố cổ Thập Phần - Đài Loan, tuy nhiên những người yêu môi trường hàng năm vẫn kêu gọi dẹp bỏ lễ hội này.
Đèn lồng là thứ vô cùng quen thuộc với người dân trước đây, là thứ bắt buộc nhà nào cũng phải có, thường là bằng giấy hoặc lụa. Người ta đi đêm phải mang đèn lồng để soi đường, tuần đinh đi tuần tra đêm cũng phải mang theo đèn lồng, cửa hiệu bày bán ban đêm cũng treo đèn lồng để thắp sáng biển hiệu nhà mình, nhà có hỷ sự (đám cưới) gia chủ sẽ mua một cặp đèn lồng đỏ treo ngoài hiên, khi nhà có người mất sẽ thay bằng một cặp đèn lồng trắng. Những chiếc đèn lồng đủ màu sắc là một nét riêng, đặc trưng của phố cổ Hội An. Vào những tối cuối tuần, các bạn có dịp nên ghé qua phố cổ để xem các cửa hiệu thắp đèn lồng. Đèn lồng Hội An được xem là những tác phẩm nghệ thuật, người Nhật từng mời một gia đình làm đèn lồng gia truyền ở Hội An sang Nhật để làm phóng sự và quay phim. Sẵn tiện, người Nhật cũng rất gắn bó với đèn lồng: Đèn lồng của Nhật thường làm bằng giấy, có chữ đại tự viết hẳn lên bên ngoài để biểu thị mặt hàng/mục đích của chủ nhân.
Dù ngày nay, ở các thành phố, đèn điện đã thay thế đèn lồng nhưng trong các ngôi đền Shinto (thần đạo) truyền thống, đèn lồng vẫn được treo bên dưới các cánh cổng Torii linh thiêng... Ngoài ra người Nhật có loại lồng đèn Cá Chép, gắn liền với lễ hội Koinobori rất nổi tiếng. Về nguồn gốc thì việc này dựa vào truyền thuyết cá chép vượt vũ môn của Trung Quốc, nhà nào có con trai thì sẽ treo lồng đèn cá chép ngoài sân, và theo đúng truyền thống thì phải treo đủ 5 màu đỏ, đen, lục, trắng, vàng theo 5 màu ngũ hành với mong muốn đứa trẻ trong nhà sẽ mạnh mẽ, can trường giống như cá chép bơi ngược vũ môn vậy.
Tuy nhiên, ở các nước phương tây, mà cụ thể là Hà Lan, nhà nào treo đèn lồng đỏ thì đồng nghĩa đấy là ... nhà thổ. Đây là quan niệm từ xưa, những chốn ăn chơi thác loạn thường treo đèn màu đỏ ngoài cửa để dễ nhận biết, lâu dần nó ăn vào tiềm thức dân bản xứ. Địa danh Phố Đèn Đỏ không phải là từ của dân Châu Á mà là từ Châu Âu.
Nếu như ngày nay lồng đèn Trung Quốc chạy pin đã tràn ngập thị trường thì cách đây 30 năm là thời hoàng kim của lồng đèn giấy bóng kiếng. Niềm ao ước của những đứa trẻ ngày xưa là lồng đèn hình ngôi sao, con cá, tàu thủy, xe tăng, con bướm ... dù rằng độ bền của chúng mong manh như chính tờ giấy kiếng làm ra chúng vậy, hiếm có cái lồng đèn nào thọ nổi qua một mùa trung thu, hehe... Nhưng xa xôi hơn nữa, đỉnh nhất của các loại đèn lồng phải là đèn kéo quân. Đèn kéo quân còn có tên dân dã là đèn cù, tên tiếng Hoa là Tẩu Mã Đăng (đèn ngựa chạy), ngày xưa được thắp trong các lễ hội lớn chứ không phải chỉ mỗi trung thu. Có những chiếc đèn kéo quân rất lớn, nặng cả trăm ký mất rất nhiều công sức mới làm thành.
Theo truyền thuyết, ngày xưa có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: "Ta là Thái Thượng Lão Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua". Hôm sau theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng 8 cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất hài lòng. Khi Vua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: "Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa đèn là biểu hiện trục khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, cũng như con người tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện cá tính của con người". Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn đốt lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau.
Tất cả những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy. Vua ban thưởng cho mẹ con Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu. Từ đó, mối khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức, dân chúng đua nhau bắt chước chàng làm nên những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn kéo quân.
Theo thời gian, đèn kéo quân được làm như một bức tranh minh họa cho các điển tích tàu, các tích thường thấy là Tây Thi - Phạm Lãi, Tam Anh kết nghĩa - Chiến Lữ Bố, Tứ đại mỹ nhân hay Hán Sở tranh hùng... Người ta cũng thay thế gỗ thường thành gỗ thơm, thay giấy bằng lụa, biến chiếc đèn trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Thời xưa trong các đám hội trung thu, người ta treo phía dưới những chiếc đèn này những câu đố hoặc câu đối, các văn nhân tài tử sẽ mở ra và giải đố hoặc đối câu để sở hữu chiếc đèn, độ khó của câu hỏi tương đương với độ quý hiếm của chiếc đèn. Ở Chợ Lớn, vào dịp Trung Thu, các hội quán người Hoa thường tổ chức bán đấu giá những chiếc đèn tinh xảo, có thư pháp đẹp để gây quỹ học tập cho các em nhỏ trong cộng đồng. Ngày nay, những tập tục cổ xưa cũng ngày càng mất dần, dù ở nhiều nơi, tết Trung thu là một ngày tết chính thức, người đi làm đều được nghỉ một ngày.
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Bách Hiểu Sinh
Nguồn
Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn