Gửi vào 11/11/2012 - 14:10
Gần đây có hiện tượng một số công ty, xí nghiệp không tuyển lao động người Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Theo PGS.TS Bùi Xuân Đính, Viện Dân tộc học Việt Nam: Định kiến này bắt nguồn từ sự nhìn nhận thiếu khách quan, thể hiện cái nhìn bề ngoài của những người lãnh đạo, quản lý, cần phải loại bỏ để tạo công bằng trong xã hội.
Có lý do để tồn tại (?)
"Với những người định kiến, cần phải thay đổi cách nhìn nhận, không thể quy chụp. Còn người bị định kiến thì đừng có cứ ngồi đó rồi trách móc người ta mà hãy nỗ lực, cố gắng rèn luyện mình, bớt thể hiện tính cách đặc trưng của vùng nhưng không phù hợp với cái chung, với các cộng đồng khác để tạo ra sự hòa hợp" - PGS. TS Bùi Xuân Đính. Gần đây, báo chí đưa tin có công ty tuyển người lao động nhưng không nhận người Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Dưới góc độ văn hóa, ông nhìn nhận việc này thế nào?
Đấy là biểu hiện của việc nhìn nhận về đặc điểm của con người ở từng vùng miền, tồn tại từ lâu rồi chứ không phải chỉ bây giờ mới có, và cũng không phải chỉ ba tỉnh này mới chịu sự định kiến của cộng đồng.
Tuy nhiên, phân biệt đến mức không nhận người ta vào làm vì họ là người Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh như báo chí phản ánh thì đúng là cực đoan thái quá.
Ông vừa nói không phải chỉ ba tỉnh này mới chịu sự định kiến, nghĩa là định kiến này còn ở nhiều vùng khác?
Đúng thế. Hầu như huyện nào, tỉnh nào ở đồng bằng Bắc Bộ cũng có sự định kiến này.
PGS.TS Bùi Xuân Đính, Viện Dân tộc học Việt Nam
Theo ông thì căn nguyên của sự định kiến ấy bắt nguồn từ đâu?
Cần phải thấy rằng, mỗi làng của người Việt là một cộng đồng riêng biệt về điều kiện tự nhiên, tín ngưỡng, phong tục, tập quán. Từ đó tạo ra những tính cách, thói làng, lệ làng khác nhau. Những tính cách của các làng hầu như không hòa hợp, thậm chí là xung đột với nhau.
Trong dân gian đã tổng kết thành “tứ vật”, “ngũ vật”, nghĩa là 4, 5 làng có những tính cách khác biệt, không thể dung hòa, hoặc có các sản vật bị nghi vấn về chất lượng.
Ví như ở huyện Thanh Trì, Hà Nội có “tứ vật”: “Vật giao Đông Phù hữu” (chớ nên kết bạn với người làng Đông Phù), “Vật thính Vĩnh Trung ngôn” (chớ nên nghe người làng Vĩnh Trung nói vì giữa lời nói với thực tế hoàn toàn khác nhau), “Vật thú Lạc Thị thê” (chớ nên lấy vợ người làng Lạc Thị vì phụ nữ ở đó giỏi buôn bán, giàu có nên dễ coi khinh nhà chồng), “Vật ẩm Hoàng Mai tửu” (đừng có uống rượu làng Hoàng Mai vì từ thời Pháp họ làm rượu Tây giả).
Từ nhận xét của người một làng, dần dần được người các làng khác tin theo, trở thành “tổng kết” về tính cách con người các làng “tứ vật” đó, dẫn đến những thành kiến, định kiến với các làng này.
Nói thế có nghĩa là, sự định kiến ấy hoàn toàn có cơ sở?
Trong nhiều trường hợp thì nó có lý do để tồn tại. Vấn đề ở chỗ, cần phải nhận thức được rằng, không phải ai sinh ra ở làng ấy, vùng ấy đều có đầy đủ những tính cách đặc trưng của làng, của vùng đó. Do đó, không thể chụp mũ, vơ đũa cả nắm được.
Tôi cũng đồng ý là không thể vơ đũa cả nắm, vì xã hội cũng có người nọ người kia. Quay trở lại câu chuyện ban đầu, các cụ vẫn có câu “không có lửa làm sao có khói”?
Cần nhớ rằng, thời phong kiến, Thanh Hóa là vùng đất có nhiều đời làm vua lâu nhất ở nước ta. Thanh Hóa cũng là tỉnh duy nhất trong suốt quá trình lịch sử luôn đứng thành đơn vị hành chính độc lập. Do đó, con người ở đây ý thức được lợi thế của mình nên có tính cách khác biệt với các vùng khác. Tính cách đó cũng luôn ổn định.
Nhiều người cho rằng, người tỉnh này luôn thực dụng, họ sẵn sàng bất chấp tất cả để đạt được mục đích của mình. Điều ấy cần phải có một nghiên cứu kỹ lưỡng.
Còn người Nghệ An, Hà Tĩnh thì chỉ cần nghe thấy tiếng là họ đoàn kết lại. Sự đoàn kết là tốt, nhưng nhiều khi thái quá thì lại không tốt. Những nét tính cách ấy đã khiến cho người ta luôn nghi ngại, “dè chừng” khi tiếp xúc với người các tỉnh này.
Thế nhưng, tôi khẳng định lại một lần nữa, không phải ai sinh ra ở ba tỉnh trên cũng mang trọn vẹn tính cách đặc trưng của vùng ấy. Cũng như không phải cứ là người Hà Nội thì thanh lịch cả đâu. Thực tế, Hà Nội đâu thiếu gì những người thô lỗ, du thử du thực, trộm cướp.
Sợ nhất là lãnh đạo có tư tưởng định kiến
Theo ông, sự định kiến trong xã hội ngày nay có nhiều không?
Nó rất phổ biến và cũng đa dạng khi phân biệt người tỉnh nọ với tỉnh kia, làng nọ với làng kia, người thành phố với người nhà quê… Tầng lớp nào cũng có những sự định kiến nhất định. Nhưng đáng sợ nhất khi những người làm công tác lãnh đạo, quản lý lại có tư tưởng định kiến vùng miền như thế.
Vì sao ông lại cho đó là điều đáng sợ nhất?
Vì những người đó nắm “quyền sinh quyền sát” trong tay. Khi định kiến vùng miền có nghĩa là họ đã đánh đồng, chụp mũ khiến cho người sinh ra ở vùng đó bị cô lập, bị tước đi cơ hội việc làm, tạo sự không công bằng trong xã hội.
Sự “đánh đồng”, “chụp mũ” ấy có căn nguyên từ đâu, thưa ông?
Vì người ta đã không có được cái nhìn biện chứng, chưa sâu sắc, chỉ nhìn thấy cái bề ngoài, bề nổi; nhìn thấy cái tổng thể mà không nhìn ra cái riêng rẽ, nôm na là sự thiển cận. Nếu cứ cực đoan như thế thì chính anh sẽ thiệt, vì rất có thể anh đã loại đi những người có năng lực, có đức.
Không dễ xóa bỏ
“Nhiều khi, sự định kiến vùng miền chỉ đơn thuần được tạo nên từ sự nghe kể, do đó cũng dễ xóa bỏ hơn. Nhưng khi sự định kiến ấy được củng cố thông qua sự trải nghiệm của chính người trong cuộc thì sẽ tạo thành những vết hằn, có khi cả đời người ta không xóa được. Do đó, không gì hơn là chính những người ở vùng trót bị định kiến phải vươn lên chứng tỏ mình”.
PGS. TS Bùi Xuân Đính
Theo ông, xóa bỏ định kiến ấy có khó không?
Khó, rất khó. Về phía người mang tư tưởng định kiến, vì họ đã được nghe kể, được trải nghiệm, chứng kiến rồi nên suy nghĩ đã “đóng đinh” trong đầu họ.
Còn về phía những người bị định kiến thì dù muốn hay không, tính cách của họ được tạo nên từ chính môi trường sống (gồm cả môi trường tự nhiên và xã hội) đã thẩm thấu vào họ, không dễ gì mà khắc phục được những đức tính khó hòa hợp với các vùng khác đâu.
Nhưng chẳng lẽ cứ mãi để sự định kiến tồn tại như thế?
Thực tế, chẳng riêng gì người Việt mới có định kiến đâu. Nếu bây giờ có một công ty tư bản ở châu Âu cần tuyển nhân công người châu Á, chắc chắn người Việt Nam sẽ bị loại đầu tiên, vì tính tùy tiện, vô ý thức, vô kỷ luật.
Tôi biết, nói thế rất có thể nhiều người sẽ phản ứng vì không phải ai cũng như thế. Tuy nhiên, vì nó thể hiện điều ấy trong cuộc sống hàng ngày nên người ta dễ dàng nhận ra, so sánh và đúc kết.
Sự định kiến tồn tại đã tạo ra bất công trong xã hội. Nên chăng, ta có một văn bản pháp luật nghiêm cấm sự định kiến này?
Tôi cho cái đó là không thể, vì rất có thể xâm phạm vào đời tư. Vả lại, nói rằng cần phải có điều luật cấm thì tôi e chưa chắc đã thành công đâu. Bằng chứng là hiện nay ta có nhiều điều luật, quy định rất cụ thể, chi tiết mà người ta còn chẳng thực hiện nữa là.
Không được dùng đến luật thì theo ông, ta cần phải làm gì để xóa bỏ định kiến?
Nó cần xuất phát từ cả hai phía: người định kiến và người bị định kiến. Với những người định kiến, cần phải thay đổi cách nhìn nhận, không thể quy chụp. Còn người bị định kiến thì đừng có cứ ngồi đó rồi trách móc người ta mà hãy nỗ lực, cố gắng rèn luyện mình, bớt thể hiện tính cách đặc trưng của vùng nhưng không phù hợp với cái chung, với các cộng đồng khác để tạo ra sự hòa hợp.