Gửi vào 05/10/2014 - 07:26
Mọi người thường hay hiểu lầm tu hành là tu sửa thói hư tật xấu của mình, v.v... Vậy "giải thoát" trong đạo Phật là gì? Là giải thoát khỏi thói hư tật xấu chăng? Coi chừng có sự lầm lẫn giữa phương tiện và cứu cánh. Tất cả nào là tam cang ngũ thường không phải là mục đích của người tu theo đúng nghĩa "giải thoát" trong đạo Phật.
Trở ngại lớn nhất thường thấy ở người tu là nhảy rào, chấp trước, ví dụ như "tu tại Tâm", "ăn chay cũng như ăn mặn", "gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma", v.v... Những vấn đề này đều bị cái trí nó dối gạt nặng nề. Việc gì cũng phải theo giai đoạn tuần tự nhi tiến. Cuộc sống hằng ngày của chúng ta phải dùng đến trí (đầy tớ) vì nó là công cụ cho chúng ta tương tác ở thế giới này và cũng vì vậy mà chúng ta đã quên bẵng đi Tâm (chủ). Những sự giữ giới này nọ, giai đoạn đầu cần phải có (về sau sẽ thuần tánh tự nhiên) để giúp cho thân + trí của chúng ta thanh tịnh lại, nâng tầng rung động của chúng ta cao hơn để giúp cho việc thiền định được dễ dàng, đến lúc nhập định đủ sâu và căn cơ chín mùi thì tự khắc Tâm ta sẽ thức dậy. Chỉ ngay vào sát na đó chúng ta mới nhận chân được thân thể này là giả tạm, cuộc sống này là tạm bợ và cả cái trí cũng chỉ là phương tiện. Ví dụ như khi chúng ta ngủ, ngay trong giấc mơ chúng ta có nghĩ là chúng ta có đời thực sau khi tỉnh dậy không? Không. Cũng như vậy, trong đời sống hằng ngày với tầng rung động nặng nề thô kệch của trí, chúng ta không thể ngờ được chúng ta có Tâm trùm khắp, bất sinh bất diệt như Ngọc Mani nhưng lại bị chôn vùi dấu kín trong đá tảng thô lậu của trí. Cũng vì Tâm không được đánh thức, nên chúng ta cứ mãi luân hồi, kiếp này sang kiếp nọ và nghiệp lực càng lúc càng bao phủ lấy Ngọc Mani làm mê mờ trí huệ, làm chậm đi tiến trình trở về của chúng ta. Ánh sáng là ánh sáng tự tánh Ngọc Mani ngay bên trong chúng ta, không phải bên ngoài mang lại. Chúng ta cần mài đá cho đến khi lộ được Ngọc Mani thì tự khắc ánh sáng sẽ phát ra.
Về sự tham cầu, như đã có vài người biện luận và dẫn thuyết cho rằng cầu giải thoát cũng là tham, vì tu hành không nên tham mà nên thả bỏ hết. Điểm này đúng lẫn sai. Đúng trong giai đoạn đầu, và sai giai đoạn sau. Cái trí của ta là một đầy tớ trung thành nhưng lại là một người chủ tệ hại. Nếu trí của ta không tham cầu, không thỏa mãn được cái tự ngã, thì nó có chịu tu hay không? Nó có chịu sửa đổi, giữ giới, ngồi xuống hành thiền hay không? Tất cả thiên kinh vạn quyển, bao công án thiền cũng chỉ là phương tiện thiện xảo để gạt cái trí tham cầu, phải xỏ cột mũi trâu (Thập Mục Ngưu Đồ) để nó phải tùng phục trước khi thuần tánh, cho đến khi Tâm ta thức dậy. Một khi Tâm đã thức dậy, từ từ làm chủ được cái trí trong đời sống hằng ngày thì sự tham cầu cũng sẽ mất đi. Vì sao? Vì trong sát na mà Tâm được thức giấc, ta sẽ nhận chân được sự vĩ đại của ta như thế nào, biết được sự Tự Do Tuyệt Đối như thế nào thì cho dù sự tham cầu vĩ đại nhất trong thế giới này, có làm chủ cả cái thế giới này, cũng chỉ là hạt bụi dưới chân không thể nào sánh được với sự Tự Do Tuyệt Đối.
Bao nhiêu kinh sách, kỳ thư cổ điển luôn luôn chứa đựng ngữ nghĩa theo cách hiểu bên ngoài của ý và nghĩa lý thông trùm từ trong bởi Tâm. Vốn được viết ra bởi những vị đại khai ngộ, mượn dùng ngôn ngữ thế gian để chuyển tải những gì to lớn hơn, vượt khỏi biên thành của trí nên từ đó mới nảy sinh ra nhiều cách diễn giải khác nhau của trí, mang đến sự cuồng tín, nghi kỵ, đả kích, chém giết lẫn nhau cũng vì vậy. Ở thế giới này tồn tại hai chân lý, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Với chân lý tương đối nhập thế của ý, cho dù bao nhiêu triết thuyết, bao nhiêu cự cãi cũng vẫn luôn chạy trong vòng lẫn quẫn của trí mà không thể vượt ra khỏi đối đãi của nhị nguyên. Vì vậy mà,
Con chó trí tuệ
Hay chạy quàng xiên
Vấp phải nhị nguyên
Xảy chân mất mạng...
Còn chân lý tuyệt đối (tạm gọi vậy) xuất thế của Tâm là chân lý siêu thế gian, không bị tù túng trong ngôn ngữ con người, vượt ra khỏi sự đối đãi không-thời và chỉ có thể tiếp cận khi Tâm được thức giấc.
Tu hành cần phải định hướng cẩn thận vì đường tu đầy mê trận lôi cuốn dụ dỗ chúng ta. Điểm chung lại những phương pháp tu thường thấy và chúng ta cần phải phân biệt rõ đâu là tu theo Địa tiên, Tiên thiên hay là Giải thoát.
Địa tiên: những môn phái này dùng bùa chú, ngãi, thư ếm và chia ra 2 loại chánh tà. Tà thì thư ếm hại người còn chánh thì được cho là cứu nhân độ thế, trừ tà bắt quỷ, nuôi âm binh để sai khiến, thổi nhang vào nước lã để trị bịnh, v.v... Loại tà không đề cập đến chỉ bàn đến loại được cho là chánh. Tất cả chúng ta đều bị lưới nhân quả trói buộc chằn chịt. Đức Phật có nói, nếu muốn biết nhân quả một người thì cần phải biết đến quá khứ, hiện tại và cả vị lai của họ. Khi dùng bùa chú thần thông thì có 2 trường hợp, một là thần thông không phải của mình vì trình độ hành trì mình chưa đủ, sẽ bị địa tiên cho vay mượn (mà mình lầm tưởng là của mình) và mình sẽ phải trả vốn lẫn lãi. Cho đến một kiếp nào đó mình tu hành cao được một chút thì sẽ bị họ đến đòi, gây ra ma chướng khó khăn trở ngại trong việc hành trì. Hai là thần thông tự thân mình có được, nhưng việc này mình cũng sẽ bị lậm sâu vào nhân quả của người khác và mình sẽ phải gánh trả. Ví dụ 2 người có nợ nần với nhau, mình không thấy được nhân quả mà dùng quyền lực thần thông ép chế một bên thì nghiệp quả sẽ phản lại khôn lường, không nhất thiết phải ngay vào kiếp này nhưng nó sẽ được lưu tồn chờ đợi trong những kiếp tới. Đức Phật có lần biết trước nguyên cả dòng họ của Ngài sẽ bị giết hại mà Ngài không ra tay cứu giúp là có lý do, cho dù ngài Mục Kiền Liên đã lén dùng thần thông giấu họ vào bình bát nhưng vẫn không thoát, khi mở bình bát ra chỉ toàn là máu. Vì vậy, hãy tự lo cứu mình trước khi muốn cứu thế độ sanh. Công đức tu hành của mình không bao giờ đủ cho những việc này (trừ tà, ếm quỷ) đâu. Hãy biết bơi trước khi muốn cứu người khác đang bị đuối, còn không thì cả hai đều sẽ ôm nhau chết chìm. Ở diễn đàn này, 1-2 tháng trước có một thành viên bắt đầu sa vào địa tiên. Còn có người nuôi âm binh để sai khiến cũng có lúc sẽ bị trả vì quy luật vũ trụ, mỗi một chúng sanh, dù hữu hình hay vô hình, đều có cái quyền tự do của Trời Đất sanh ra, nếu chúng ta không giúp đỡ được họ mà còn kềm chế sai khiến thì cũng sẽ đến lúc chúng ta sẽ bị kềm chế, sai khiến lại. Đừng tưởng cúng cho họ ăn rồi mình có thể làm chủ được họ, miếng ăn mà mình cúng cũng là của Trời Đất, không phải của mình, lúc ra đời ai cũng không một mảnh khố che thân.
Tiên Thiên: tu luyện tinh khí thần, phản bổn hoàn nguyên, kết sinh Thánh thai để nhắm về tiên giới. Vẫn còn nằm trong ngục tù lớn vì bị ảnh hưởng bởi thời gian. Tuy lên càng cao (vào nội giới càng sâu) thì thời gian càng trôi chậm lại nhưng vẫn không mất, và "thành trụ hoại không" của sự vật đã nằm trong cái lý của thời gian.
Giải thoát: thoát ra luân hồi sanh tử, vượt ra khỏi cái lưới không-thời để trở về Thường Hằng. Điểm chính ở tu Giải thoát là cần phải có Minh Sư dẫn dắt trong nội giới để vượt thoát ra khỏi tù ngục lớn vừa nhắc đến bên trên. Vì vậy, ngay từ cổ xưa, thế giới chúng ta luôn luôn có những vị Minh Sư gìn giữ Pháp mạch để truyền đời. Nếu Pháp mạch không còn được lưu giữ ở thế giới này thì chúng ta sẽ bị "limbo", cho dù có trải qua muôn vạn ức kiếp luân hồi, có tu hành cao đến đâu cũng không thể nào thoát khỏi tù ngục lớn. Dòng Pháp mạch từ ngàn xưa đã được chia đi nhiều hướng. Đức Phật nhận lãnh Pháp mạch sau 5 năm tầm đạo và 6 năm tu khổ hạnh, sau cùng thì truyền đến ngài Lục Tổ Huệ Năng. Cái mà Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn truyền cho Lục Tổ Huệ Năng chính là Pháp mạch, không phải những câu kinh Kim Cang. Nhị Tổ Huệ Khả tự chặt cánh tay cũng để mong cầu Pháp mạch. Milarepa tự tay xây lên ngọn tháp 9 tầng và mấy lần bị Thầy bắt xây lại, sau cùng mới nhận lãnh được Pháp mạch. Chúa Jesus nhận được Pháp mạch trong 17 năm được cho là thất lạc của Ngài tại một vùng núi bên Tây Tạng, trước khi trở về hoằng Pháp được 3 năm. Bên Hồi giáo thì có ngài Rumi với những vẫn thơ chứa đựng đầy huyền bí, thơ của Ngài được dịch ra nhiều thứ tiếng và bán chạy nhất tại Hoa Kỳ. Ngược vào thời Ai Cập cổ đại thì còn có Hiram Abiff, người kiến trúc đền thờ vua Solomon của Do Thái đầu tiên. Sang Hy Lạp cổ đại thì Hermes, v.v... Dấu tích liên quan đến Pháp mạch vẫn còn lưu truyền trên kinh điển Phật giáo, Kinh Thánh, Nag Hammadi, Hermetica, kỳ thư Kybalion, v.v... đến ngay cả những cuốn sách được lưu truyền trong nội bộ của những Hội kín như Rosicrusian, Freemasonry, v.v... vào đầu thế kỷ trước.
Vì vậy, khi định hướng tu hành, chúng ta đừng nên dính mắc vào một tôn giáo nào cả. Việc này chỉ hại ngay chính chúng ta. Hạt sạn trong mắt sẽ che cả thái sơn trước mặt. Ngồi ôm một gốc cây cổ thụ cằn cỗi sẽ làm mất đi năng lực bước ra khỏi khu rừng rậm để có thể thấy được cả tổng thể. Tôn giáo chỉ là phương tiện cho nhân loại trở về với Bản Nguyên, không phải là Cứu Cánh tột cùng. Và tất cả mọi tôn giáo đều không của riêng ai, đến một lúc nào đó chúng ta sẽ nhận thấy được bên sau những dị biệt do vùng miền, văn hóa, v.v... tất cả những tôn giáo lớn đều xây trên cùng một nền tảng. Ngài Rumi bên Hồi giáo có bài thơ sau:
Tôi lục lạo khắp cùng Thiên Chúa giáo,
Thánh giá nhìn lên, tôi thấy nó trống không!
Tâm tích Ngài, sao tôi vẫn mịt mùng!
Tôi lang thang trong chùa chiền, miếu mạo.
Ngài ở đâu sao chẳng thấy hình dung?
Đá Kaaba, tôi quanh quất ruổi rong,
Đô hội ấy, mà sao Người vắng bóng!
Tâm hồn tôi, tôi nhìn tận bên trong,
Ôi lạ thay, kìa sao Ngài ở đó?
Thần trí tôi bỗng mãnh liệt động rung,
Rủ sạch hết bụi trần gây chia rẽ...
(Bản dịch của Nhân tử Nguyễn Văn Thọ)
Đề cập đến đền thờ vua Solomon bên trên, khi vào cửa đền thì có 2 trụ cột 2 bên, một tượng trưng cho Chân lý (Truth) và một tượng trưng cho Tự nguyện (Freewill). Ý nói, khi tìm về Thượng Đế, chúng ta cần phải có đủ 2 điều tiên quyết, một là tìm cầu chân lý, 2 là do mình tự quyết, không vì sự ép buộc của ai cả.