Jump to content

Advertisements




Nguyên Lý Luận Giải Lá Số (của LongNguyenQuang)


563 replies to this topic

#91 ConLuan

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 275 Bài viết:
  • 415 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 14:07

Mệnh là Mệnh , xem cái gì cũng Mệnh.
Thân là biểu hiện một phần của Mệnh , nằm cung nào thì xem cung đó. Xem Thân đoán được thêm được xu hướng cuộc đời. Mệnh ở cung Âm Thân cung Âm , Mệnh cung Dương Thân cung Dương.

Thân cư Phúc : Người nghiên về nhân nghĩa tình cảm hay tính xa về tình cảm. Nếu được cát tinh thì tốt , được người thương , hay làm việc nghĩa , .. hung tinh thì quan hệ tình cảm với người hay trắc trở , nhưng vẫn thích giao du với người khác.
Đặc tính rõ : Tình cảm , nhân nghĩa , ..

Thân cư Quan : Nghiên về công việc , công danh , danh dự , ..
Thân cư Di : Thích đi xa , vọng tưởng nơi xa , ..
Thân cư Tài : Nghiên về Tài lộc , vật chất
Thân cư Phu Thê : Tôn trọng vợ chồng
Thân Mệnh đồng cung : Người coi trọng mình

Thân không phải là Mệnh , không chia 3/7 ; sau 30 hay trước 30 , cũng chẳng phải chủ vận hạn hay Thể Dụng toàn phần với Mệnh. Tử vi có 6 cung quan trọng la Mệnh Phúc Quan Tài Di Phu Thê . Cuộc đời mỗi người cũng chỉ do đó mà ra. Đó là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp . Các cung khác đều có ảnh hưởng đến cuộc sống nhưng ở góc độ không chủ động.
Thân là một góc độ của Mệnh , do đó Thân cư tại sáu cung chủ động đồng Âm hoặc đồng Dương với Mệnh.

#92 VuiVui

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 750 Bài viết:
  • 3797 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 14:15

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NgoaLong, on 17/01/2013 - 12:43, said:

@chú vuivui:

Có lẽ nhiều người phân Thể với Dụng là dựa vào câu: "Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di, phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu" trong bài "Đẩu Số Cốt Tủy Phú".

Nhưng phân Thể và Dụng kiểu đó có lẽ là nhầm to và sai lầm lớn. Thể và Dụng ở đây có thể là nói theo lý học thời Tống (Chu Hy) về Lý và Tượng - lý là Thể, tượng là Dụng
Muốn gì thì gì, có câu: TƯỢNG THEO LÝ MÀ HIỆN. Nếu hiểu mệnh - thân theo thể - dụng thì dù có theo tượng lý cũng sẽ không có trường hợp THÂN BẤT VÔ KỶ.
Thân ái.

Thanked by 1 Member:

#93 Tomraider

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 163 Bài viết:
  • 72 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 22:48

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

ConLuan, on 17/01/2013 - 14:07, said:

Mệnh là Mệnh , xem cái gì cũng Mệnh.
Thân là biểu hiện một phần của Mệnh , nằm cung nào thì xem cung đó. Xem Thân đoán được thêm được xu hướng cuộc đời. Mệnh ở cung Âm Thân cung Âm , Mệnh cung Dương Thân cung Dương.

Thân cư Phúc : Người nghiên về nhân nghĩa tình cảm hay tính xa về tình cảm. Nếu được cát tinh thì tốt , được người thương , hay làm việc nghĩa , .. hung tinh thì quan hệ tình cảm với người hay trắc trở , nhưng vẫn thích giao du với người khác.
Đặc tính rõ : Tình cảm , nhân nghĩa , ..

Thân cư Quan : Nghiên về công việc , công danh , danh dự , ..
Thân cư Di : Thích đi xa , vọng tưởng nơi xa , ..
Thân cư Tài : Nghiên về Tài lộc , vật chất
Thân cư Phu Thê : Tôn trọng vợ chồng
Thân Mệnh đồng cung : Người coi trọng mìnhờii
Thân không phải là Mệnh , không chia 3/7 ; sau 30 hay trước 30 , cũng chẳng phải chủ vận hạn hay Thể Dụng toàn phần với Mệnh. Tử vi có 6 cung quan trọng la Mệnh Phúc Quan Tài Di Phu Thê . Cuộc đời mỗi người cũng chỉ do đó mà ra. Đó là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp . Các cung khác đều có ảnh hưởng đến cuộc sống nhưng ở góc độ không chủ động.
Thân là một góc độ của Mệnh , do đó Thân cư tại sáu cung chủ động đồng Âm hoặc đồng Dương với Mệnh.

Người ta thường nói thân cư chỗ nào thì người đó coi cung đó là chủ cuộc đời, như thân cư quan thì mê sự nghiệp nhất. Chắc chắn là sai. Theo tôi, thân cư cung nào thì vấn đề của cung đó sẽ là điểm nổi trội trong đời người đó, chứ bản thân người đó chưa chắc chỉ quan tâm tới cung thân đó.

Tôi thân cư quan nhưng thích đủ thứ, đặc biệt là du lịch xa. Nhiều khi tôi nghĩ tôi thân cư di thì đúng hơn.

Thanked by 6 Members:

#94 VDTT

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1874 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 23:02

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tomraider, on 17/01/2013 - 22:48, said:

Người ta thường nói thân cư chỗ nào thì người đó coi cung đó là chủ cuộc đời, như thân cư quan thì mê sự nghiệp nhất. Chắc chắn là sai. Theo tôi, thân cư cung nào thì vấn đề của cung đó sẽ là điểm nổi trội trong đời người đó, chứ bản thân người đó chưa chắc chỉ quan tâm tới cung thân đó...
Đồng ý 100%.

Như thân cư phu thê chưa chắc chú tâm đời sống vợ chồng, nhưng cung phu thê là một mấu chốt quan trọng của lá số. Rõ ràng hơn, thân cư phu thê thì những gì xảy ra trong đời sống vợ chồng thường có ảnh hưởng dính chùm đến những chuyện khác, như lấy vợ xong thì quan điểm, thậm chí sự nghiệp, tiền tài đổi khác hoàn toàn chẳng hạn.

Như thân cư tài bạch chưa chắc chú tâm đến tiền, nhưng đời sống chắc chắn bị ảnh hưởng mạnh bởi tiền (vì chuyện tiền bạc mà đánh nhau rồi phải ngồi tù chẳng hạn.)

Sửa bởi VDTT: 17/01/2013 - 23:14


#95 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 23:16

Cái thân cư đâu... thì cuộc đời quan tâm tới cái đó là man thư 100%, nhưng không hiểu sao nó lại lan tràn khắp nơi, chúng ta chỉ cần có gốc một chút, và sử dụng các kỹ thuật ở trang một, ngẫm nghĩ một chút thì thấy ngay vấn đề. Đó điển hình là kỹ thuật mài, đẽo, gọt của các gọt sĩ hiện đại.

Người cả đời sống vì con cái, thì thân cư tử tức?

Ví dụ, người cả đời ăn bám ạnh em, cả đời sống vì anh em, thế thì khán kiểu gì? Khán quan tâm tới cung nào, phải sử dụng một kỹ thuật hoàn
toàn khác, tôi đã nghiệm thử vài chục trường hợp và đều khớp.

bên Đông A có một kỹ thuật khác nữa cũng nói về điều này, sử dung tuần triệt.

Nhưng thôi, nói vậy thôi, nói nữa cũng chả có lợi lộc gì. Cứ im lặng và bàn luận kỹ thuật của người khác thì thú vị hơn nhiều..
Nhận xét của nguoiwfdepsaigon, được đưa lại theo lời gợi ý của chú VV. Đó là một lời nhận xét rất chất lượng.

Trích dẫn

nguoidepsaigon xin góp một vài lời về thân mệnh. Chúng ta thường nghe khái niệm về "con người". Con người gồm hai phần : con + người. Như vậy mệnh tương ứng với 'con' còn "thân" tương ứng với "người". Như vậy, mệnh là cái có trước, là sản phẩm thấy được, cân đo đong đếm được, do cha mẹ, ông bà hun đúc nên.

Còn 'thân' là do 'mệnh" được thuần hóa mà thành, là sản phẩm được môi trường xã hội, thiên nhiên, giáo dục...rèn dủa mà thành, như vậy "thân" là cái như vô hình, vô hình nhưng hiện hửu! Mệnh thân quan trọng như nhau, nhưng mệnh là cái có trước, quan trọng hơn thân, vì có mệnh mới có thân, còn kg thể có thân mà kg có mệnh!
Giá trị của một cá nhân trong xã hội là do 'Thân" quyết định, cái "Thân" nói lên sự khác biệt nhiều hay ít giữa con người với con thú, nên chúng ta thường nghe nói ' Vinh thân phì da' là vậy.
Thân và mệnh luôn cân bằng, cán cân lệch bên nào mà kg vè trạng thái cân bằng ngay là dấu hiệu đương số chuẩn bị 'ra đi', biết rằng '...Tôi sẽ ra đi, kg biết sẽ đi đâu ?...' "Bùi Giáng". Cái gì làm cho thân mệnh luôn cân bằng? đó là vận, vận như là 'van' an toàn, luôn làm cho thân mệnh luôn cân bằng. Thân thường có ảnh hưởng mạnh sau 30 tuổi, vì lúc đó con người đã được rèn dũa rồi...nên ta mới nghe câu: 'Tam thập lập thân' là vậy. Vài dòng góp vui. Nguoidepsaigon xin chào.

Trích dẫn

Nguoidepsaigon thường thấy nhiều người mơ hồ về thân và mệnh trong lá số tử vi, nên chuyển sang đơn vị ' con ' và ' người' cho dể hiểu. Thân, mệnh luôn luôn sánh đôi cùng đương số trên cỏi đời này, tùy vào sự kiện giải đoán mà ta lấy mệnh hay thân làm chính hay phụ để giãi đoán, khi giải đoán công danh sự nghiệp cho đương số ta nên lấy thân là chính còn mệnh là phụ,
khi giải đoán tai nạn, bệnh tật, chết sống nên lấy mệnh làm chính, thân là phụ, vì vậy có người nói cung tật ách là cung mệnh thứ hai không sai chút nào, vì cung tật ách nó thể hiện tính di truyền, cái vốn sẳn có của đương số, là cái ' con'. Nguoidepsaigon mắc công viêc đột xuất rồi, hẹn hôm khác trình bày tiếp.
gởi anh Long nguyen Quang : nguoidepsaigon đả đọc mail cũa Anh trong inbox rồi, nguoidepsaigon kg thể và kg bao giờ gặp anh offline được, cảm ơn Anh nhiều nhé, à mà sao Anh hôn nguoidepsaigon nhiều vậy? kg sợ ban trai của nguoidepsaigon giận hay sao?
Cá nhân tôi thì rất nghi ngờ giả thuyết của tác giả LQN về tính tĩnh của cung an thái tuế. Theo tôi, đó là cái không có cơ sở khoa học, có thể nó ngẫu nhiêu đúng trong một số lượng đủ nhiều các trường hợp, nhưng nói chung trong tường hợp đủ tổng quát thì không.

Sửa bởi NhuThangThai: 17/01/2013 - 23:39


#96 htruongdinh

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 638 Bài viết:
  • 878 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 23:17

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NhuThangThai, on 17/01/2013 - 00:18, said:

Hi bác VDTT.
Sự kiện Tử Vân coi trọng cung an tuế, theo cháu có thể giải thích được một cách khác hoàn toàn, mang tính chất nội tại và bản chất, không cần thiết phải thông qua Thái Tuế Nhập Quái.

Nếu như ta phân thớ lá số trên nền tam tài, thì Cung mệnh có thể coi là phần địa ứng với đại vận đầu tiên của cuộc đời, và cung thái tuế ứng với phần nhân ứng với Lưu niên đầu tiên của cuộc đời. Mang tài địa và ánh xạ chính tắc vào tài nhân, thì ta có thể thu được ý nghĩa chính tắc của các sao trong vòng thái tuế, vốn chỉ được hiểu một cách mờ nhạt trong literature, cũng như cung cấp một cách giải thích hoàn hảo những gì chú VV đề cập ở trong bài viết trên về lá số PBC mà không cần thiết phải sử dụng đến sao treo của Đông A vốn không dạy cho người ngoài..Điều này, còn đặc biệt có ý nghĩa hơn khi mà sao treo của lá số không nằm trong mệnh tài quan di.
Cơ sở của lý thuyết thiên lương cũng có thể được nhìn nhận từ đây một cách tự nhiên.

Cháu chưa đọc KHTC xem tác giả bình luận những gì về cung phát xạ, nhưng kết quả đó có thể được lý giải một cách hoàn toàn độc lập khi ta nghiên cứu đối ngẫu Langland, cụ thể hơn khi ta kết hợp lý thuyết cung trọng điểm của Tử Vân và Lý thuyết sao treo của Đông A. Thậm chí, cháu thiết nghĩ, chúng ta có thể coi nó đóng vai trò của cung an thân, tương tự như thái tuế với mối quan hệ với cung mệnh.



Mệnh<---->Tuế

thân<---->Đài phát xạ.

Đã có lần HTD đưa lá số mẫu. Thái Tuế tại cung Mệnh, như vậy cung Thái Tuế trùng cung Mệnh. Đi vận vào cung Thiên can cả Đại vận lẫn Tiểu vận. Như vậy độ số ảnh hưởng của Thiên Can và Địa chi năm sinh rất mạnh đối với đương số.

Thanked by 1 Member:

#97 AlexPhong

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8838 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 23:36

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

VDTT, on 17/01/2013 - 23:02, said:

Đồng ý 100%.

Như thân cư phu thê chưa chắc chú tâm đời sống vợ chồng, nhưng cung phu thê là một mấu chốt quan trọng của lá số. Rõ ràng hơn, thân cư phu thê thì những gì xảy ra trong đời sống vợ chồng thường có ảnh hưởng dính chùm đến những chuyện khác, như lấy vợ xong thì quan điểm, thậm chí sự nghiệp, tiền tài đổi khác hoàn toàn chẳng hạn.

Như thân cư tài bạch chưa chắc chú tâm đến tiền, nhưng đời sống chắc chắn bị ảnh hưởng mạnh bởi tiền (vì chuyện tiền bạc mà đánh nhau rồi phải ngồi tù chẳng hạn.)

Theo bác thì cung thiên di khác sao thiên mã ở chỗ nào ?

Thử ghép câu khi vận gặp các cung hoặc sao trên:
Ghép tên cung làm chủ ngữ, sao làm động từ hoặc vị ngữ:
- Công việc của anh rất thiên mã.
- Thiên di của anh rất thiên mã.
- Tài bạch của anh rất thiên mã.
- Vợ anh rất thiên mã.
- Bố mẹ anh rất thiên mã.

Nếu ghép tên cung là động từ:

- Năm nay anh rất thiên di-->tạm ổn
- Năm nay anh rất nô bộc-->không ổn
- Năm nay anh rất phụ mẫu-->không ổn

Ghép cả tên cung và sao làm động từ:
- Năm nay anh rất nô bộc và thiên mã--->nghe cực ngang.
- Năm nay anh rất tật ách và thiên mã--->nghe cực ngang.

-----------> phái Tử Vân coi Thái Tuế là một cung<---------nếu bác không đồng ý điểm này, một loạt ví dụ minh họa sẽ xuất hiện.

Sửa bởi AlexPhong: 17/01/2013 - 23:41


Thanked by 3 Members:

#98 ThaiThangNhu

    Đoài viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2705 Bài viết:
  • 4616 thanks

Gửi vào 17/01/2013 - 23:50

Haizz, nói thật, đọc những lời bình luận của những người đi trước, mới nhận thấy bọn trẻ trẻ bây giờ toàn chém ró. Giá mà mình luyện công 10 năm đạt trình độ của ông tubinh_giagia... Haizzz, chỉ một đoạn văn ngắn thế này chứng tỏ sự cách biệt về trình độ xa lắc xa lơ so với lứa bây giờ, toàn học được 2-3 chữ lớt phớt bề ngoài thì tưởng mình là Trần Đoàn tái thế đến nơi.
Sau 6-7 năm, trình độ mặt bằng chung có vẻ là đi xuống. Đến giờ, cái mốt show hàng tự sướng của các em chíp chíp lại có vẻ đang thâm nhập cả vào giới học thuật.

Trích dẫn

Cũng như trong "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" tác giả Vũ Tài Lục cho rằng ngũ hành nạp âm của Lục Thập Hoa Giáp không ăn nhập gì đến khoa Tử Vi khi trích dịch một phần từ (Tam Mệnh Thông Hội) về Lục Thập Hoa Giáp nên di lụy sai lầm cho hàng hậu học; vì rằng:
"Giáp Tí , tòng cách chi kim.
Kỳ khí tán, đắc Mậu Thân thổ, Quý Tỵ thủy tương chi tắc cát.
Mậu Thân nãi kim lâm quan chi địa, thổ giả canh vượng ư Tí, tất năng sinh thành;
Quý Tỵ hệ kim sanh ư Tỵ , thủy vượng ư Tí , nạp âm các hữu sở quy.
Hựu vi triêu nguyên lộc , kị Đinh Mão, Đinh Dậu, Mậu Ngọ chi hỏa"
Cho ta tư liệu chứng cứ lý giải của nền tảng ngũ hành nạp âm của môn Tử Vi vậy!
Đọc bài của tác giả LQN thì toàn thấy một đám chíp chíp, nịnh bợ, đọc chẳng hiểu gì, không có một nhận xét ra hồn và sắc nét như ông tbgg.
@Alex:Chính xác. Tôi hiện nay cũng dần dần có cùng quan điểm, có xu hướng coi Thái Tuế là một Cung.

Sửa bởi NhuThangThai: 18/01/2013 - 00:10


#99 AlexPhong

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPip
  • 2382 Bài viết:
  • 8838 thanks

Gửi vào 18/01/2013 - 00:14

Nguồn: Tử vi đẩu số toàn thư-bản của Vũ Tài Lục.
Cái Lý Ngũ Hành Trong Tử Vi


Mở lá số tử vi ra, người ta thấy lý của Ngũ Hành tràn ngập. Trước hết là mạng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tính theo nạp âm thư tượng như : xa trung kim, lộ bàng thổ, thiên thương hỏa v.v....Rồi đến cục để tìm tử vi như thủy nhị cục, mộc tam cục v.v....Rồi đến mỗi sao đại biểu cho một hành như thiên cơ thuộc mộc, Vũ Khúc thuộc Kim v.v.....Rồi đến mỗi cunglà nơi đóng của mỗi hành như Thân Dậu thuộc Kim, Dần Mão thuộc Mộc v.v... Quan trọng hơn nữa là vòng tràng sinh nói về sự thành trưởng và hủy diệt của Ngũ Hành. Nói tóm lại, tử vi nếu xét kỹ ra là sự luận đoán tinh vi số mệnh con người bằng biện chứng của Ngũ Hành.Tiếc thay cách luận đoán số tử vi qua biện chứng Ngũ Hành nay gần như hoàn toàn bị mai một không uyển chuyển kỹ càng bằng số Tử Bình. Việc áp dụng lý Ngũ Hành cho số Tử Vi vì bị thất truyền cho nên nó quá đơn sơ nếu không muốn nói là ngờ nghệch, lại khi đoán dù tán hươu tán vượn gì thì tán rút cuộc vẫn phải trở về những câu phú, những cách cục đã làm sẳn căn cứ trên các sao mà quên hẳn biện chứng Ngũ Hành.

Số Tử Bình tức Bát Tự luận đoán Ngũ Hành như thế nào ?

Xin kể dưới đây câu chuyện số của hai nữ tài tử chiếu bóng nổi danh tại Trung Quốclà Lâm Đại và Nguyễn Linh Ngọc.Cả hai nàng tuy ngày tháng năm giờ sinh khác hẳn nhau nhưng cuộc đời có 8 điểm giống nhau :

1. Cùng là mỹ nhân, trời cho nhan sắc tú lệ

2. Cùng mất tình thương của cha từ thủa nhỏ, sống đơn côi với mẹ.

3. Cùng theo nghề điện ảnh từ nhỏ

4. Cùng trở thành minh tinh danh tiếng

5. Cùng tự kết liễu đời mình giữa lúc vàng son chói lọi

6. Cùng vì chuyện vợ chồng bất hòa mà tự sát

7. Cùng đã từng uống thuốc ngủ để tự tử nhưng thoát chết

8. Cùng được có một đám tang to lớn.

Lâm Đại sinh năm Giáp Tuất (1934) tháng 12, ngày 26, giờ Ngọ. Tinh Bát Tự sẽ ra tám chữ sau đây :

- Giáp Tuất (niên)

- Đinh Sửu (Nguyệt)

- Binh Ngọ (Nhật)

- Giáp Ngọ (Thời)

Tám chữ trên Hành Mộc và Hành Hỏa chiếm đến bảy chữ.Binh hỏa của nhật chủ quá cường liệt, chung quanh lại toàn mộc hỏa làm cho nàng trở thành người ương ngạnh, nóng nẩy vô cùng. Ơ trường hợp này chỉ có hai kết quả hoặc tự mình thành hung thủ hoặc bị thành khổ chủ.Năm nàng tự sát chết là năm Giáp Thìn cũng đầy Mộc Hỏa, lại thêm vào tháng 6 (mùa hè), ngày Đinh Mão (Hỏa) , giờ Ngọ (Hỏa).

Số bị hỏa vượng như vậy rất cần có Hành Thủy Kim để tiết chế hỏa khí. Nếu hỏa mộc lại ồ ạt kéo tới thì cái họa phần thân (đốt mình) làm sao tránh khỏi. Vì Ngũ hành cần Thủy nên đại hạn At Hợi (mười năm ) của nàng từ 17 tuổi đến 27 tuổi là hạn Thủy nên cuộc đời ví như đại hạn được cơn mưa lũ. Lâm Đại đóng vai cô bé trong phim /Thúy Thúy/ được hoan nghênh nồng nhiệt rồi lần lượt đến /Điêu Thuyền/, /Kim Liên Hoa Thiên Kiều Bách Mị/, /Bất liễu tinh/ cứ thế mà lên đến tột đỉnh vinh quang của nghề nghiệp và được bầu làm ảnh

hậu. Năm 27 tuổi, nàng lấy chồng. Sang 28 tuổi đại hạn sang Giáp Tuất, lại chuyển về Mộc Hỏa, năm Giáp Thìn trong hạn Giáp Tuất thì Mộc Hỏa trùng trùng, Lâm Đại chán cảnh chồng con sau một cuộc cãi vã kịch liệt.


Trước Lâm Đại 30 năm, minh tinh Nguyễn Linh Ngọc cũng kết liễu cuộc đời như Lâm Đại, để lại cho người đời 29 bộ phim với đủ các vai của một đào thương tài tình từ người đàn bà thôn dã đến nàng kỹ sư, ni cô, trà nữ, hoa nữ đến tiểu gia bích ngọc, thật đáng là một thiên tài điện ảnh.Nguyễn Linh Ngọc quê quán Quảng Đông, sinh năm Canh Tuất (1910) tháng 1 ngày 26 giờ Hợi. Tính Bát Tự ra 8 chữ sau đây :

- Canh Tuất (Niên)

- Tân Tị (Nguyệt)

- Ký Hợi (Nhật)

- At Hợi (Thời)

So với ngày sinh Bính Ngọ của Lâm Đại, dương tính hỏa vượng còn ngày Kỷ Hợi của Nguyễn Linh Ngọc là âm tính thổ cực nhược. Bởi vậy tính tình hai người khác hẳn nhau, Lâm Đại nóng nẩy ngang ngạnh bao nhiêu thì Linh Ngọc nhuyễn nhược yếu đuối bấy nhiêu. Do đó cái nguyên nhân tự sát cũng bất đồng. Lâm Đại

giận chồng mà chết. Linh Ngọc buồn chồng mà chết.Người chồng của Linh Ngọc tên Trương Đạt Dân cũng trong giới điện ảnh đã lợi dụng cái thế đàn anh trong nghề để mà dụ dỗ Linh Ngọc vì tính tình nhu nhược rơi vào cái bẫy của Đạt Dân. Về sau Đạt Dân sa đọa bê tha sống bám vào Linh Ngọc, rồi vì ghen tuông sao đó Đạt Dân chửi rủa bêu xấu vợ khiến nàng mắc cỡ buồn tủi mà tự sát.Xem số Nguyễn Linh Ngọc ta thấy nàng sinh ngày Kỷ Hợi, nhật chủ âm tính thổ quánhược. Cứu cái nhược này, ngũ hành cần phải có hỏa thổ như Bính Đinh, Tuất Kỷ. Khốn nỗi giờ sinh của nàng lại là At Hợi, một thứ ám Mộc được Thủy nuôi dưỡng rất khỏe đã khắc vào bản thân nàng vốn đã yếu càng làm cho yếu thêm, đã thế kỷ (nhật chủ) còn phải tiết thân nuôi sinh cho canh tàn, rồi còn cố gắng để khắc hai chữ Hợi Thủy hành chi, cho nên những chữ Tuất mới Tị không đẻ để cứu nữa.Cuộc đời ngắn ngủi của Linh Ngọc (26 tuổi chết) có ba biến cố trọng đại gây đau khổ đều xảy ra vào những năm mang chữ At. Thứ nhất là năm At Mão lúc nàng lên 6 tuổi thì cha chết. Thứ hai là năm ấy Linh Ngọc 16 tuổi. Thứ ba là năm At Hợi năm 26 tuổi, Linh Ngọc tự sát.Nàng nổi danh vào những năm 17 và 18 tuổi tức Bính Dần và Đinh Mão niên hai năm đều thuộc Hỏa. Từ 19 tuổi đến 21 tuổi nàng vẫn tiếp tục tiến trên đường danh vọng là những năm Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ đều thuộc Thổ Hỏa.


Qua hai số Bát Tự của Lâm Đại và Nguyễn Linh Ngọc, ta thấy lối tính Tử Binh bám rất sát vào vận động biện chứng Ngũ Hành.Trong khi Tử Vi thường rời bỏ vận động biện chứng ấy để trở về với cách cục định sẵn của các bộ sao, bám vào sự kết hợp (combinaison) giữa sao này với sao nọ, bám vào vị trí đắc địa, hãm địa của từng vị sao. Tỉ dụ :

- Lộc cư nô vị túng hữu quan dã bôn trì.

- Tí Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc.

- Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa hay là Xương khúc mà gặp Liêm Trinh Ở cung Tị Hợi tàn sinh khó tròn.

- Cơ Lương Mộc Mã đồng cung

Phú kham địch quốc của dùng hết đâu.

- mệnh Đào thân lai Hồng Loan

Hạn gặp Tuế kiếp phụng hòang rẽ duyên.


Đôi khi Tử Vi cũng đưa ra một vài lý luận như :

Cục khắc mệnh hay mệnh khắc cục, khắc xuất khác xuất nhập, mệnh và chính diệu, cùng đóng xung khắc chế hóa v.v...Tuy nhiên, chẳng thấy nguyên tắc gì cả. Nói vậy không có nghĩa là khoa Tử Vi thiếu căn bản lý luận ngũ hành mà chỉ muốn nói vì thất truyền cho nên lý luận đã trở nên gò ép dễ ngụy biện suôi ngược thế nào cũng xong. Nhất là đối với các ngài ưa tán láo.Chúng ta có thể lần lượt đưa ra những thắc mắc về tính vô nguyên tắc ấy dưới đây. Xin nhắc lại chỉ là tính vô nguyên tắc trên vấn đề không thể giảng giải bằng biện chứng ngũ hành mà thôi, chứ không phải khoa Tử Vi bất lực trong việc đi tìm hiểu số mệnh con người. Kinh nghiệm cho biết qua phối hợp cách sao, qua cách cục từng đám sao, Tử Vi đã phát hiện khá nhiều điều lạ lùng của số mệnh. Chẳng hạn câu :


Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất

Gái bạc tình Tham Sát nhân cung hầu như chẳng bao giờ sai.


Trước hết đề cập đến tính ngũ hành của nạp âm thủ tượng. Ở trên đã nói mỗi lá số

tùy theo mệnh thuộc hành gì còn căn cứ vào sự chộn lẫn của hai hành chi can năm đó để tính nạp âm. Tỉ dụ : Mệnh hỏa nhưng hỏa nào : Sơn đầu hỏa? Hay tích lịch hỏa?Về nạp âm thủ tượng, sách /Tam mệnh thông hội/viết : / Ngày xưa, vua Hòanh đế đem Giáp Tí phân biệt khinh trọng để thành 60 ký hiệu gọi là thập hoa giáp, chữ hoa ở đây thật ảo diệu, thánh nhân mượn ý của nó để làm biểu tượng. Từ Tí đến Hợi đều có Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, khởi đầu bằng Tí làm nhất dương và Hợi làm lục âm. Ngũ hành sở thuộc ở trên trời là ngũ tinh, ở dưới đất là ngũ nhạc, ở đạo đức là ngũ thường, ở trong thân thể là ngũ tạng. Số mệnh cũng là ngũ hành cho nên những gì thuộc Giáp Tí đều ứng vào mệnh. Mệnh là gì ? Mệnh là những việc trong đời. Bậc thánh nhân dùng nạp âm thủ tượng để ví nó như nhất thế chi sư (những việc trong một đời) /.Giáp Tí là một giáp gồm 60 năm, nạp âm thành Ba mươi tượng ( hình ảnh ) như sau :


Hành kim có 6 tượng khác nhau :

- Hải trung kim – Sa trung kim – Bạch lạp kim – Thoa xuyến kim – Kiếm

phong Kim– Kim bá Kim.


Hành mộc có 6 tượng khác nhau :

- Đại lâm mộc – Bình địa mộc – Tùng bách mộc – Thạch lựu mộc – Dương liễu mộc– Tang đố mộc.


Hành thủy có 6 tượng khác nhau :

- Tuyền trung thủy – Đại khê thủy – Giản hạ thủy – Thiên hà thủy – Trường lưu thủy – Đại hải thủy.


Hành hỏa có 6 tượng khác nhau :

- Sơn đầu hỏa – Phục đăng hỏa – Lư trung hỏa – Sơn hạ hỏa – Tích lịch hỏa – Thiên thượng hỏa.


Hành thổ có 6 tượng khác nhau :

- Oc thượng thổ – Sa trung thổ – Thành đầu thổ – Đại dịch thổ – Lộ băng thổ – Bích thượng thổ.


Y nghĩa của 30 tượng trên thế nào ?


Sách /Tam Mệnh Thông Hội/ giảng rằng :

1. HẢI TRUNG KIM tượng nạp âm của Giáp Tí và At Sửu là những báu vật dấu dưới Long cung cần phải mượn xung phá để phát hiện, chứ hỏa lực chẳng giúp ích gì cho nó. Lan Đài diệu tuyển phú có câu : /Châu tàng uyên hải / chính là ý nói hải trung kim đã được phát hiện bằng xung phá vậy... Khi nó đã được phát hiện rồi thì bấy giờ mới cần đến một thế cực vượng hỏađể nung luyện


2. KIM BÁ KIM tượng nạp của Nhâm Dần và Quí Mão là thứ kim đã hóa thành chất lỏng để đánh bóng những cột trụ đồ dùng trong cung thất Kim bá kim cần dựa vào Mộc nhất là thứ bình địa mộc, rất sợ lư trung hỏa vì nó thể chất bạc nhược không thể hoàn nguyên, nếu hỏa đốt nó sẽ thành than, nhưng lại ưa hỏa mặt trời làm nó sáng bóng lên chói lọi


3. BẠCH LẠP KIM tượng nạp âm của Canh Thìn. Tân Vị vốn là Côn Sơn phiến ngọc Lạc Phố đi châu (phiến ngọc ở núi Côn Sơn, ngọc quí ở đất Lạc Phố) ngưng tụ nhật nguyệt chi tinh, âm dương chi khí cho nên hình nó sáng thể nó sạch, sắc rất đẹp. Bạch lạp kim cần lư trung hỏa nhưng với điều kiện phải có thủy trợ, nếu chỉ lư

trung hỏa mà thiếu thủy tất nó sẽ yểu tiết bần hàn


4. SA TRUNG KIM lượng nạp âm của Giáp Ngọ At Mùi là chất kim quí dấu dưới cát, cần phải đãi rửa rồi dùng lửa lò nung luyện. Nếu cát khô quá tức là thổ tháo, chất kim không tốt lại nhờ mộc để đất rắn nuôi dưỡng kim chất cho hoàn hảo, rồi tìm thanh thủy mà lọc. Được như thế thì thiếu niên đã vinh qui


5. KIẾM PHONG KIM tượng nạp của Nhâm Thân. Quí Dậu là chất kim cực quí cực rắn chắc đã từng qua bách luyện cho nên hồng quang của nó ánh lên đến ngưu đẩu có thể ngưng đọng ở sương tuyết. Nó cần thủy để nhuận sắc nhưng phải là lọai đại khuê thủy. Nó cần hỏa để tôi luyện nhưng phải là loại tích lịch hỏa lửa sấm sét để tạo linh khí .


6. THOA XUYẾN KIM tượng nạp âm của Canh Tuất. Tân Hợi là bảo vật để điểm trang cho mặt thêm đẹp, thêm xinh, đem hồng quang cho da dẻ. Nó được cất dấu nơi khuê cát nên cần tĩnh thủy nước trong u tích để trau chuốt như loại nước khe suối giếng khơi tốt nhất, nếu bị nước mưa nguồn nước biến sẽ làm nó yểu chiết bần hàn chìm rơi mất tích, bị hỏa liệt sẽ tàn thương.


7. TANG ĐỐ MỘC tượng nạp âm của Nhâm Tí. Quý Sửu là cây dâu nuôi dưỡng loài tằm cho tằm nhả tơ óng chuốt để may quần áo dân gian thánh hiền. Nó cần sa trung thổ mà xanh tốt, ưa thiên hà thuỷ đem mưa ngọt, sương trong thấm nhuần gốc rễ, các loại thổ và thủy khác giảm hiệu lực đi nhiều

8. TÙNG BÁCH MỘC tượng nạp âm của Canh Dần, Tân Mão. Cây tùng cây bách chịu đựng được tuyết sương giá lạnh, cao vòi vọi cành lá rộng mở che đất, gió thổi nghe rì rào như muôn ngàn ống sáo. Nó ưa đất vùng núi vũ lộ thủy và đại khê thủy. Tùng bách mộc rất sợ lư trung hỏa đốt cháy nó. Thiếu thủy nó sẽ yểu chiết .


9. ĐẠI LÂM MỘC tượng nạp âm của Mậu Thìn Kỷ Tị. Cây lớn trong rừng ngọn lên đến từng mây, lá che cả ánh mặt trời. Nó cần thổ nhiều và ưa kiếm phong kim cưa xẻ, đẽo gọt thành dụng cụ. Nó cần lửa thái dương nuôi nấng. Nó cần thủy nhưng nếu gặp đại khê thủy hay đại hải thủy sẽ bị úng rễ mà chết yểu


10. DƯƠNG LIỄU MỘC tượng nạp âm của Nhâm Ngọ, Quý Mùi là loại cây yếu đuối lả lướt trước gió như cây liễu bên đê. Nó cần sa trung tho, nếu gặp đại dịch thổ thì khó sống mà gặp lộ bàng thổ tất mất vẻ cao sang. Nước nuôi dưỡng nó phải là thứ nước tòan trung thủy, nhẹ nhàng thấm xuống như nước suối


11. THẠCH LỰU MỘC tượng nạp âm của Canh Thân, Tân Đậu, vị nó cay như gừng, hoa đỏ chót, trái đầy những hạt tượng trưng cho đa tử (lắm con). Nó chính là cây thạch lựu, can chi thuần kim mà nạp âm lại thành mộc ấy bởi tại nó là mộc biến ra vậy. Cho nên thạch lựu mộc ưa thổ đã thành khí như thành đầu thổ hay ốc thương thổ


12. BÌNH ĐỊA MỘC tượng nạp âm của Mậu Tuất, Kỷ Hợi là cây non mới đâm cành trổ lá, cần đến công trình của thủy mưa móc, rất sợ tuyết sương tác hại, cần hỏa thái dương làm ấm áp. Nếu đa hỏa vô mộc tất sẽ yểu chiết lại ngại kiếm phong sát phạt. Kim bá kim rất hợp với bình địa mộc vì thứ kim này khiến cho màu lá non thêm sáng đẹp nòn nã


13. BÍCH THƯỢNG THỔ tượng nạp âm của Canh Tí, Tân Sửu là đất che nắng mưa rét nóng phòng sương ngự tuyết chuyên nhờ cậy vào kèo cột và cưa giả. Bích thượng thổ rất mừng được gặp mộc nhất là đại lâm mộc chắc chắn sợ hỏa thiêu đốt biến nó thành bần tiện, sợ đại hải thủy chan hòa lụt lội gây đổ nát


14. THÀNH ĐẦU THỔ tượng nạp âm của Mậu Dần Kỷ Mão là thiên kinh ngọc lũy của vua của tướng với cái hình rồng nằm dài thiên lý, hổ ngồi theo thế tứ duy. Nó đã xong rồi thì cần lộ bàng thổ bao quanh phù trợ cho địa thế rộng lớn mà không cần hỏa nữa, nhưng nếu không có lộ bàng thổ tất phải cần hỏa để khai phá. Sơn và thủy làm cho thành đầu thổ mang vẻ oai nghiêm


15. SA TRUNG THỔ tượng nạp âm của Bính Thìn, Đinh Tị là đất bồi do song biển, do chiều nước, do lớp lớp sóng dội (Lãng hồi sở tích, ba chử nhi thành), chỗ trù ngụ của Long sà, nơi biến thiên của hang hốc. Sa trung thổ tinh chất thanh tú cần tất cả các loại kim nuôi dưỡng cho nó thành đất tốt. Nó cần thiên thượng hỏa chiếu xuống thêm màu thêm mỡ và thủy làm cho nó quyện dẻo


16. LỘ BÀNG THỔ tượng nạp âm của Canh Ngọ Tân Mùi rộng rãi bao la bình điền vạn khoảnh, đại địa liên đồ. Giống ngũ cốc sống nhờ trên đó thảo mộc nhờ nó mà xanh tươi nơi có lửa trời sưởi ấm, chất đất ôn hòa để nuôi dưỡng vạn vật. Lộ bàng thổ cần nhất là nước, nước phải có nguồn tưới đều đều rồi đến nước trời vũ lộ (thiên hà thủy) nhưng không ưa đại hải thủy vì đại hải thủy không có khả năng tưới thấm mà chỉ phá phách kéo trôi đi tất cả màu mỡ.


17. ĐẠI DỊCH THỔ tượng nạp âm của Mậu Thân, Kỷ Dậu là đường đường đại đạo, đất bằng phẳng nối liền chín châu, giao thông vạn quốc. Nó cần lộ bàng thổ phù trì, cần thủysong nước bao quanh và núi cao để tạo quí


18. ỐC THƯỢNG THỔ tượng nạp âm của bính Tuất Đinh Hợi là thứ thổ gạch ngói nhờ hỏa nung mộc đốt để thành tác dụng che tuyết che sương ngăn mưa ngăn gió. Oc thượng thổ tối hỉ mộc vì nếu không có mộc làm cái giá chống thì gạch ngói đứng đâu ? Cần bình địa mộc cho nhà thêm vẻ phong phú, trang nhã


19. GIẢN HẠ THỦY tượng nạp âm của Bính Tí, Đinh Sửu là nước nguồn chảy thành thác vòng ngàn ngọn núi, băng vạn dặm rừng. Nước thác rất trong sạch tinh khiết, cần kim dưỡng như sa trung kim tốt nhất, cần đất làm thành thác nhưng chỉ đất sa trung mới hay, chứ đất lộ bàng và đại dịch sẽ làm cho nó bị đục


20. ĐẠI KHÊ THỦY tượng nạp âm của Giáp Dần At Mão, nước dòng song lớn cuồn cuộn, sóng cả nhấp nhô, quang ánh vạn lý tối hỉ hữu qui (có nơi để nó chảy về) hữu dưỡng có nguồn nuôi dưỡng, sợ sự xung động khiến nó thành phiêu lãng kỵ sấm sét, bão phong.


21. TRƯỜNG LƯU THỦY tượng nạp âm của NhâmThìn Quí Tị nước chảy thao thao vô cùng bất tận suôi về biển đông. Nó cần kim nuôi nguồn, cần thổ dựng đê thành lòng song.


22. THIÊN HÀ THỦY tượng nạp âm của Bính Ngọ, Đinh Mùi là nước trên trời thành mưa đổ xuống chan hòa khắp nơi tưới cho vạn vật tốt tươi, thổ không khắc được nó nên thiên hà thủy không sợ thổ, thiên thượng thổ chẳng làm cho địa kim sinh cho nên gặp kim vô ích. Thiên hà thủy thường đi với tích lịch hỏa để mà hóa ra vân vũ


23. TOÀN TRUNG THỦY tượng nạp âm của Giáp Thân At Dậu là nước suối nước mạch mát lạnh trong vắt, trăm vạn nhà đào giếng múc nước suối mà uống. Thứ nước này do kim tiết và nhờ mộc phát xuất nên hỉ gặp kim mộc. Tuy nhiên kim chất phải ôn hòa chớ sát phạt như kiếm phong kim nó cần gặp bình địa mộc chứ tang đổ mộc hay thạch lựu mộc vô ích


24. ĐẠI HẢI THỦY tượng nạp âm của Nhâm Tuất Quí Hợi là biển rộng mênh mong dung nạp tất cả nước song ngòi đổ xuống, cần thiên thượng hỏa ánh chiêu dương chiếu xuống làm thành cách thủy bổ dương quang

25. TÍCH LỊCH HỎA tượng nạp âm của Mậu Tí Kỷ Sửu đó là lửa hiệu lệnh của chín tầng trời chớp nhoáng như con kim sà nhanh như ngựa sắt phi bôn. Tích lịch hỏa là sấm sét cho nên cần thiên hà thủy. Tích lịch hỏa có khả năng dưỡng mộc (theo khoa học bây giờ sấm sét làm chất cho azote thấm xuống lòng đất tạo màu mỡ, nhờ vậy cao mới đủ chất bổ dưỡng)


26. LƯ TRUNG HỎA tượng nạp âm của Bính Dần Đinh Mão. Sách có câu trời đất là cái lò, âm dương là than. Lư trung hỏa để nung nấu càn khôn rất ưa mộc sinh hỏa và lấy kim làm chỗ ứng dụng, có kim thì hỏa mới tỏ uy quyền, nhưng nếu vô mộc mà gặp kim đa tất hỏa lao khổ


27. PHÚ ĐĂNG HỎA tượng nạp âm của Giáp Thìn At Tị là ánh lửa đèn đựng trong kim khí để tỏa chiếu ngọc quang vào những nơi mà nhật nguyệt không soi vào, để làm sáng lúc trời đất chưa sáng. Thường gọi là nhân gian dạ minh chi hỏa, lấy mộc làm tâm, lấy thủy làm dầu gặp âm thì tốt, gặp dương bất lợi, rất sợ xung phá vì xung phá là gió táp thổi tắt ngọn đèn. Thủy của phú đăng hỏa là thứ thủy đào lên chứ chẳng phải đại khê hay đại hải thủy hoặc thiên hà thủy .


28. THIÊN THƯỢNG HỎA tượng nạp âm của Mậu Ngọ Kỷ Mùi là thứ hỏa ấm áp khiến song núi sáng sủa bởi dương đức lệ thiên chiếu xuống và âm đức xuất hải sáng ra. Thiên thượng hỏa cầu phong và mộc nhất là đại lâm mộc.


29. SƠN ĐẦU HỎA tượng nạp âm của Giáp Thìn Tuất At Hợi là thứ lửa khai hoang hay lửa rừng đốt cháy thành biển lửa thiêu rụi cỏ cây một vùng. Tại sao gọi là sơn đầu hỏa ? Vì sắc của nó đỏ rực chan hòa như lúc mặt trời lặn, còn đang lấp ló đầu ngọn núi. Thiêu xong sơn đầu hỏa cần thủy để đất khỏi khô, hỏa này phải nhờ mộc đa mới cháy nếu chỉ có thổ không thì sơn đầu hỏa thành vô dụng


30. SƠN HẠ HỎA tượng nạp âm của Bính Thân Đinh Dậu là thứ hỏa lập lòe của đom đóm cho nên /Lan đài diện tuyển/ có đưa ra cách gọi là hùynh hỏa chiếu mộc, gặp mùa thu càng quí. Sơn hạ hỏa hỉ thủy để nhớ thủy phản chiếu hào quang, nhưng rất sợ gặp tích lịch hỏa làm tiêu diệt ánh sáng của nó


Những dấu chấm sau mỗi tượng đó nghĩa là sự giảng giải về tượng đó còn dài, nhưng ở đây chỉ dịch lại ít thôi vì lẽ nó không ăn nhập gì đến khoa Tử Vi của chúng ta, mà ứng dụng nhiều cho khoa Tử Bình, dịch hết rườm rà, vô ích. Qua lời giảng sơ của /Tam Mệnh Thông Hội/ ta thấy nạp âm thủ tượng những gì ?


a) Quá văn vẻ hệt như một lối bí ngữ cốt đề cao thân giá của khoa mệnh học, thật ra nó không đi ra ngoài biện chứng vận động ngũ hành.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tượng nạp âm ghi trong lá số Tử Vi chỉ ghi để mà ghi thôi chứ chẳng dùng để mà đoán được bởi lẽ không hề tìm thấy liên lạc ngũ hành của nó với các hệ thống sao hay với cục : bởi lẽ đã gọi là nạp âm tất phải đủ cả hai hàng can chi trộn lại trong khi ở Tử Vi của chúng ta không thấy có sự phân định rõ ràng ngũ hành theo can chi. Có thể vì thất truyền mà mất đi chăng?

c) Không nên ngụy biện gán ghép tượng nạp âm của mệnh tính theo niên chủ với ảnh hưởng của các sao trong lá số nếu không biết chắc và biết rõ. Như vậy chỉ gây rối thêm.


Bây giờ chúng ta bàn đến Ngũ Hành và các sao Tử Vi đẩu số toàn thư ghi ở cuối chương chỉ cách an sao mấy dòng chữ sau đây :

/Luận tinh thần sinh khắc chế hòa/


Xem tinh diệu trước hết phải biết rõ cái cơ của sự sinh khắc chế hóa : thứ đến an vị tại cung nào tỉ như Liêm Trinh thuộc hỏa mà an tại cung Dần, cung Dần là Mộc vậy Mộc có thể sinh ra Hỏa của Liêm Trinh nếu có Vũ Khúc đồng cung với Liêm Trinh, Vũ Khúc thuộc Kim, Mộc với Kim khắc tài tinh Vũ Khúc thành vô dụng. Các sao khác cũng cứ thế mà đoán. Kim nhập hỏa hương Hỏa nhập thủy hương Thủy nhập thổ hương Thổ nhập mộc hương Câu vi thụ chế. Tiếp đến là bảng kê tổng quát các sao thuộc hành gì, như :


Tử Vi thuộc Thổ

Lộc Tồn thuộc Thổ

Thiên Đồng thuộc Thủy Kim

Vũ Khúc thuộc Kim

Thái Âm thuộc Thủy

Cự Môn thuộc Thủy

Văn Khúc thuộc Kim

Thiên Lương thuộc Thổ

Phá Quân thuộc Thủy

Tả Phụ thuộc Thổ

Thiên Cơ thuộc Mộc

Thái Dương thuộc Hỏa

Liêm Trinh thuộc Hỏa T

hiên Phủ thuộc Thổ

Tham Lang thuộc Thủy Mộc

Thiên Tướng thuộc Thủy

Phụ Bật thuộc Thổ

Thất Sát thuộc Hỏa

Văn Xương thuộc Kim.



Ơ trên là 18 ngôi sao chính diệu, các sao khác không kể làm chính diệu như :

Khôi Việt thuộc Hỏa

Đà La thuộc Kim

Linh Tinh thuộc Hỏa

Thương Sứ thuộc Thủy

Hóa Quyền thuộc Mộc

Hóa Kị thuộc Thủy

Thái Tuế thuộc Hỏa

Lực Sĩ thuộc Hỏa

Đại Tiểu Hao thuộc Hỏa

Tấu thư thuộc Kim

Hỉ Thần thuộc Hỏa

Tang Môn thuộc Mộc

Quan Phú thuộc Hỏa

Thiên Mã thuộc Hỏa

Kình Dương thuộc Kim

Hỏa Tinh thuộc Hỏa

Không Kiếp thuộc Hỏa

Hóa Lộc thuộc Thổ

Hóa Khoa thuộc Thủy

Hồng Loan Thiên Hỉ Thủy

Bác Sĩ thuộc Thủy

Thanh Long thuộc Thủy

Tướng Quân thuộc Mộc

Phi Liêm thuộc Hỏa

Phục Bình thuộc Hỏa

Bạch Hổ thuộc Kim

Điếu Khách thuộc Hỏa

Riêu Y thuộc thủy.


Ngoài ra, còn một số sao khác không thấy ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư, nhưng các sách Tử Vi của người Việt đều có như :

Long Trì thuộc Thủy

Tam Thai thuộc Thổ

Am Quang thuộc Hỏa

Thai Phu thuộc Thổ

Thiên Quan quí nhân hỏa

Đào Hoa thuộc Mộc

Thiên Hư thuộc thủy

Phượng Các thuộc Mộc Kim

Bát Tọa thuộc Thổ

Thiên Quí thuộc thổ

Phong Cao thuộc Thổ

Thiên Phúc quí nhân Thổ

Thiên Khốc thuộc Kim

Cô Quả thuộc Hỏa.


Rồi đến vòng sao Tràng Sinh cũng có phân định Ngũ Hành cho mỗi đoạn trong vòng như :

Tràng Sinh thuộc Thủy

Quan Đới thuộc Kim

Đế Vương thuộc Kim

Bệnh thuộc Hỏa

Tuyệt thuộc Thổ

Thai thuộc Thổ

Mộc Dục thuộc Thủy

Làm Quan thuộc Mộc

Suy thuộc Kim

Tử thuộc Hỏa

Mộ thuộc Thổ

Dưỡng thuộc Mộc.


Chúng ta hãy gạt ra ngoài vấn đề có nhiều sách chép khác nhau về hành của mỗi sao, sách này bảo sao X thuộc thủy, sách khác bảo sao đó thuộc mộc v.v... Chúng ta cứ kể là vấn đề /hành/ của các sao đã được hòan toàn thống nhất, sự khác biệt chẳng qua là do chép sai của tác giả nào đó mà thôi. Ơ đây chỉ bàn thuần túy vấn đề tác dụng ngũ hành của các sao như thế nào ?


Thứ nhất là nguyên tắc thụ chế mà Tử Vi đẩu số toàn thư nêu trên :

Kim nhập Hỏa hương

Hỏa nhập Thủy hương ...

Vậy tại sao Cự Cơ Mão Dậu lại tốt ? Đành rằng sao Cự Môn thuộc Thủy vào cung Mão tạm được vì nó chỉ tiết khí chứ không thụ chế, vào cung Dậu thì được Kim sinh nó. Nhưng sao Thiên Cơ thuộc Mộc đóng Dậu cung rõ ràng Mộc nhập Kim hương thụ chế mà không vô dụng. Rồi hai sao Liêm Tham Tị Hợi cũng ở trường hợp tương tự. Liêm thuộc Hỏa cư Tị là Hỏa Địa, vẫn bị vào Hãm Địa, Tham Lang thuộc Thủy Mộc cư Hợi là thủy địa vẫn bị vào hãm địa. Hỏi rằng hãm với miếu còn căn cứ trên nguyên tắc thụ chế hay không, hay là căn cứ trên một nguyên tắc nào khác nữa ? Chúng ta sẽ giảng ra sao câu sau đây :

Liêm Trinh Thất Sát đồng viên

Ơ cung Tị Hợi chiếu miền Thiên Thương

Đặng Thông đói suốt năm trường

Hạn hành phải sợ tai ương đến mình.

Cả Liêm Trinh Thất Sát đều là Hỏa, lại lâm nguy tại cung Tị là Hỏa hương ?


Thứ hai, mỗi cung trong tất cả 12 cung của lá số cung nào cũng có đủ ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ kể chung chính diệu với phụ tinh. Theo thói thường chỉ thấy căn cứ vào tính chết hung cát của các vị sao đồng thời căn cứ vào sự kết hợp thành từng bộ để giảng đóan chứ không thấy căn cứ vào cái lý vận động của ngũ hành. Đôi khi cũng có các vị vẻ suy tư nói sang chuyện ngũ hành thì cũng chỉ nói sơ sài, nếu không muốn bảo là gượng, là ngụy biện.

Thứ ba là ngũ hành nếu theo Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy nói đến mặt thụ chế mà không lưu ý đến toàn bộ vận động biện chứng sinh khắc chế hóa biến ảo vô cùng sau đây :

Kim vượng được Hỏa mới thành khí cụ ; Hỏa vượng được Thủy thành sức mạnh của hơi nước tức là Thủy Hỏa tương tế, Thủy giúp Hỏa ; Thủy vượng được Thổ mới thành ao hồ, Thổ vượng được Mộc mới sơ thông thổ không bị bí ; Mộc vượng được Kim mới ra kèo cột chống đỡ.


Kim nhờ Thổ sinh nhưng Thổ đa thì Kim bị chôn vùi ; Thổ nhờ Hỏa sinh nhưng Hỏa nhiều Thổ cháy. Hỏa do Mộc sinh nhưng Mộc nhiều Hỏa bị ngạt ; Mộc nhờ Thủy sinh nhưng Thủy trận thì Mộc trôi ; Thủy nhờ Kim sinh nhưng Kim đa Thủy trọc (đục dơ bẩn).


Kim có thể sinh Thủy nhưng Thủy đa tất Kim chìm. Thủy có thể sinh Mộc nhưng Mộc đa thì Thủy kiệt. Mộc có thể sinh Hỏa nhưng Hỏa nhiều Mộc cháy tiêu. Hỏa có thể sinh Thổ nhưng Thổ đa làm Hỏa ngạt. Thổ có thể sinh Kim nhưng Kim đa thổ biến.


Kim khả dĩ khắc Mộc nếu Mộc cứng Kim sẽ sứt mẻ. Mộc khả dĩ khắc Thổ, nếu Thổ chắc rắn Mộc gầy. Thổ khả dĩ khắc Thủy nếu Thủy nhiều quá Thổ sẽ trôi. Thủy khả dĩ khắc Hỏa nếu Hỏa nhiều sẽ làm sôi Thủy. Hỏa khả dĩ khắc Kim nếu Kim nhiều Hỏa tắt.


Kim suy gặp Hỏa bị cháy tan. Hỏa nhược gặp Thủy Hỏa tất diệt. Thủy yếu gặp Thổ, Thủy ứ tắc. Thổ suy gặp Mộc Thổ bị nát vụn. Mộc nhược gặp Kim, Mộc bị sát phạt.


Cường Kim được Thủy mới tiết bớt sức mạnh Cường Thủy được Mộc mới tiết bớt thế mạnh Cường Mộc được Hỏa mới bớt ngang ngạnh Cường Hỏa được Thổ mới ngừng hoành hành Cường Thổ được Kim mới chế được hại.


Mộc sinh Hỏa tuy nhiên Hỏa cũng có thể sinh Mộc, Thủy sinh Mộc la tưới cho đất bớt khô, còn Hỏa sinh Mộc là làm cho trời nóng ấm cây khỏi cóng rét.


Hỏa sinh Thổ tuy nhiên Thổ cũng có thể sinh Hỏa, Mộc sinh Hỏa nhờ cái khô của cây vào mùa đông, còn Thổ sinh Hỏa là do đất nóng trong tháng hạ.T


hổ sinh Kim tuy nhiên Kim cũng có thể sinh Thổ, Hỏa sinh Thổ bằng cách đốt bớt chất ẩm, còn Kim sinh Thổ bằng cách làm chắc đất lại.


Kim sinh Thủy tuy nhiên Thủy cũng có thể sinh Kim, Thổ sinh Kim bằng sự thấm bớt nước còn Thủy sinh Kim bằng sự chế ngự tính khốc liệt của Hỏa.


Thủy sinh Mộc tuy nhiên Mộc cũng có thể sinh Thủy, Kim sinh Thủy bằng cách ngăn chặn sự tiết lậu còn Mộc sinh Thủy bằng cách khơi thông ứ tắc ...

Nói tới vận động biện chứng của ngũ hành thật hết sức miên man, bao la, không phải chỉ có thụ chế mà thôi. Chắc hẳn Hi Di Trần Đòan tiên sinh cũng đặt Tử Vi vào trong vận động biện chứng đó nay chỉ vì thất truyền nên không có giảng giải chính xác vậy. Chẳng phải cứ khơi khơi đặt toẹt ra rằng Liêm Tham Tị Hợi mệnh đóng đấy thì dễ bị tù tội nhưng nếu gặp Triệt hay Tuần lại trở thành hay. Chẳng phải cứ khơi khơi đặt câu phú :

Mão cung Cơ Cự Vũ Khúc phùng

Tân At sinh nhân phúc khi Long.


Chúng ta hy vọng một ngày nào đó sẽ có một sở học uyên thâm giảng được lý do tại sao, hoặc sẽ tìm thấy cổ thư có lời giảng ấy.Sau chót là vấn đề ngũ hành của vòng tràng sinh. Vấn đề này có sự khác biệt hẳn như trắng với đen giữa sách Tử Vi đẩu số toàn thư với sách Tử Vi của người Việt.Theo Tử Vi đẩu số toàn thư cũng như theo tòan thể các sách khác ve khoa âm dương học thì vòng tràng sinh là sự thành trưởng, vượng thịnh và hủy diệt của một hành trong ngũ hành. Không có chỗ nào trong Tử Vi đẩu số toàn thư gọi tràng sinh mộc dục quan đới, làm quan, đế vượng, suy bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai dưỡng là một vị sao.Trong khi thói quen từ trước tới giờ của Khoa Tử Vi lại gọi 12 giai đoạn trưởng thành hủy diệt của vòng tràng sinh là sao. Đặc biệt hơn nữa là mỗi sao ấy lại đại biểu cho một hành kim mộc thủy hỏa thổ, ấy mới là lạ. Xin nhắc lại :


Tràng Sinh thuộc Thủy

Quan đới thuộc Kim

Đế Vương thuộc Kim

Bệnh thuộc Hỏa

Mộ thuộc Thổ

Thai thuộc Thổ

Mộc Dục thuộc Thủy

Làm Quan thuộc Kim

Suy thuộc Thủy

Tử thuộc Thủy

Tuyệt thuộc Thổ

Dưỡng thuộc Mộc.


Đầu hết chúng ta hãy đi tìm hiểu quan niệm của khoa âm dương học về vòng tràng sinh ra sao đã. Sách nào cũng đều nói vòng tràng sinh là những giai đoạn (thập nhị vận) thành trưởng, vượng thịnh, suy yếu và hủy diệt.Số Tử Bình giảng thập nhị vận ấy như sau :

- Trường Sinh là đất sống của ngũ hành, gặp tràng sinh là người nhiều tài cán, sớm thành công, hạnh phúc vô cùng.

- Mộc Dục là giai đoạn của sự tắm rửa, đứa trẻ vào đất sống đang được tắm ở

chuồng còn non nớt yếu đuối cho nên gặp Mộc Dục số đàn ông cô độc khắc cha mẹ, con cái ;số đàn bà phá bại nhà mình cũng như nhà chồng, đẻ con khó nuôi.

- Quan Đới là giai đoạn biết đội nón chít khăn để hưng gia lập nghiệp. Ban đầu bần hàn càng về sau càng qúi hiển, nếu lại ở ngôi bản vị qúi nhân thì tuổi trẻ đã đắc lộ thanh vân.

- Lâm Quan – Đế Vương là giai đoạn ví như con người vào tuổi bốn năm mươi,công đã thành danh đã toại đang hưởng vinh hoa. Mệnh được gặp Lâm Quan Dế Vương thì gia nghiệp hưng Long, dục vọng công danh thoả chí. Dù cho có thất vị thì danh cũng đã nhiều người biết đến.

- Suy – Bệnh – Tử là giai đoạn già nua suy yếu của ngũ hành. Lực không còn theo tâm nữa , cần phải có sự phù giúp mới có thể hanh thông.

- Mộ là giai đoạn đem chôn vùi, đòi hỏi một sự xung phá thì uất kết của chôn vùi mới vỡ bung ra để chuyển thành một sự nghiệp mới.

- Tuyệt là giai đoạn đi sau mộ, nếu không có sự xung phá kia để phục hồi thì sẽ diệt hẳn.

- Thai là giai đoạn trứng nước nảy nở, lúc này còn ở tình trạng ngu si dễ bị bóp chết.

- Dưỡng là giai đoạn đã thành hình bây giờ phải dựng dục nuôi nấng. Giai đoạn này hung cát thường đi đôi.


Mỗi hành kim mộc thuỷ hoả thổ đều phải có một cuộc đời trải qua 12 giai đoạn kể trên theo nguyên tắc sinh diệt mà thành một vòng tròn bất tận gọi là Vòng Tràng Sinh.Nó được phân định như sau :

- Giáp can : Tràng sinh tại Ngọ, Mộc Dục Tí, lâm quan Sửu, Lâm quan Dần, Đế Vượng Mão, Suy Thìn, Bệnh Tị, Tử Ngọ, Mộ Mùi, Tuyệt Thân, Thai Dậu.

- At can : Tràng sinh tại Ngọ, Mộc Dục Tị, Quan đới Thìn, Lâm quan Mão, Đế vượng Dần, Suy Sửu, Bệnh Tí, Tử Hợi, Mộ Tuất, Tuyệt Dậu, Thai Thân, Dưỡng Mùi.

- Bính Mậu can : Tràng sinh tại Dần, Mộc dục Mão, Quan đới Thìn, Lâm quan Tị, Đế vượng Ngọ, Suy Mùi, Bệnh Thân, Tử Dậu, Mộ Tuất, Tuyệt Hợi, Thai Tí, Dưỡng Sửu.

- Đinh Kỷ can : Tràng sinh tại Dậu, Mộc dục Thân, Quan đới Mùi, Lâm quan Ngọ, Đế vượng Ngọ, Suy Thìn, Bệnh Mão, Tử Dần, Mộ Sửu, Tuyệt Tí, Thai Hợi, Dưỡng Tuất.

- Canh can : Tràng sinh tại Tị, Mộc Dục Ngọ, Quan đới Mùi, Lâm quan Thân, Đế vượng Dậu, Suy Tuất, Bệnh Hợi, Tử Tí, Mộ Sửu, Tuyệt Dần, Thai Mão, Dưỡng Thìn.

- Tân can : Tràng sinh tại Tí, Mộc dục Hợi, Quan đới Tuất, Lâm quan Dậu, Đế vượng Thân, Suy Mùi, Bệnh Ngọ, Tử Tị, Mộ Thìn, Tuyệt Mão, Thai Dần, Dưỡng Sửu.

- Nhân can : Tràng sinh tại Thân, mộc dục Dậu, Quan đới Tuất, Lâm quan Hợi, Đế vượng Tí, Suy Sửu, Bệnh Dần, Tử Mão, Mộ Thìn, Tuyệt Tị, Thai Ngọ, Dưỡng Mùi.

- Qúi can : Tràng sinh tại Mão, Mộc dục Dần, Quan đới Sửu, Lâm quan Tí, Đế vượng Hợi, Suy Tuất, Bệnh Dậu, Tử Thân, Mộ Mùi, Tuyệt Ngọ, Thai Tị, Dưỡng Thìn.

Như vậy trừ Bính Dậu đi cùng một vòng và Đinh Kỷ đi cùng vòng thành ra có tám vòng bốn dương can và bốn âm can. Dương đi thuận âm đi nghịch.


Trong khi khoa Tử Vi tính theo năm cục là :

Thuỷ nhị cục – Mộc tam cục – Kim tứ cục– Thổ ngữ cục – Hỏa lục cục.


Thuỷ và Thổ cục đi cùng vòng còn Hoả lục cục, Kim tử cục, Mộc tam cục mỗi cục một vòng, tổng cộng chỉ có bốn vòng.Nếu đem so sánh thì thấy vòng tràng sinh của Tử Vi thuần là tính theo Dương can chứ không có Âm can như :

Thuỷ và Thổ cục tràng sinh ở Thân (Nhâm can)

Hoả lục cục tràng sinh ở Dần (Bính Mậu can)

Kim tứ cục tràng sinh ở Tị (Canh thân)

Mộc tam cục tràng sinh ở Hợi (Giáp can)

chỉ thấy nói thêm Dương can tính thuận, Am can tính nghịch. Tính Dương thuận Âm nghịch qua Cục ngũ hành của Tử Vi, đem so với Tử Bình thì Am can hoàn toàn không thấy có vị trí đúng cho 12 giai đoạn của vòng tràng sinh. Bởi vì tràng sinh của Giáp can tràng sinh khởi từ cung Hợi còn tràng sinh của At can khởi từ cung Ngọ.

Vậy không thể dùng danh từ Âm Dương Can được nữa mà phải dùng danh từ Âm Dương Cục mới chính sác. Còn như hỏi Cục tại sao mà thành thì chúng ta chỉ biết Tử Vi dạy rằng :

“ Gọi cung Dần là tháng Giêng tính thuận đến tháng sinh rồi lại từ cung đó tính nghịch đến giờ sinh an mệnh vị. Xong đâu đó tìm hành Can của năm sinh kết hợp với vị trí thập nhị chi của mệnh vị mà thành ra cục”.

Tại sao tính thế ? Căn cứ trên nguyên tắc nào của ngũ hành ? thì lời giảng đã theo Hi Di Trần Đoàn tiên sinh nằm dưới lòng đất cả ngàn năm rồi.Có một vài vị trên một vài cuốn sách đã định giảng, nhưng người đọc chẳng thấy gì cả. Chúng ta cứ phải tiếp tục chờ.Có điều bảo Tràng sinh thuộc Thủy, Mộc dục thuộc

Thủy, Quan đới thuộc Kim.....Tuyệt Hỏa.....Bệnh và Tử Hỏa.... thì quả là chướng, là ngang đối với nguyên lý ngũ hành.

Vòng tràng sinh còn có một liên hệ khá quan trọng là liên hệ với sao Lộc Tồn.


Lộc Tồn là gì ?

Là giai đọan phát triển cực thịnh của hàng can ngũ hành, tức là giai đọan Lâm quan

trong vòng tràng sinh, Lâm quan còn có tên gọi khác là Lộc Kiến.Tử vi an sao Lộc Tồn căn cứ vào hàng can của năm sinh như sau :

Giáp Lộc tại Dần

At Lộc tại Mão

Bính Lộc tại Tị

Đinh Lộc tại Ngọ

Mậu Lộc tại Tị

Kỷ Lộc tại Ngọ

Canh Lộc tại Thân

Tân Lộc tại Dậu

Nhâm Lộc tại Hợi

Quý Lộc tại Tí.



Chú ý : Bính Mậu Lộc cùng ở một chỗ và Đinh Kỷ Lộc cùng ở một chỗ.

Lật trở lại trang trên, tìm những chỗ Lâm quan của các vòng tràng sinh của thập can trong Khoa Tử Bình đều là chỗ an Lộc Tồn trong Khoa Tử Vi.Điều trên đây chứng tỏ rằng :

a. Vòng tràng sinh rất quan trọng đối với lá số mà nay chúng ta chỉ có rất ít mấu cứ để nói chuyện về nó.

b. Sao chỉ là một cách nói, tên mỗi sao chỉ là những ký hiệu, tất cả số mệnh con người đều xuất phát từ vận động biện chứng của ngũ hành. Nhưng nay bởi lẽ nguyên lý đã bị mất từ lâu đời nên chúng ta chỉ có thể giải đóan qua một số những công thức làm sẵn chứ không thể giải đóan bằng lý ngũ hành. Đấy là sự thiệt thòi lớn cho Tử vi học khiến cho nhiều lúc chúng ta cứ nghĩ nó như một thuật không phải là một khoa học. Những lời giảng của các thuật sĩ nghe khó chịu chẳng hạn : Thanh Longnhư Thìn là Long cư Long vị. Bạch Hổ cư Dần là Hổ cư Hổ vị. Trong Tử Vi đẩu số tòan thư, người ta chỉ thấy có một đọan nói đến vận động ngũ hành, đọan ấy lấy tựa đề là : “Tinh Luận Viên”, viết như sau :


“ Tử Vi đế tòa lấy Phụ Bật làm tướng là chủ tinh, là nguyên lưu là tất cả qui tụ nam

bắc đẩu tinh mà thành vạn vật chi linh. Dùng thủy để tẩy rửa (?) tất âm dương ký tế. Thủy thịnh khiến dương thương, hỏa thịnh thì âm diệt. Cả hai phải dung hòa không được thiên lệch. Cho nên đắc kỳ trung mới thật là mỹ mãn. Dần là viên địa của mộc, lúc tÂm Dương giao thái nên cây cỏ mầm mống nảy sinh, sang Mão vi mộc càng vượng làm thành miếu địa cho Thiên Cơ, Tham Lang, Thiên Tướng, là thủy đến cung Dần gọi là vượng tướng. Cự Môn thủy được Mão mộc sơ thông rất hay cần thổ để nuôi mộc lại cần thủy để tưới cho mộc tươi tốt nên tam phương gặp Vũ Khúc Phá Quân thủy nữa càng hay, có Lộc Tồn thổ càng đẹp. Cự Môn thủy đến cung Sửu Thiên Lương thổ đến cung Mùi, Đà La Kim vào tự mộ địa nếu gặp Kình Dương lấy thổ làm kim mô tất kim thông không bị ngưng trệ, có Thiên Phủ thổ Thiên Đồng kim sinh tức gọi là cách kim qúi thổ màu mỡ (kim châu thổ phì) thuận đức mà sinh. Mùi Tị Ngọ là hỏa vị nơi tuyệt địa của thủy, hỏa viên nơi cung Ngọ có dư khí lưu tại Tị thủy...”


Bài này cứ thế kéo dài thêm hai trang nữa, nhưng cũng tiếp tục rắc rối khiến người

đọc chẳng hiểu gì cả. Tuy nhiên, Tinh Viên Luận cho ta thấy những dấu tích chứng tỏ khoaTử Vi có đặt trên nguyên tắc vân động biện chứng ngũ hành.


#100 AnKhoa

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPip
  • 6695 Bài viết:
  • 15445 thanks

Gửi vào 18/01/2013 - 00:18

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NhuThangThai, on 17/01/2013 - 23:16, said:

Cái thân cư đâu... thì cuộc đời quan tâm tới cái đó là man thư 100%, nhưng không hiểu sao nó lại lan tràn khắp nơi, chúng ta chỉ cần có gốc một chút, và sử dụng các kỹ thuật ở trang một, ngẫm nghĩ một chút thì thấy ngay vấn đề. Đó điển hình là kỹ thuật mài, đẽo, gọt của các gọt sĩ hiện đại.

Thân cư đâu thì cuộc sống gắn liền với cung đó, bị ảnh hưởng bởi cung đó, và có nhiều mối quan tâm (chủ động quan tâm hoặc bị động phải quan tâm) tới cung đó là đúng !

Còn cái sở thích thì nó vốn xuất phát từ cung Mệnh + cộng thêm vài yếu tố mà ra, huống chi nó còn do thời vận, mỗi giai đoạn lại mê một thứ khác nhau.

Có thể NTT không có cơ hội quan sát để hiểu, nhưng cũng nên hạn chế phát ngôn bừa.

Sửa bởi AnKhoa: 18/01/2013 - 00:20


Thanked by 4 Members:

#101 VDTT

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 624 Bài viết:
  • 1874 thanks

Gửi vào 18/01/2013 - 00:59

@AlexPhong:
1) Phái Tử Vân rõ ràng coi Thái Tuế là một cung (cung có Thái Tuế), không chỉ là một sao.
2) Thiên di là một cung (vị trí) luôn luôn có liên hệ hết sức mật thiết đến ta, Thiên Mã là một sao (đặc tính, tính chất) có thể chẳng có liên hệ mật thiết đến ta, dĩ nhiên khác biệt hoàn toàn.

Thanked by 3 Members:

#102 VuiVui

    Hội Viên Đặc Biệt

  • Thượng Khách
  • 750 Bài viết:
  • 3797 thanks

Gửi vào 18/01/2013 - 06:40

Bây giờ chúng ta nhận xét tiếp.
Vấn đề cung phúc đức, tác giả viết

Trích dẫn

Trước tiên chúng ta hãy giải quyết một vấn đề to bằng cái tủ đứng thường kê vào miệng các bậc cao thủ tử vi ! Đó là thứ tự sắp xếp các cung !

Đây không phải là một vấn đề "to bằng cái tủ đứng kê vào miệng các bậc cao thủ tử vi" mà đó chỉ là vấn đề thông thường, một vấn đề nhỏ và nó vốn được giải quyết cực kỳ đơn giản. Được xác lập bởi một số nguyên tắc dịch lý. Chẳng cao siêu gì, thậm chí lại còn rất dễ hiểu.

Trích dẫn

Gần đây trong một quyển sách của một học giả tiếng tăm đã cố gắng giải thích thứ tự các cung số bằng qui luật của vòng tràng sinh, theo tôi thì lý thuyết này chưa vững và còn nhiều gượng ép !

Ai đó giải thích thứ tự các cung như vậy, không phải là gượng ép, mà là sự suy luận vô lối. Đọc là thấy ngay, nên cũng chẳng phải bận tâm. Cái chính là tác giả viết theo quan điểm của tác giả, nhưng nhờ vào sự phê phán lối xếp thứ tự các cung theo vòng tràng sinh, mà khiến người đọc nghĩ rằng lối giải thích của tác giả cứ như là ... đúng rồi vậy.
Vậy thì ta xem, có đúng hay không nhé. Và cũng hy vọng, trong sách mới ấn bản của tác giả, nếu có đề cập tới vấn đề này thì cũng không viết như thế nữa.

Trích dẫn

Theo tôi thứ tự các cung số có một cái lý rất hiển nhiên và giản đơn và tôi sẽ trình bày như dưới đây.
Trong lá số tử vi tôi nhận thấy có 3 nhóm người được thể hiện trên các cung số như sau :
- Mệnh, Phụ mẫu , Phúc đức.
- Huynh đệ, Phu- Thê, Tử tức.

- Thiên Di, Nô bộc.

Rõ ràng chính tác giả cũng tự thừa nhận rằng đây là theo quan điểm cá nhân tác giả, tác giả đã nhận thấy như thế, chứ chính tác giả cũng không dựa trên bất cứ luận cứ nào để khẳng định cái quan điểm của tác giả là có cơ sở, có thể tin cậy được, hay có tính thuyết phục cao.
Ngược lại, có lẽ cúng đối với nhiều người, quan điểm này khó chấp nhận. Sự khó chấp nhận thể hiện ngay sự phân loại nhóm là hoàn toàn không minh bạch. Nhưng ngay sau đó, tác giả tự đưa ra những tiêu chí để phân biệt các nhóm. Cái sự tự đưa ra mà không hề chứng minh, làm rõ chỉ là hành vi tự thuyết phục chính mình, chứ không có tác dụng thuyết phục các đối tượng quan tâm. Đó là điều kỵ trong khoa học, nếu như tác giả đã sử dụng cụm từ nguyên lý luận giải, cho thấy tác giả cũng có ý định mượn "áo" khoa học cho bài viết của mình.
Bằng sự phân loại, tác giả quy:

Trích dẫn

Nhóm thứ nhất là nhóm người tiền định ắt phải có trước
Nhóm thứ hai là nhóm người đến sau,
Nhóm thứ ba, nhóm này không đi theo qui luật của nhóm thân nhân của đương số, nhóm này tuân theo nguyên tắc nội ngoại, lấy cung Thiên di làm trung tâm.


Có nghĩa là, bằng cách tự "quy về" do sự tự sắp xếp như trên – mà không có căn cứ gì cả – tác giả "đi tới" chứng minh cái thứ tự "cần phải có của các cung trên lá số, như sau.
Nhóm thứ nhất là nhóm người tiền định, ắt phải có trước (tại sao ? Chưa trả lời, và tự cho là như thế) dẫn đến


Trích dẫn

do đó đặt phía trước mệnh theo chiều thuận.( Trước đây tôi đã dùng giả thiết khí đi theo chiều nghịch để giải thích sự hình thành các cung từ cung phúc đức nhưng tới bây giờ thấy gượng ép và không nhất quán !) Do vậy nên, đầu tiên phải có Mệnh, tiếp theo là Phụ mẫu những người hiển nhiên phải có trước ta, tiếp theo phụ mẫu là cung phúc đức ( ông bà , giòng họ, âm phần ), những người hiển nhiên có trước cha mẹ của ta. Cha mẹ, ông bà là những người mà ta không có quyền lựa chọn, do căn duyên mà ta tự tìm đến , do đó những lực lượng này ứng với phần dương.

Hoàn toàn không hợp lô gíc tý nào. Và cũng sai hoàn toàn về mặt Lý. Hơn nữa, nếu ta lại hỏi tiếp, trước mệnh là phụ mẫu và phúc đức, thì tại sao lại chỉ dừng đến phúc đức mà không đi tới tiếp. Hay là đã do tự ta khoanh cái nhóm này chỉ có ba cung thôi ?
Đến đây, ta lại tính cộng các cung của cả ba nhóm, lại chỉ thấy có 8 cung được kể đến, 4 cung, nếu cộng thêm cung Thân nữa là 5, vậy "vứt" chúng đi đâu rồi.
Rõ ràng lý luận của tác giả hoàn toàn gượng ép. Thậm chí có thể nói, còn ép thô bạo hơn nhiều lần so với lối xếp thứ tự cung theo vòng tràng sinh. Và khỏi cần xét thêm hai nhóm kia nữa.
Tóm lại, cái sự xếp đặt thứ tự các cung, như người ta hay nói: áp đặt, nói lấy được, hay tự bịa ra. Chứ thực ra, chẳng giải quyết được vấn đề gì cả. Trong khi, vốn vấn đề này, nó không lớn.
Tạm thế đã, tôi chỉ viết có tính gợi mở, để các Bạn quan tâm mà xem xét phân tích thêm. Hy vọng các Bạn sẽ tự vỡ ra nhiều điều.
Thân ái.

Thanked by 3 Members:

#103 Can.Spacy

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 370 Bài viết:
  • 450 thanks

Gửi vào 18/01/2013 - 07:49

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NhuThangThai, on 15/01/2013 - 21:13, said:

Work đi sau người khác là chuyện bình thường. Và cũng không nên công bố làm gì, hoặc quá lắm chỉ công bố cái vỏ, ý tưởng chung khoảng 2-3 phần/10, người có duyên thì sẽ tự động hiểu hết, còn cụ thể thì cần để thời gian ít nhất vài năm cho ngấm một cách chín chắn.

Thử kết hợp các kỹ thuật về Nội Khí và Ngoại Khí, lý thuyết kỳ số cục của Hà Uyên với lý thuyết trục, cấu trúc space-time trong bài viết này xem có ra được kỹ thuật nào không.

Em đã phân tích kỷ thuật đứng đằng sau vòng Trường Sinh Cục và Trường Sinh bay. Vòng Trường Sinh bay mà em phát triển không dựa vào cung lục hại với Đại vận, nhưng về cơ cản kỷ thuật về Khí là gần giống với Đông A. vòng Trường Sinh Cục là tiên thiên khí của các Cách, Trường Sinh bay là hậu thiên khí của các Cách ở Đại vận. Việc kiểm nghiêm và nghiền ngẫm sẽ trong vài năm. Như vậy về tổng thể ta đã có thể cho bay cả Địa bàn, ngoại trừ chính tinh.

về lý thuyết Trục thì em chưa có nghiên cứu gì về cái này, mới chỉ là đi học theo của người khác thôi. Kỳ Cục Số thì đã có nghiên cứu một phần. vì vậy việc kết hợp lý thuyết Trục và Kỳ cục Số với em bây giờ là điều thật khó khăn. phải có thời gian thư giản, lùi lại rồi lúc nào đó tự ngộ ra vậy, cứ hùng hục húc đầu vào đá thì khó ra lắm.

Sửa bởi can.spacy: 18/01/2013 - 08:05


#104 Can.Spacy

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 370 Bài viết:
  • 450 thanks

Gửi vào 18/01/2013 - 08:02

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

AlexPhong, on 17/01/2013 - 23:36, said:

-----------> phái Tử Vân coi Thái Tuế là một cung<---------nếu bác không đồng ý điểm này, một loạt ví dụ minh họa sẽ xuất hiện.

em xin có chút ý kiến. Thái tuế chỉ là một sao, nhưng khi xem cát hung của Thái Tuế thì phải khán cả cung. và lưu niên cũng phải khán cả cung. lưu cung, mệnh ẩn, nhập quái, hay cung trọng điểm, sao treo... cũng là dựa trên việc xem Thái tuế là một cung. Nhưng cũng cần phân biệt khi nào thì xem cả cung, khi nào thì xem mình Thái tuế không lại dễ lộn.

Thiên mã cũng chỉ là một sao, nhưng khi xem Thiên mã ta nên xem cả cung thì tốt hơn. vì nó là tổng hợp động năng số Thái huyền. Cung đó sẽ xem cả cung thì kết quả tốt hơn nhiều.

Sửa bởi can.spacy: 18/01/2013 - 08:03


Thanked by 1 Member:

#105 TaisacSongthu

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • Pip
  • 153 Bài viết:
  • 316 thanks

Gửi vào 18/01/2013 - 08:35

Phúc ấm tại thân, cứ dòm cung phúc đức thì đến Lưu Bang cũng làm dân đen chứ chả ngồi ngôi đế được






Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |