Jump to content

Advertisements




NHỮNG CHUYỆN ĐƯƠNG THỜI ĐỨC PHẬT


98 replies to this topic

#76 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/10/2012 - 08:11

77. Hiểu đạo và tu đạo

Có hai anh em nhà nọ cùng xuất gia theo Phật. Họ tu một thời gian thì từ từ tách nhau ra, mỗi người rẽ sang một đường lối khác biệt nhau. Người anh thì rất tinh tấn hành đạo, còn người em thì hết sức cố gắng học hỏi để hiểu đạo.

Sau một vài năm, người thì chăm chỉ sớm tối, người thì chỉ lo nghiên cứu, cả hai đều có chỗ thành đạt. Người anh thì chứng quả A-la-hán, người em thì đã thâm nhập Ba tạng kinh điển của Phật pháp.

Tuy nhiên, người em thường cho là mình học rộng nghe nhiều, tự vỗ ngực khoe khoang tỏ ra thông minh, làm cho mọi người phải biết đến tên mình, cho rằng như thế mới là vinh dự. Khi người anh biết điều ấy rất lấy làm lo lắng cho em, cảm thấy sự thành công của em mình không có triển vọng tốt đẹp, nên có lần khuyên nhủ rằng:

– Thân người khó được, gặp Phật tại thế cũng rất khó. Chính đức Phật đã có nói, cơ hội mất thân người thì ví như mặt đất mênh mông, còn cơ hội được thân người thì ví như chút bùn dính trên móng tay. Bây giờ em đã có thân người, nên lấy việc tu hành làm trọng, việc tìm hiểu để sau, em phải hết sức thận trọng chọn lựa việc ưu tiên mà làm.

Người em nghe nói thế không thấy anh mình có lý nên bỏ ngoài tai, còn bác bỏ rằng:

– Điều huynh nói, đệ nghĩ không hẳn đã đúng. Đệ cảm thấy sự hiểu biết về Phật pháp của đệ tuy chỉ như giọt nước trong biển cả, và tuy chưa vào được cốt tủy của đạo, song đã đi thì phải đi cho trót. Đợi đệ tinh thông Tam tạng giáo nghĩa, đảm nhiệm chức vị “thầy của trời người”, sau đó tu hành cũng chẳng muộn.

– Nhưng đời người vốn vô thường ngắn ngủi, lỡ như em chưa học xong Tam tạng giáo nghĩa đã bị vô thường cuốn mất thì sao? Cho nên chuyện tu hành là chuyện cấp bách nhất!

Nhưng người em vẫn chấp chặt vào ý kiến của mình, không chịu nghe lời khuyên của anh. Không lâu sau, người em mắc phải một cơn bệnh quái dị, không có thuốc nào cứu chữa chỉ còn chờ chết. Biết là không thể thoát chết, người em vô cùng khiếp sợ nói với người anh rằng:

– Lúc trước tiểu đệ ngu si đui mù, không chịu nghe lời khuyên bảo của hiền huynh. Bây giờ đứng trước cửa tử, tu hành không kịp nữa rồi!

Người em nói mà nước mắt ràn rụa, xin lỗi anh và không lâu sau trút hơi thở cuối cùng. Người anh niệm tình anh em, bèn nhập định quán sát xem người em thác sinh về chốn nào.

Khi thấy người em đã thác sinh vào nhà một ông trưởng giả, người anh bèn nghĩ đến chuyện cứu độ em. Nhà của người trưởng giả ở gần một ngôi chùa, người anh bèn về ở đấy tu hành để dò xét chờ đợi cơ hội.

Trong đời sống mới, người em vừa lên ba tuổi đã được người anh cho quy y và dạy niệm Phật. Đó là một đứa bé thông minh khôn ngoan, học đâu biết đó nên được mọi người yêu mến.

Khi nó được bốn tuổi, một hôm được bà nhũ mẫu bồng lên chùa trên núi thăm sư phụ. Chùa tọa lạc trên một ngọn núi cao, các bậc thang bằng đá thì khúc khuỷu gập ghềnh, bà nhũ mẫu bồng đứa bé trong lòng sơ ý vuột tay, đứa bé rơi xuống núi, máu đổ thịt rơi, thân hình tan tác, chết một cách thê thảm.

Ngay trong sát-na nó lìa đời, trong tâm sinh khởi niệm ác, oán hận bà nhũ mẫu ôm mình không cẩn thận khiến cho phải gặp tai nạn như thế này. Vì niệm sân hận trong tâm đó nên chết rồi là đọa ngay xuống địa ngục.

Khi người anh biết được chuyện này, thương xót đứa em bất hạnh đã đành, nhưng ông còn nhập định xem nó thác sinh vào chốn nào. Bỗng nhiên trong định, ông thấy em mình đã rơi xuống địa ngục, bất giác than dài:

– Trong địa ngục khổ sở đến chừng nào, khó độ đến chừng nào! Chư Phật và chư Bồ Tát còn không cứu được, ta làm sao cứu được em đây!

Phật pháp khó được nghe, thân người khó được, mà một khi được rồi thì có được bao năm? Chúng ta phải nắm bắt cơ hội, cố gắng tu hành. Trong đạo Phật, hiểu đạo tuy là chuyện quan trọng nhưng thực hành đạo càng cấp bách hơn. Nếu đủ nhân duyên, tốt nhất là nên tu và học cùng một lúc, hành và giải phải được coi trọng ngang nhau. Bằng như chưa đủ nhân duyên, việc trước mắt phải lấy sự hành trì làm trọng, kẻo vô thường chóng vánh, hối không còn kịp!

Thanked by 2 Members:

#77 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/10/2012 - 12:21

78. Bài học cho người háo sắc

Có một cặp vợ chồng kia sống tại một nơi hẻo lánh của Ấn Độ, vì muốn cầu thiện tri thức nên không ngại đường xa vạn dặm, dọn về thành Xá Vệ tìm kế sinh nhai.

Hai vợ chồng đều có tên rất đẹp, chồng tên Lạc Tu, vợ tên Hân Kiến. Chồng thì tinh tiến tu trì Phật pháp, vợ thì xinh đẹp như tiên nữ, người nào đã từng quen biết với cặp vợ chồng này, khi nói về họ cũng đều không tiếc lời khen ngợi.

Hân Kiến không những xinh đẹp mà còn phúc hậu hiền lành, khiến rất nhiều người hiếu kỳ muốn được nhìn thấy mặt người tiên. Nhưng khổ thay, Hân Kiến không bao giờ bước chân ra khỏi cổng, sợ mình là nguyên nhân mang tới cái họa thị phi. Chỉ khi nào các vị tỳ-kheo thánh nhân đến nhà nàng mới chịu đích thân tiếp đãi và lễ kính cúng dường.

Nhưng danh tiếng về nhan sắc của nàng vẫn vang lừng khắp nơi, xa gần không ai là không nghe nói đến và tấm tắc khen ngợi.

“Danh thơm đưa đến sự ganh tị, nhan sắc đưa đến tai họa.” Nhan sắc mỹ lệ của Hân Kiến suýt chút nữa đã là nguyên nhân dẫn đến cái chết của hai vợ chồng.

Có một ông vua tên là Tự Tại, nghe đồn về nhan sắc của Hân Kiến, cũng muốn được một lần nhìn xem nàng xinh đẹp tới mức nào. Một hôm ông hỏi vị đại thần thân cận nhất:

– Có cách nào cho ta được thấy nàng không?

Vị đại thần trả lời:

– Hai vợ chồng họ đã quy y Tam Bảo, đã thọ năm giới, nghiêm trì giới luật, bình thường rất ít khi ra khỏi nhà. Phu nhân Hân Kiến vốn không chịu tiếp một ai, nếu đại vương nhất định muốn nhìn thấy mặt phu nhân, thì chỉ có một cách là giả làm tỳ-kheo, lúc ấy phu nhân Hân Kiến mới bằng lòng tiếp đãi.

Vua Tự Tại làm đúng lời khuyên của vị đại thần, giả dạng làm một người tu hành đến nhà của Hân Kiến, quả nhiên được nàng tiếp đãi một cách nhiệt thành. Về lại cung, ông không phút giây nào là không nhớ tưởng đến nàng, vì trong đời ông chưa từng gặp một người đẹp như thế. Ông bèn nghĩ làm cách nào để có thể sống chung với mỹ nhân mãi mãi, nhưng biết làm sao đây? Ông lại tìm đến vị đại thần nói trên để vấn kế, vị này trả lời:

– Tuy hai vợ chồng là người tu hành và lại là người từ xa đến đây sinh sống, song đã cư trú ở nước này thì đều là thần dân của đại vương. Nếu đại vương cho triệu đến gặp mà họ không đến là không tuân thánh chỉ, là có tội phải phạt, lẽ nào họ không sợ tội hay sao? Thần còn xin tâu thêm rằng, tại một nơi cách đây hơn ngàn dặm, có một cái hồ rất lớn, trong hồ ấy có mọc những đóa hoa sen ngũ sắc, nếu có ai muốn hái những đóa hoa sen ấy phải vượt qua ba loại tai nạn, một là rắn độc, hai là ác thú, ba là giặc cướp. Chúng ta không có lý do gì tự nhiên bắt tội người ta, nhưng nếu muốn buộc cho họ có tội thì đại vương chỉ cần sai Lạc Tu đi hái những đóa hoa sen ấy về, tự nhiên hắn sẽ phải táng thân mất mạng. Đại vương, nếu muốn bắt mỹ nhân Hân Kiến thì đây là một giải pháp có thể giúp đại vương thành tựu được ý nguyện.

Vua Tự Tại lúc ấy không còn nhân tính, tâm tư đã hoàn toàn bị tham dục sai sử, không còn biết đâu là lương tâm, là lẽ trời, nên cứ đúng theo lời khuyên của vị đại thần mà thi hành. Ông lập tức cho triệu Lạc Tu vào cung, hỏi rằng:

– Khanh là thần dân của ai?

– Thần là thần dân của đại vương.

– Đã là thần dân của ta, vậy tại sao từ trước đến nay không đến bái kiến ta?

– Thần tự thấy mình ngu si dốt nát, từ trong bùn lầy nước đọng sinh ra nên không dám đến bái kiến đại vương.

Vua Tự Tại sa sầm nét mặt:

– Ngươi có biết không đến bái kiến vua là có tội hay không?

– Xin đại vương bớt giận, thần đã tự biết lỗi của mình rồi.

Vua Tự Tại khấp khởi mừng thầm, thấy kế hoạch của mình sắp thành công, hình bóng của mỹ nhân sắp xuất hiện trước mắt, bèn nói tiếp:

– Ngươi đã tự biết lỗi, ta sẽ không xử tử ngươi. Nhưng ta đang muốn một vật này, nếu như ngươi mang về được cho ta thì ta sẽ xá tội cho ngươi.

Lạc Tu hỏi:

– Thần sẵn sàng làm những gì đại vương sai bảo, nhưng không biết đại vương muốn sai thần đi đâu và mang những gì về cho đại vương? Xin đại vương chỉ dạy rõ ràng.

– Cách đây hơn ngàn dặm đường có một cái hồ lớn, trong ấy có mọc những đóa sen ngũ sắc ngạt ngào hương. Ta chỉ cần ngươi hái về cho ta một đóa thôi. Nhưng ta căn dặn ngươi, ngươi phải trở lại trong vòng bảy ngày. Quá thời hạn bảy ngày ta sẽ kết tội ngươi chậm trễ.

Lạc Tu về nhà, đem tất cả mọi sự kể cho vợ nghe. Hân Kiến nghe xong buồn bã nói:

– Tai nạn của chàng hôm nay là do nhan sắc của thiếp mà ra. Đức Phật đã từng nói, Tam giới không phải là nơi chắc chắn, ta chỉ có thể nương tựa vào giới luật mà thôi. Khi ra đường, chàng phải niệm thầm danh hiệu Phật, không phút giây nào quên lãng. Có như thế mới có thể biến họa thành phúc được. Nhưng nếu chẳng may chàng có bề gì, thiếp sẽ xuống tóc xuất gia, quyết vì chàng mà không bao giờ tái giá.

Hân Kiến chuẩn bị lương khô cho chồng mang theo và hai người từ biệt nhau. Đây là một cuộc chia tay đau đớn, nhưng họ không bịn rịn khóc lóc như người thường. Lạc Tu sửa soạn đâu đó xong xuôi là lập tức lên đường, hướng thành ngoại mà ra đi.

Từ khi ra khỏi cửa đi ròng rã được bốn ngày, Lạc Tu mới gặp phải chuyện chưa từng thấy. Hôm ấy, khi trời sắp tối, trên con đường hoang vắng bỗng có một bọn cướp kéo đến rất đông đảo, trong tay cầm nào gươm nào đao, nào thương nào kích, trông hung dữ bạo tàn rất ghê rợn. Lạc Tu thấy họ thì chỉ một lòng niệm thánh hiệu của Phật. Tướng cướp chận đường hỏi:

– Ê, mi là ai? Dám cả gan tới đây làm gì?

– Tôi tên là Lạc Tu, là đệ tử của đức Phật, phải tới đây để hái hoa sen ngũ sắc.

Lạc Tu trả lời một cách cứng cỏi. Nghe chàng tự xưng mình là đệ tử của đức Phật, thái độ và giọng nói của bọn cướp thay đổi hẳn, họ trở nên tử tế và ôn hòa:

– Trước đây vua đã từng sai nhiều người tới đây hái hoa, nhưng chúng tôi căm hận vua trị nước không công minh nên chúng tôi giết hết những người ấy rồi. Huynh không phải là người có tội mà bị vua ra lệnh tới đây. Chúng tôi tuy là một lũ giặc cướp nhưng tuyệt đối không hại đệ tử của đức Phật, huống chi huynh là người vô tội? Ngay giờ phút này chúng tôi xin thả huynh đi, nhưng trên đường đi như thế, huynh sẽ phải gặp rắn độc và ác thú, chưa chắc đã tránh khỏi bị chúng làm hại. Thôi thì bây giờ huynh không cần phải đi, chúng tôi sẽ đi hái hoa thay huynh, sau đó huynh có thể bình an mà trở về. Chúng tôi làm như thế vì sự kính trọng đối với đức Phật, và nếu chúng tôi giúp đỡ cho đệ tử của Ngài thì sau này chúng tôi có thể chia được một chút phúc đức. Xin huynh ở lại đây chờ một chút.

Không lâu sau, họ đem hoa sen ngũ sắc về, không phải chỉ một đóa hoa mà là rất nhiều hoa, Lạc Tu không thể nào khuân nổi. Bọn cướp bèn gởi người khuân giúp Lạc Tu và hộ tống chàng về tới cửa thành mới chia tay.

Khi Lạc Tu vào yết kiến vua Tự Tại, vua kinh ngạc tột độ khi thấy chàng đã về tới bình yên vô sự, bèn hỏi rằng:

– Trên đường đi khanh đã gặp những gì? Làm sao khanh lại có thể về tới mau chóng như thế?

Lạc Tu không giấu giếm, đem tất cả mọi chuyện ra kể cho vua Tự Tại nghe. Vua nghe rồi, xấu hổ mà rằng:

– Bọn cướp là phường không biết phải trái, vì thế ngày thường vẫn gia hại khách buôn qua lại. Vậy mà khanh được họ giúp đỡ, khanh đã cảm hóa được họ, khanh hẳn phải là người rất thiện lương. Đáng xấu hổ thay cho ta, ngồi trên cương vị một ông vua mà không biết phân biệt thiện ác, không rõ đúng sai, bọn giặc cướp mà còn biết kính trọng khanh và khinh thường ta nữa là! Khanh là người được bọn đạo tặc tôn kính, thế mà ta lại lập kế mưu hại khanh, ta thật là sai quấy!

Lúc ấy vua Tự Tại thật sự cảm thấy xấu hổ, bèn sám hối với Lạc Tu và phát nguyện quy y đức Phật, thọ trì ngũ giới, sửa chữa sai lầm cũ, xây dựng một tương lai thiện lành, và trở thành một vị đại hộ pháp của đức Phật.

Về sau, vua Tự Tại dùng đức độ nhân từ mà trị dân, bọn cướp bỏ nghề cũ trở về với đời sống lương thiện, quốc gia vì thế mà trở nên thái bình an lạc.

Sự thật, chính là nhờ vợ chồng Lạc Tu đã chân thành tu hành theo Phật pháp nên mới cảm hóa được mọi người.



Thanked by 2 Members:

#78 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 14/10/2012 - 12:34

79. Tâm độc địa

Trong xã hội ngày xưa có một tập tục rất xấu, đó là khi hai vợ chồng cưới nhau được vài năm, nếu người vợ chưa sinh sản được thì người chồng thường cưới thêm vợ lẽ, khiến cho hòa khí trong gia đình vì thế mà tan nát.

Thời xưa có một người, cưới vợ được mấy năm rồi, hai vợ chồng thèm khát một đứa con mà chờ mãi không có, người chồng nóng ruột quá nên cuối cùng đi cưới một cô vợ lẽ. Với sự thỏa thuận của bà vợ lớn, cô vợ lẽ được về ở chung trong cùng một nhà.

Không lâu sau cô này sinh hạ được một đứa con trai trắng trẻo và bụ bẫm, khiến người chồng hết sức vui mừng. Từ đó ông lại càng cưng quý cô vợ lẽ và thằng con trai mà không ngó ngàng gì đến bà vợ cả.

Ngay từ phút đầu, bà vợ cả đã xem cô vợ lẽ như cái gai trong mắt, huống chi bây giờ thấy chồng cưng quý mẹ con cô này hơn trước, dĩ nhiên bà không khỏi nổi cơn ghen tức. Nhưng trước quyền uy của ông chồng, bà không làm gì được, chỉ có thể thừa lúc người chồng vắng nhà mới hơi tỏ lộ ra chút ghen hờn, giận tức đối với người vợ lẽ. Tuy nhiên những cơ hội ấy rất hiếm, cho nên lòng oán hận của bà càng lúc càng chồng chất nhiều thêm.

Một hôm, đứa bé vừa đúng hai tuổi, bà vợ cả thừa lúc cô vợ lẽ vắng mặt mới rút một cây trâm vàng cài trên tóc cắm sâu vào đầu đứa bé. Bà làm chuyện này một cách âm thầm bí mật, không ai hay biết. Đứa bé khóc mãi không ngừng nhưng không ai nghe thấy, cho nên đứa bé trắng trẻo bụ bẫm kia, chỉ sau một đêm lên cơn sốt thật nặng đã yểu mệnh mà chết.

Thấy đứa con mình mang nặng đẻ đau lại kháu khỉnh dễ thương đến dường ấy bỗng nhiên một hôm ngã lăn ra chết, người mẹ nào mà không đau đớn? Cô vợ lẽ bị tai nạn giáng xuống đầu một cách thình lình như thế khóc thương bi thảm, thằng con chết cả tháng rồi mà cô vẫn còn gào khóc thảm thiết, tâm can tan nát cho đến ngã bệnh.

Người chồng thấy con mình chết yểu dĩ nhiên là thương tiếc vô cùng, nhưng ông bình tĩnh hơn, nghĩ rằng người đã chết thì nào có sống lại được, khóc lóc chẳng ích lợi gì. Tuy nhiên có rất nhiều người bà con láng giềng nói rằng một đứa bé chết thình lình như thế chắc chắn là phải có nguyên do, họ bèn khuyên cô vợ lẽ mở quan tài để khám nghiệm tử thi.

Quả nhiên mọi người đoán không sai, lúc khám nghiệm mới thấy trong đầu của đứa bé có cắm một cây trâm vàng dài cả ba tấc!

Cô vợ lẽ thấy con mình chết vì bị sát hại thì lại càng đau khổ hơn, vừa bi thương vừa căm phẫn, cô thề rằng sẽ báo thù cho con, nếu không thì chết không nhắm mắt.

Cô tìm một vị Bà-la-môn để thỉnh giáo, hỏi xem phải làm thế nào để báo thù. Vị này bảo cô nếu trì được trai giới thì sẽ được mãn nguyện. Lòng thương con của cô càng tha thiết thì ý nguyện báo thù càng thâm sâu, cô bèn trì trai giới rất tinh cần. Không lâu sau, cô vợ lẽ này vì quá sầu muộn nên lìa bỏ cõi đời.

Cũng đúng lúc ấy bà vợ cả thụ thai nên vui mừng khôn kể xiết. Cây gai trước mắt đã nhổ được rồi, chính mình lại đang có thai nên có thể được chồng yêu chiều hơn, niềm vui của bà thật là không cùng tận!

Không lâu sau bà sinh hạ được một đứa con gái xinh đẹp như hoa như ngọc, cả nhà cưng quý đứa bé như châu báu, nhưng bất hạnh thay, đứa bé vừa được hai tuổi thì lìa đời.

Thật là một tai biến không ai có thể ngờ được, bà vợ lớn khóc đến chết đi sống lại, nhưng người đã chết rồi, biết làm sao đây?

Một thời gian sau bà lại sinh được một đứa con trai, nhưng nuôi chưa đến ba tuổi cũng đã chết yểu.

Cứ như thế, bà sinh được sáu đứa con nhưng chỉ nuôi được đến bảy tuổi là tối đa. Con cưng mà lại chết yểu, làm cha mẹ ai lại không đau đớn? Ròng rã mười năm trời như thế, người vợ lớn sinh được đứa con nào là đứa con ấy chết yểu nên đau khổ triền miên, thân thể tiều tụy, bà tuyệt vọng tự giam mình suốt ngày trong nhà không muốn tiếp xúc với người ngoài.

Một hôm, bỗng nhiên có một vị tỳ-kheo đến tìm bà. Ban đầu bà từ chối không chịu ra gặp, về sau vị tỳ-kheo bảo là có chuyện quan trọng muốn nói với bà, bà mới chịu ra. Khi vị tỳ-kheo nhìn thấy bà, ông liền hỏi ngay:

– Bà có nhớ cô vợ lẽ đã chết rồi không? Cô ấy vì sao mà chết? Rồi đứa con mới lên hai của cô ấy, cũng vì sao mà chết vậy?

Câu hỏi đặt ra quá bất ngờ khiến bà vợ cả hoảng sợ, toàn thân run lẩy bẩy, không trả lời được câu nào. Bà xấu hổ và đau đớn kể lại mọi sự cho vị tỳ-kheo nghe, và cầu khẩn ông cứu khổ cho bà.

Vị tỳ-kheo nói cho bà biết rằng sáu đứa con chết yểu của bà chính là oan hồn cô vợ bé đầu thai về cố ý làm cho bà khổ đau. Nếu bây giờ bà muốn giải trừ mối oan gia đó, bà phải đến chùa làm công quả để tiêu tai.

Ngày hôm sau, bà vợ lớn tuân theo lời dạy của vị tỳ-kheo, trời vừa tảng sáng là bà thức dậy sửa soạn đến chùa, nhưng trên đường đi, bà thấy một con rắn độc đang hả miệng thật lớn, phăng phăng trườn đến gần bà khiến bà sợ quá ngã xuống bất tỉnh. May thay, vị tỳ-kheo nói trên cũng vừa đến nơi, nói với con rắn độc:

– Này rắn độc! Ngươi chưa thấy mãn nguyện sao? Ngươi nghĩ lại xem, bà ấy chỉ hại ngươi có một lần mà ngươi báo thù tới sáu lần, như thế chưa đủ rồi hay sao? Bây giờ bà ấy đã biết hối hận, lại còn muốn lên chùa làm công đức hồi hướng cho ngươi, ngươi cũng nên hóa giải mối oan kết ấy đi. Ngươi không nghe nói “oán cừu nên cởi không nên kết” chăng? Nếu hôm nay ngươi muốn giết bà ấy thì chẳng có ích lợi gì cho ngươi mà chỉ có hại. Vì tương lai của chính ngươi, ngươi nên bỏ qua hết mọi sự đi! Không lẽ ngươi muốn đời đời kiếp kiếp sinh làm súc sinh hay đọa địa ngục?

Câu nói của vị tỳ-kheo khiến con rắn độc có vẻ như hiểu ra, nó cúi đầu rồi từ từ trườn đi mất.

Bà vợ cả tỉnh dậy không thấy con rắn độc nữa, vị tỳ-kheo mới đem chuyện vừa qua kể cho bà nghe. Do đó bà vợ lớn cảm thấy chuyện mình làm lúc trước quá ư tội lỗi, bà bèn xin xuất gia tu hành với vị tỳ-kheo. Những năm cuối của cuộc đời, bà sống trong rừng sâu núi thẳm để sám hối nghiệp chướng mà mình đã tạo trong quá khứ.

Hại người là tự hại lấy chính mình, làm sao không cẩn thận chuyện nhân quả cho được?

Thanked by 2 Members:

#79 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:02

80. Phước đức của hoàng hậu

Đức Phật đã từng dạy rằng người hành bố thí là người đang tạo cho mình một gia sản vững chắc. Công đức của bố thí không những thù thắng, mà còn là nơi nương tựa bảo đảm và an toàn nhất. Những người hiện tại giàu có trên thế gian chính là những người đã tạo nhân bố thí trong kiếp trước, và họ đang hưởng phúc báo của công đức này. Và người hành bố thí ngày nay chính là đang chuẩn bị hưởng hạnh phúc trong tương lai.

Thời xưa ở Ấn Độ có một bà hoàng hậu, lòng tin Phật pháp rất thâm sâu và thành khẩn. Bà chỉ thích làm hai việc là bố thí và tạo công đức. Vì thế nhân dân trong vương quốc rất thương mến tôn kính bà, và ngay trong cung bà cũng được tất cả mọi người suy tôn.

Một hôm, bà khoác vào người một bộ y phục lụa là tuyệt đẹp, trên đầu đội vương miện bằng trân châu để đi dạo trong vườn hoa với nhà vua. Nhà vua ngắm nhan sắc kiều diễm của hoàng hậu và nói:

– Ái khanh của ta! Nàng nghĩ xem, nàng trang điểm thật là xinh đẹp, mức sống phú quý mà nàng đang hưởng thật ít ai có được. Nhờ ta mà nàng mới có một cuộc đời vinh quang như thế, nàng thấy có đúng không? Ta là vua, nàng là hoàng hậu, ta ăn thì ăn ngon, mặc thì mặc đẹp, nhà ở thì lộng lẫy, những niềm phúc lạc ấy nàng đều được chia sẻ với ta, thế thì ái khanh ơi, nàng phải thương yêu ta lắm mới phải!

– Đại vương, thiếp phải luôn luôn thương yêu và cảm tạ đại vương. Nhưng phú quý thiếp được hưởng ngày hôm nay, không phải là nhờ đại vương ban cho mà là nhờ phúc báo sẵn có của thiếp. Giữa chúng ta chỉ có quan hệ vợ chồng, còn nói tới phúc báo của người này hay người kia, thì phải nói là nhờ nhân thiện do chính mỗi người gieo trồng chứ không ai ảnh hưởng ai được cả!

Những câu nói của hoàng hậu không làm cho vua hài lòng chút nào, nhưng ông không trả lời, chỉ hầm hầm quay trở về vương cung. Ông muốn chứng tỏ cho hoàng hậu thấy rằng những quan niệm của bà không đứng vững.

Khuya hôm ấy, chờ hoàng hậu ngủ say rồi, ông lén cởi chiếc nhẫn quý giá mà hoàng hậu đang đeo trên tay rồi đem ném xuống sông. Vua làm điều này một cách bí mật, không có người nào trông thấy. Hôm sau hoàng hậu tỉnh giấc, thấy chiếc nhẫn không cánh mà bay bèn hỏi vua:

– Quân vương! Chàng có thấy chiếc nhẫn của thiếp không?

Vua đáp:

– Làm sao ta thấy được? Nhẫn nàng đang mang trên tay tại sao lại hỏi ta? Không lẽ một người sẵn có phúc đức như nàng mà cũng bị mất nhẫn ư?

Nhà vua trả lời một cách châm biếm.

– Vâng, nếu thiếp có phúc và chiếc nhẫn ấy là thuộc về thiếp thì chắc chắn nó sẽ không mất; ngược lại nếu thiếp không được sở hữu một vật nào đó mà cứ cưỡng ép để có thì cũng chỉ vô ích mà thôi.

Thái độ của hoàng hậu rất thản nhiên và tự tại. Tuy đó chỉ là một chiếc nhẫn, nhưng trên chiếc nhẫn có gắn một viên bảo châu vô giá, thế mà chiếc nhẫn mất đi không làm cho hoàng hậu phiền não hay ưu tư chút nào. Nếu chuyện ấy xảy ra cho nhà vua, chắc là ông đã lo lắng ghê gớm lắm, vì thế ông mới lập ra mưu kế ấy để đánh đổ cái lý luận tự cho mình là phi phàm của hoàng hậu.

Lạ thay, ba ngày sau, cung nữ trong nhà bếp mổ bụng một con cá thì tìm ra chiếc nhẫn mà hoàng hậu đã mất mấy hôm nay. Vua nghe tin này ngạc nhiên cùng cực, lúc ấy ông mới tin tưởng chắc chắn rằng phúc đức là điều không thể nghĩ bàn.

Số là sau khi chiếc nhẫn bị vua ném xuống sông rồi, thì liền bị một con cá bơi ngang chỗ ấy đớp vào bụng mất. Mới nuốt xong chiếc nhẫn, nó rơi ngay vào lưới của một người đánh cá và người này đem mẻ cá mới lưới được bán cho triều đình. Mọi sự việc ăn khớp vơi nhau chặt chẽ, chỉ cái phước vô song của hoàng hậu mới khiến cho chiếc nhẫn đã mất mà tìm lại được một cách hy hữu như thế.

Từ đó trong cách đối xử với hoàng hậu, vua không dám tỏ ra mình là người thi ân nữa, vì ông đã tin rằng phúc của ai thì người đó hưởng. Tội báo hay phúc báo đều như bóng theo hình.

Phúc báo là do bố thí, do cúng dường mà có. Làm người nên bố thí, nên cúng dường cho nhiều là vì lý do này.

81. Tâm ham danh

Tâm của một con người ngu si bị động niệm là vì ngã tham và ngã chấp. Một người như thế rất xem trọng danh lợi và có thể hy sinh tất cả cho nó, ngay đến cả thân mệnh nữa, mục đích là để có được một thứ danh dự hư huyễn không thật.

Ở Ấn Độ thời xưa có một người đàn bà thuộc dòng Bà-la-môn tên là Đề Vi. Gia đình bà xưa nay vốn giàu có, nô tỳ nuôi trong nhà cũng có đến cả trăm người. Nhưng từ khi chồng bà qua đời thì mức sống dần dần suy sụp.

Thật không phải dễ dàng cho một góa phụ khi phải ứng phó với mọi chi phí trong nhà, nào quần áo ăn uống, rồi tiền nuôi gia nhân, nào ăn nào mặc, ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác. Vì thế Đề Vi vô cùng buồn khổ vì cái họa nghèo khó luôn luôn đe dọa.

Thật ra, để giảm bớt ngân quỹ, bà có thể giải tán một phần gia nhân đông đảo và giữ lại một số ít người để làm việc trong nhà, nhưng Đề Vi cho rằng danh dự là điều quan trọng nhất, thể diện là cần thiết nhất, vì thế bà không chịu giải quyết vấn đề bằng cách ấy. Nhưng còn cách nào khác nữa đâu? Bà nghĩ thà chết chứ không để mất mặt, nhưng nếu đã chọn cái chết thì cũng phải chọn chết thế nào cho có ý nghĩa.

Lúc ấy ở Ấn Độ có một trường phái ngoại đạo cho rằng muốn được sung sướng thì phải trả giá bằng sự đau khổ, kiếp này càng đau khổ thì kiếp sau càng được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc. Đề Vi nghe được tà kiến này là mù quáng tin tưởng theo ngay. Bà nghĩ rằng không có cái đau đớn nào đối với thân thể con người cho bằng cái đau của sự chết cháy, nên bà quyết định tự thiêu. Làm như thế, thứ nhất, bà đánh đổi cái đau đớn ấy để lấy một kiếp sau sung sướng; thứ hai, một khi chết rồi bà không cần phải đối phó với chuyện kiếm tiền chi phí trong nhà; và thứ ba, chết để cầu đạo là một cái chết rất vinh dự, thể diện của bà sẽ giữ được vẹn toàn.

Đề Vi tính toán như thế, tuy bà rất kín đáo không nói cho ai hay, nhưng một đệ tử của đức Phật là Tôn giả Biện Tài lại đoán biết tất cả những gì bà nghĩ trong đầu, nên ngài đích thân đến nhà bà để giáo hóa. Tôn giả nói với Đề Vi rằng:

– Bà không đảm nhiệm nổi mọi chi phí trong nhà nên mới muốn tự thiêu tìm cái chết, có phải vậy không? Nhưng làm như thế bà cũng không thoát được trách nhiệm, trái lại càng làm cho nghiệp chướng tăng trưởng. Ác nghiệp của kiếp trước chưa trả xong mà đã chết đi, thì kiếp sau cũng sẽ phải trả một lần nữa. Đồng thời, tự đốt cháy thân cũng là tạo tội. Bà phải biết tự thiêu là một hành động tự sát, và tự sát là có tội. Các tội nhân trong địa ngục A Tỳ đêm ngày bị đốt cháy, suốt một ngày trời chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, cứ thế mà bị thiêu đốt mấy chục ngàn năm mới có thể trừ tội. Còn bà bây giờ chỉ tự đốt có một lần mà mong trừ tội thì làm sao được?

Đề Vi nghe Tôn giả nói như thế thấy rất có lý, như người đang ngủ mê chợt bừng tỉnh, định thưa hỏi tôn giả một câu, thì dường như tôn giả đọc được điều bà đang nghĩ, ngài nói tiếp:

– Bà muốn diệt tội cũng không phải là chuyện khó. Tất cả mọi việc thiện ác đều do tâm sinh khởi, nếu tâm của bà chất chứa những niệm ác thì cũng giống như ánh sáng của mặt trăng bị mây đen che mờ, không thể chiếu ra ngoài được. Chỉ có cách là một lòng làm việc thiện, không giữ niệm ác nào trong tâm, lúc ấy chẳng khác nào một cơn gió mát thổi bạt mây đen đi, mặt trăng sẽ lập tức chiếu soi ánh sáng đầy khắp. Làm như thế không những có thể diệt trừ tội chướng, mà kiếp sau cũng sẽ được lợi ích lớn!

Đề Vi nghe xong rất vui mừng, liền triệu tập tất cả quyến thuộc nô tỳ trong nhà, thỉnh giáo Tôn giả:

– Bạch Tôn giả, được ngài khai thị giáo hóa, chúng con rất cảm kích. Kính xin tôn giả dạy cho chúng con làm cách nào để giải thoát và diệt tội.

Tôn giả Biện Tài nói:

– Nếu muốn diệt tội, thì trước hết phải tìm căn nguyên của tội lỗi. Tất cả các tội ác đều do thân, khẩu và ý tạo ra. Vì thế, bây giờ bà phải tu pháp Thập thiện...

Rồi Tôn giả liền giảng cho bà Đề Vi và đại chúng nghe ý nghĩa của Thập thiện, và dạy cho họ phải làm sao để sám hối nghiệp chướng của những kiếp trước, làm sao để tạo nghiệp thiện, làm sao để phát tâm từ bi...

Bà Đề Vi nhận lãnh sự chỉ giáo của tôn giả một cách vui mừng. Từ ngày hôm đó về sau, đời đời kiếp kiếp bà phụng hành theo lời dạy của Phật, phát nguyện cứu chúng sinh ra khỏi khổ đau, vì vậy mà về sau bà chứng đắc được quả thánh.

Thanked by 2 Members:

#80 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:05

81. Tâm ham danh

Tâm của một con người ngu si bị động niệm là vì ngã tham và ngã chấp. Một người như thế rất xem trọng danh lợi và có thể hy sinh tất cả cho nó, ngay đến cả thân mệnh nữa, mục đích là để có được một thứ danh dự hư huyễn không thật.

Ở Ấn Độ thời xưa có một người đàn bà thuộc dòng Bà-la-môn tên là Đề Vi. Gia đình bà xưa nay vốn giàu có, nô tỳ nuôi trong nhà cũng có đến cả trăm người. Nhưng từ khi chồng bà qua đời thì mức sống dần dần suy sụp.

Thật không phải dễ dàng cho một góa phụ khi phải ứng phó với mọi chi phí trong nhà, nào quần áo ăn uống, rồi tiền nuôi gia nhân, nào ăn nào mặc, ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác. Vì thế Đề Vi vô cùng buồn khổ vì cái họa nghèo khó luôn luôn đe dọa.

Thật ra, để giảm bớt ngân quỹ, bà có thể giải tán một phần gia nhân đông đảo và giữ lại một số ít người để làm việc trong nhà, nhưng Đề Vi cho rằng danh dự là điều quan trọng nhất, thể diện là cần thiết nhất, vì thế bà không chịu giải quyết vấn đề bằng cách ấy. Nhưng còn cách nào khác nữa đâu? Bà nghĩ thà chết chứ không để mất mặt, nhưng nếu đã chọn cái chết thì cũng phải chọn chết thế nào cho có ý nghĩa.

Lúc ấy ở Ấn Độ có một trường phái ngoại đạo cho rằng muốn được sung sướng thì phải trả giá bằng sự đau khổ, kiếp này càng đau khổ thì kiếp sau càng được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc. Đề Vi nghe được tà kiến này là mù quáng tin tưởng theo ngay. Bà nghĩ rằng không có cái đau đớn nào đối với thân thể con người cho bằng cái đau của sự chết cháy, nên bà quyết định tự thiêu. Làm như thế, thứ nhất, bà đánh đổi cái đau đớn ấy để lấy một kiếp sau sung sướng; thứ hai, một khi chết rồi bà không cần phải đối phó với chuyện kiếm tiền chi phí trong nhà; và thứ ba, chết để cầu đạo là một cái chết rất vinh dự, thể diện của bà sẽ giữ được vẹn toàn.

Đề Vi tính toán như thế, tuy bà rất kín đáo không nói cho ai hay, nhưng một đệ tử của đức Phật là Tôn giả Biện Tài lại đoán biết tất cả những gì bà nghĩ trong đầu, nên ngài đích thân đến nhà bà để giáo hóa. Tôn giả nói với Đề Vi rằng:

– Bà không đảm nhiệm nổi mọi chi phí trong nhà nên mới muốn tự thiêu tìm cái chết, có phải vậy không? Nhưng làm như thế bà cũng không thoát được trách nhiệm, trái lại càng làm cho nghiệp chướng tăng trưởng. Ác nghiệp của kiếp trước chưa trả xong mà đã chết đi, thì kiếp sau cũng sẽ phải trả một lần nữa. Đồng thời, tự đốt cháy thân cũng là tạo tội. Bà phải biết tự thiêu là một hành động tự sát, và tự sát là có tội. Các tội nhân trong địa ngục A Tỳ đêm ngày bị đốt cháy, suốt một ngày trời chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, cứ thế mà bị thiêu đốt mấy chục ngàn năm mới có thể trừ tội. Còn bà bây giờ chỉ tự đốt có một lần mà mong trừ tội thì làm sao được?

Đề Vi nghe Tôn giả nói như thế thấy rất có lý, như người đang ngủ mê chợt bừng tỉnh, định thưa hỏi tôn giả một câu, thì dường như tôn giả đọc được điều bà đang nghĩ, ngài nói tiếp:

– Bà muốn diệt tội cũng không phải là chuyện khó. Tất cả mọi việc thiện ác đều do tâm sinh khởi, nếu tâm của bà chất chứa những niệm ác thì cũng giống như ánh sáng của mặt trăng bị mây đen che mờ, không thể chiếu ra ngoài được. Chỉ có cách là một lòng làm việc thiện, không giữ niệm ác nào trong tâm, lúc ấy chẳng khác nào một cơn gió mát thổi bạt mây đen đi, mặt trăng sẽ lập tức chiếu soi ánh sáng đầy khắp. Làm như thế không những có thể diệt trừ tội chướng, mà kiếp sau cũng sẽ được lợi ích lớn!

Đề Vi nghe xong rất vui mừng, liền triệu tập tất cả quyến thuộc nô tỳ trong nhà, thỉnh giáo Tôn giả:

– Bạch Tôn giả, được ngài khai thị giáo hóa, chúng con rất cảm kích. Kính xin tôn giả dạy cho chúng con làm cách nào để giải thoát và diệt tội.

Tôn giả Biện Tài nói:

– Nếu muốn diệt tội, thì trước hết phải tìm căn nguyên của tội lỗi. Tất cả các tội ác đều do thân, khẩu và ý tạo ra. Vì thế, bây giờ bà phải tu pháp Thập thiện...

Rồi Tôn giả liền giảng cho bà Đề Vi và đại chúng nghe ý nghĩa của Thập thiện, và dạy cho họ phải làm sao để sám hối nghiệp chướng của những kiếp trước, làm sao để tạo nghiệp thiện, làm sao để phát tâm từ bi...

Bà Đề Vi nhận lãnh sự chỉ giáo của tôn giả một cách vui mừng. Từ ngày hôm đó về sau, đời đời kiếp kiếp bà phụng hành theo lời dạy của Phật, phát nguyện cứu chúng sinh ra khỏi khổ đau, vì vậy mà về sau bà chứng đắc được quả thánh.

Thanked by 2 Members:

#81 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:06

82. Ác quỷ

Đời xưa có một người tốt bụng, thích làm việc thiện và cũng là một vị Phật tử thuần thành. Ông thường lập đàn trai trong nhà để cúng dường chư tăng, cho nên cũng thường thân cận với nhiều vị thiện tri thức và các vị cao tăng.

Nhà ông ở ngay ven bờ sông Hằng, cách thành Xá Vệ chừng 30 dặm đường. Vì ông là người từ thiện, thích bố thí, nên người ở xa tới đâu cũng đến xin ông cứu giúp, và họ chưa bao giờ phải trở về tay không. Vì thế nên người người xa gần đều tán thán ông.

Nhưng ông lại có một người cha chỉ thích kiếm tiền một cách bất thiện. Ông này sinh sống bằng một nghề hung bạo là mổ lợn bán thịt. Dầu người con vẫn thường hay khuyên can nhưng lão không hề có chút kiêng dè, trái lại còn trách con sao lại hay lập đàn trai cúng dường, sao lại thường phí tiền của để cứu giúp người cùng khốn.

Bước tiến của thời gian chính là sự thử thách chính xác nhất của cuộc đời, vì sau một thời gian dài, tội ác nào của con người cũng đều được phơi bày ra hết. Hành vi sát sinh của ông lão nọ đồn tới tai mọi người rất mau, ai cũng thấy rằng lão không nên tạo nghiệp sát như thế nữa. Rất nhiều vị tỳ-kheo thường hay qua lại nhà lão cũng biết được việc này, cũng muốn đến khuyên can lão, nhưng vì cả nể lại muốn giữ tình giao hảo, nên không ai dám mở miệng nói câu nào.

Không lâu sau, lão sinh bệnh, và tuy đã mời nhiều vị thầy thuốc đến nhưng không ai chữa được, cho nên một buổi sáng sớm nọ, lão lìa đời trong một cơn đau đớn cùng cực.

Lão chết rồi, vì tội ác sát sinh nên đọa làm thân ác quỷ trên sông Hằng, đời có bao nhiêu thống khổ lão đều phải chịu hết.

Một hôm, các vị tỳ-kheo vẫn thường được con trai lão cúng dường có việc đi thuyền băng qua sông Hằng, ác quỷ bèn hiện ra nửa thân hình trên mặt nước đuổi theo bén gót, rồi chạy ra phía trước chặn thuyền lại mà nói:

– Chúng bay là một phường tồi bại! Tao sẽ lật úp con thuyền này cho chúng bay chết chìm hết không đứa nào sống sót!

Các vị tỳ-kheo ngồi trên thuyền nhìn thấy con ác quỷ quái dị như thế đã lấy làm lạ rồi, nay còn nghe hắn tuyên bố những lời trên lại càng không hiểu gì hết. Trong số các vị ấy, có một vị tuổi cao hơn hết, đứng dậy hỏi:

– Nguyên do gì mà ngươi nói chúng ta là phường tồi bại? Tại sao lại còn muốn lật úp con thuyền chúng ta đang ngồi?

Ác quỷ lớn tiếng gầm lên trả lời:

– Lúc tao còn sống, con trai tao thường hay cúng dường chúng bay. Tao mổ lợn bán thịt, chúng bây biết tao làm việc phi pháp mà không đứa nào răn bảo, khiến bây giờ tao phải chịu bao nhiêu thống khổ như thế này! Tao muốn đòi mạng chúng bay để chúng bay cùng chịu khổ với tao ở đây, có thế tao mới hả niềm căm hận!

Vị tỳ-kheo lớn tuổi kia rất cảm thương mà trả lời rằng:

– Bây giờ ngươi đang chịu khổ, đúng là do nghiệp sát chiêu cảm! Ngươi nói muốn đoạt mạng chúng ta, nhưng làm như thế có ích lợi gì? Ngươi giết người, không phải chỉ có tác dụng làm cho nghiệp tội của ngươi thêm nặng mà thôi sao? Nếu ngươi bằng lòng sám hối, chúng ta có thể giúp cho ngươi được siêu dộ.

Ác quỷ nghe ra và hiểu được những lời khuyên dạy của vị tỳ-kheo, bèn ẩn thân bỏ đi. Con thuyền nhờ đó được thoát hiểm mà tiếp tục đoạn đường.

Về đến nhà, các vị tỳ-kheo ấy cùng người con trai của ác quỷ làm công đức hồi hướng và cầu siêu cho hắn.

Dựa vào pháp lực của đức Phật, con ác quỷ được siêu sinh lên cõi trời, hưởng những phúc lạc của thiên giới.

Thanked by 2 Members:

#82 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:08

83. Niệm Phật được cứu

Thời xưa có một người đàn bà hiền đức và tài giỏi, thường được gọi là bà Hiền Huệ. Nhờ bà thường lắng nghe Phật pháp nên hiểu rõ rằng đời sống con người là tạm bợ và đau khổ. Nếu không tu học Phật đạo, nếu không tự cảnh giác để khỏi phạm tội, thì không kể nam hay nữ, tất cả sẽ vĩnh viễn trôi nổi trầm luân trong sáu nẻo không có ngày chấm dứt.

Tuy công việc nhà rất bề bộn, nhưng đi đứng nằm ngồi bà cũng không quên tinh cần niệm Phật. Ngay cả những người hàng xóm hai bên nhà cũng được bà khuyến khích, nên cũng chuyên tâm cùng bà tu học, tất cả đều chuyên tâm niệm danh hiệu Phật nên sống một đời sống an nhiên vui vẻ.

Chỉ có mỗi một điều đáng tiếc là chính người chồng của bà Hiền Huệ thì không thể khuyến hóa được, có lẽ vì cơ duyên chưa chín mùi chăng? Nhưng lỡ như đó là một người dở tệ đến nỗi không có cách nào tiếp nhận được Phật pháp thì thật là đáng tiếc! Bà Hiền Huệ cứ nghĩ đến đây là lo lắng vô cùng, bà suy đi tính lại mãi mà không tìm ra cách nào cải hóa ông chồng.

Một hôm, bà nhìn thấy những đứa bé con hàng xóm đang đùa nghịch với một cái chuông đồng trước mặt nhà bà, bỗng nhiên bà nhanh trí loé ra trong đầu một phương pháp rất hay.

Trời gần tối, chồng về tới nhà, bà nói với chồng rằng:

– Thiếp nghe nói gần đây thường xảy ra nhiều vụ trộm cướp, phu quân đi làm việc, thiếp ở nhà một mình, trước cửa không có ai canh gác, thật là nguy hiểm cho nên thiếp bắt buộc phải đóng chặt cửa lại. Thiếp muốn mua một cái chuông đồng treo trước cửa, phu quân về tới nhà thì lắc chuông vài tiếng, mỗi lần lắc là niệm một câu “Nam mô A-di-đà Phật” làm ám hiệu, thiếp biết phu quân đã về sẽ ra mở cửa. Làm như thế vừa có thể phòng ngừa bọn trộm cướp, vừa để cho thiếp an tâm làm việc trong bếp.

Người chồng mỉm cười gập đầu:

– Được! Hiền thê nghĩ cách đó rất hay.

Từ đó về sau, người chồng về nhà bắt buộc phải lắc chuông và niệm vài câu Phật hiệu. Việc niệm Phật do đó dần dần trở thành một thói quen lúc nào ông cũng không hay biết.

Người chồng không nghe Chính pháp, giống như bao nhiêu người khác không phân biệt rõ thiện ác, mặc cho hoàn cảnh đưa đẩy mà tạo tác các nghiệp. Vì thế nên khi vô thường đến, ông lâm bệnh lìa đời, không đem theo được gì trừ ra nghiệp tội là không rời thân. Một con người ở trong vũng lầy ô trọc của tội ác thì cho dù tài giỏi đến đâu, lúc ấy cũng không giở trò gì được.

Người chồng bị đọa xuống địa ngục lớn, trong đó có vạc dầu sôi, núi dao với những hình phạt độc ác ghê rợn nhất. Bọn ngục tốt hung hăng đưa đinh ba trong tay lên nhắm hướng người tội nhân mới đến mà xông tới, muốn dùng đinh ba xóc ông ném vào vạc dầu sôi. Cái đinh ba này bằng sắt, bên trên có treo rất nhiều khoen sắt chạm vào nhau kêu leng keng, làm cho tội nhân càng thêm run sợ.

Nhưng âm thanh của những chiếc khoen sắt hay những dụng cụ tra tấn chạm vào nhau lại giống như tiếng chuông đồng treo trên cửa nhà vợ chồng bà Hiền Huệ, nên người tội nhân mới đến này, tức là chồng bà Hiền Huệ, theo thói quen liền buộc miệng niệm “Nam mô A-di-đà Phật”.

Lạ thay, địa ngục đen ngòm âm u bỗng nhiên sáng rực, ánh sáng không biết từ đâu chiếu đến. Bọn ngục tốt ngừng mọi khí cụ tra tấn trong tay, ngọn lửa phừng phực cũng bị dập tắt, nguyên cả địa ngục biến thành một nơi thanh tịnh mát mẻ.

Rất nhiều hồn ma đang chịu hình phạt cũng được nghỉ ngơi. Lúc ấy có sứ giả của địa ngục đến ra lệnh với bọn ngục tốt rằng:

– Hãy đưa người đó lên cõi người, hắn có đầy đủ công đức của việc trì niệm danh hiệu Phật.

Địa ngục trở lại cảnh tượng thê thảm trước, nhưng chồng bà Hiền Huệ thì đã sinh lên cõi người rồi.

Công đức của một câu niệm Phật to lớn như thế, hy vọng những người không niệm Phật sẽ mau mau bắt đầu!

Thanked by 2 Members:

#83 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:10

84. Muốn thoát sinh tử

Miền nam Ấn Độ có hai vị tỳ-kheo, nghe người ta nói rằng nước Kế Tân ở phía bắc có một vị thánh nhân rất oai đức xuất hiện tại thế, hai người thành tâm hâm mộ nên mới kết bạn cùng nhau hướng về phía bắc mà đi.

Tới biên giới nước Kế Tân, trên đường đi họ dò hỏi tìm kiếm khắp nơi, và cuối cùng tìm tới được chỗ ở của vị thánh nhân Kỳ Dạ Đa.

Họ tiến vào một khu rừng rậm rạp, thấy một vị tỳ-kheo tu khổ hạnh, tướng mạo vô cùng tiều tụy, đang khom lưng nhóm lửa trước một cái lò, hai người tiến đến hỏi:

– Thưa ngài, ngài có biết tôn giả Kỳ Dạ Đa không?

– Biết.

Vị tỳ-kheo khổ hạnh đáp.

– Kính xin ngài chỉ cho chúng tôi biết tôn giả ở đâu?

– Từ đây trèo lên tiếp, đến cái động thứ ba thì gặp.

Vị tỳ-kheo vừa nói vừa đưa bàn tay khẳng khiu chỉ về phía gò núi trước mặt.

Hai người theo lời chỉ bảo ấy mà trèo lên tới trước cái động thứ ba, và trong động cũng thấy có một vị tỳ-kheo đang đứng nhóm lửa. Hai người lấy làm quái lạ, một trong hai người mới nói:

– Một vị đại đức siêng năng tu hành như thế, sao chúng ta không sớm gặp để đến bái kiến?

Người kia trong tâm không khỏi nghi ngờ, đặt câu hỏi:

– Tôn giả có đại uy đức như thế sao còn cần phải tự tay nhóm lửa?

Tôn giả Kỳ Dạ Đa nghe tiếng hai người nói chuyện bèn trả lời:

– Xưa tôi kia đã từng trầm luân trong biển khổ, vì vấn đề tu hành mà có thể dùng đầu, mắt, tay chân làm nhiên liệu đốt lên cúng dường đại chúng xuất gia, nhóm lửa đốt than có gì đáng kể?

– Không biết tôn giả có thể kể cho chúng con nghe sự tích đời trước của ngài không?

Hai người náo nức hỏi. Tôn giả Kỳ Dạ Đa với giọng nói bi thiết, kể lại chuyện xưa của mình:

– Tôi nhớ cách đây 500 kiếp về trước, tôi sinh ra làm thân chó, thường bị đói khát hoành hành, chỉ có hai lúc là có thể ăn được chút gì: một là gặp người uống rượu say sưa như hũ nát nôn mửa ra đất, tôi ăn cái chất chua dơ ấy thì no được một bữa. Một lúc khác nữa là nhà nào mà chỉ có hai vợ chồng, khi người chồng ra đồng canh tác, gặp lúc người vợ có chuyện cần phải ra khỏi nhà, tôi lợi dụng một cái lỗ nhỏ trong tường, co người lại chui vào ăn cắp thức ăn của họ.

Làm như thế tuy không đến nỗi chết đói nhưng mỗi lần muốn ăn no thì phải bị người ta đánh đập, chịu đủ thứ giày vò đau đớn. Có một lần, tôi đến căn nhà nọ ăn cắp thức ăn, thấy thức ăn đựng trong một cái chum, tuy tôi chui đầu vô chum ăn no bụng nhưng miệng chum quá nhỏ, tôi không rút đầu ra được. Trong lúc tôi đang sốt ruột giãy giụa thì ông chủ về tới, thấy thế nổi giận vác một con dao sắc chém xuống cổ tôi, thế là chỉ vì một bữa ăn mà đầu lìa khỏi cổ.

Kiếp sau đó, tuy tôi chưa thoát được con đường súc sinh, nhưng đã tỉnh giác. Nhờ gắng sức vươn lên tinh tiến tu trì, tích lũy công đức trong nhiều kiếp, cuối cùng sinh được thân người. Nghĩ đến sự trở lại biển sinh tử, thật là quá khổ!

Hai vị tỳ-kheo nghe xong câu chuyện của tôn giả Kỳ Dạ Đa, bèn lập tức nhàm chán sinh tử, đắc quả Tu Đà Hoàn.

Thanked by 2 Members:

#84 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:14

85. Lời nói thật

Vua nước Thiên La ở Ấn Độ tên là Ba La Ma Đạt, tính tình ôn hòa, rất thương yêu bảo bọc dân, thưởng phạt công bình nên được mọi người tôn kính.

Ông sinh được một người con trai đặt tên là Ban Túc. Thái tử Ban Túc tính tình hoàn toàn trái ngược với vua cha. Càng lớn càng khoẻ mạnh lực lưỡng nên thái tử vô cùng kiêu ngạo, vì thế nhiều vị đại thần tránh không muốn thân cận với thái tử.

Lúc còn trẻ, thái tử thay mặt vua cha đi chinh phục các nước lân bang, lập được chiến công nên sự kiêu ngạo càng gia tăng tới mức cuồng ngạo không coi ai ra gì, thậm chí tới phụ vương ông cũng coi thường.

Ngày đăng vị, thái tử đã khoe với mọi người rằng mình sẽ lén phụ vương đi chinh phục các nước và sẽ lấy đầu của 100 ông vua các nước nhỏ để hiển dương võ lực trên đời có một không hai của mình.

Vua các nước nhỏ lần lượt bị thái tử bắt nhốt trong một hang động trong núi, một ông, hai ông, mười ông, hai mươi ông, cứ thế tăng lên cho tới 99 ông. Thái tử rất vui mừng, chỉ cần đem binh đi chinh phạt một nước nữa là sẽ bắt được một ông vua khác cho đủ số 100 ông.

Nước bị thái tử chinh phạt để bắt ông vua cuối cùng ấy là một nước nhỏ cách nước Thiên La khoảng hơn ngàn dặm. Vua nước ấy tên là Phổ Minh, vua này không chủ trương chiến tranh nên không hề chuẩn bị kháng chiến, vì thế nên khi thái tử Ban Túc dẫn binh vào chiếm thành, dân chúng xứ này không hề hay biết, cho đến khi vua Phổ Minh bị bắt trói đem đi.

Thái tử đưa vua Phổ Minh tới nước Thiên La, giam cùng với 99 ông vua trước trong sơn động, nhưng từ nước Thiên La tới núi, vua Phổ Minh không ngừng khóc lớn, nước mắt tuôn như mưa. Thái tử Ban Túc thấy thế rất bực mình, nghiêm khắc trách mắng:

– Cái thứ gà ướt phải mưa, vậy mà cũng đòi làm vua! Ông là vua một nước mà sao lại khóc lóc như con nít, thật là không thể tưởng tượng được!

Vua Phổ Minh nghe thái tử Ban Túc trách mắng như thế cũng lấy làm bực mình, bèn trả lời một cách nghiêm nghị:

– Ông không biết nỗi khổ của tôi, tôi không hề sợ chết, mà chỉ sợ mất lòng tin của người khác, vì tôi trị nước lấy câu “thật ngữ đệ nhất” làm tôn chỉ. Đối với quốc dân tôi chưa một lần nói dối. Tôi cai trị nhân dân cả nước, hết lòng giữ gìn giới “không nói dối”, vì thế chúng tôi tin tưởng lẫn nhau, chưa hề có chuyện người này nghi kỵ người kia.

Nói tới đây, ông đau lòng buông một tiếng thở dài rồi nói tiếp:

– Vài ngày trước, có một vị tỳ-kheo đến hoàng cung muốn độ hóa cho tôi xuất gia, tôi đã nhận lời rồi, hẹn ngài ấy trở lại trong một tuần nữa để xuống tóc cho tôi. Nay ông bắt giam tôi ở đây, làm sao tôi giữ lời hứa được bây giờ? Đó không phải là làm mất lòng tin của người khác hay sao?

Nghe vua Phổ Minh kể như thế, tuy thái tử Ban Túc là một kẻ hung ác tàn nhẫn nhưng vẫn thấy cảm động trước một người quý trọng lời hứa hơn cả sinh mệnh của mình. Cuối cùng thái tử gật đầu nói:

– Được rồi! Tôi thả ông về giải quyết vấn đề của ông xong xuôi, cho ông được mãn nguyện. Nhưng nội trong vòng 7 ngày, giải quyết vấn đề xong ông phải trở lại đây, ông có đồng ý không?

Vua Phổ Minh mừng rỡ chảy nước mắt trả lời:

– Cám ơn ông! Bảy ngày là đủ cho tôi lắm, tôi sẽ giải thích rõ mọi chuyện cho vị tỳ-kheo rồi chắc chắn sẽ trở lại đây.

Thái tử Ban Túc bèn cấp cho vua Phổ Minh một con ngựa nhanh nhẹn để vua mau chóng trở về vương quốc của mình. Khi về tới hoàng cung, việc thứ nhất, vua Phổ Minh nhường ngôi cho con trai lớn, giao hết mọi trách nhiệm cho thái tử rồi xin lại lời hứa cũ với vị tỳ-kheo, áy náy thưa rằng:

– Lúc trước tôi nhận lời xuất gia với thầy, nhưng nay không làm được. Đó không phải do tôi không giữ lời, cũng không phải tôi đổi ý không muốn xuất gia, mà là vì...

Vua đem chuyện bị thái tử Ban Túc bắt và lời hẹn phải trở lại trong 7 ngày, kể hết cho vị tỳ-kheo nghe. Vị tỳ-kheo không còn cách nào hơn là bỏ ý định độ cho vua xuất gia.

Cuối cùng, vua tập họp hết tất cả dân chúng trong sân hoàng cung để từ biệt. Không có một người nào là không đau lòng rơi nước mắt, ai nấy đều quỳ xuống van nài giữ vua lại, nhưng vua Phổ Minh vui vẻ nói:

– Lời nói thật là giới đệ nhất, là cái thang bắt lên cõi trời, còn kẻ nói dối sẽ bị đọa địa ngục. Người quân tử luôn nói lời chân thật. Ta nay giữ lời hứa, thà xả bỏ thân mệnh mà tâm không hối hận.

Nói xong, vua quất ngựa bắt đầu ngay cuộc hành trình trở về, tới trưa ngày thứ bảy ông bước vào trong cung thành của nước Thiên La, chạy đến chỗ của thái tử Ban Túc để báo tin mình đã có mặt.

Thái tử Ban Túc đang vui say dục lạc, nghe nói có vua Phổ Minh trở lại thì lấy làm ngạc nhiên và không khỏi cảm thấy kính phục. Ông vội vàng chạy ra đến cửa cung điện, nắm tay vua Phổ Minh mà nói:

– Ngài thật là một người tôn trọng lời nói của mình, tôi vô cùng kính phục. Tôi thả ngài trở về nước như ngựa thoát chuồng, tại sao còn tự ý trở lại? Lời nói thật quả là một điều cao cả và đáng kính, tôi sẽ truyền bá tôn chỉ “thật ngữ đệ nhất” này trong khắp cả nước tôi, để mọi người được sống bình an, hòa thuận và hạnh phúc.

Nói xong, ông thỉnh vua Phổ Minh lên đài cao để giảng về giới “không nói dối” cho đại thần và nhân dân trong nước Thiên La nghe.

Vua Phổ Minh tán thán lời nói thật, chê bai sự nói dối, được cả vạn người ở dưới đài cổ võ hoan hô.

Lúc ấy thái tử Ban Túc mới thấm thía một điều, “tuy ta dùng võ lực đi chinh phục nhiều nước, thế mà dũng khí anh hùng ấy chưa từng được dân chúng hoan hô như vậy. Thế mới biết là lời nói thật khiến người ta cảm động, ái kính, ghi khắc trong lòng không quên, còn võ lực thì tuyệt đối không thu phục được lòng người. Trong vai trò một ông vua, ta không nên áp dụng chính sách võ lực bạo ngược”.

Nghĩ thế xong, ông bèn thả 99 ông vua đang bị giam cầm trong núi cho về nước hết.

Từ đó, nước Thiên La ban hành giới không nói dối và thực hành tôn chỉ “thật ngữ đệ nhất”. Cũng từ đó trong nước ấy được quốc thái dân an, mọi người sống chung đầm ấm yên vui.

Thanked by 2 Members:

#85 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:15

86. Vua rồng và tiếng chuông chùa

Tại đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn có một cái ao lớn, trong đó có rất nhiều rồng. Chúng thường nổi gió to bão lớn, làm ngã đổ cây rừng, gây nguy hại cho dân chúng sống ở dưới chân núi. Vì vậy tiếng than khóc của người dân vang thấu tới trời, kẻ thì dọn đi nơi khác, người thì chết bỏ xác, thật là thê lương!

Vua Ca Nị Sắc Ca biết được chuyện ấy thì vô cùng tức giận. Để giải cứu cho dân, ông bèn cho xây dưới chân núi một bảo tháp cao tới hơn trăm thước và dạy dân tới đó cầu nguyện mưa thuận gió hòa.

Vua rồng trong ao thấy chuyện như thế, nổi trận lôi đình, tạo một trận cuồng phong thổi sập bảo tháp.

Vua Ca Nị Sắc Ca thấy bảo tháp bị sụp đổ, lập tức sai người xây lên trở lại. Vua rồng không chịu thua, lại nổi gió bão sân nộ lên thổi sập bảo tháp lần nữa, cứ thế sáu lần tất cả, vua Ca Nị Sắc Ca tốn bao nhiêu công lao cực khổ cũng như không!

Nhưng vua Ca Nị Sắc Ca là một vị vua anh minh dũng cảm, thông minh sáng suốt, không biết sợ là gì, có một nghị lực bất khuất kiên cường. Trong hoàng cung vua đứng ngồi không yên, đêm ngày suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề này. Đột nhiên ông phát nguyện như sau:

– Không làm thì thôi, đã làm thì làm cho tới cùng! Là đệ tử của Phật thì sợ gì mà không hy sinh thân mệnh để cứu khổ cho chúng sinh? Không làm cho vua rồng hàng phục thì ta không ngừng nghỉ!

Vua bèn dẫn đại binh đi lấp bằng cái ao rồng trên núi. Thế là đoàn binh mã cuồn cuộn như thủy triều nhắm núi Hy Mã Lạp Sơn mà tiến. Lúc ấy vua rồng mới kinh hoàng, lắc mình một cái, biến thành một ông lão già lụm khụm, tiến đến trước mặt vua Ca Nị Sắc Ca chặn đường:

– Đại vương! Ngài không nên đấu với vua rồng, tuyệt đối không nên đấu với vua rồng! Vua rồng tuy chỉ là một loài súc sinh, nhưng sức người không sao chống lại hắn nổi! Nếu thắng được hắn thì đại vương cũng chẳng được thêm uy đức gì, mà trái lại nếu thua hắn thì thật là xấu hổ! Chẳng bằng đại vương rút quân trở về là hơn!

Nhưng ý của vua Ca Nị Sắc Ca đã quyết, không có gì lay chuyển được, nên vua cứ kéo quân tiến tới.

Vua rồng giận dữ trở về ao trên núi, tức thời mây đen kéo tới dày đặc, đất đá bay nghịt trời thật là hãi hùng làm cho người ngựa kinh khiếp chạy trốn tứ tán, và khiến cho đoàn quân của vua Ca Nị Sắc Ca không biết cách nào mà đối phó.

Trước cảnh hiểm nghèo như thế, vua Ca Nị Sắc Ca bèn dẫn đoàn quân chạy đến trước bảo tháp, chí thành cầu nguyện. Tâm thành của họ đã cảm lên đến chư Phật và chư Bồ Tát, trong nháy mắt trời quang mây tạnh, sấm chớp tắt ngấm. Lúc ấy vua Ca Nị Sắc Ca mới sai binh lính mỗi người ôm một tảng đá to, đem lên núi để lấp bít ao rồng. Khi nghe lệnh vua như thế, vua rồng biết không còn cách kháng cự được, nên lại biến thành ông già như lần trước, tới thỉnh cầu vua:

– Đại vương! Tôi chính là vua rồng hóa thân tới đây xin đầu hàng, cầu xin đại vương tha mạng cho tôi. Tôi biết tính tình hung bạo của tôi khó khắc phục, vì vậy xin đại vương hãy treo trên đỉnh mỗi chùa tháp một cái chuông lớn, nếu thấy mây đen kéo tới trên đỉnh núi thì mau gõ lên tiếng chuông, tôi nghe tiếng chuông sẽ tự giác mà ngừng tâm ác lại!

Vua Ca Nị Sắc Ca nghe vua rồng sám hối như thế rất vui mừng, bèn cho xây bên cạnh bảo tháp một ngôi chùa hùng vĩ nguy nga, và treo trên mái chùa một cái chuông thật to, cử người đến trông coi, hễ thấy mây đen tụ tập thì đánh lên cho âm thanh tiếng chuông vang hưởng. Vua rồng nghe tiếng chuông thì tự giác, do đó tội ác được giảm xuống không biết mấy mà kể!

Từ chuyện này mà vua Ca Nị Sắc Ca được dân chúng sùng kính vô hạn, nhân đó mà ông cảm hóa được rất nhiều người tin theo Phật giáo.



Thanked by 2 Members:

#86 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:16

87. Bán thịt tự thân mua lễ vật

Cách đây rất lâu về trước, có một người tên là Thường Đề, tu hành rất tinh chuyên, đạo cao đức trọng nên được mọi người xưng là Bồ Tát Thường Đề.

Lúc mới xuất gia, Bồ Tát Thường Đề muốn tìm minh sư nên không ngại lặn lội đường xa cực khổ, không sợ nguy hiểm đường dài, tinh thần cầu pháp của ông là “chưa đạt mục đích thì chưa ngừng nghỉ”.

Nhưng đi khắp các danh sơn trong thiên hạ rồi mà chưa tìm ra được một vị thiện tri thức lý tưởng. Có một hôm, ông ngồi dưới bóng mát một gốc cây để nghỉ ngơi, bỗng nhìn thấy một người từ trong không trung bước xuống, nói với ông rằng:

– Hỡi vị cầu đạo kia! Tinh thần cầu pháp nhiệt tình và tâm nhẫn nại mọi lao khổ của ông khiến cho mọi người phải khâm phục. Nay tôi đến nói cho ông biết rằng, nhắm hướng đông mà đi thì ông sẽ gặp được pháp yếu vô thượng, đắc được trí huệ quý giá nhất.

Nghe thế, Thường Đề hấp tấp hỏi:

– Đại đức! Xin ngài cho tôi biết, nhắm hướng đông mà đi thì phải đi tới chỗ nào mới gặp được vị thiện tri thức cho tôi bái lạy làm thầy?

Vị hóa nhân trả lời:

– Cách đây xa thật là xa, có một chỗ tên gọi là thành Chúng Hương, ông đến đó tìm Bồ Tát Đàm Vô Kiệt xin học chỗ tối cao trong Phật pháp. Thành Chúng Hương là một vườn hoa tuyệt đẹp và Bồ Tát Đàm Vô Kiệt là một vị chuyên nghiên cứu về Bát Nhã. Đó chính là người thầy lý tưởng mà ông mong cầu.

Nghe thế rồi, Thường Đề mừng rỡ vô hạn, lập tức thu thập mấy thứ đang mang theo mình mà nhắm hướng đông đi như bay. Nỗi mừng vui đã khiến ông quên hết mọi cực nhọc gian khổ dặm đường.

Thường Đề đêm ngày đi không ngừng nghỉ, chỉ hận là sao mình không mọc đôi cánh để bay một mạch tới nước Chúng Hương. Đến một thị trấn nọ, ông chợt nghĩ đến một chuyện: khi đến gặp danh sư bái tổ thì phải mang theo lễ vật nào đó cúng dường, nhưng đem cái gì được đây? Ngoài tấm áo thầy tu rách rưới trên thân, ông không hề có một vật gì khác. Cuối cùng ông nghĩ ra một cách, nghĩ rằng những bắp thịt rắn chắc của ông là một món hàng có thể bán được, vì thế ông bèn viết một tấm bảng mang trên người tìm người mua thịt. Nhưng có ai lại muốn mua thịt người bao giờ? Một buổi sáng đã qua mà vẫn chưa ai tới mua thịt của ông, mọi người chỉ nhìn ông bằng cặp mắt kỳ dị, nhưng không ai dám tiến lại gần.

Lòng cầu đạo của ông đã làm cho trời đất phải cảm động, nên thiên Đế Thích muốn thử đạo tâm của Thường Đề, bèn biến thành một ông già đến gần, nói:

– Ông bạn ơi! Sao ông lại muốn bán thịt người vậy? Mạng sống là một báu vật vô giá, và thân thể là chỗ y cứ của mạng sống, sao lại đem mạng sống quý giá ấy hủy mất đi?

Thường Đề nước mắt nhoè nhoẹt trả lời:

– Không giấu gì ngài, tôi số phận hẩm hiu, chướng dày phước mỏng, không có tài sản. Bây giờ tôi muốn đến thành Chúng Hương cầu pháp, muốn lạy Bồ Tát Đàm Vô Kiệt làm thầy, nhưng tôi không có tiền mua lễ vật cúng dường, vì vậy nên đứng đây bán thịt mình, nhưng chẳng ai muốn mua giùm tôi.

Nghe Thường Đề nói thế, ông lão thương hại nói rằng:

– Thôi được! Thế thì tôi mua cho ông một cân thịt người, nhưng ông không sợ đau hay sao?

– Cám ơn ông lão! Cám ơn ông! Ông đã giúp cho tôi mãn nguyện, đã giúp cho tôi giải quyết mọi khốn khó, khỏi cần nói giá tiền, ông cho bao nhiêu cũng được cả!

Nói xong Thường Đề bèn lấy con dao bén, cắn răng chịu đau cắt bắp thịt trên cánh tay. Ngay lúc ấy, giữa đám người đứng nhìn có một thanh niên trẻ tuổi chạy lại hỏi Thường Đề:

– Hỡi vị tu đạo kia, ông chịu đau đớn khổ sở như thế chỉ để cúng dường Bồ Tát Đàm Vô Kiệt, xin hỏi ông rằng, ông làm như thế có ích lợi gì?

– A! Cậu không biết chứ công đức của việc này vô lượng vô biên. Cậu nghĩ xem, thế giới Cực Lạc là một khu vườn vi diệu, đức Phật đã kêu gọi chúng ta một cách chân tình như thế, không lẽ cậu không tha thiết muốn về đó hay sao?

Anh chàng thanh niên cảm động trước lời nói khẩn thiết, nhiệt tình của Thường Đề, nên khảng khái nói:

– Ngài thật là khả kính! Tiền tài mà ngài cần dùng, tôi có thể dâng tặng cho ngài. Nhưng tôi chỉ xin ngài một điều, là hãy cho phép tôi đi theo để cùng cầu pháp bảo.

– Tốt lắm! Tốt lắm!

Thường Đề trả lời ngay.

Lúc ấy, hóa nhân của trời Đế Thích nói:

– Thường Đề! Không phải ta thích gì thịt của ông, ta chỉ muốn thử đạo tâm của ông đấy thôi! Ta không phải ai xa lạ, mà chính là trời Đế Thích. Sau này, ta quyết sẽ ủng hộ pháp của ông.

Lão già nói xong, dùng cánh tay áo phất nhẹ lên vết thương của Thường Đề rồi biến mất, vết thương bèn lành lặn như cũ. Thường Đề lạy tạ trời Đế Thích rồi cùng chàng thanh niên chuẩn bị một vài lễ vật cúng dường xong, cả hai cùng nhắm hướng thành Chúng Hương mà thẳng tiến.

Tới thành Chúng Hương, nhờ Bồ Tát Đàm Vô Kiệt dìu dắt khai đạo, lại nhờ Thường Đề tu hành rất tinh tiến, nên 7 năm sau, Thường Đề giác ngộ được đạo pháp vi diệu, chứng được trí huệ Bát Nhã và vĩnh viễn giải thoát sinh tử.

Từ đó người ta gọi ông là Bồ Tát Thường Đề.

“Người có chí thì làm gì cũng thành”, câu này áp dụng ở đây rất đúng. Chỉ cần chịu nhọc, cố gắng thực hiện thì việc gì dẫu khó khăn tới đâu cũng có ngày thành công.
Cách đây rất lâu về trước, có một người tên là Thường Đề, tu hành rất tinh chuyên, đạo cao đức trọng nên được mọi người xưng là Bồ Tát Thường Đề.

Lúc mới xuất gia, Bồ Tát Thường Đề muốn tìm minh sư nên không ngại lặn lội đường xa cực khổ, không sợ nguy hiểm đường dài, tinh thần cầu pháp của ông là “chưa đạt mục đích thì chưa ngừng nghỉ”.

Nhưng đi khắp các danh sơn trong thiên hạ rồi mà chưa tìm ra được một vị thiện tri thức lý tưởng. Có một hôm, ông ngồi dưới bóng mát một gốc cây để nghỉ ngơi, bỗng nhìn thấy một người từ trong không trung bước xuống, nói với ông rằng:

– Hỡi vị cầu đạo kia! Tinh thần cầu pháp nhiệt tình và tâm nhẫn nại mọi lao khổ của ông khiến cho mọi người phải khâm phục. Nay tôi đến nói cho ông biết rằng, nhắm hướng đông mà đi thì ông sẽ gặp được pháp yếu vô thượng, đắc được trí huệ quý giá nhất.

Nghe thế, Thường Đề hấp tấp hỏi:

– Đại đức! Xin ngài cho tôi biết, nhắm hướng đông mà đi thì phải đi tới chỗ nào mới gặp được vị thiện tri thức cho tôi bái lạy làm thầy?

Vị hóa nhân trả lời:

– Cách đây xa thật là xa, có một chỗ tên gọi là thành Chúng Hương, ông đến đó tìm Bồ Tát Đàm Vô Kiệt xin học chỗ tối cao trong Phật pháp. Thành Chúng Hương là một vườn hoa tuyệt đẹp và Bồ Tát Đàm Vô Kiệt là một vị chuyên nghiên cứu về Bát Nhã. Đó chính là người thầy lý tưởng mà ông mong cầu.

Nghe thế rồi, Thường Đề mừng rỡ vô hạn, lập tức thu thập mấy thứ đang mang theo mình mà nhắm hướng đông đi như bay. Nỗi mừng vui đã khiến ông quên hết mọi cực nhọc gian khổ dặm đường.

Thường Đề đêm ngày đi không ngừng nghỉ, chỉ hận là sao mình không mọc đôi cánh để bay một mạch tới nước Chúng Hương. Đến một thị trấn nọ, ông chợt nghĩ đến một chuyện: khi đến gặp danh sư bái tổ thì phải mang theo lễ vật nào đó cúng dường, nhưng đem cái gì được đây? Ngoài tấm áo thầy tu rách rưới trên thân, ông không hề có một vật gì khác. Cuối cùng ông nghĩ ra một cách, nghĩ rằng những bắp thịt rắn chắc của ông là một món hàng có thể bán được, vì thế ông bèn viết một tấm bảng mang trên người tìm người mua thịt. Nhưng có ai lại muốn mua thịt người bao giờ? Một buổi sáng đã qua mà vẫn chưa ai tới mua thịt của ông, mọi người chỉ nhìn ông bằng cặp mắt kỳ dị, nhưng không ai dám tiến lại gần.

Lòng cầu đạo của ông đã làm cho trời đất phải cảm động, nên thiên Đế Thích muốn thử đạo tâm của Thường Đề, bèn biến thành một ông già đến gần, nói:

– Ông bạn ơi! Sao ông lại muốn bán thịt người vậy? Mạng sống là một báu vật vô giá, và thân thể là chỗ y cứ của mạng sống, sao lại đem mạng sống quý giá ấy hủy mất đi?

Thường Đề nước mắt nhoè nhoẹt trả lời:

– Không giấu gì ngài, tôi số phận hẩm hiu, chướng dày phước mỏng, không có tài sản. Bây giờ tôi muốn đến thành Chúng Hương cầu pháp, muốn lạy Bồ Tát Đàm Vô Kiệt làm thầy, nhưng tôi không có tiền mua lễ vật cúng dường, vì vậy nên đứng đây bán thịt mình, nhưng chẳng ai muốn mua giùm tôi.

Nghe Thường Đề nói thế, ông lão thương hại nói rằng:

– Thôi được! Thế thì tôi mua cho ông một cân thịt người, nhưng ông không sợ đau hay sao?

– Cám ơn ông lão! Cám ơn ông! Ông đã giúp cho tôi mãn nguyện, đã giúp cho tôi giải quyết mọi khốn khó, khỏi cần nói giá tiền, ông cho bao nhiêu cũng được cả!

Nói xong Thường Đề bèn lấy con dao bén, cắn răng chịu đau cắt bắp thịt trên cánh tay. Ngay lúc ấy, giữa đám người đứng nhìn có một thanh niên trẻ tuổi chạy lại hỏi Thường Đề:

– Hỡi vị tu đạo kia, ông chịu đau đớn khổ sở như thế chỉ để cúng dường Bồ Tát Đàm Vô Kiệt, xin hỏi ông rằng, ông làm như thế có ích lợi gì?

– A! Cậu không biết chứ công đức của việc này vô lượng vô biên. Cậu nghĩ xem, thế giới Cực Lạc là một khu vườn vi diệu, đức Phật đã kêu gọi chúng ta một cách chân tình như thế, không lẽ cậu không tha thiết muốn về đó hay sao?

Anh chàng thanh niên cảm động trước lời nói khẩn thiết, nhiệt tình của Thường Đề, nên khảng khái nói:

– Ngài thật là khả kính! Tiền tài mà ngài cần dùng, tôi có thể dâng tặng cho ngài. Nhưng tôi chỉ xin ngài một điều, là hãy cho phép tôi đi theo để cùng cầu pháp bảo.

– Tốt lắm! Tốt lắm!

Thường Đề trả lời ngay.

Lúc ấy, hóa nhân của trời Đế Thích nói:

– Thường Đề! Không phải ta thích gì thịt của ông, ta chỉ muốn thử đạo tâm của ông đấy thôi! Ta không phải ai xa lạ, mà chính là trời Đế Thích. Sau này, ta quyết sẽ ủng hộ pháp của ông.

Lão già nói xong, dùng cánh tay áo phất nhẹ lên vết thương của Thường Đề rồi biến mất, vết thương bèn lành lặn như cũ. Thường Đề lạy tạ trời Đế Thích rồi cùng chàng thanh niên chuẩn bị một vài lễ vật cúng dường xong, cả hai cùng nhắm hướng thành Chúng Hương mà thẳng tiến.

Tới thành Chúng Hương, nhờ Bồ Tát Đàm Vô Kiệt dìu dắt khai đạo, lại nhờ Thường Đề tu hành rất tinh tiến, nên 7 năm sau, Thường Đề giác ngộ được đạo pháp vi diệu, chứng được trí huệ Bát Nhã và vĩnh viễn giải thoát sinh tử.

Từ đó người ta gọi ông là Bồ Tát Thường Đề.

“Người có chí thì làm gì cũng thành”, câu này áp dụng ở đây rất đúng. Chỉ cần chịu nhọc, cố gắng thực hiện thì việc gì dẫu khó khăn tới đâu cũng có ngày thành công.

Thanked by 2 Members:

#87 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:18

88. Hai anh em

Ngày xưa có hai anh em nhà nọ, từ nhỏ sống chung với nhau, tình huynh đệ hết sức sâu đậm. Trưởng thành rồi, tuy cha mẹ đã tạ thế từ lâu, nhưng họ vẫn sống chung với nhau một cách hòa thuận, thân ái. Ngay cả gia tài cha mẹ để lại, cũng không ai nghĩ tới chuyện giành phần của người kia để làm của riêng cho mình.

Một hôm trong lúc chuyện vãn, hai người tình cờ nhắc tới gia cảnh của mình, họ thấy phải chấn hưng và tìm cách phát triển sự nghiệp của tổ tiên để lại. Họ suy nghĩ, nhận thấy từ khi thừa kế gia nghiệp cho đến nay, họ không làm gì hơn là duy trì gia tài cho khỏi suy suyển mà thôi. Nhưng làm cho nếp nhà vẻ vang là trách nhiệm của nam nhi, nếu thành công trên phương diện kinh doanh làm giàu thì cha mẹ sẽ được yên tâm nơi chín suối.

Do đó hai người bàn tính với nhau ra xứ ngoài làm ăn. Họ thu xếp chuyện nhà đâu đó xong xuôi, mỗi người đem theo 10 cân vàng do mẹ để lại, rồi chọn ngày lành tháng tốt sửa soạn hành trang lên đường.

Hai người đi bộ trên một quãng đường khá xa, vượt qua những đỉnh núi cao chót vót. Trên đường đi họ gặp rất ít người, cũng chẳng ai kết bạn đồng hành với họ. Trước mặt họ là một dải đất mênh mông hoang vắng, tịch lặng.

Khi hai người đến một vùng thâm sơn hoang vu, người anh bỗng khởi lên một niệm ác trong tâm: Hay là mình giết thằng em này đi, đoạt lấy vàng của nó? Nếu số vốn được nhân lên làm đôi thì công việc buôn bán chắc chắn sẽ thuận lợi hơn, và mình sẽ kiếm nhiều tiền hơn, làm giàu dễ dàng hơn.

Cùng lúc ấy, người em cũng có những ý nghĩ bất ngờ trong đầu: Sao không giết anh đi, lấy tiền của anh thêm vào phần của mình, thì mọi sự không dễ dàng và thoải mái hơn sao?

Tuy nhiên, cũng gần như đồng thời, trong tâm của cả hai người lại khởi lên tiếp những suy tưởng giống nhau: Không! Đó là tội ác nặng nề to lớn nhất, kim tiền tài sản đều là những khí giới độc hại đối với lương tâm và nhân cách con người, như một vũng bùn sâu, một khi vấp ngã vào đó thì khó có thể trèo ra.

Sự cách biệt giữa thiện và ác chỉ vỏn vẹn trong một niệm, nhưng nhân quả của chúng thì lại xa khác nhau vô biên diệu vợi. Đồ tể buông dao xuống là có thể thành Phật. Người tốt không nhất định phải có toàn những ý nghĩ thiện, cũng như người xấu không phải là vĩnh viễn không có lúc thiện. Tất cả chỉ do nơi sự chọn lựa của họ, và sự định đoạt chỉ nằm trong một cái sát-na ấy thôi.

Sau đó hai người có vẻ rất nhẹ nhàng thư thái, vì cả hai đều chọn cách suy nghĩ thứ nhì. Niệm giác ngộ khởi lên thì trong tâm cảm thấy thanh thoát bội phần, bước chân của họ nhanh nhẹn hơn, và họ vượt qua được rặng núi hiểm nghèo kia.

Đi chưa được xa lắm, họ đến bên bờ một hồ nước xanh biếc, người anh móc trong người ra số vàng mang theo vứt xuống hồ một cách quyết liệt.

– Đúng!

Cùng với tiếng nước bị bắn lên tung toé, tiếng khen ngợi của người em vang lên một cách rõ ràng.

– Bõm!

Thêm một lần nữa, những giọt nước như những cánh hoa bay lên tứ phía.

– Đúng!

Người anh cũng vui vẻ tán thán khi thấy người em vứt số vàng của mình xuống nước, nhưng lại nghĩ thầm trong đầu: “Lạ quá, không lẽ chú ấy cùng có một ý nghĩ với ta hay sao?” Nghĩ thế rồi, người anh không ngăn được câu hỏi:

– Vì đồng tiền vàng mà anh đã có những ý nghĩ ác độc muốn hãm hại em, may mà anh đã tỉnh giác kịp thời, vì vậy mới vứt vàng xuống hồ để diệt tuyệt hoạn nạn về sau. Còn em, tại sao lại vứt bỏ vàng của mình đi?

Người em trả lời:

– Đúng thế, em cũng đã có ý nghĩ tội lỗi như anh vậy, vì thế mới đem vàng vứt bỏ đi. Nhưng bây giờ hai anh em ta an ổn rồi!

Vừa nói, hai anh em vừa khoác tay nhau, vai sánh vai tiến bước, mắt nhìn lên bầu trời thăm thẳm bao la. Tâm họ nhẹ nhàng và an vui như áng mây trắng bềnh bồng trong khoảng trời không mênh mông ấy.

Vàng bạc có khác nào rắn độc, chỉ khi nào biết rõ thật tính của vàng bạc mới có thể bảo vệ được nhân tính của mình.

Thanked by 2 Members:

#88 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:19

89. Có thân hay không?

Ngày xưa có một vị thương gia tên gọi là Vương lão lão, người béo mập, to lớn mạnh khoẻ, ăn thì thích ăn ngon, ở thì thích nhà cao cửa rộng, không có thứ gì là không ham muốn. Vì để hưởng thụ tiền tài, sắc đẹp và đồ ăn thức uống, nên ông đặc biệt quý trọng thân thể của mình, chỉ luôn lo sợ mỗi một điều là mạng sống không lâu dài.

Có một hôm trên đường về nhà sau chuyến buôn xa, ngước mắt nhìn trời thì thấy mặt trời đã lặn, màn đêm đã bao phủ từ bao giờ. Ông vội vàng tìm một căn nhà nghỉ trọ, nhưng ngoài núi rừng hoang dã, xung quanh không hề có bóng dáng nhà cửa dân cư nào.

Trong lúc đang bồn chồn lo lắng, thì xa xa phía trước thấy thấp thoáng có một ngôi miếu bỏ hoang, ông mừng rỡ chạy tới trú đêm trong ấy.

Trong ngôi miếu hoang phế, ông tìm một góc phòng và nằm ngay xuống đất mà ngủ. Ông suy nghĩ lung tung, tư tưởng càng lúc càng mơ hồ. Trong khoảng mông lung ấy, ông bỗng nhìn thấy một con quỷ đầu to, tóc tai bù xù, mày rậm, mắt lồi, mặt đen, trên lưng cõng một cái xác chết gầy gò, ném xác chết trước mặt ông đánh “rầm” một tiếng. Ông sợ quá, muốn chạy trốn mà không có đường trốn. Tiếp theo, ông lại thấy một con quỷ khác, miệng hoác, tai to, mũi nhọn, răng vẩu, lưỡi dài cũng chạy tới, giận dữ toác miệng ra mắng con quỷ đầu to:

– Cái xác chết này là của ta, tại sao mi lại đem nó tới đây?

– Nó là của ta, dĩ nhiên ta muốn đem nó đi đâu tùy ý!

– Đồ ăn nói quàng xiêng, nó thuộc về ta!

Con quỷ miệng hoác nói xong liền kéo một tay một chân của thây ma lên, tính vác đi.

– Chờ một chút, có người làm chứng, mi có thể hỏi tiên sinh đây!

Con quỷ đầu to vừa nói vừa chỉ thương gia Vương lão lão, và đồng thời cũng nắm giữ lại một tay một chân của tử thi.

Hai con quỷ tranh qua giành lại, tranh hoài không phân thắng bại, con quỷ miệng hoác bèn nhìn Vương lão lão hất hàm hỏi:

– Sự thật cái tử thi này là của ai?

Vương lão lão thầm nghĩ, hai con quỷ này sức mạnh vô song, được lòng đứa này thì tất nhiên sẽ mất lòng đứa kia, bây giờ có nói thật hay nói dối cũng không thoát chết, thôi thì nói thật rồi chết còn hơn nói dối, ông bèn trả lời:

– Tôi thấy chính là vị tiên sinh đầu to đem cái tử thi này tới đây.

– Nói bậy, mi là đồ nói bậy!

Con quỷ miệng hoác hét lên, trừng hai con mắt lên nhìn, không nghe lời biện bạch nào nữa mà hùng hổ kéo một cánh tay của Vương lão lão giật mạnh một cái đứt đoạn, rồi vứt xuống đất. Con quỷ đầu to vội vàng giật một cánh tay của tử thi ra, rồi cắm vào người của Vương lão lão. Cứ thế mà trao qua đổi lại, một con quỷ thì kéo ra từ đầu này, một con thì giật lấy từ đầu kia cắm lại, hai tay, hai chân, rồi từ đầu xuống chân cho đến toàn thân của Vương lão lão đã đổi với toàn thân của tử thi. Hai con quỷ thấy cái tử thi mới mập mạp tươi tốt bèn thi nhau ăn, không còn tranh nhau cái thân người gầy gò kia nữa.

Thật đáng thương cho Vương lão lão, bị hai con quỷ dùng làm miếng mồi ngon. Ăn no nê rồi, chúng quẹt mồm chùi mép, vặn mình chuyển người một lúc rồi hoan hỉ kéo nhau đi. May sao, chân tâm của Vương lão lão không hề bị mất đi, bổn tính cũng chưa mê muội, ông suy nghĩ:

– Thân thể do cha mẹ sinh ra, thế mà hồi nãy trơ mắt ra nhìn hai con quỷ đói ăn sạch rồi! Bây giờ da thịt trên thân ta là da thịt của người khác, từ mập ta đã trở thành gầy, mà thật sự ta có thân không? Hay là không có thân?

Ông suy nghĩ mãi về vấn đề này, nhưng nghĩ không ra. Bỗng nhiên có một tiếng động mạnh làm cho ông sợ hãi giật nẩy mình. Ông trố mắt nhìn quanh, gian phòng trống không, thì ra ông vừa trải qua một cơn ác mộng.

Ngày hôm sau, Vương lão lão tìm đến một ngôi chùa, kể lại giấc mộng của mình cho một vị tỳ-kheo nghe, và nêu lên vấn đề thân của mình có hay là không có? Vị tỳ-kheo dạy rằng:

– Chư pháp do nhân duyên mà sinh, chư pháp cũng do nhân duyên mà diệt; đời người vô thường, xét đến cùng là vì như thế. Từ vô thủy đến giờ, thật sự không có cái gọi là “ngã”.

– Thầy thuyết pháp cao siêu quá, tôi không hiểu hết.

– Được rồi, tôi sẽ nói một cách cụ thể hơn cho ông nghe. Sắc thân của chúng ta là do tứ đại hòa hợp, là một cái bao da hôi thối. Một ngày nào đó bốn nhân duyên lớn là đất, nước, lửa, gió không hòa hợp nữa, cái thân thể mà ta chấp là “tôi” đó, cũng sẽ tiêu tan.

– Như cái thân của tôi do cha mẹ sinh ra, tứ chi và năm căn vẹn toàn, có thể đi đứng, có thể ăn uống, có thể nói chuyện này, không phải là thân của tôi hay sao?

Vương lão lão hỏi, có vẻ như không hiểu.

– Trong giấc mộng vừa rồi của ông, cái thân của ông và cái thân của xác chết có cái gì khác biệt với nhau?

– Khác biệt chứ sao lại không, cái thân của tôi sau khi bị trao đổi đã thành da thịt của người khác.

– Thế thì, lúc ấy cái mà ông gọi là “tôi” đó đã đi đâu rồi?

Vương lão lão không có lời lẽ nào để trả lời câu hỏi này. Ngừng một lúc, vị tỳ-kheo lại nói:

– Chính điều đó làm cho chuyện đại sự sinh tử không rõ ràng.

Vị tỳ-kheo lại ngừng, để cho Vương lão lão suy nghĩ một lúc, sau đó từ tốn khai thị cho ông:

– Cái thân còn sống của ông và cái xác thân đã chết nọ, đều là cái tôi giả tạo, nếu hiểu rõ ràng thì sẽ thấy là không có hai, không có khác. Ông có thể chỉ cái thân còn sống của ông, sau khi đã trao đổi với cái thân của xác chết kia mà nói rằng “đây là cái tôi thật”, đó cũng là bổn lai diện mục của ông vậy.

Vương lão lão nghe xong chợt đại ngộ, liền phát tâm xuất gia tu hành, tinh tiến giữ giới, lìa bỏ ngũ dục, đoạn trừ phiền não của thế gian và chứng quả A-la-hán.

Thanked by 2 Members:

#89 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:20

90. Y Lý Sa

Trưởng giả Y Lý Sa rất giàu có, tài sản của ông, ngoại trừ nhà vua ra thì không có ai có thể so sánh được. Ông có cả chục cái kho, kho nào cũng tràn ngập vàng bạc châu báu.

Tuy giàu có như thế nhưng ông là một người cực kỳ xấu tướng, sinh ra đã chân thọt, lưng gù, mắt chột, đã thế tính tình lại bủn xỉn, tham lam, tà kiến. Cố nhiên ông đã không cho ai một đồng xu nhỏ nào, mà cả đến chính mình cũng không dám tiêu xài gì cả.

Trước đó, bảy đời tổ tiên của ông đều nổi danh là từ thiện, nhưng đến khi ông lên nối nghiệp thì hoàn toàn làm ngược lại với nền nếp của ông cha, cho đến cái nhà chẩn tế (từ thiện đường), ông cũng phá ra để làm nhà kho. Bình thường, nếu có người hành khất nào đến xin ăn, thì không những Y Lý Sa không bố thí gì cho người ta, mà còn tay đấm chân đá, đánh người ta tới bể đầu chảy máu. Cả làng không ai ưa cái con người coi tiền hơn mạng sống của mình đã đành, mà cả người nhà của ông cũng ghét bỏ ông.

Một hôm ông phải lên kinh thành chầu vua, trên đường về đi ngang qua một quán rượu. Quán rất đông khách, hương rượu nồng thoang thoảng bay qua cánh cửa hé mở khiến Y Lý Sa phải nuốt nước miếng, muốn bước vào quán uống một ly. Nhưng bỗng nhiên ông lại nghĩ rằng: “Nếu ta bị người nhà nhìn thấy đang ngồi uống rượu, thế nào họ cũng đòi uống, lúc ấy tài sản của ta sẽ bị hao hụt hết còn gì!”.

Muốn bảo toàn gia tài, Y Lý Sa thà nén cơn thèm rượu của mình và cương quyết rời xa quán rượu. Nhưng trên con đường ấy có quá nhiều quán rượu khác, cuối cùng không không tự kiềm chế nổi, ông bèn bước vào mua một bình rượu và lén tìm một chỗ có nhiều lùm cây trong rừng, một mình rót rượu uống vô cùng khoái trá.

Cha của Y Lý Sa, do vì lúc còn sinh thời thích bố thí và cứu giúp người, nên sau khi chết sinh lên cõi trời làm Thiên Đế Thích.

Đúng lúc ấy, Thiên Đế Thích nghĩ tới chuyện nhà của mình, không biết đứa con trai có nối tiếp sự nghiệp từ thiện bố thí cứu khổ hay không? Khi ông khám phá ra thằng con vô nghì là một thứ keo kiệt bủn xỉn, tới ăn cũng không dám ăn, sợ người nhà tới xin chia, đến nỗi phải lén tìm chỗ kín mà ăn uống một mình, ông động lòng thương liền nghĩ cách cho nó một bài học để sớm cải hối.

Thiên Đế Thích liền biến thành một người giống hệt như Y Lý Sa. Thừa lúc Y Lý Sa còn đang uống rượu trong rừng cây, ông đến hoàng cung xin gặp vua. Vua hỏi:

– Đại trưởng giả! Giờ này không phải là lúc chầu triều, ông đến gặp ta có chuyện gì?

Y Lý Sa giả trả lời:

– Đại vương, không có gì khác hơn là chuyện này, nhà của hạ thần có quá nhiền vàng bạc châu báu, xin đại vương cho sứ thần đến nhà của hạ thần lấy bớt đem về bỏ trong ngân khố quốc gia, khi nào cần mang ra sử dụng.

– Không! Tài sản do ông khổ công tạo ra, ta không nỡ lấy!

Tuy vua từ chối rồi, nhưng Y Lý Sa giả vẫn nài nỉ:

– Nếu đại vương không lấy thì thần nên đem tài sản ấy cho ai bây giờ?

– Trưởng giả! Người nghèo khổ rất nhiều, họ đang cần ông bố thí đấy!

Y Lý Sa giả nghe vua nói thế, giả vờ như vỡ lẽ ra, liền trả lời:

– Phải rồi, thần phải đem tiền đi bố thí cho người nghèo.

Thiên Đế Thích trong lốt Y Lý Sa bèn trở về nhà, mở hết kho vựa, kêu người nhà, vợ con cùng nô bộc tỳ nữ đến bảo rằng:

– Hãy ra ngoài đường mà nói với mọi người rằng nhà Y Lý Sa hôm nay mở đại hội bố thí, ai nghèo khổ thì có thể đến đây nhận tiền cứu trợ.

Tin đột ngột ấy làm cho ai nấy đều lấy làm quái lạ. Bình thường bản tính Y Lý Sa keo kiệt tới mức nào, ai lại chẳng biết? Hay là hôm nay ông say rượu và trở nên tốt bụng, chịu xuất tiền ra bố thí?

Rất nhiều người, thôi thì nào bao nào túi, nào giỏ nào xách, tụ tập trước nhà của trưởng giả. Y Lý Sa giả rất rộng rãi, thấy túi nào bao nào chìa ra cũng đong đầy vàng bạc vào, người nhận ai cũng vui mừng tán thán.

Lúc ấy Y Lý Sa thật uống xong bình rượu bèn ra khỏi rừng cây, chuếnh choáng trở về nhà. Lúc mới bước ngang qua cửa nhà, thấy đằng trước có rất đông người đang đứng xếp hàng dài như một con rắn vĩ đại, ai nấy cũng đeo xách đeo giỏ, ai nấy cũng đều vui mừng rạng rỡ.

Y Lý Sa không hiểu chuyện gì đang xảy ra, bèn hỏi họ:

– Các người đứng đây làm gì vậy?

– A! Hôm nay là ngài trưởng giả Y Lý Sa mở đại hội bố thí, ông là người làng mà chưa biết hay sao?

Y Lý Sa không nghe thì thôi, mà nghe rồi thì sợ hãi rụng rời, suýt nữa té xỉu xuống đất. Khi ông thấy những người nghèo hèn này đem từng bao, từng bao đựng đầy bảo vật lấy từ kho của ông ra, ông vội nhào tới bấu lấy, hét lên:

– Mấy người là đồ ăn cướp! Tiền bạc này là của ta, tại sao lại dám tùy tiện tới lấy!

Những người nghèo này nghe ông nói toàn những lời thô ác, thì nổi giận vung tay tới đánh. Thật đáng thương cho Y Lý Sa, bị một trận đòn đau, thừa lúc hỗn loạn bèn bò ra khỏi đám đông để chạy về nhà. Lúc ấy ông đã tỉnh rượu, nhưng người giữ cửa chặn lại không cho ông vào.

– Thế này là nghĩa thế nào? Ta là chủ của các ngươi mà các ngươi cản không cho ta vào, các ngươi đang làm loạn phải không?

Trưởng giả Y Lý Sa la hét rầm rĩ, nhưng bù lại chỉ bị ăn đòn thêm, cuối cùng không biết làm gì hơn là bất lực nhìn tài sản của mình bị lấy đi không ít. Ông chạy đến hoàng cung như một người điên, cầu khẩn nhà vua:

– Đại vương! Có phải chính ngài là người ra lệnh mở cửa kho của hạ thần cho người ta đến cướp tài sản không?

– Trưởng giả, ta không hề hạ lệnh, không phải chính ông mới là người muốn mở đại hội bố thí hay sao?

Người trưởng giả keo kiệt kia ruột gan như lửa đốt, đỏ mặt tía tai nói rằng:

– Từ trước đến giờ hạ thần quý trọng tài sản như chính mạng sống của mình, có lý nào lại đem tiền bạc trong kho ra phân phát cho thiên hạ, xin đại vương mở cuộc điều tra giúp hạ thần!

Vua bèn phái sứ thần đến nhà trưởng giả, không bao lâu, Y Lý Sa giả cùng vợ con và gia nhân của Y Lý Sa thật đều được đưa đến trước mặt vua và các quan đại thần. Hai ông Y Lý Sa giống nhau không thể nào phân biệt được ai thật ai giả, cuối cùng vua bảo phu nhân ra nhận diện. Nhưng phu nhân lại nhận ông Y Lý Sa chịu bố thí và làm việc thiện làm chồng, và tất cả, từ con cái tới người làm công trong nhà, ai ai cũng nhất định từ chối ông Y Lý Sa keo kiệt kia.

Y Lý Sa thật bèn nhớ tới cái nhọt trên đầu, bình thường không ai có thể nhìn thấy được. Ông bèn gọi thợ hớt tóc đến kiểm chứng, thợ hớt tóc kiểm rồi bèn thưa với vua:

– Đại vương! Cả hai người đều có nhọt trên đầu, hạ thần không phân biệt được ai thật ai giả.

Người trưởng giả keo kiệt kia nghe thợ hớt tóc nói như thế rồi thì run lẩy bẩy, quá lo sợ tài sản bị chiếm đoạt nên té xỉu xuống đất ngay tại chỗ. Chính giây phút ấy Y Lý Sa giả mới hiện nguyên hình, nói với vua rằng:

– Đại vương, ta không phải là Y Lý Sa, ta là Thiên Đế Thích.

Nói xong bèn gọi Y Lý Sa dậy, người xung quanh vội lau mặt cho ông tỉnh. Thiên Đế Thích nói với ông rằng:

– Y Lý Sa! Tài sản ấy là sở hữu của ta chứ không phải của ngươi, ta chính là cha của ngươi đây! Nhờ làm điều thiện, hành bố thí nên sinh làm Thiên Đế Thích. Nhưng ngươi lại phá hoại gia quy của ta, trở thành một người bủn xỉn như vậy. Lòng tham của ngươi không đáy, đã phá hủy nhà chẩn tế, đuổi mắng kẻ ăn xin, một mực bảo thủ tài sản, tự mình không dám dùng cũng không bố thí cho người khác. Từ ngày hôm nay trở đi, ngươi phải xây lại nhà chẩn tế của ta, thực hành bố thí và làm việc thiện, bằng không thì bao nhiêu tài sản ấy sẽ bị ta biến thành cát bụi hết!

Lời răn bảo của cha đã làm cho Y Lý Sa tỉnh ngộ. Từ đó ông chịu làm việc thiện, chịu bố thí, giữ gìn theo Năm giới, về sau cũng được sinh lên cõi trời.

Khi Đức Phật thuật lại câu chuyện này xong, Ngài nói thêm: “Y Lý Sa biết ăn năn ấy chính là tiền thân của ta.”

Thanked by 2 Members:

#90 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 16/10/2012 - 03:21

91. Cô bé lọ lem

Ngày xưa ở Ấn Độ có một quả núi tên là Trú Ám, trên núi, có những gốc cổ thụ vươn lên tới trời, có kỳ hoa dị thảo, bóng người lại thưa thớt, thật là một khung cảnh lý tưởng cho việc tu hành.

Từ xưa đã có rất nhiều vị tu đạo lên núi Trú Ám tịch tĩnh này để tu luyện nên chẳng bao lâu núi đã trở thành một đạo tràng thánh thiện và thanh khiết, được muôn người ngưỡng mộ tìm tới, nhất là người từ xa xôi đến thiết trai cúng dường cầu phước thì lại dìu dập không ngớt lai vãng.

Một hôm có một vị trưởng giả chuẩn bị thật nhiều cao lương mỹ vị và đưa người nhà lên núi để cúng dường chư tỳ-kheo. Trên đường, có một cô gái ăn xin vừa tròn 18 tuổi trông thấy được, cô không khỏi nghĩ rằng: “Hôm nay trưởng giả đem nhiều thức ăn như thế để cúng dường các sư phụ xuất gia, nếu ta đi theo xin ăn, thế nào lại chẳng được một bữa cơm no nê thỏa thích, mấy bữa nay đã không có gì vào bụng...”

Nghĩ thế xong, cô vui tươi tung tăng chạy lên núi. Nhưng khi cô lên đến núi, thấy trưởng giả bày ra những thức ăn trân quý ngon lành thì cảm xúc mà nghĩ rằng:

– Kiếp trước trưởng giả đã tu phúc nên kiếp này được quả báo giàu sang phú quý, bây giờ lại có thiện tâm như thế, lập đàn trai cúng dường chư tăng, tạo nhiều công đức, phúc báo kiếp sau chắc chắn sẽ còn to lớn hơn kiếp này nhiều!

Còn ta sao mà đáng thương! Kiếp trước không biết tu phúc nên kiếp này nghèo khổ, nếu bây giờ lại cũng không biết tu phúc, thì kiếp sau sẽ còn nghèo khổ biết bao nhiêu! Mấy bữa trước bươi đống rác lượm được hai đồng tiền, tại sao hôm nay lại không đem hai đồng ấy lên cúng dường cho các sư phụ xuất gia? Mặc dù với hai đồng này ta có thể mua được hai cái bánh để ăn, nhưng dẫu có đem cúng quý thầy chắc ta cũng không đến nỗi chết đói!

Nghĩ xong, chờ các vị tỳ-kheo dùng bữa xong xuôi, với tâm cực kỳ cung kính, cô hai tay nâng hai đồng tiền lên hiến dâng các ngài. Theo tục lệ của núi ấy, khi có người đến cúng dường thì vị thầy tri khách sẽ ra chúc phúc cho thí chủ. Nhưng hôm ấy, chính đại thượng tọa trụ trì đã thân hành ra chúc phúc cho cô gái nghèo khổ nọ.

– Trong tâm cô bé này, có bao nhiêu bảo vật trên thế gian cô đều đã đem ra cúng dường cho người xuất gia. Con bố thí là vì muốn tu phúc, nên nay ta chúc con vĩnh viễn không còn nghèo khổ bần cùng nữa.

Cô gái nghèo nghe thượng tọa trụ trì chúc phúc như vậy, lòng cảm thấy rất vui mừng và an ổn, chưa kể cô còn được đại chúng cho ăn một bữa cơm no. Lúc ấy cô thật sự đạt được Pháp lạc vô thượng.

Ăn no rồi, cô rời khỏi núi không lâu thì ngồi xuống một gốc cây lớn nghỉ ngơi. Lúc ấy, mặt trời từ từ hướng về phía tây mà bóng mát của cây ấy không hề chuyển động, và bên trên còn có đám mây ngũ sắc che phủ cho cô nữa, thật là một hiện tượng vô cùng lạ lùng!

Cũng chính ngay lúc ấy, vị vua của nước ấy nhân vì hoàng hậu mới qua đời nên tâm tư buồn bã không nguôi, bèn xa giá đi dạo một vòng sơn thủy cho khuây khoả. Trên đường, xe vua đi ngang gốc cây cô gái nghèo đang nghỉ ngơi. Vua nhìn thấy cô gái đang ngủ dưới đám mây ngũ sắc, giật mình ngỡ rằng là tiên nữ cõi trời, lẩm bẩm tự bảo:

– Thiếu nữ này là tiên hạ phàm, thân hình sao mà kiều diễm, khuôn mặt sao mà tuyệt vời, lại có mây ngũ sắc che trên đầu, thật là kỳ lạ!

Thế rồi vua bèn hạ lệnh:

– Các ngươi hãy mời nàng ấy đến đây cho ta!

Cô gái nghèo giật mình thức giấc, ngơ ngác mở to đôi mắt, thấy quân binh đông đảo vây quanh thì kinh hoàng la lên thất thanh:

– Ôi! Các ông là ai? Có chuyện gì vậy?

– Cô đừng sợ! Chúng tôi không có ý hại cô, chính đại vương muốn mời cô đến gặp mặt đấy thôi!

Cô gái được đưa đến trước mặt vua rồi, nhà vua dịu dàng hỏi:

– Năm nay nàng được bao nhiêu tuổi rồi?

– Tôi vừa tròn mười tám tuổi.

– Nàng xinh đẹp và dễ thương quá, ta rất thích nàng. Ta muốn đưa nàng về cung làm đệ nhất phu nhân, nàng có bằng lòng không?

Cô gái nghèo liếc nhìn nhà vua rồi e thẹn cúi đầu mỉm cười. Cô như người ngủ mê, không dám tin mình lại may mắn dường ấy. Một cô gái nghèo ăn xin, làm sao mà một bước trở nên một vị đệ nhất phu nhân của cả một nước? Cô suy nghĩ như thế nên đờ đẫn cả người. Đức vua lại hỏi:

– Sao? Nàng không bằng lòng ư? Tại sao không nói một lời nào?

– Đại vương! Thiếp không biết mình đang mơ hay tỉnh.

– Nàng không mơ đâu, đây là sự thật.

Về tới hoàng cung, nhà vua lập tức triệu tập quần thần, giới thiệu cho họ vị hoàng hậu mới.

Khi nàng được lên làm hoàng hậu rồi thì cơm no áo ấm, cuộc sống vô cùng sung sướng. Nhưng trong tâm tư nàng không ngớt suy nghĩ:

– Nếu hôm nay ta được may mắn như thế này là nhờ lúc trước có cúng dường hai đồng bạc. Như vậy quý sư phụ trên núi không phải là đại ân nhân của ta sao?

Nghĩ thế, nàng bèn thưa với vua rằng:

– Đại vương! Thiếp vốn là một cô gái con nhà hạ tiện, nay được đại vương đoái thương cho làm đệ nhất phu nhân, cố nhiên ân huệ ấy thiếp cảm tạ không cùng. Nhưng thiếp cũng muốn cảm tạ các vị xuất gia trên núi đã nhận hai đồng tiền của thiếp, thiếp muốn đem vài thứ lên cúng dường các ngài để tỏ lòng biết ơn, chẳng hay đại vương thấy thế nào?

– Tốt lắm, nàng muốn gì thì cứ làm, tùy ý.

Hoàng hậu bèn cho chuẩn bị thật nhiều trân bảo và cao lương mỹ vị, phải dùng tới mấy chiếc xe chở lên núi Trú Ám cúng dường.

Cúng dường xong, đến giờ chúc phúc, thì vị đại thượng tọa trụ trì ngày nào, hôm nay không hề xuất hiện, lại cử vị thầy tri khách thay ngài ra chúc phúc. Hoàng hậu thấy thế không khỏi lấy làm lạ:

– Xưa kia tôi chỉ cúng dường có hai đồng tiền mà thượng tọa trụ trì đích thân ra chúc phúc cho tôi. Hôm nay tôi đem bao nhiêu là thức ăn và trân bảo đến cúng dường, tại sao thượng tọa không ra chúc phúc cho tôi?

Tất cả mọi người ai cũng thắc mắc điều ấy. Thượng tọa trụ trì biết được mối nghi vấn của đại chúng nên mới triệu tập mọi người lại mà dạy rằng:

– Xưa kia, cô ấy chỉ cúng có hai đồng tiền, vật cúng tuy ít ỏi nhưng cô cúng dường với cả một tâm kính cẩn chân thành. Đó là điều cao quý cùng tột. Nay cô đến với hàng mấy chiếc xe chở đầy cao lương mỹ vị và bảo vật quý giá, nhưng cô lại cúng dường với tâm ngã mạn, tự kiêu. Phật pháp không trọng vật chất mà chỉ trọng sự phát tâm, vì thế lần này ta không đích thân ra chúc phúc cho cô. Quý vị hãy hiểu cho rõ việc cúng dường trong Phật pháp.

Hoàng hậu và chúng tỳ-kheo nghe thượng tọa trụ trì nói như thế rồi, thì lòng cảm thấy vừa tàm quý nhưng lại vừa rất vui mừng, lúc bấy giờ họ mới hiểu rõ ràng thế nào là ý nghĩa chân chính của sự cúng dường hay bố thí.

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |