Jump to content

Advertisements




MẬT MÃ KINH DỊCH

Kinh Dịch Tiên Thiên bát quái Hậu Thiên bát quái Mật mã

43 replies to this topic

#1 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 24/12/2015 - 22:31

Đây là một cách giải nghĩa khác với các giải nghĩa trước đây về Kinh Dịch. Tôi biên dịch một bản dịch mới trực tiếp từ nguyên bản gốc của Thoái từ và Hào từ trên cơ sở giải mã Tiên Thiên bát quái và Hậu Thiên bát quái. Tôi không sử dụng dẫn dắt của Tượng truyện hay Thập dực. Do vậy, đây không phải là bản dịch dành cho các tín đồ của đạo Khổng, các bạn hãy giữ lòng tin của mình thì tốt hơn. Tôi đăng bản dịch này trên diễn đàn mưu tìm người hữu duyên và cho những người đọc các bản giải nghĩa trước đây mà không hiểu thì nên tham khảo thêm bản này.

Bản dịch chưa đầy năm nên còn rất nhiều thiếu sót, tôi sẽ tiếp tục cập nhật trên trang jaoom.com để hoàn thiện nó sau này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



1. THUẦN CÀN

Khách quái là Càn. Chủ quái là Càn.

Tượng trời tiếp theo cũng là trời là thuận thiên.

Phạm trù: Đức tính cương nhu trong hành sự.
Cho đối tượng: Người quân tử.
Tên là CÀN: Cứng cỏi, kiên định, sống động.
Đối ý với chồng quái THUẦN KHÔN là mềm mại, nhu thuận.
Hình tượng: Thuận thiên hành đạo.

Thoái từ: 乾 元 亨 利 貞.
*Hào 1: 潛 龍 勿 用.
*Hào 2: 見 龍 在 田 利 見 大 人 .
*Hào 3: 君 子 終 日 乾 乾 夕 惕 若 厲 无 咎.
*Hào 4: 或 躍 在 淵 无 咎.
*Hào 5: 飛 龍 在 天 利 見 大 人.
*Hào 6: 亢 龍 有 悔.

Thoái từ: 乾 元 亨 利 貞.
Người cầm đầu có đức cứng cỏi, kiên định thì chắc chắn hanh thông và có ích lợi.

Hào từ :

*Hào 1: 潛 龍 勿 用.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Khi rồng còn tiềm ẩn chớ nên cứng cỏi kiên định. Tức là khi thời thế chưa manh nha, người cầm đầu không nên cứng cỏi trong hành động.

*Hào 2: 見 龍 在 田 利 見 大 人 .
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Con rồng đã hiện trên đồng ruộng. Lợi cho dẫn dắt người dân. Tức là thời thế đã hiển hiện, người cầm đầu bắt đầu tập hợp và dẫn dắt người dân sẽ gặp thuận lợi.

*Hào 3: 君 子 終 日 乾 乾 夕 惕 若 厲 无 咎.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Người quân tử cả ngày cương cường, đến tối thì thận trọng gắng gỏi sẽ không có lỗi. Tức là người quân tử ở thời của mình (ban ngày) mới nên CÀN, không phải thời của mình (đêm tối) thì nên thận trọng mà mài dũi tôi luyện đức của mình sẽ không có lỗi.

*Hào 4: 或 躍 在 淵 无 咎.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Càn. Tiếp ý hào 3. Hoặc thận trọng như con rồng vửa nhảy lên từ cái vực sâu thì cũng không có lỗi.

*Hào 5: 飛 龍 在 天 利 見 大 人.
Hào dương. Trung vạch khách quái Càn. Rồng bay trên trời. Lúc này xưng vương xưng bá sẽ có lợi và thuận theo ý trời. Tức là người quân tử phải hướng THIÊN, tùy theo thiên tượng mà hành sự mới có thời cơ và thuận theo lẽ Tự nhiên.

*Hào 6: 亢 龍 有 悔.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. Rồng lên cao quá, có hối hận. Tức là người quân tử theo đức CÀN phải biết điểm dừng nếu không sẽ bị hối hận.



Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

1. THUẦN CÀN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nội quái, ngoại quái đều là Càn.

乾: 元, 亨, 利, 貞.
Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Dịch : Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền.
Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng.
Về sau, tác giả Thóan truyện (tương truyền là Khổng tử , nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời.
Trời có đức “ nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) .
Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự.
Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử . người quân tử có bốn đức.
Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người , tức như đức “nguyên” của trời.
Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời.
Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời.
Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời.
Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ , nghĩa, trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi.
Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh mà ở phần I, Chương IV, chúng tôi đã ghi lại rồi.
Hào từ :

Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.

*Hào 1: 初 九: 潛 龍 勿 用
Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.

Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được.
Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn.
Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.

*Hào 2: 九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 .
Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.

Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi.
Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại nhân).
Văn ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2.

*Hào 3: 九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎.
Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.

Dịch: hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi.
Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi.
Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2

*Hào 4: 九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎.
Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.

Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi.
(Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi).
Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định.
Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi.
Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được.
Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.

*Hào 5: 九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人.
Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.

Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi.
Giảng : Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua).
Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi.
Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).

*Hào 6: 上 九 . 亢 龍 有 悔.
Thượng cửu: Kháng long hữu hối.

Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận.
Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu).

*Thêm:
Văn ngôn : giảng thêm: Hào 5 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong Văn ngôn, tác giả Hệ Từ truyển dẫn lại trong thiên thương, Chương VIII, Tiết 9).
Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử .
用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 .
Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.
Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt.
Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó.
J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào. “quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu.
Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi.
- Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”.
Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ?
- Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp thời thì tốt.
Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn.
- Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được.
- Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa.
Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu”
Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v. . .
Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt.
PHỤ LỤC
Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 qủe Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh.
- Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn)
“rồng có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha, còn tiềm phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên chưa dùng được, tài đức chưa thi thố được.”
- Tào Thăng (sách đã dẫn).
“người thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (. . .)
Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?)mà thôi, cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp).
- Cao hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu cuối:
“con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành.
Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kỹ gì hơn cách của người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



2. THUẦN KHÔN

Khách quái là Khôn. Chủ quái là Khôn.

Tượng đất tiếp đất sẽ mở rộng bốn phía, tức địa lợi.

Phạm trù: Đức tính cương nhu trong hành sự.
Cho đối tượng: Người quân tử.
Tên là KHÔN: Mềm mại, nhu thuận, yên ổn.
Đối ý với chồng quái THUẦN CÀN là cứng cỏi, kiên định, sống động.
Hình tượng: Giữ yên bờ cõi.

Thoái từ: 坤 元 亨 利 牝 馬 之 貞 君 子 有 攸 往 先 迷 後 得主 利 西 南 得 朋 東 北 喪 朋 安 貞 吉 .
*Hào 1: 履 霜 堅 冰 至.
*Hào 2: 直 方 大不 習 无 不 利.
*Hào 3: 含 章 可 貞 或 從 王 事 无 成 有 終.
*Hào 4: 括 囊无 咎无 譽.
*Hào 5: 黄 裳 元 吉.
*Hào 6: 龍 戰 于 野 其 血 玄 黄.

Thoái từ: 坤 元 亨 利 牝 馬 之 貞 君 子 有 攸 往 先 迷 後 得主 利 西 南 得 朋 東 北 喪 朋 安 貞 吉 .
Người cầm đầu có đức mềm mại, nhu thuận như con ngựa cái chỉ có hanh thông và ích lợi (ngựa cái vừa có đặc điểm của con cái là nhu thuận và vừa có đặc điểm của loài ngựa là tung hoành bốn phía). Người quân tử phải biết tung hoành ngang dọc, dù lúc đầu có lầm lạc thì sau sẽ thành công. Đến tây nam (tây là Tứ xuyên, đất Thục và nam là đất Giao Chỉ ) hội họp, về đông bắc loại bỏ mầm loạn, giữ yên bốn phía đều tốt lành.
Tổ Tiên có câu “Làm trai cho đáng nên trai. Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên.” là ý này.

Hào từ:

*Hào 1: 履 霜 堅 冰 至.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Người quân tử phải luôn cố sức tôi luyện hàng năm đức tính KHÔN của mình đến cùng.

*Hào 2: 直 方 大不 習 无 不 利.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 1. Rèn luyện (đức KHÔN) thẳng tới Đạo Đức Lớn thì dù gặp phải môi trường không quen thuộc cũng không có gì là bị bất lợi.

*Hào 3: 含 章 可 貞 或 從 王 事 无 成 有 終.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 2. Luôn rèn luyện hoặc biết rằng theo đuổi việc trở thành nhà vua dù không thành công nhưng cuối cùng cũng rèn luyện được (đức KHÔN) thẳng tới Đạo Đức Lớn.

*Hào 4: 括 囊无 咎无 譽.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Người quân tử không tung hoành giữ yên bốn phía mà sống thu mình như túi thắt miệng lại thì không tội lỗi nhưng cũng không có danh dự (như thoái từ).

*Hào 5: 黄 裳 元 吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Như cái xiêm mầu vàng thì khởi đầu tốt. Nghĩa là, mầu vàng là mầu ở giữa, người quân tử ban đầu chưa tung hoành giữ yên bốn phía được thì giữ được trung tâm cũng là sự khởi đầu tốt lành.

*Hào 6: 龍 戰 于 野 其 血 玄 黄.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. Rồng đánh nhau vì phân biệt con thì máu đen (phương bắc), con thì máu vàng (trung nguyên). Nghĩa là phải biết giữ yên và loại trừ phản loạn từ mầm mống căn nguyên như sự khác nhau về huyết thống (máu đen, máu vàng), tức là khác nhau về địa lý (phương bắc, trung nguyên).


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

2. THUẦN KHÔN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Nội quái, ngoại quái đều là Khôn.

坤 : 元, 亨, 利, 牝 馬 之 貞 . 君 子 有 攸 往 . 先 迷 後 得. 主 利 . 西 南 得 朋 . 東 北 喪 朋 . 安 貞 吉 .
Khôn: Nguyên, hanh , lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An trinh, cát.
Dịch: Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. chỉ cốt lợi ích cho vạn vật. đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng giữ đức bên vững, tốt.
Giảng : Quẻ Càn gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm. Càn “tượng” (1) trời thì không “tượng” đất. Càn cương kiện thì Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn; chỉ khác Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn; cho nên các đức nguyên, hanh, lợi, Khôn có đủ như Càn; chỉ riêng về đức trinh (chính và bền) thì Khôn hơi khác: tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng con ngựa cái để “tượng” Không: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa đực.
Cũng vì Khôn có đức thuận, cho nên khởi xướng phải là Càn, Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người quân tử nếu ở vào địa vị khôn, phải tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn, chờ người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất, chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn): “Quân tử dĩ tự cường bất tức” là bài học rút ra từ quẻ Càn.
Chu công còn khuyên đi về phía Tây Nam vì trên Hậu thiên bát quái Khôn ở phía Tây nam (có học giả hiểu là phía Tây và phía Nam) thì được bạn (hoặc được tiền bạc, vì chữ “bằng” cò thể hiểu là bằng hữu, cũng có thể hiểu là bằng bối: bối là vỏ sò ngao xưa dùng làm tiền, 1 bằng là 2 hoặc 10 bối) nếu đi về phía Đông bắc thuộc dương thì mất bạn (hoặc tiền bạc).
Được quẻ này, nến theo những lời khuyên đó mà an lòng, giữ đức bền vững thì tốt.
Câu “Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc” có người hiểu là: “Người quân tử có đi đâu thì trước lầm sau đúng”, mà không giảng tại sao lại như vậy. Hiểu như chúng tôi ở trên thì có lý hơn, làm rõ cái đạo “thuận tòng thì tốt” của Khôn. Chữ “du” ở trong kinh Dịch thường dùng như chữ “sở”
Tác giả Văn Ngôn không giảng gì thêm chỉ tóm tắt lại: Đạo Khôn là thuận theo trời mà tiến hành không ngừng.

Hào từ:

*Hào 1: 初 六: 履 霜, 堅 冰 至
Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí.
Giảng: Đây là hào âm đầu tiên trong quẻ. Âm thì lạnh, nên Chu Công ví với sương lạnh mới kết lại thì thành sương, rồi lần lần, lạnh hơn, nước sẽ đông lại thành băng. Hao này có hàm cái ý phải thận trọng từ bước đầu. Tiểu tượng truyện không giảng thêm, còn Văn ngôn truyện thì khuyên ta:
“Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc (để đến đời sau); nhà nào tích lũy điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). Như việc bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên do không ở trong một buổi sớm chiều; tất dần dà có từ lâu rồi, mà người ta không biết lo toan từ sớm vậy” (tích thiện chí gia tất hữu dư khách, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương: Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triều nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ. Do biện chi bất tảo biện dã).”
Chúng ta để ý: hào 1 quẻ Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu đức luyện tài chờ thời; còn hào 1 quẻ Khôn này. Dịch răn phải đề phòng từ đầu, nếu không sẽ gặp họa; như vậy Dịch tin ở Dương hơn đạo Âm, trọng Dương hơn Âm .

*Hào 2: 六 二: 直 方 大, 不 習 无 不 利
Lục nhị: trực phương đại, bất tập vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, âm (Đức của mình) thẳng, vuông, lớn thì chẳng phải học tập mà cũng không có gì là không lợi.
Giảng: Hào này rất tốt: thể là âm, vị cũng là âm ( hào chẳn), thế là đắc chính, cho nên bảo là có đức thẳng (trực) nó lại đắc trung, (ở giữa nội quái) cho nên bảo là vuông vức (phương) (1) nó lại ở trong quẻ Khôn, có qui mô lớn, nên chẳng cần học tập khó khăn mà hành động nào cũng hợp đạo lý.
Văn ngôn giảng thêm: người quân tử muốn như hào 2 này mà ngay thẳng ở trong lòng thì phải có đức kinh; vuông ở ngòai (khi tiếp vật) thì phải có đức nghĩa. Có hai đức kính, nghĩa đó thì sẽ không cô lập (?). Nguyên văn: “bất cô”, Chu Hi giảng là to lớn, tức có ý cho rằng: Kính thì “trực”, nghĩa thì “phương”. Có đủ kính và phương thì là “đại”. Chúng tôi hiểu theo câu: Đức bất cô, tất hữu lân” (người có đức thì không lẻ loi, tất có bạn cũng trọng đạo đức như mình (bạn đây là hào 5, ứng với 2) không biết có đúng không.

*Hào 3: 六 三: 含 章 可 貞, 或 從 王 事, 无 成 有 終
Lục tam: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
Dịch: Hào 3, âm: Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững được, có khi theo người trên mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả.
Giảng: Hào 3 là âm mà ở vào địa vị dương (lẻ), như vậy là không chính, nhưng nó vốn có đức nhu thuận của quẻ Khôn, thêm được tính cương kiện của vị dương, thì lại là tốt (đây là lẽ biến hóa của Dịch).
Nó đứng trên cùng nội quái, tức có thể có chức phận, cho nên bảo là có lúc theo bề trên làm việc nước. Nhưng nó nên nhũn, nhu thuận (đức của Khôn) chỉ làm trọn nghĩa vụ mà đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả.
Văn ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo người trên làm việc mà không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của Đất, của vợ, của bề tôi (địa đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người trên.

*Hào 4: 六 四: 括 囊, 无 咎, 无 譽.
Lục cửu: quát nang, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 4 âm: như cái túi thắt miệng lại, (kín đáo giữ gìn) thì khỏi tội lỗi mà cũng không danh dự.
Giảng: hào 4 là âm ở địa vị âm trong một quẻ tòan âm, mà không đắc trung như hào 2, ví như người quá nhu thuận, vô tài, không có chút cương cường nào. Đã vậy, mà ở sát hào 5, tức là có địa vị một đại thần, tài thấp mà địa vị cao, nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân, mặc dầu không có danh dự gì.
Hào 4 quẻ Càn cũng ở địa vị như hào này, nhưng là dương, có tài năng, nên còn có thể bay nhảy, tiến được (hoặc dược), khác nhau ở chỗ đó.
Văn ngôn cho hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương” (vì không có chút dương nào cả từ bản thể tới vị), như vậy là âm dương cách tuyệt nhau, trời đất không giao nhau (thiên địa bế), lúc đó hiền nhân nên ở ẩn (hiền nhân ẩn), rất thận trọng thì không bị tai họa.

*Hào 5: 六 五: 黄 裳, 元 吉.
Lục ngũ: hoàng thường, nguyên cát.
Dịch : hào 5, âm: như cái xiêm màu vàng, lớn, tốt (rất tốt).
Giảng Hào 5 là hào chí tôn trong quẻ , đắc trung. Tuy nó không đắc chính vì là âm mà ở vị dương; nhưng ở trong quẻ Khôn,như vậy lại tốt vì có chút cương, không thuần âm, thuần nhu, như hào 4, tức là có tài, nhưng vẫn là Khiêm nhu (vì là âm). Âm còn hàm ý văn vẻ nữa, trái với dương cương kiện là võ. Cho nên Chu Công cho là hào này rất tốt, và “tượng” bằng cái xiêm màu vàng. Vàng là màu của đất, của trung ương (hàm ý không thái quá, không bất cập) của vàng, đồng, nên người Trung Hoa thời xưa rất quí, chỉ vua chúa mới được dùng màu vàng trong y phục. xiêm là một bộ phận y phục ở phía dưới, đẹp đẽ, hàm cái nghĩa khiêm hạ, không tự tôn.
Văn ngôn bàn thêm: người quân tử có đức trung (màu vàng) ở trong mà thông suốt đạo lý, ở ngôi cao mà vẫn khiêm, tự coi mình ở thể dưới (như cái xiêm); như vậy là chất tốt đẹp ở bên trong mà phát ra bề ngòai, làm nên sự nghiệp lớn, tốt đẹp như vậy là cùng cực.
Như vậy Dịch tuy coi âm (Khôn) không quí bằng dương (Càn), nhưng có lúc coi trọng đức khiêm nhu, mà Dịch cho là đức của người văn minh. Tinh thần đó là tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Hào 5 quẻ Càn, Chu Công cho là đại quí (long phi tại thiên) nhưng chỉ bảo: “Lợi kiến đại nhân”; còn hào 5 quẻ không thì khen là”nguyên cát” hào tốt nhất trong Kinh Dịch, là có nghĩa vậy.

*Hào 6: 六 上: 龍 戰 于 野, 其 血 玄 黄.
Lục thượng: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng.
Dịch: Hào trên cùng âm : Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng.
Giảng: hào này âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ túc nhau, nhưng bản thể vẫn là ngược nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương cũng vậy ( hào 6 quẻ Càn) thì hai bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo đến đó là cùng rồi. cũng vẫn cái nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ Càn.
Văn ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền hoàng”: là sắc của trời đất, âm dương .
Cao Hanh ngờ rằng hai chữ đó [玄 黄] thời xưa dùng như hai chữ [ ] (vì đọc như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không rõ thuyết nào đúng, nhưng đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên.

*Thêm: 用 六: 利 永 貞.
Dụng lục: Lợi vĩnh trinh.
Dịch: (nghĩa từng chữ) dùng hào âm: phải (nên) lâu dài, chính và bền.
Giảng: Hai chữ “dụng lục” ở đây cũng như hai chữ “dụng cửu” ở quẻ Càn rất tối nghĩa, và câu 7 này mỗi nhà giảng một khác. Dưới đây tôi chỉ đưa ra ba thuyết:
• Thuyết của tiên nho: sáu hào âm biến ra sáu hào dương, tức Thuần khôn biến thành Thuần Càn, như một người nhu nhược biến ra một người cương cường, cho nên bảo là: phải (nên) lâu dài, chính và bền.
• Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi.
• Thuyết của Tào Thăng: Khôn thuận theo Càn cho nên gọi là lợi; Không động thì mở ra, tĩnh thì đóng lại. Cho nên bảo chính và bền, ý muốn nói: đạo Khôn đơn giản mà tác tác thành vạn vật.
Chú ý: chỉ hai quẻ Càn và Khôn là có Văn ngôn truyện, Dụng Cửu và dụng Lục; từ quẻ sau trở đi không còn những tiết đó nữa.

Thanked by 3 Members:

#2 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 25/12/2015 - 08:27

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



3. THỦY LÔI TRUÂN

Khách quái là KHẢM. Chủ quái là CHẤN.

Tượng sấm đánh xuống nước, nước không hề thay đổi, tượng của lòng chung thủy, trước sau như một.

Phạm trù: Đấu tranh sinh tồn.
Cho đối tượng: Con người.
Tên là TRUÂN (TRINH): chắc chắn, trong sạch, trinh bạch, nhất quán, chắc chắn, chỉ có một, trước sau như một, chung thủy, không thay lòng đổi dạ.
Hình tượng: Thủy chung son sắt.

Thoái từ: 屯 元 亨 利 貞 勿 用 有 攸 往 利 建 侯.
*Hào 1: 磐 桓 利 居 貞 利 建 侯 .
*Hào 2: 屯 如 邅 如 乘 馬 班 如 匪 寇 婚 媾 女 子 貞 不 字 十 年 乃 字 .
*Hào 3: 即 鹿 无 虞 惟 入 于 林 中 君 子 幾 不 如 舍 往 吝 .
*Hào 4: 乘 馬 班 如 求 婚 媾 往 吉 无 不 利 .
*Hào 5: 屯 其 膏 小 貞 吉 大 貞 凶 .
*Hào 6: 乘 馬 班 如 泣 血 漣 如 .

Thoái từ: 屯 元 亨 利 貞 勿 用 有 攸 往 利 建 侯.
Người cầm đầu nhất quán trước sau như một thì hanh thông và chỉ có lợi. Không thay lòng đổi dạ sẽ có lợi cho việc xưng vương xưng bá.

Hào Từ:

*Hào 1: 磐 桓 利 居 貞 利 建 侯 .
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. Trước sau như một, vững như bàn đá sẽ lợi khi định canh định cư, lợi cho việc xưng hầu (như thoái từ).

*Hào 2: 屯 如 邅 如 乘 馬 班 如 匪 寇 婚 媾 女 子 貞 不 字 十 年 乃 字 .
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Chung thủy và chuyên chú như người trinh nữ chờ đợi người yêu chinh chiến trở về. Người khác muốn cưỡng hôn cũng phải mất mười năm mới được.

*Hào 3: 即 鹿 无 虞 惟 入 于 林 中 君 子 幾 不 如 舍 往 吝 .
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Con hươu bị đuổi trước sau như một chỉ chạy vào giữa rừng. Người quân tử biết vậy nên không cố đuổi để mà phải hối hận (vì sẽ lạc trong rừng). Tiếp ý hào 2, tức là người quân tử sẽ không cố chiếm đoạt người trinh nữ để mà phải hối hận.

*Hào 4: 乘 馬 班 如 求 婚 媾 往 吉 无 不 利 .
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khảm. Tiếp ý hào 3, người đi chinh chiến mà trở về được để cầu hôn người trinh nữ thì thường tốt lành và không có gì là không lợi cả.

*Hào 5: 屯 其 膏 小 貞 吉 大 貞 凶 .
Hào dương. Trung vạch khách quái Khảm. Chung thủy chờ đợi mãi sắp hết thì con gái mà người chinh chiến vẫn chưa về. Lúc này nếu ít chung thủy thì lại tốt lành (như hào 2, mười năm sau thì cũng lấy chồng) , nhưng nếu quá chung thủy chờ đợi thì nguy (bị lỡ thì hoặc bị cưỡng hôn mà quá chung thủy sẽ tìm đến cái chết)

*Hào 6: 乘 馬 班 如 泣 血 漣 如 .
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khảm. Cuối đời người chinh chiến mới trở về thì người yêu hoặc đã lấy chồng hoặc đã chết thì chỉ còn hối hận mà khóc tới máu mắt chảy đầm đìa thôi.



Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



3. THỦY LÔI TRUÂN

Ngọai quái (ở trên) là Khảm, nội quái (ở dưới) là Chấn. Khảm là thủy (mà cũng là vân: mây), chấn là lội (sấm) cho nên quẻ này gọi là Thủy lôi (hoặc Vân Lôi), có nghĩa là Truân

Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn

屯 : 元, 亨, 利, 貞, 勿 用 有 攸 往, 利 建 侯 .
Truân: Nguyên, hanh, lợi , trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.
Dịch: Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).
Giảng: Thóan truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) (1) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.

Hào Từ:

*Hào 1: 磐 桓, 利 居 貞, 利 建 侯 .
Sơ cửu: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu.
Dịch: Hào 1, dương : còn dùng dằng, giữ được điều chính thì lợi, được đặt lên tước hầu (nghĩa là được giao cho việc giúp đời lúc gian truân) thì lợi.
Giảng: Như trên tôi đã nói, hào này là dương, tượng người có tài, lại đắc chính vì dương ở dương vị, cho nên giữ được điều chính và có lợi; sau cùng nó là dương mà lại dưới hai hào âm trong nội quái, có cái tượng khiêm hạ, được lòng dân. Vậy là người quân tử mới đầu tuy còn do dự, sau sẽ được giao cho trọng trách giúp đời.

*Hào 2: 屯 如 邅 如, 乘 馬 班 如, 匪 寇 婚 媾 . 女 子 貞 不 字, 十 年 乃 字 .
Lục nhị: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như. Phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.
Dịch : hào 2, âm : Khốn đốn khó khăn như người cưỡi ngựa còn dùng dằng lẫn quẩn (Nhưng hào 1 kia) không phải là kẻ cướp, chỉ là muốn cầu hôn với mình thôi. Mình cứ giữ vững chí, đừng chịu, mười năm nữa sẽ kết hôn (với hào 5).
Giảng: Hào 2, âm, vừa đắc trung lẫn đắc chính, lại ứng với hào 5 cũng đắc trung đắc chính ở trên, như vậy là tốt. Chỉ hiềm cách xa hào 5 mà lại ở sát ngay trên hào 1, dương , bị 1 níu kéo, cho nên còn ở trong cảnh truân chuyên (khó khăn). Nhưng đừng ngại, hào 1 có tư cách quân tử , không phải là kẻ xấu muốn hảm hại mình, chỉ muốn cưới mình thôi (1 là dương, 2 là âm). Đừng nhận lời, cứ giữ vững chí, mươi năm nữa sẽ kết hôn với hào 5.
Chữ tự [ 字 ] ở đây nghĩa là gả chồng. Theo kinh Lễ, con gái tới tuổi gã chồng thì cài trâm và đặt tên tự.

*Hào 3: 即 鹿, 无 虞, 惟 入 于 林 中. 君 子 幾, 不 如 舍, 往 吝 .
Lục tam: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng lận.
Dịch: Hào 3 âm: đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tíếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận.
Giảng: Hào 3 là âm, ở dương vị, bất chính bất trung; tính chất đã không tốt mà ở vào thời truân; hào 6 ở trên cũng là âm nhu không giúp được gì mình, như vậy mà cứ muốn làm càn, như người ham đuổi hươu mà không được thợ săn giúp (chặn đường con hươu, đuổi nó ra khỏi rừng cho mình bắt) thì mình cứ chạy theo con hươu mà càng vô sâu trong rừng thôi. Bỏ đi là hơn.

*Hào 4: 乘 馬 班 如 . 求 婚 媾, 往 吉, 无 不 利 .
Lục tứ: Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào 4, âm: cưỡi ngựa mà dùng dằng. Cầu bạn trăm năm (hay đồng tâm) ở dưới (ở xa) thì không gì là không tốt.
Giảng: Hào này âm nhu, đắc chính là người tốt nhưng tài tầm thường, gặp thời Truân không tự mình tiến thủ được. Tuy ở gần hào 5, muốn cầu thân với 5, nhưng 5 đã ứng với 2 rồi, thế là 4 muốn lên mà không được, như người cưỡi ngựa muốn tiến mà dùng dằng. Chu Công khuyên hào 4 nên cầu hôn với hào 1 ở dưới thì hơn: (vì 1 có tài đức) mà cùng nhau giúp đời, không gì là không lợi.
Chúng ta để ý: cặp 5-2 rất xứng nhau, cả hai đều đắc chính, đắc trung, rất đẹp, cặp 4-1 không đẹp bằng: 4 bất trung, kém 2; cho nên phải kết hợp với 1 ở dưới, 1 tuy ở dưới mà đắc chính, như vậy là xứng đôi. Đó là luật: “dĩ loại tụ”, họp với nhau thì phải xứng nhau, đồng tâm, đồng đạo.

*Hào 5: 屯 其 膏; 小 貞 吉, 大 貞 凶 .
Cửu ngũ: Truân kì cao; tiểu trinh cát, đại trinh hung
Dịch: Hào 5, dương: Ân trạch không ban bố được (nguyên văn: dầu mỡ (cao) không trơn (truân), chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, việc lớn thì xấu.
Giảng: Hào cửu ngũ này vừa chính vừa trung, ở địa vị chí tôn, đáng lẽ tốt; nhưng vì ở trong thời gian truân (quẻ Truân) lại ở giữa ngọai quái là Khảm, hiểm, nên chỉ tốt vừa thôi. Hào 2 tuy ứng với nó nhưng âm nhu , không giúp được nhiều; lại thêm hào 1 ở dưới, có tài đức, được lòng dân, uy quyền gần như lấn 5, mà ân trạch của 5 không ban bố khắp nơi được. Cho nên 5 phải lần lần chỉnh đốn các việc nhỏ đã, đừng vội làm việc lớn mà hỏng.
Nghĩa là tuy có tài đức, có địa vị, nhưng cũng phải đợi có thế có thời nữa.

*Hào 6: 乘 馬 班 如, 泣 血 漣 如 .
Thượng lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như.
Dịch: Hào trên cùng âm. Cưỡi ngựa mà dùng dằng, khóc tới máu mắt chảy đầm đìa.
Giảng: Hào này ở trên cùng, là thời gian truân tới cực điểm. Nếu là hào dương (có tài trí) thì gian truân cùng cực sẽ biến thông; nhưng hào này là hào âm, bất tài, bất trí, nhu nhược, chỉ biết lên lưng ngựa rồi mà vẫn dùng dằng mà khóc đến chảy máu mắt (Hào tuy ứng với hào 6 nhưng cũng âm nhu, chẳng giúp được gì.)

*Thêm:
Đọc xong ba quẻ đầu này chúng ta cũng đã thấy: thể của hào chỉ cò: âm và dương, vị của hào chỉ có 6: từ hào sơ đến hào thượng; nhưng ý nghĩa mỗi hào rất thay đổi, tùy ý nghĩa của trọn quẻ, cho nên hào 1 dương quẻ Càn không giống hào 1 dương quẻ Truân; hào 5 dương quẻ Truân cũng không giống hào 5 dương quẻ Càn; hào 2 âm quẻ Khốn không giống hào đó quẻ Truân, hào 6 âm quẻ Truân cũng không giống hào đó qủe khôn. ý nghĩa của quẻ quyết định ý nghĩa của hào, nói cách khác: quẻ là cái thời chung của các hào, mà hào là mỗi việc, mỗi hoàn cảnh trong thời chung đó.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



4. SƠN THỦY MÔNG

Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Khảm (nước)

Tượng nước dâng ngập núi. Tượng cho sự mênh mông của nước và sự mỏng manh của con người trong thiên tai, lũ lụt.

Phạm trù: Đấu tranh sinh tồn.
Cho đối tượng: Con người.
Tên là MÔNG (MỎNG): mỏng manh, mong manh, nhẹ nhàng, hay thay đổi, trước sau bất nhất.
Hình tượng: Trứng để đầu đẳng (đẳng: bàn gỗ nhỏ, cao, thường dùng làm bàn thờ).

Thoán từ: 蒙 亨 匪我 求 童 蒙 童 蒙 求 我 初 筮 告 再 三 瀆 瀆 則 不 告 利 貞 .
*Hào 1: 發 蒙 利 用 刑 人 用 說 桎 梏 以 往 吝.
*Hào 2: 包 蒙 吉 納 婦 吉 子 克 家 .
*Hào 3: 勿 用 取 女 見 金 夫 不 有 躬, 无 攸 利.
*Hào 4: 困 蒙 吝 .
*Hào 5: 童 蒙 吉 .
*Hào 6: 擊 蒙 不 利 為 寇 利 禦 寇.

Thoán từ: 蒙 亨 匪我 求 童 蒙 童 蒙 求 我 初 筮 告 再 三 瀆 瀆 則 不 告 利 貞 .
Ngây thơ, mông muội chỉ hanh thông khi ta làm như là trẻ thơ, mới vừa thề thốt nhiều lần, sau đã thay đổi được ngay. Thay đổi phép tắc mà không phải bố cáo (âm thầm thay đổi, nhẹ nhàng thay đổi) mà được thì chỉ có lợi.

Hào từ :

*Hào 1: 發 蒙 利 用 刑 人 用 說 桎 梏 以 往 吝.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khảm. Làm cho người khác ngu dại (chính sách ngu dân) để hành hạ họ hoặc bắt buộc họ phải theo mình thường sẽ phải hối hận.

*Hào 2: 包 蒙 吉 納 婦 吉 子 克 家 .
Hào dương. Trung vạch chủ quái Khảm. Trong gia đình biết bao dung tính thất thường, hay thay đổi thì tốt, nó sẽ làm cho người vợ tốt thêm mà con cái có được mái ấm gia đình che chở.

*Hào 3: 勿 用 取 女 見 金 夫 不 有 躬, 无 攸 利.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khảm. Chớ lấy người phụ nữ chỉ biết mê tiền của đàn ông, sẽ chẳng có lợi gì cả.

*Hào 4: 困 蒙 吝 .
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Để bị khốn cùng vì ngu muội thì sau sẽ hối tiếc

*Hào 5: 童 蒙 吉 .
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Ngây thơ như trẻ con thì tốt lành (như thoái từ).

*Hào 6: 擊 蒙 不 利 為 寇 利 禦 寇.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Trừ bỏ dục vọng sẽ không có lợi vì dùng kẻ cướp chống cự lại kẻ cướp thì lại rất có lợi.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



4. SƠN THỦY MÔNG

Trên là Cấn (núi) dưới là Khảm (nước)

Quẻ số 3 là Truân, lúc vạn vật mới sinh. Lúc đó vạn vật còn non yếu, mù mờ, cho nên quẻ 4 này là Mông. Mông có hai nghĩa: non yếu và mù mờ
Thoán từ :

蒙: 亨, 匪我 求 童 蒙, 童 蒙 求 我 .
初 筮 告, 再 三 瀆, 瀆 則 不 告 .利 貞 .
Mông: Hanh, Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã.
Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh.
Dịch: trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công).
Giảng : Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông.
Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng mông”, cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu).
Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông.
Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công.

Hào từ :

*Hào 1: 初 六: 發 蒙, 利 用 刑 人, 用 說 桎 梏, 以 往 吝.
Sơ lục: phát mông, lợi dụng hình nhân, Dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận.
Dịch: Hào 1, âm: mở mang cái tối tăm (cho hạng người hôn ám) thì nên dùng hình phạt cốt cho họ thoát khỏi gông cùm, nhưng đừng đi quá mức sẽ hối tiếc.
Giảng: Hào âm này vị ở thấp nhất trong quẻ Mông là tượng kẻ hôn ám nhất, phải dùng hình phạt trừng trị mới cởi cái gông cùm (vĩ vật dục) cho họ được; khi có kết quả rồi thì thôi, đừng quá dùng hình phạt mà sẽ ân hận.
Chữ : "dụng hình nhân", dịch sát là dùng người coi về hình, tức dùng hình phạt.

*Hào 2: 九 二 . 包 蒙 吉 . 納 婦 吉 . 子 克 家 .
Cửu nhị: Bao mông cát, nạp phụ cát, tử khắc gia.
Dịch: Hào, dương: Bao dung kẻ mờ tối, dung nạp hạng người nhu ám như đàn bà, tốt; (ở ngôi dưới mà gánh vác việc trên) như người con cai quản được việc nhà.
Giảng: Hào 2 dương, cương cường, nhưng đắc trung cho nên bảo là có đức bao dung; nó làm chủ nội quái, thống trị cả bốn hào âm, cho nên bảo nó dung nạp được các hào âm, tức hạng người nhu ám như đàn bà, nó ở dưới thấp mà lại là hào quan trọng nhất trong quẻ, nên ví nó như người con cai quản được việc nhà. Tóm lại hào này tốt.
Phan Bội Châu giảng ba chữ “tử khắc gia”cách khác: Cụ cho hào 5 ở địa vị tôn trong quẻ trên (ngoại quái) tức như cha trong nhà, hào 2 ở dưới, tức như con. Cha nhu nhược (vì là âm), con cương cường sáng suốt (vì là dương), cảm hóa được cha mà cha hết hôn ám, như vậy là con chỉnh lý được việc nhà.
Cao Hanh chỉ đứng về phương diện bói, mà không đứng về phương diện đạo lý, không cho Kinh Dịch có ý nghĩa triết lý, xử thế, cho nên hiểu khác hẳn: giảng “nạp phụ” là cưới vợ cho con “tử khắc gia” là con thành gia thất, đó là cái việc tốt của người làm bếp mắt không có đồng tử (bao mông, theo ông là : bào mông, bào là người làm bếp, mông là mắt không có đồng tử). Đại khái cách hiểu của Cao Hanh như vậy, xin đơn cử làm thí dụ.

*Hào 3: 六 三: 勿 用 取 女 見 金 夫 .
不 有 躬, 无 攸 利.
Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu.
Bất hữu cung, vô du lợi.
Dịch : hào 3, âm: đừng dùng hạng con gái thấy ai có vàng bạc là (theo ngay) không biết thân mình nữa; chẳng có lợi gì cả.
Giảng: Hào 3 là âm nhu (ở trong quẻ Mông, là hôn ám) bất trung, bất chính, cho nên ví với người con gái không có nết, bất trinh, ham của. Mà hạng tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa cũng vậy (âm còn có nghĩa là tiểu nhân). Phan Bội Châu cho hào này xấu nhất; hạng người nói trong hào không đáng dùng, không đáng giáo hóa nữa.

*Hào 4: 六 四 : 困, 蒙, 吝 .
Lục tứ : Khốn, mông, lận.
Dịch: Hào 4, âm: Bị khốn trong vòng hôn ám, hối tiếc.
Giảng: Quẻ Mông chỉ có hào 2 và 6 là dương cương, có thể cởi mở sự hôn ám được, còn hào 4 kia đều là âm hết. Hào 4 này cũng hôn ám như hào 3, nhưng còn tệ hơn hào 3 vì ở xa hào 2 dương (hào 3 còn được ở gần hào 2 dương ), mà chung quanh đều là âm hết (hào 3 và hào 5), như bị nhốt trong vòng hôn ám, tất bị khốn sẽ phải hối tiếc, xấu hổ.
Tiểu tượng truyện giảng: nó phải hối tiếc, xấu hổ vì chỉ một mình nó trong số bốn hào âm là ở xa các hào “thực” tức các hào dương. Hào dương là nét liền, không khuyết ở giữa, nên gọi là “thực” (đặc, đầy) hào âm là vạch đứt, khuyết ở giữa nên gọi là “hư” ; “thực” tượng trưng người có lương tâm “hư” tượng người không có lương tâm.

*Hào 5: 六 五: 童 蒙 吉 .
Lục ngũ: Đồng mông cát.
Dịch: Hào 5, âm: Bé con, chưa biết gì (nhưng dễ dạy), tốt.
Giảng: hào 5 này là hào âm tốt nhất như chúng tôi đã nói khi giảng Thóan từ của Văn Vương, vì nó có đức nhu (âm) trung (ở giữa ngọai quái), lại ứng với hào 2 cương ở dưới, có thể ví nó với đứa trẻ dễ dạy, biết nghe lời thầy (hào 2).
Phan Bội Châu coi hào này như ông vua (vì ở ngôi cao quí nhất trong quẻ) biết tín nhiệm hiền thần (hào 2).

*Hào 6: 上 九: 擊 蒙 不 利 為 寇 , 利 禦 寇.
Thượng cửu: Kích mông bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
Dịch : Hào trên cùng, dương : phép trừ cái ngu tối mà nghiêm khắc quá thì kẻ mình dạy dỗ sẽ phẫn uất, có thể thành giặc, như vậy không có lợi, ngăn ngừa giặc ở ngoài (tức những vật dục quyến rũ kẻ đó) thì có lợi.
Giảng: Hào này ở trên cùng quẻ Mông, có nghĩa sự ngu tối tới cùng cực; nó là dương, ở trên cùng, mà bất trung, cho nên tuy có tài mở mang sự ngu tối nhưng quá nghiêm khắc, làm cho kẻ ngu tối phẫn uất, phản kháng, bất tuân giáo hóa, có thể thành giặc, có hại (chữ “khấu có cả hai nghĩa: giặc, có hại), nên tìm cách ngăn ngừa những vật dục quyến rũ nó thì hơn; mà “cả thầy lần trò đều thuận đạo lý (thượng hạ thuận dã, Tiểu tượng truyện).

*Thêm:
Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà nên ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).

Thanked by 1 Member:

#3 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 25/12/2015 - 18:25

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



5. THỦY THIÊN NHU

Khách quái là Khảm (nước). Chủ quái là Càn (trời)

Tượng nước trên trời, mây mù, mây mưa, trời mưa.

Phạm trù: Đối nhân.
Cho đối tượng: Dân chúng.
Tên là NHU: Hòa thuận, nhu mì, mưa móc, mềm mại.
Hình tượng: Mưa móc.

Thoán từ: 需 有 孚 光 亨 貞 吉 利 涉 大 川 .
*Hào 1: 需 于 郊 利 用 恆 无 咎 .
*Hào 2: 需 于 沙 小 有 言 終 吉 .
*Hào 3: 需 于 泥 致 寇 至.
*Hào 4: 需 于 血 出 自 穴 .
*Hào 5: 需 于 酒 食 貞 吉 .
*Hào 6: 入 于 穴 有 不 速 之 客 三 人 來 敬 之 終 吉 .

Thoán từ: 需 有 孚 光 亨 貞 吉 利 涉 大 川 .
Vừa hòa thuận vừa tin tưởng nhau thì cùng nhau rạng rỡ, hanh thông và chỉ có tốt lành. Lợi khi vượt sông lớn (thực hiện các việc khó khăn, trọng đại).

Hào từ:

*Hào 1: 需 于 郊 利 用 恆 无 咎 .
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Luôn hòa thuận với người hàng xóm láng giềng sẽ có lợi mà chẳng có lỗi gì.

*Hào 2: 需 于 沙 小 有 言 終 吉 .
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Hòa thuận với cả những người nhỏ nhen, hẹp hòi thì sẽ có cãi nhau nhỏ, nhưng chung cuộc sẽ tốt.

*Hào 3: 需 于 泥 致 寇 至.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Hòa thuận với cả những người mềm yếu thì không lo bị cướp.

*Hào 4: 需 于 血 出 自 穴 .
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khảm. Người nữ khi hòa thuận hết lòng sẽ xuất qua cái lỗ của mình (giao hòa, giao hợp).

*Hào 5: 需 于 酒 食 貞 吉 .
Hào dương. Trung vạch khách quái Khảm. Hòa thuận như ăn với uống thì chỉ có tốt lành.

*Hào 6: 入 于 穴 有 不 速 之 客 三 人 來 敬 之 終 吉 .
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khảm. Hòa thuận phải như ba người khách đi đường gặp chỗ hiểm trở không đi được đành ngồi lại với nhau mà vẫn kính trọng và tin tưởng nhau thì chung cuộc mới tốt (như thoái từ).



Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



5. THỦY THIÊN NHU

Trên là Khảm (nước), dưới là Càn (trời)

Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.
Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.

Thoán từ :

需: 有 孚, 光 亨, 貞, 吉 . 利 涉 大 川 .
Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát. Lợi thiệp đại xuyên.

Dịch: Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.
Giảng: Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.
Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công.
Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ “ăn uống yến lạc” (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.

Hào từ:

*Hào 1: 需 于 郊, 利 用 恆 , 无 咎 .
Sơ cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.

Dịch: Hào 1 là dương, cương kiện, sáng suốt mà ở xa ngoại quái là Khảm, tức xa nước, xa chỗ hiểm (cũng như còn ở ngòai thành, không gần sông nước), đừng nóng nảy xông vào chỗ hiểm nạn, cứ chịu chờ đợi thì không có lỗi. Chu Công khuyên như vậy vì hào dương này không đắc trung mà có ý muốn tiến.

*Hào 2: 需 于 沙 , 小 有 言 , 終 吉 .
Cửu nhị: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát.

Dịch: Hào 2, dương: Đợi ở bãi cát, tuy có khẩu thiệt một chút, nhưng sau sẽ tốt.
Giảng: Hào này đã gần quẻ Khảm hơn, ví như đã tới bãi cát ở gần sông, chưa tới nỗi sụp hiểm; mà hào lại đắc trung, cho nên tuy là dương cương mà biết khôn khéo, ung dung, không nóng nảy như hào 1, cho nên dù có điều tiếng nho nhỏ, rốt cuộc cũng vẫn tốt.

*Hào 3: 需 于 泥 . 致 寇 至.
Cửu tam: Nhu vu nê, trí khấu chí.

Dịch: Hào 3, dương : đợi ở chỗ bùn lầy, như tự mình vời giặc đến.
Giảng: Hào này đã ở sát quẻ Khảm, tuy chưa sụp xuống nước, nhưng đã ở chỗ bùn lầy rồi; thể của nó là dương cương, vị của nó cũng là dương, mà lại không đắc trung, có cái “tượng rất táo bạo nóng nảy, làm càn, tức như tự nó vời giặc đến, tự gây tai họa cho nó. Nếu nó biết kính cẩn, thận trọng thì chưa đến nỗi nào, vì tai họa vẫn còn ở ngoài (ở ngoại quái) (theo tiểu tượng truyện).

*Hào 4: 需 于 血, 出 自 穴 .
Lục tứ: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt.

Dịch: Hào 4, âm: như đã chờ đợi ở chỗ lưu huyết mà rồi ra khỏi được.
Giảng: hào này đã bắt đầu vào quẻ Khảm, tức chỗ hiểm (như vào chỗ giết hại), nhưng nhờ nó là âm, nhu thuận lại đắc chính (ở vị âm) , nên tránh được họa.

*Hào 5: 需 于 酒 食, 貞 吉 .
Cửu ngũ: Nhu vu tửu thực, trinh cát.

Dịch: Hào 5, dương: Chờ đợi ở chỗ ăn uống no say (chỗ yên vui), bền giữ đức trung chính thì tốt.
Giảng: Hào 5, địa vị tôn quí, mà là dương cương trung chính, cho nên tốt, nhưng muốn hạnh phúc được bền thì phải giữ đức trung chính.

*Hào 6:. 入 于 穴 , 有 不 速 之 客 三 人 來 , 敬 之 , 終 吉 .
Thượng lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát.

Dịch: Hào trên cùng, âm: Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thủng thẳng tới, biết kính trọng họ thì sau đựơc tốt lành.
Giảng: Hào này ở trên cùng ngọai quái là Khảm, cho nên bảo là chỗ cực hiểm. Nó có hào 3 ở dưới ứng với nó, hào 3 là dương , kéo theo cả hào 1 và 2 cũng là dương, cho nên nói là có 3 người khách sẽ tới; họ không tới ngay được vì họ ở xa hào 6, cho nên nói là họ thủng thẳng sẽ tới.
Hào 6 âm, có đức Khiêm, nhu thuận, biết trong và nghe theo ba vị khách đó, cho nên cuối cùng sẽ được họ cứu ra khỏi chỗ hiểm mà được tốt lành.

*Thêm:
Tiểu tượng truyện: bàn thêm: Tuy hào 6 không xứng vị (bất đáng vị), nhưng không đến nỗi thất bại lớn.
Chu Hi hiểu chữ “vị” đó , là ngôi chẵn (âm vị) ; hào âm ở âm vị, là “đáng” chứ sao lại “bất đáng”, cho nên ông bảo là :”chưa hiểu rõ” (vị tường).
Phan Bội Châu hiểu chữ “vị” là ngôi cao hay thấp; hào 6 ở trên cùng, tức là ngôi cao nhất, mà là âm nhu, bất tài, cho nên bảo “bất đáng” là phải .

Quẻ này chỉ cho ta cách xử thế khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay ở xa, cốt nhất là đừng nóng nảy, mà phải giữ trung chính. Chúng ta để ý: hào 5 ở giữa quẻ Khảm, tức giữa cơn nguy hiểm mà Chu Công vẫn cho là tốt chỉ vì hào đó cương mà trung chính, nghĩa là cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.


----------------------------------------------------------------

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



6. THIÊN THỦY TỤNG

Khách quái là Càn (trời). Chủ quái là Khảm (nước).

Tượng không khí trong nước, là nước sục sôi, nước thể lỏng chuyển sang thể khí.

Phạm trù: Đối nhân.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là TỤNG: Sục sôi, tự vấn, trách phạt, tranh chấp, kiện tụng, khen ngợi.
Hình tượng: Nước đang sôi.


Thoán từ: 訟 有 孚 窒, 惕 中 吉 終 凶 利 見 大 人 不 利 涉 大 川.
*Hào 1: 不 永 所 事 小 有 言 終 吉 .
*Hào 2: 不 克 訟 歸 而 逋 其 邑 人 三 百 戶 无 眚.
*Hào 3: 食 舊 德 貞 厲 終 吉 或 從 王 事 无 成.
*Hào 4: 不克 訟 復 即 命 渝 安 貞 吉 .
*Hào 5: 訟 元 吉 .
*Hào 6: 或 錫 之 鞶 帶 終 朝 三 褫 之.

Thoán từ: 訟 有 孚 窒, 惕 中 吉 終 凶 利 見 大 人 不 利 涉 大 川.
Tranh chấp, kiện tụng làm cho nửa tin, nửa ngờ, biết lo sợ thì trong cuộc tốt nhưng cuối cùng vẫn nguy. Sục sôi, hỗn loạn thì lợi cho xưng vương, xưng bá nhưng bất lợi khi cần đồng tâm hiệp lực để vượt sông lớn (thực hiện việc khó khăn, việc lớn) .

Hào từ:

*Hào 1: 不 永 所 事 小 有 言 終 吉 .
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khảm. Không nên kéo dài sự việc xẩy ra, cố gắng mềm mỏng nói chuyện thì cuối cùng sẽ tốt. Tức là không nên “việc bé mà xé ra to”, nên trao đổi nói chuyện với nhau trước khi đưa ra tòa phân xử là tốt nhất.

*Hào 2: 不 克 訟 歸 而 逋 其 邑 人 三 百 戶 无 眚.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Khảm. Không muốn tranh chấp kiện tụng thì về mà trốn ở ấp của mình, nếu ấp khoảng ba trăm hộ thì không có tai vạ gì. Tức là nếu ấp quá ba trăm hộ hay quá đông người thì lại có kiện tụng ở chính ấp của mình. Còn ít người quá thì lại không có khả năng ẩn nấp, trốn tránh.

*Hào 3: 食 舊 德 貞 厲 終 吉 或 從 王 事 无 成.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khảm. Giữ vững đức trong sạch trong lúc gian nan, khó nhọc hoặc thực hiện việc của nhà vua không thành thì cuối cùng sẽ tốt. Tức là lúc khó khăn, gian nan hay việc quan không thành thì chắc chắn sẽ bị trách phạt hay kiện tụng, nếu giữ vững tấm lòng trong sạch thì chung cuộc sẽ tốt.

*Hào 4: 不克 訟 復 即 命 渝 安 貞 吉 .
Hào dương. Hạ vạch khách quái Càn. Đáng khen thay cho bậc quân tử không tranh giành, biết tuân theo mệnh trời thì thật yên ổn và tốt lành.

*Hào 5: 訟 元 吉 .
Hào dương. Trung vạch khách quái Càn. Người cầm đầu nếu biết tự vấn chính mình thì sẽ tốt lành. Tức là với bất kỳ thời đại nào, với bất kỳ người nào việc kiện tụng tranh chấp cũng đề là biểu hiện của sự không tốt lành, chỉ có kiện tụng, tranh chấp với chính mình, biết tự vấn, tự phê bình để làm mình tốt lên thì mới có tốt lành, nhất là những người cầm đầu dẫn dắt quần chúng biết như thế thì mới xưng bá, xưng vương được.

*Hào 6: 或 錫 之 鞶 帶 終 朝 三 褫 之.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. Tiếp ý hào 5, hoặc như may mà được cái đai lớn (của quan chức, phong chức lớn) thì trong một buổi sáng phải cởi ra ba lần (tự vấn xem mình có xứng đáng với chức vụ không ba lần trong một buổi sáng).



Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



6. THIÊN THỦY TỤNG

Trên là Càn (trời), dưới là Khảm (nước) ngược hẳn với quẻ 5.

Tự quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo)
Thoán từ:

訟 . 有 孚 , 窒, 惕 . 中 吉 . 終 凶 . 利 見 大 人 . 不 利 涉 大 川.
Tụng: Hữu phu, trất, dịch. Trung cát, chung hung
Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch). Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi.
Giảng: Theo tượng quẻ này có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây ra kiện cáo.
Thoán từ của Chu Công không hiểu hai cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu.
Quẻ khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.
Đại tượng truyện đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm (nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.

Hào từ:

*Hào 1: 初 六: 不 永 所 事 , 小 有 言 , 終 吉 .
Sơ lục: Bất vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát.
Dịch: Hào 1 âm: đừng kéo dài (vụ kiện) làm gì, tuy bị trách một chút, nhưng sau được tốt.
Giảng: Hào 1, âm nhu ở dưới, được hào 4 cương kiện ở trên ứng viện, tức là có chỗ dựa; nhưng đừng nên ỷ thế sinh sự kéo dài vụ kiện; có bị trách một chút thì cũng thôi, kết quả được biện minh, thế là tốt.

*Hào 2: 九 二: 不 克 訟 , 歸 而 逋. 其 邑 人 三 百 戶, 无 眚.
Cửu nhị: Bất khắc tụng, qui nhi bô. Kì ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh.
Dịch: Hào 2, dương : không nên kiện, lui về mà tránh đi, ấp mình chỉ có ba trăm nóc nhà thôi (ý nói địa vị mình thấp, thế mình nhỏ), như vậy thì không bị họa.
Giảng: Trong phần I, chương IV, chúng tôi đã nói: các hào ứng với nhau (1 với 4, 2 với 5, 3 với 6) phải một dương một âm thì mới có “tình” với nhau, mới đứng vào một phe, viện trợ nhau, tức trường hợp hào 1 và hào 4 quẻ này; nếu cả hai cùng là dương hay là âm thì tuy ứng nhau đấy, nhưng có thể kị nhau, cũng như hào 2 và hào 5 quẻ này. Hai hào này đều là dương cả, cho nên coi là địch nhau, đứng vào hai phe ở trong quẻ tụng (kiện cáo).
Hào 2 ở dưới, trung chứ không chính, ở giữa nội quái là Khảm (hiểm) lại bị hai hào âm 1 và 3 vậy, nên thế yếu, muốn kiện hào 5 (vì 2 có tính dương cương) nhưng thế không địch nổi, vì 5 trung , chính lại ở ngôi cao. Dưới kiện trên khác gì trứng chọi đá, không nên, thà rút lui về, tránh đi còn hơn, như vậy không bị tội lỗi.
Tiểu tượng truyện còn dặn thêm: nếu dưới mà kiện trên, tai họa tới là tự mình vơ lấy đấy: hoạn chí xuyết (cũng đọc là chuyết, là đoát) dã:
Phan Bội Châu giảng hào này, dẫn việc Nguyễn Hoàng muốn kình với Trịnh Kiểm (sự thực Trịnh Kiểm muốn hại Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng sợ), cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đáp: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, có ý khuyên nên trốn tránh vào Nam cho thoát nạn; đó là ý nghĩa ba chữ “qui nhi bô” trong hào này.

*Hào 3: 六 三 : 食 舊 德, 貞 厲, 終 吉 . 或 從 王 事 , 无 成.
Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ,
Chung cát; hoặc tòng vương sự, vô thành.
Dịch: Hào 3 âm, Cứ (yên ổn) hưởng cái đức (ân trạch) cũ của mình (Chu Hi hiểu là giữ cái nếp cũ), ăn ở cho chính đáng mà thường để lòng lo sợ thì kết quả sẽ tốt; nếu phải đi theo làm với người trên (chữ vương ở đây trở người trên, không nhất định là vua), thì cũng đừng mong thành công.
Giảng: Hào 3 đã âm nhu lại bất chính (vì hào âm mà ở ngôi dương, ở chông chênh trên cùng quẻ Khảm (hiểm), chung quanh đều là kẻ thích gây sự, kiện cáo (vì hào 2 và 4 đều là dương), cho nên 3 thường phải lo sợ (lệ), nếu hiểu vậy mà biết giữ gìn thì rốt cuộc sẽ yên ổn.
Hào 3 có hào 5 ở trên ứng và có “tình” với mình, 6 là dương cương lại là bề trên (ngôi cao), nên có khi lôi kéo 3 theo nó; trong trường hợp đó, 3 nên an phận thủ thường, cứ phục tùng 6, đừng mong thành công (chẳng hạn 6 muốn đứng ra kiện, kéo 3 theo thì 3 chỉ nên giúp 6 lấy lệ thôi, đừng ham lập công).

*Hào 4: 九 四 : 不克 訟 , 復 即 命, 渝 , 安 貞 吉 .
Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát.
Dịch: Hào 4, dương : không thể kiện cáo được, trở lại theo thiên mệnh (lẽ chính đáng), đổi ý đi, ở yên theo điều chính thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương mà bất trung, bất chính, “tượng” một người ham kiện cáo. Nhưng không thể kiện ai được: kiện 5 thì 5 ở trên mình, ngôi tôn, không dám kiện; kiện 3 thì 3 nhu thuận, chịu thua trứơc rồi; kiện 2 thì 2 vừa cương, chính , trung, sáng suốt, đã tiên liệu rồi, không chịu kiện; còn 1 thì đã về phe với 4. Đành phải bỏ ý ham kiện đi, theo lẽ phải, ở yên, giữ điều chính, như vậy thì tốt.

*Hào 5: 九 五 : 訟, 元 吉 .
Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát.
Dịch: Hào 5 dương : xử kiện hay đi kiện, đều rất tốt.
Giảng : Hào 5 này ở ngôi chí tôn, cương mà minh, trung và chính. Nếu là người xử kiện thì là bậc có đức, có tài (như Bao Công); nếu là người đi kiện thì gặp đựơc quan tòa có đức, có tài. Không gì tốt bằng.

*Hào 6: 上 九 : 或 錫 之 鞶 帶 , 終 朝, 三 褫 之.
Thượng cửu: hoặc tích chi bàn đái, chung triêu, tam sỉ chi.
Dịch: hào trên cùng, dương : (kiện ) may mà được cái đai lớn (của quan chức) thì trong một buổi sáng sẽ bị cướp ba lần.
Giảng: Hào dương này ở trên cùng quẻ Tụng là kẻ rất thích kiện, kiện tới cùng. Nó ở ngôi 6 là bất chính, cho nên dù có may ra được kiện, thì chẳng bao lâu cũng sẽ mất hết, rốt cuộc vẫn không lợi.

*Thêm:
Quẻ tụng này ý nghĩa các hào rất nhất trí, sáng sủa.
Trước sau chỉ là răn người ta đừng ham tranh nhau kiện cáo: hào 3 không kiện với ai, tốt; hào 2 muốn kiện mà sau thôi không kiện, cũng tốt; hào 1 bị kiện thì nên nhường nhịn một chút, rốt cuộc sẽ tốt, duy có hào 6 bằng kiện tới cùng thì dù có thắng, cũng hóa xấu.
Còn hào 5 diễn cái ý: có một Tòa án công minh thì phục cho dân biết bao.

Sửa bởi binhlq: 25/12/2015 - 18:53


Thanked by 1 Member:

#4 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 25/12/2015 - 21:40

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



7. ĐỊA THỦY SƯ

Khách quái là Khôn (đất). Chủ quái là Khảm (nước).

Tượng nước chứa đất, nước đục. Tượng cho sự đông đúc về người.

Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Người ở kinh đô.
Tên là SƯ: Kinh sư, đông đúc, bên trong, trung tâm, ở giữa.
Hình tượng: Trung tâm của đất nước.

Thoán từ: 師 貞 丈 人 吉 无 咎 .
*Hào 1: 師 出 以 律 否 臧 凶 .
*Hào 2: 在 師 中 吉 无 咎 王 三 錫 命 .
*Hào 3: 師 或 輿 尸 凶 .
*Hào 4: 師 左 次 无 咎 .
*Hào 5: 田 有 禽 利 執 言 无 咎 長 子 帥 師 弟 子 輿 尸貞 凶 .
*Hào 6: 大 君 有 命 開 國 承 家 小 人 勿 用 .

Thoán từ: 師 貞 丈 人 吉 无 咎 .
Ở Kinh sư người già đã từng trải, nhiều kinh nghiệm thì tốt lành và không có lỗi. Tức là Kinh sư không phải đất dụng võ cho những người còn non trẻ, tràn đầy sinh lực, đất dụng võ của người này là biên cương như hào 4 của chồng quái THỦY ĐỊA TỈ quảng diễn.

Hào từ:

*Hào 1: 師 出 以 律 否 臧 凶 .
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khảm. Kinh sư, nơi tập trung đông người cần tạo ra luật lệ phép tắc chung cho mọi người, nếu không sẽ tiềm tàng hung hiểm.

*Hào 2: 在 師 中 吉 无 咎 王 三 錫 命 .
Hào dương. Trung vạch chủ quái Khảm. Ở tại Kinh sư, giữa sự tốt lành và không có xấu xa các đời vua sẽ luân phiên truyền nhau (truyền mệnh hay truyền hiền là các nối ngôi từ thời cổ xưa).

*Hào 3: 師 或 輿 尸 凶 .
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khảm. Kinh sư hay nơi đông người mà chỉ “ăn không ngồi rồi” (ngồi không, chẳng biết làm gì) thì thật nguy hiểm. Có câu “nhàn cư vi bất thiện” là ở chỗ này.

*Hào 4: 師 左 次 无 咎 .
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Kinh sư nên lấy bên tả mà xếp bày thì không có lỗi. Tức là bên tả là Thanh long, là văn, nghĩa là ở Kinh sư nên lấy văn hóa mà giáo hóa thì được.

*Hào 5: 田 有 禽 利 執 言 无 咎 長 子 帥 師 弟 子 輿 尸貞 凶 .
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Đồng ruộng có quá nhiều chim chóc thì lợi hại không cần phải nói. Ở Kinh sư mà con trưởng lại thống lĩnh quá nhiều con em “ăn không ngồi rồi” (như hào 3 và thoái từ) thì chỉ có nguy.

*Hào 6: 大 君 有 命 開 國 承 家 小 人 勿 用 .
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. Kinh sư là đất ở đương nhiên của các vị vua có mệnh khai quốc, người dân (tiểu nhân) chớ nghĩ là mình cũng vậy. Tức là là người dân là dân của cả nước nên chỗ ở là toàn bộ đất nước chứ không phải tập trung về Kinh sư để ngồi không rồi làm loạn (như hào 3 đã nói).




Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



7. ĐỊA THỦY SƯ

Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho nên sau quẻ Tụng tới quẻ Sư – Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân đội.
Thoán từ:

師: 貞 , 丈 人 吉 , 无 咎 .
Sư : Trinh, trượng nhân cát, vô cữu.
Dịch: quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi.
(Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức)
Giảng: Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng:
- Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.
- Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).
- Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia).
Thoán truyện giảng: xuất quân là việc nguy hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh chính), để trừ bạo an dân thì dân sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ mình, mình sai khiến được, thì sẽ tốt, lập được nghiệp vương thống trị thiên hạ, không có tội lỗi.

Hào từ:

*Hào 1: 初 六 : 師, 出 以 律 , 否 臧, 凶 .
Sơ lục: sư, xuất dĩ luật, phủ tàng, hung
Dịch: Hào 1, âm: Ra quân thì phải có kỷ luật, không khéo (chữ phủ tàng nghĩa là bất thiện ) thi xấu.
Giảng: Đây là bước đầu ra quân, phải cẩn thận, có kỷ luật nghiêm nhưng khéo để khỏi mất lòng dân, quân.

*Hào 2: 九 二 : 在 師, 中, 吉, 无 咎 , 王 三 錫 命 .
Cửu nhị: Tại sư, trung, cát, vô cữu, vương tam tích mệnh.
Dịch: Hào 2 dương: Trong quân, có đức trung thì tốt, không tội lỗi, được vua ba lần ban thưởng.
Giảng: Hào này là hào dương độc nhất trong quẻ, thống lĩnh quần âm. Nó đắc cương , đắc trung, lại được hào 5, âm ở trên ứng thuận với nó, như một vị nguyên thủ giao toàn quyền cho một vị tướng. Nhờ nó đắc trung; nên tốt, không bị tội lỗi, mà được nhiều lần ban thưởng (có người giảng là được nhiều lần vua trao lệnh cho).

*Hào 3: 六 三 : 師, 或 輿 尸 , 凶 .
Lục tam: Sư, hoặc dư thi, hung.
Dịch: Hào 3, âm: bất chính (vì hào âm ở ngôi dương) lại bất trung ,xấu, thất trận, có thể phải chở xác chết về . .

*Hào 4: 六 四 : 師, 左 次 , 无 咎 .
Lục tứ: Sư, tả thứ, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Ra quân rồi mà lui về đóng (thứ) ở phía sau (tả) không có lỗi.
Giảng: hào này tuy bất trung nhưng đắc chính, không có tài (hào âm) nhưng biết liệu sức mình, hãy tạm lui, không tiến để khỏi hao quân, đó là phép thường hễ gặp địch mạnh thì tránh đi, cho nên không bị lỗi.

*Hào 5: 六 五 : 田 有 禽 . 利 執 言 . 无 咎 . 長 子 帥 師 . 弟 子 輿 尸 . 貞 凶 .
Lục ngũ: Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu.
Trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.
Dịch: Hào 5 âm: Như đồng cỏ muông thú (về phá), bắt chúng (chữ ngôn [言] ở đây,dùng như chữ chi [之], thay chữ cầm [禽]) thì lợi.
(dùng) người lão thành làm tướng súy để cầm quân, nếu dùng bọn trẻ (tài kém) thì phải chở thây mà về, và dù danh nghĩa chính đáng (trinh) kết quả vẫn xấu.
Giảng: Hào 5 này, âm, ở vị chí tôn, tượng ông vua ôn nhu và thuận đạo trung, không gây chiến, vì quân địch lấn cõi (như muông thú ở rừng về phá đồng) nên phải đánh đuổi đi, bắt chúng mà không có lỗi.
Ông vua ấy giao quyền cầm quân cho vị lão thành (hào 2 ởdưới) là người xứng đáng , nếu giao cho bạn trẻ bất tài (như hào 3) hoặc để chúng tham gia vào thì sẽ thất bại, dù chiến tranh có chính nghĩa, cũng phải chở xác về , mang nhục.

*Hào 6: 上 六 : 大 君 有 命 . 開 國 承 家 , 小 人 勿 用 .
Thượng lục: đại quân hữu mệnh.
Khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng.
Dịch Hào trên cùng, âm: (Sau khi khải hòan) vua ra lệnh gì quan hệ đến việc mở nước trị nhà thì đừng dùng kẻ tiểu nhân (dù họ có công chiến đấu).
Giảng: Hào này ở trên cùng, trỏ lúc thành công, vua luận công mà khen thưởng. Kẻ tiểu nhân tuy có tài chiến đấu, lập được công thì cũng chỉ thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, giao cho địa vị trọng yếu trong nước, vì công việc kiến thiết quốc gia phải người có tài, đức mới gánh nổi.

*Thêm:
- Quẻ sư này rất hay, lời gọn, ý đủ và đúng. Chúng ta nên nhớ:
- Bất đắc dĩ mới phải ra quân, ra quân phải có chính nghĩa.
- Dùng tướng phải xứng đáng (như hào 2), đừng để cho kẻ bất tài (như hào 3) tham gia.
- Phải cẩn thận từ lúc đầu, kỷ luật nghiêm minh, nhưng phải khéo để khỏi mất lòng dân quân.
- Nếu gặp kẻ địch đương ở thế mạnh thì hãy tạm tránh, không sao.
- Khi thành công rồi, luận công ban thưởng thì kẻ tiểu nhân có công chỉ nên thưởng họ tiền bạc, đừng giao cho họ trọng trách; trọng trách phải về những người tài đức như vậy nước mới thịnh được.
Chỉ dùng hai nét liền, đứt mà suy diễn được như vậy, tài thật.






---------------------------------------------------------------------

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



8. THỦY ĐỊA TỈ

Khách quái là Khảm (nước). Chủ quái là Khôn (đất)

Tượng đất chứa nước, đất sét, đất bùn, thường dùng phủ ngoài, vò đất đựng nước.
Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Người ở biên giới.
Tên là TỈ (BÌ): Biên giới, thưa thớt, bên ngoài, ngoại biên, phủ ngoài (bì: da).
Hình tượng: Cái vò đất để chứa nước.

Thoán từ: 比 吉 原 筮 元 永 貞 无 咎 不 寧 方 來 後 夫 凶 .
*Hào 1: 有 孚 比 之 无 咎 有 孚 盈 缶 終 來 有 他 吉 .
*Hào 2: 比 之 自 內 貞 吉 .
*Hào 3: 比 之 匪 人 .
*Hào 4: 外 比 之 貞 吉 .
*Hào 5: 顯 比 王 用 三 驅.
*Hào 6: 比 之 无 首 凶 .

Thoán từ: 比 吉 原 筮 元 永 貞 无 咎 不 寧 方 來 後 夫 凶 .
Biên giới chỉ yên ổn nếu tướng trấn giữ ổn định lâu dài và không phạm sai lầm. Những người đàn ông giữ biên cương sẽ gặp nguy hiểm nếu hậu phương của họ bất ổn.

Hào từ.

*Hào 1: 有 孚 比 之 无 咎 有 孚 盈 缶 終 來 有 他 吉 .
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Có lòng tin vào bên ngoài thì chẳng có lỗi. Giống như tin rằng cái vò (tượng của chồng quái ) bề ngoài lành lặn có thể chứa được nước thì chung cuộc càng thêm tốt lành.

*Hào 2: 比 之 自 內 貞 吉 .
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Ở biên giới mà cuộc sống như ở bên trong đất nước thì chỉ có tốt lành (như thoái từ).

*Hào 3: 比 之 匪 人 .
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Sống ở nơi quá thưa thớt người ở như biên giới hải đảo dễ mất nhân tính.

*Hào 4: 外 比 之 貞 吉 .
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khảm. Đàn ông, con trai rèn luyện mình nơi biên giới chỉ có tốt lành (như thoái từ chồng quái đối ý ĐỊA THỦY SƯ).

*Hào 5: 顯 比 王 用 三 驅.
Hào dương. Trung vạch khách quái Khảm. Để nắm rõ tình hình biên giới, vua nên tuần du thường xuyên.

*Hào 6: 比 之 无 首 凶 .
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khảm. Biên giới mà không có tướng trấn giữ thì quá nguy hiểm.

Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



8. THỦY ĐỊA TỈ

Trên là Khảm (nước), dưới là Khôn (đất)

Sư là đám đông, trong đám đông người ta gần gũi nhau, liên lạc với nhau, cho nên sau quẻ Sư là quẻ Tỉ (tỉ là gần gũi, liên lạc).
Chúng ta để ý: quẻ này Khảm trên, Khôn dưới, ngược hẳn với quẻ trước Khôn trên, khảm dưới.
Thoán từ:

比 吉 . 原 筮 , 元 永 貞 , 无 咎 . 不 寧 方 來 , 後 夫 凶 .
Tỉ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu.
Bất ninh phương lai, hậu phu hung.
Dịch: Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi.
Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại) l kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu.
Giảng: Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau.
Lại thêm một hào dương cương, trung chính ( hào 5) thống lĩnh năm hào âm, có cái tượng ông vua (hay người trên) được toàn thể dân (hay người dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là “tỉ”. Nhưng hào 5 đó ở địa vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình kỹ càng (nguyên phệ) mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật không có lỗi.
“Bất ninh phương lai”, Chu Hi giảng là trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là muốn nói hào 5 (trên) và hào 2 (dưới), một dương một âm. Còn ba chữ “hậu phu hung” thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là hào trên cùng chăng?

Hào từ.

*Hào 1: 有 孚 比 之 , 无 咎 . 有 孚 盈 缶 , 終 來 有 他 吉 .
Sơ lục: Hữu phu, tỉ chi, vô cữu.
Hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha cát.
Dịch: Hào 1, âm : (Mới đầu) có lòng thành tín mà gần gũi nhau thì không có lỗi. Nếu lòng thành tín nhiều như đầy một cái ảng thì có thêm điều tốt khác nữa.

*Hào 2: 比 之 自 內 , 貞 吉 .
Lục nhị: tỉ chi tự nội, trinh cát.
Dịch: Hào 2, âm: Tự trong mà gần gũi với ngòai, chính đáng thì tốt.
Giảng: hào này âm nhu, đắc trung và chính, ở nội quái, ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc trung và chính ở ngoại quái, cho nên nói là tự trong mà gần gũi với ngoài. Hai bên thân nhau vì đạo đồng chí hợp (cùng trung, chính cả), chứ không phải vì 2 làm thân với bề trên để cầu phú quí, như vậy là chính đáng, không thất thân, nên tốt.

*Hào 3: 比 之 匪 人 .
Lục tam: Tỉ chi phỉ nhân
Dịch: Hào 3 âm: Gần gũi người không xứng đáng.
Giảng: Hào này âm nhu, không trung không chính, chung quanh lại toàn là âm nhu, cho nên ví với người xấu, không xứng đáng.

*Hào 4: 外 比 之 , 貞 吉 .
Lục tứ: Ngoại tỉ chi, trinh cát.
Dịch: Hào 4, âm: Gần gũi với bên ngoài (hào 5) giữ đạo chính thì tốt.
Giảng: hào âm ở ngôi 4 đắc chính ,tốt hơn hào 3; lại ở gần hào 5, như vậy là thân với người hiền ( 5 trung và chính ) và phục tòng bề trên, cho nên tốt.

*Hào 5: 顯 比, 王 用 三 驅
Cửu ngũ: Hiển tỉ, vương dụng tam khu
Giảng: hào này ở ngôi chí tôn, dương cương mà trung chính, cho nên cả 5 hào âm (cả thiên hạ) đều phục tòng; đạo gần gũi như vậy, là rất quang minh. Ai tòng phục vua thì cứ tới, không tùng phục mà chống lại thì cứ rút lui, không ép ai cả; để cho mọi người tự do tới lui, cũng như đi săn, không bao vây cả bốn mặt mà chừa một mặt cho cầm thú thoát ra. Do đó người chung quanh được cảm hóa, không phải răn đe mà họ cũng giữ được đào trung chính như vua.

*Hào 6: 比 之 无 首 , 凶 .
Thượng lục: tỉ chi vô thủ, hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: không có đầu mối để gần gũi, xấu.
Giảng: Hào âm này ở trên cùng bất trung, không sao gần gũi với những hào âm dưới được, thế là không có đầu mối, là vô thủy (thủ ở đây có nghĩa là thủy) mà vô thủy thì vô chung, cho nên xấu.

*Thêm:
Quẻ này nói về phép nhóm bạn tìm thầy. Phải cẩn thận từ lúc đầu, thành tín, trung chính, vì đạo chứ không vì lợi. Và phải để cho tự do, không nên ép buộc.

Sửa bởi binhlq: 25/12/2015 - 21:43


Thanked by 1 Member:

#5 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 26/12/2015 - 12:04

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



9. PHONG THIÊN TIỂU SÚC

Khách quái là Tốn (gió). Chủ quái là Càn (trời)

Tượng của nó là gió thổi trên trời. Tượng của góp gió thành bão. Bởi vì chủ quái là Càn (Trời) có sức bao dung lớn nên có thể hợp những luồng gió nhỏ thành bão.

Phạm trù: Đấu tranh sinh tồn.
Cho đối tượng: Người dân.
Tên là TIỂU SÚC: Bao chứa, hợp những cái nhỏ lại. Con người đứng trước thiên nhiên chỉ là những sinh vật nhỏ bé nên phải liên kết thành quần thể để vượt qua khó khăn gian khổ. Tức là cái đạo nhân quần trong tự nhiên.
Hình tượng: Chung lưng đấu cật.

Thoán từ: 小 畜 亨 密 雲 不 雨 自 我 西 郊 .
*Hào 1: 復 自 道 何 其 咎 吉 .
*Hào 2: 牽 復 吉 .
*Hào 3: 輿 說 輻 夫 妻 反 目 .
*Hào 4: 有 孚 血 去 惕 出 无 咎 .
*Hào 5: 有 孚 攣 如 富 以 其 鄰 .
*Hào 6: 既 雨既 處 尚 德 載 婦 貞 厲 月 幾 望 君 子 征 凶 .

Thoán từ: 小 畜 亨 密 雲 不 雨 自 我 西 郊 .
Tập hợp được những người dân lại thì hanh thông. Giống như mây vần vũ nhưng chưa mưa được vì chờ các ngọn gió đang hợp lại thổi từ phía tây (Phương Tây cũng là phương Tốn).

Hào từ

*Hào 1: 復 自 道 何 其 咎 吉 .
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Từ bỏ con đường riêng của mình (để hợp lại) thì không có lỗi và được tốt lành.

*Hào 2: 牽 復 吉 .
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Dắt nhau cùng hợp lại thì càng tốt.

*Hào 3: 輿 說 輻 夫 妻 反 目 .
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Đừng để như xe bị tháo trục mà hai vợ chồng nhìn về hai hướng.

*Hào 4: 有 孚 血 去 惕 出 无 咎 .
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Gây dựng lòng tin, bỏ qua huyết thống (coi mọi người bình đẳng) và biết sợ sự rời xa nhau sẽ không hối hận khi tập hợp với nhau.

*Hào 5: 有 孚 攣 如 富 以 其 鄰 .
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Gây dựng lòng tin, quan hệ ràng buộc gắn bó sẽ tương trợ giúp đỡ nhau như tay với chân.

*Hào 6: 既 雨既 處 尚 德 載 婦 貞 厲 月 幾 望 君 子 征 凶 .
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Mây tản mưa tan xong rồi, đã đến lúc hết hợp mà tan nên đừng như người vợ chính chuyên cố chờ chồng đã đi biệt tăm mà thân một mình gian nan, hay người quân tử cố vô vọng theo đuổi bóng hồng mà gặp nguy hiểm.



Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





9. PHONG THIÊN TIỂU SÚC

Trên là Tốn (gió) dưới là Càn (trời)

Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế.
Thoán từ

小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .
Tiểu súc: Hanh: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Dịch: Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.
Giảng: Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
- Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
- Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
- Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ “ngã” (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ “ngã” đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà “cõi tây của ta” tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.
Hào từ

*Hào 1: 復 自 道 , 何 其 咎 ? 吉 .
Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát.
Dịch: Hào 1, dương : trở về đạo lý của mình, có lỗi gì đâu? Tốt.
Giảng: hào này là dương cương lại ở trong nội quái Càn, có tài, có chí tiến lên, nhưng vì ở trong quẻ Tiểu Súc, nên bị hào 4, ứng với nó ngăn cản. Nó đành phải quay trở lại, không tiến nữa, hợp với đạo tùy thời, như vậy không có lỗi gì cả.

*Hào 2: 牽 復 , 吉 .
Cửu nhị: khiên phục, cát.
Dịch: Hào 2, dương . Dắt nhau trở lại đạo lý thì tốt.
Giảng: hào này với hào 5 là bạn đồng chí hướng: cùng dương cương, cùng đắc trung, cùng muốn tiến cả, nhưng cùng bị hào 4 âm ngăn cản, nên cùng dắt nhau trở lại cái đạo trung , không để mất cái đức của mình.

*Hào 3: 輿 說 輻 , 夫 妻 反 目 .
Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục.
Dịch: Hào 3, dương : Xe rớt mất trục; vợ chồng hục hặc với nhau.
Giảng: Hào 3 quá cương (vì thể vị đều là dương ) mà bất trung, hăng tiến lên lắm, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, nên tiến không được, như chiếc xe rớt mất trục. Hào này ở sát hào 4, dương ở sát âm, mà không phải là ứng của hào 4, như một cặp vợ chồng hục hặc với nhau. Lỗi ở hào 3 vì không biết tùy thời, không nhớ mình ở trong thời Tiểu súc mà nhịn vợ.

*Hào 4: 有 孚 , 血 去, 惕 出 . 无 咎 .
Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: nhờ có lòng chí thành, nên thương tích được lành, hết lo sợ, mà không có lỗi.
Giảng: hào này là âm, nhu thuận mà đối với các hào dương thì khó tránh được xung đột, có thể lưu huyết và lo sợ, nhưng nó đắc chính (âm ở ngôi âm), ở gần hào 5 là thân với bậc chí tôn, lại ở vào thời Tiểu súc, có hào 1 ứng hợp với nó, hào 2 cùng giúp nó, nên nó tránh được lưu huyết, lo sợ, không có lỗi.
Tiểu tượng truyện giảng: hết lo sợ, nhờ hào trên ( hào 5) giúp đỡ nó.

*Hào 5: 有 孚, 攣 如 . 富 以 其 鄰 .
Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân.
Dịch: Hào 5, dương. Có lòng thành tín, ràng buộc dắt dìu (cả bầy hào dương ), nhiều tài đức , cảm hóa được láng giềng.
Giảng: hào này ở ngôi chí tôn, có uy tín, làm lãnh tụ các hào dương khác; nó trung chính, tức có lòng thành tín, kéo các hào dương kia theo no, mà giúp đở hào âm 4 ở cạnh nó, ảnh hưởng tới 4, sai khiến được 4, khiến cho 4 làm được nhiệm vụ ở thời Tiểu súc.
Chữ [ 攣 ] có người đọc là luyến và giảng là có lòng quyến luyến.

*Hào 6: 既 雨, 既 處 , 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 , 君 子 征 凶 .
Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái.
Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Đã mưa rồi, yên rồi, đức nhu tốn của 4 đã đầy (ngăn được đàn ông rồi), vợ mà cứ một mực (trinh) ngăn hoài chồng thì nguy (lệ) đấy. Trăng sắp đến đêm rằm (cực thịnh), người quân tử (không thận trọng, phòng bị) vội tiến hành thì xấu.
Giảng: Đây đã tới bước cuối cùng của quẻ tốn mà cũng là bước cuối cùng của quẻ Tiểu súc. Hào 4 đã thành công đến cực điểm , các hào dương hòa hợp với nó cả rồi, như đám mây kịt đã trút nước, mọi sự đã yên. Tới đó, hãy nên ngưng đi, cứ một mực ngăn chặn các hào dương thì sẽ bị họa đấy. Mà các hào dương (quân tử ) cũng nên lo đề phòng trước đi vì sắp tới lúc âm cực thịnh (trăng rằm) rồi đấy. Âm có nghĩa là tiểu nhân.

*Thêm:
Đọc quẻ Tiểu súc này chúng tôi nhớ tới Võ Hậu đời Đường và Từ Hi Thái Hậu đời Thanh. Họ như hào 4, thông minh, có tài, mới đầu nhu thuận, nhờ ở gần vua (hào 5), được vua sủng ái, che chở, lại lấy được lòng người dưới (hào 1, hào 2), gây phe đảng rồi lần lần “thống lĩnh quần dương “, cả triều đình phải phục tòng họ. Tới khi họ thịnh cực, sắp suy, bọn đại thần có khí tiết, mưu trí mới họp nhau lật họ. Ngoài đời không đúng hẳn như trong quẻ, nhưng cũng không khác mấy.
Ở các thời đó, chắc nhiều nhà Nho Trung Hoa đọc lại quẻ này.



-----------------------------------------------------------------------------------


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



10. THIÊN TRẠCH LÍ

Khách quái là Càn (trời), chủ quái là Đoài (chằm).

Chủ quái Đoài là tượng của xã hội loài người trong câu "Duyệt ngôn hồ Đoài" của Hậu Thiên bát quái. Khách quái Càn là tượng của đấu tranh trong câu "Chiến hồ Càn" của Hậu Thiên bát quái. Như vậy tượng của chồng quái là cuộc đấu tranh sinh tồn với tự nhiên của con người.

Phạm trù: Đấu tranh sinh tồn.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là Lí: Hành vi dẫm hay nghĩa bóng là nguyên tắc để tác động đến tự nhiên mà không bị các quy luật tự nhiên phản phục tiêu diệt.
Hình tượng: Tùy cơ ứng biến.

Thoán từ: 履 虎 尾 不 咥 人 亨.
*Hào 1: 素 履 往 无 咎.
*Hào 2: 履 道 坦 坦 幽 人 貞 吉.
*Hào 3: 眇 能 視 跛 能 履 履 虎 尾 咥 人 凶 武 人 為 于 大 君 .
*Hào 4: 履 虎 尾 愬 愬 終 吉 .
*Hào 5: 夬 履 貞 厲 .
*Hào 6: 視 履 考 祥 其 旋 元 吉 .

Thoán từ: 履 虎 尾 不 咥 人 亨.
Dẫm lên đuôi hổ mà hổ không cắn thì hanh thông. Tức là tác động đến tự nhiên mà không bị các quy luật tự nhiên phản phục tiêu diệt sẽ có thành tựu. Đây chính là ý nghĩa của việc con người tác động lên tự nhiên, giống như việc dẫm lên đuôi con hổ dữ thì phải biết làm thế nào để nó đừng cắn.

Hào từ:

*Hào 1: 素 履 往 无 咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài. Thuận theo tự nhiên, không tác động (không dẫm) mà vẫn đạt ý muốn là không có lỗi.

*Hào 2: 履 道 坦 坦 幽 人 貞 吉.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Người đi trên đường thẳng, trong lòng thản nhiên không dục vọng thì thật tốt lành. Tức là cần giữ lòng trung chinh không tác động trái chiều gây rối loạn tự nhiên sẽ được tốt lành.

*Hào 3: 眇 能 視 跛 能 履 履 虎 尾 咥 人 凶 武 人 為 于 大 君 .
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Đoài. Tác động tự nhiên mà như người chột lại hay nhìn, người què lại hay đi. Hay giống như hạng võ tướng chỉ biết xung phong đầu tiên lại muốn điều khiển cả đại quân thì nguy to. Tức là dùng sở đoản, thiếu năng lực, thiếu hiểu biết mà tác động lên tự nhiên thì sẽ cực kỳ nguy hiểm.

*Hào 4: 履 虎 尾 愬 愬 終 吉 .
Hào dương. Hạ vạch khách quái Càn. Dẫm lên đuôi hổ mà biết sợ sệt thì chung cuộc sẽ tốt.

*Hào 5: 夬 履 貞 厲 .
Hào dương. Trung vạch khách quái Càn. Dẫm lên đuôi hổ một cách hỗn loạn, quái đản chỉ có nguy hiểm.

*Hào 6: 視 履 考 祥 其 旋 元 吉 .
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. Người cầm đầu mà hiểu biết tường tận và đầy đủ để có thể thuận theo những phản phục của quy luật tự nhiên khi tác động lên tự nhiên thì thật là tốt lành.



Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




10. THIÊN TRẠCH LÍ

Trên là Càn (trời), dưới là Đoài (chằm)

Đầu quẻ Tiểu Súc đã nói súc còn có nghĩa là chứa, nhóm (như súc tích)
Tự quái truyện dùng nghĩa đó mà giảng: khi đã nhóm họp nhau thì phải có trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là phải có lễ. Sống trong xã hội phải theo lễ, dẫm lên cái lễ, không chệch ra ngoài (chúng ta thường nói dẫm lên dấu chân của một người để diễn cái ý theo đúng đường lối người ấy); mà dẫm lên, chữ Hán gọi là ☲, do đó sau quẻ Tiểu súc, tới quẻ Lí. Cách giải thích đó có phần nào gượng ép.
Thoán từ:

履 虎 尾 , 不 咥 人 , 亨 .
Lí hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh.
Dịch: Dẫm lên đuôi cọp, mà cọp không cắn, hanh thông.
Giảng: Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm, vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với sự cương cường.
Thoán truyện bàn thêm: Hào 5 quẻ này là dương mà trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có tệ bệnh gì cả mà lại được quang minh.
Đại tượng truyện: bảo trên dưới phân minh (có tài đức ở trên, kém tài đức ở dưới) như vậy lòng dân mới không hoang mang (định dân chí) không có sự tranh giành.

Hào từ:

*Hào 1: 素 履, 往 , 无 咎 .
Sơ cửu: tố lý, vãng, vô cữu.
Dịch: hào 1, dương : giữ bản chất trong trắng mà ra với đời thì không có lỗi.
Giảng: hào 1 này như người mới ra đời, còn giữ được bản chất trong trắng (ý nghĩa của chữ tố) chưa nhiễm thói đời, vì là hào dương, quân tử, có chí nguyện, cứ giữ chí nguyện mình thì không có lỗi.

*Hào 2: 履 道 坦 坦 , 幽 人 貞 吉 .
Cửu nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát.
Dịch: Hào 2, dương: như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt.
Giảng: Hào 2, dương : như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt.
Giảng: Hào dương này đắc trung, vẫn là hiền nhân, quân tử, bình thản giữ đạo trung không để cho lòng rối loạn thì tốt.
Tuy có hào 5 ở trên ứng với , nhưng 5 cũng là dương, không hợp, (phải một dương một âm mới tìm nhau, hợp nhau, viện nhau) cho nên bảo hào này là cô độc.
Chúng ta để ý: quẻ Càn, hào 2 và hào 5 cũng đều là dương cả, mà Hào từ bảo 2 và 5 nên tìm nhau mà làm việc; còn quẻ Lý này thì không , như vậy là phải tùy theo ý nghĩa của quẻ (tùy thời) mà giảng.

*Hào 3: 眇, 能 視 ; 跛, 能 履 . 履 虎 尾 , 咥 人, 凶 . 武 人 為 于 大 君 .
Lục tam: Miễu, năng thị; bả, năng lý.
Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại quân.
Dịch:Hào 3, âm: chột (mà tự phụ là) thấy tỏ, thọt (mà tự phụ là) đi nhanh, như vậy thì nguy như dẫm lên đuôi cọp mà bị nó cắn. Đó là kẻ vũ phu mà đòi làm việc của một ông vua lớn.
Giảng: Hào này âm nhu mà ở ngôi dương cương, bất chính, bất trung, trên dưới đều là hào dương cả, không lượng tài mình kém (âm) mà đua đòi theo các hào dương, không khác người thọt tự khoe là đi nhanh; đó là hạng võ phu mà đòi làm một ông vua lớn, sẽ gặp họa, như dẫm lên đuôi cọp, bị cọp cắn.

*Hào 4: 履 虎 尾 . 愬 愬 終 吉 .
Cửu tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc)chung cát.
Dịch: Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp, nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt.
Giảng: Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như hào 3, cũng ở sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3 hung, hào 4 cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí hăng; còn 4 bản chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi, thận trọng.

*Hào 5: 夬 履 貞 厲 .
Cửu ngũ: Quyết lý, trinh lệ.
Dịch: Hào 5, dương : Quyết tâm hành động quá thì tuy chính đáng cũng có thể nguy.
Giảng: Hào 5 đắc chính, đắc trung ,rất tốt, nhưng ở địa vị chí tôn trong quẻ Lý (nói về cách ở đời) thì e có lòng cương quyết quá mà tự thị, ỷ thế, mà hóa nguy.

*Hào 6: 視 履, 考 祥 . 其 旋, 元 吉 .
Thượng cửu: Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương, xem cách ăn ở trong đời người, cho nên Hào từ diễn ý nghĩa của toàn quẻ chứ không diễn ý nghĩa của riêng hào cuối. Cũng là một lệ ngoại như hào cuối cùng quẻ Tiểu súc.

*Thêm:
Quẻ này tên là Lí có nghĩa là lễ, là dẫm lên, nhưng cả 6 hào đều nói về cách ăn ở trong suốt đời người : mới ra đời thì phải giữ tính chất phác trong trắng, rồi sau giữ vững đường chính (hào 2); biết sức mình, đừng tự phụ (hào 3) để tránh nguy, biết thận trọng, sợ hãi thì tốt (hào 4), và ở địa vị cao nhất, đừng ỷ thế mà cương quyết quá (hào 5), cách ăn ở được như vậy cho tới cuối đời thì tốt không gì bằng.
Chúng ta để ý: Quẻ này cũng chỉ có một hào âm mà không có nghĩa thống lĩnh quần dương như quẻ tiểu súc. Như vậy là biến dịch.

Thanked by 1 Member:

#6 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 27/12/2015 - 09:30

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




11. ĐỊA THIÊN THÁI

Khách quái là KHÔN (Đất). Chủ quái là quái CÀN (Trời).

Tượng là Đất trong Trời, hay đất được mặt trời chiếu sáng nên THÁI.

Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Đại nhân, người quân tử.
Tên là THÁI: thái bình, thịnh trị.
Hình tượng: Ban ngày.

Thoán từ: 泰 小 往 大 來 吉亨 .
*Hào 1: 拔 茅 茹 以 其 彙 征 吉 .
*Hào 2: 包 荒 用 馮 河 不 遐 遺 朋 亡 得 尚 于 中 行 .
*Hào 3: 无 平 不 陂 无 往 不 復 艱 貞 无 咎 勿 恤 其 孚 于 食 有 福 .
*Hào 4: 翩 翩 不 富 以 其 鄰 不 戒 以 孚 .
*Hào 5: 帝 乙 歸 妹 以 祉 元 吉 .
*Hào 6: 城 復 于 隍 勿 用 師 自 邑 告 命 貞 吝 .

Thoán từ: 泰 小 往 大 來 吉亨 .
THÁI là thời của cái lớn cái vĩ đại đã quay lại và thời của cái nhỏ, cái phổ biến đã qua. Thời của tốt lành và hanh thông.

Hào từ:

*Hào 1: 拔 茅 茹 以 其 彙 征 吉 .
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Nhổ cây cỏ tranh mà lấy rễ của nó dùng làm thuốc để mang đi khi chinh phạt thì tốt (rễ cỏ tranh là một vị thuốc nam dùng để giải độc, thanh lọc cơ thể). Tức là khi mới bắt đầu THÁI, người quân tử phải chinh phạt để lập lại trật tự thì nên lấy gốc rễ là sự thanh lọc và hoàn nguyên tình hình xã hội làm chính.

*Hào 2: 包 荒 用 馮 河 不 遐 遺 朋 亡 得 尚 于 中 行 .
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Thời THÁI mà bảo thủ, thủ cựu, dùng người tự đắc mạo hiểm, dùng lại những phương thức cũ thì chết cả đám. Đại nhân cầm quyền cần cấp tiến, trung chính và ngay thẳng.

*Hào 3: 无 平 不 陂 无 往 不 復 艱 貞 无 咎 勿 恤 其 孚 于 食 有 福 .
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Không có gì ngang bằng mãi mà không nghiêng lệch. Không cái gì đã qua mà không trở lại. Thời THÁI mà thấy gian nan thì phải giữ lòng ngay chính mới không có lỗi. Còn suy nghĩ cong vẹo, không thực tiễn thì sẽ không có phúc.

*Hào 4: 翩 翩 不 富 以 其 鄰 不 戒 以 孚 .
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Thời THÁI mà thấy người dân dập dìu không phải vì tiền bạc mà nhanh nhẹn tụ lại với nhau, dù trước đó không có hẹn ước là lúc thời BĨ đang manh nha.

*Hào 5: 帝 乙 歸 妹 以 祉 元 吉 .
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Tiếp ý hào 4. Nên làm như ĐẾ ẤT (nữ hoàng, quận chúa) nhận làm em gái nhà bình dân để lấy phúc. Tức lúc này nên mềm dẻo, hài hòa không để đám quần chúng đang tụ lại sẽ làm cách mạng gây rối loạn thì xã hội sẽ đại loạn.

*Hào 6: 城 復 于 隍 勿 用 師 自 邑 告 命 貞 吝 .
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. THÁI CỰC BĨ LAI. Lúc này cần đắp thành lũy mà giữ đất, tự mình mà chống giữ không tin ai kể cả thầy của mình. Đây là lúc bắt đầu chiến tranh loạn lạc vàng thau lẫn lộn và thời BĨ đang đến.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


11. QUẺ ĐỊA THIÊN THÁI

Trên là Khôn (đất), dưới là Càn (trời)

Lý là lễ, có trật tự trên dưới phân minh, như vậy thì yên ổn, Lý cũng có nghĩa là dẫm, là giày (dép) đi giày thì được yên ổn; vì vậy sau quẻ Lý, tiếp tới quẻ Thái. Thái nghĩa là yêu thích, thông thuận.
Thoán từ

泰: 小 往 大 來 , 吉, 亨 .
Thái: Tiểu vãn đại lai, cát, hanh.
Dịch: Thái là cái nhỏ (âm), đi, cái lớn (dương ) lại, tốt, hanh thông.
Giảng: Trong quẻ Lí, Càn là trời, cương, Đoài là chằm, nhu; trên dưới phân minh, hợp lẽ âm dương, tốt.
Trong quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu. Nên hiểu Càn là khí dương, Khôn là khí âm “khí dương ở dưới có tính cách thăng mà giao tiếp với âm, khí âm ở trên có tính cách giao tiếp với khí dương”, hai khí giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa thích.
Một cách giảng nữa. Theo Phan Bội Châu (sách đã dẫn) thì:
Nguyên Thuần âm là quẻ Khôn, là âm thịnh chi cực, cực thì phải tiêu, nhân đó một nét dương thay vào dưới, hào 1 của Khôn thành ra quẻ Phục, Phục là một dương mới sinh.
Dương sinh đến hào thứ hai thì thành quẻ Lâm [ 臨 ] , thế là dương đã lớn thêm lần lần. Khí dương sinh đến hào thứ 3 thì thành quẻ Thái, trên là Khôn, dưới là Càn.
Khôn là âm nhu, là tiểu nhân; Càn là quân tử . Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu mòn, đạo quân tử dương lớn mạnh, hai bên ngang nhau cho nên gọi là Thái.
Thoán từ bàn thêm: “Thái là lúc cái nhỏ đi, cái lớn trở lại ( . . . ) là trời đất giao cảm mà muôn vật thông, trên dưới giao cảm mà chí hướng như nhau. Trong (nội quái) là dương, ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần.

Hào từ:

*Hào 1: 拔 茅 茹 . 以 其 彙 . 征 吉 .
Sơ cửu: bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, chinh cát.
Dịch: Hào 1, dương : Nhổ rể cỏ mao mà được cả đám, tiến lên thì tốt.
Giảng: Hào nay là người có tài, còn ở vị thấp, nhưng cặp với hào hai trên, như có nhóm đồng chí dắt díu nhau tiến lên, để gánh việc thiên hạ, cho nên việc làm dễ có kết quả như nhổ rể có mao, nhổ một cọng mà được cả đám.

*Hào 2: 包 荒 , 用 馮 河 , 不 遐 遺 .朋 亡 , 得 尚 于 中 行 .
Cửu nhị : Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di,
Bằng vong, đắc thượng vu trung hành.
Dịch: Bao dung sự hoang phế (những tệ hại cũ), dùng cách cương quyết mạo hiểm như lội qua sông, không bỏ sót những việc (hoặc người ) ở xa, không nghĩ đến bè đảng, mà phải hợp với đạo trung.
Giảng: Hào dương, đắc trung, đồng chí đã đông (hào 1 và 3) lại ứng hợp với hào 5 âm, cũng đắc trung, tức với vị nguyên thủ tin cậy, nghe theo mình, vậy là có tài lớn mà hoàn cảnh rất thuận lợi; nhưng cần có những đức này nữa:
- Có độ lượng, bao dung một số tệ hại cũ còn lại, đừng mong trừ tiệt ngay trong buổi đầu.
- Có đức cương quyết mạo hiểm như người có gan lội qua sông, như luận hgữ nói: bạo hổ bằng hà.
- Tính trước những việc xa xôi sẽ xảy tới (có người hiểu là đừng bỏ sót những người ở xa).
- Đừng có tinh thần đảng phái mà có hại cho đại nghĩa.
Cần nhất là giữ đạo trung của hào 2, việc gì cũng vừa phải thôi, chẳng hạn bao dung quá hay mạo hiểm quá đều là hại cả.

*Hào 3: 无 平 不 陂 , 无 往 不 復 . 艱 貞 无 咎 , 勿 恤, 其 孚 , 于 食 有 福 .
Cửu tam: Vô hình bất bí, vô vãng bất phục.
Gian trinh vô cửu, vật tuất, kỳ phu, vu thực hữu phúc.
Dịch: Hào 3, dương: không có cái gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại, trong cảnh gian nan mà giữ được chính đáng thì không lỗi. Đừng lo phiền, cứ tin ở điều chính thì được hưởng phúc.

*Hào 4: 翩 翩 , 不 富, 以 其 鄰 , 不 戒 以 孚 .
Lục tứ: Phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu.
Dịch: Hào 4, âm : Dập dìu (hoặc hớn hở) với nhau, không giàu mà thành một xóm, chẳng ước hẹn mà cũng tin nhau.
Giảng: đây đã qua nửa quẻ Thái, dương suy, bày âm (ba hào âm) tức bọn tiểu nhân kết hợp với nhau, tuy chúng không “giàu”, không có tài đức (âm có nghĩa là hư, trái với thực – dương – cho nên bảo là không giàu) nhưng cũng thành một xóm đông, đồng tâm với nhau chẳng ước hẹn mà cùng tin nhau, vì cùng sẵn lòng gian tà cả.

*Hào 5: 帝 乙 歸 妹 . 以 祉, 元 吉 .
Lục ngũ: Đế Ất qui muội, dĩ chỉ, nguyên cát.
Dịch: Như vua đế Ất (đời Thương) cho em gái về nhà chồng, có phúc, rất tốt.
Giảng: Hào âm này đắc trung, tuy ở địa vị chí tôn mà khiêm nhu, lại ứng hợp với hào 2, dương ở dưới, như em gái vua Đế Ất, chịu làm vợ một người hiền trong giới bình dân, sẽ được hưởng phúc.

*Hào 6: 城 復 于 隍 , 勿 用 師 , 自 邑 告 命, 貞 吝 .
Thượng lục: Thành phục vụ hoàng, vật dụng sư,
Tự ấp cáo mệnh, trinh lận.
Dịch: Hào trên cùng, âm: thành đổ sụp xuống, lại chỉ là đống đất. Đừng dùng quân nữa, bất quá mệnh lệnh chỉ ban ra đựơc trong ấp mình thôi. Dù hành động của mình chính đáng nhưng vẫn thất bại mà xấu hổ.
Giảng: Đây tới lúc cuối cùng của thời Thái, sắp bĩ rồi, như cái thành sụp xuống. Vì là hào âm lại ở địa âm, đừng tranh giành (dùng quân ) nữa, không cứu vãn được đâu, có ban lệnh cũng chỉ một ấp mình nghe thôi.
Hai chữ “trinh lận”, R. Wilhem giaeng là : dù có kiên nhẫn (chống đỡ) cũng thất bại mà xấu hổ. Chúng tôi nghĩ hào cuối này âm nhu thái quá, không có chí kiên nhẫn được, nên dịch theo Chu Hi.

*Thêm:
Dưới đây chúng tôi chép thêm lời bàn của Phan Bội Châu (tr. 285 – 286) “Chúng ta đọc Dịch từ lúc có Càn, Khôn, trải qua trung gian, nào Truân mà kinh luận: nào Mông mà giáo dục; nào Nhu mà sinh tụ; nào Tụng, nào sư mà sắp đặt việc binh, việc hình; nào Súc, nào Lý mà chỉnh đốn việc kinh tế, việc lễ chế; hao tổn biết bao tâm huyết, chứa trữ biết bao thì giờ. Kể về phần Khảm (hiểm) trải qua đến 6 lần:
1. Truân, Khảm thượng 2. Mông . khảm hạ
3. Nhu , Khảm thượng 4. Tụng, Khảm hạ.
5. Sư, Khảm hạ 6. Ti, Khảm thượng.
Thoát khỏi 6 lần nguy hiểm rồi. Vậy sau, trong có chốn nuôi trữ là Tiểu súc, ngoài có chốn bằng tạ (nhờ cậy, ỷ vào) là Lý. Bây giờ mới làm nên Thái.
Thái vừa đến cuối cùng, tức khắc ra Bĩ (coi quẻ sau ). Ghê gớm thật ! Làm nên tốn vô số công phu mà làm hư chỉ trong chốc lát, vun đắp biết bao nền tảng mà đánh đổ chỉ trong nháy mắt.
Không chắc đó đã là thâm ý của người sắp đặt các quẻ, nhưng việc đời quả có như vậy: Kiến thiết lâu, suy rất chóng.



-----------------------------------------------------------------------------




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



12. THIÊN ĐỊA BĨ

Khách quái là quái CÀN (Trời). Chủ quái là KHÔN (Đất).

Tượng Trời trong đất, tượng khoảng trống trong lòng đất, bị đất bảo phủ và che lấp.

Phạm trù: Xử thế.
Cho đối tượng: Đại nhân, người quân tử.
Tên là BĨ (PHỦ): Bao phủ, che phủ, che khuất, thay đổi.
Hình tượng: Ban đêm.

Thoán từ: 否之匪人不利君子貞大往小來.
*Hào 1: 拔茅茹以其彙貞吉亨.
*Hào 2: 包承 小人吉 大人否 亨.
*Hào 3: 包羞.
*Hào 4: 有命 无咎疇離祉.
*Hào 5: 休否 大 人吉其亡 其亡 繫于苞桑.
*Hào 6: 傾否 先否 後喜.

Thoán từ: 否之匪人不利君子貞大往小來.
Sự thay đổi mà làm mất nhân tính chắc chắn bất lợi cho quân tử. Thời của cái lớn, cái vĩ đại đã qua và thời cái nhỏ, cái phổ biến đã quay lại.

Hào từ.
*Hào 1: 拔茅茹以其彙貞吉亨.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Nhổ cây cỏ tranh mà lấy rễ của nó dùng làm thuốc thì tốt lành và hanh thông (rễ cỏ tranh là một vị thuốc nam dùng để giải độc, thanh lọc cơ thể). Tức là lúc bắt đầu bị che khuất (thất thế), người quân tử nếu biết tự thanh lọc đi những dục vọng tầm thường, giữa cho tâm tĩnh tại, tấm lòng trong trắng không vẩn đục (sám hối) thì sẽ tốt lành và hanh thông.

*Hào 2: 包承 小人吉 大人否 亨.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 1. Bao phủ tiếp tục nữa thì người dân vẫn thấy tốt nhưng đại nhân bắt đầu thấy lo lắng không yên.

*Hào 3: 包羞.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 2. Nếu bao phủ tiếp tục dầy đặc mà người quân tử biết xấu hổ sẽ mất không mất nhân tính (như thoái từ).

*Hào 4: 有命 无咎疇離祉.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Càn. Hào này đã lên đến khách quái CÀN. Dù bị bao phủ dầy đặc mà người quân tử vẫn hướng về mệnh trời và giữ không có lỗi sẽ gặp phúc lớn.

*Hào 5: 休否 大 人吉其亡 其亡 繫于苞桑.
Hào dương. Trung vạch khách quái Càn. Ngừng bao phủ thì sẽ tốt cho đại nhân, nhưng cái tốt này mới chỉ hư hư ảo ảo như những thứ treo quanh cây dâu (dùng để báo tang).

*Hào 6: 傾否 先否 後喜.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. BĨ CỰC THÁI LAI, dù thấy còn BĨ thì nên vui vẻ vì vận BĨ sắp qua.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


12. QUẺ THIÊN ĐỊA BĨ

Trên là Càn (trời) dưới là Khôn (đất)

Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ.

Thoán từ.
否之匪人, 不利君子貞, 大往小來.
Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Dịch: Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại.
Giảng: Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên.
Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn.
Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.

Hào từ.

*Hào 1: 拔茅茹, 以其彙, 貞吉亨.
Sơ lục: Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, trinh cát hanh.
Dịch: Hào 1 âm: Nhổ rễ cỏ mao mà được cả đám, hễ chính thì tốt mà hanh thông.
Giảng: Hào này rất giống hào 1 quẻ Thái: cũng “bạt mao dĩ kỳ vị” vì quẻ Thái hào 1 cặp với hai hào trên, quẻ này cũng vậy, cũng có đồng chí, làm việc dễ có kết quả; chỉ khác quẻ thái hào 1 là dương, quân tử, quẻ này hào 1 là âm, tiểu nhân; cho nên quẻ Thái khuyên cứ tiến lên (chính) sẽ tốt; còn quẻ này thì khuyên phải “trinh” chính đáng (trinh – khác nhau ở hai chữ chính [正] và trinh [貞] thì sẽ tốt và hanh thông.
Hào 1 quẻ Bĩ là tiểu nhân nhưng mới bước đầu, cái ác chưa hiện rõ, lại ứng hợp với hào 4 ở trên là quân tử, cho nên còn có hy vọng cải hóa được. Ðại tượng truyện bảo: nếu để tâm giúp nước (chí tại quân – quân là vua, là quốc gia) như hào 4 thì sẽ tốt. Như vậy là có ý khuyên tiểu nhân nên đứng vào phe quân tử .

*Hào 2: 包承, 小人吉;大人否, 亨.
Lục nhị: Bào thừa, tiểu nhân cát; đại nhân bĩ, hanh.
Dịch: Hào 2, âm: Tiểu nhân chịu đựng và vâng thuận người quân tử thì tốt: đại nhân (có đức lớn) nên giữ tư cách trong cảnh bế tắc (khốn cùng) thì hanh thông.
Giảng: Hào này tuy là tiểu nhân, nhưng đắc trung đắc chính, chung quanh là tiểu nhân cả, mà ứng hợp với hào 5 quân tử ở trên, cho nên hào từ khuyên nó nên vâng thuận quân tử thì tốt. Còn kẻ đại nhân được bọn tiểu nhân vâng thuận – vì chúng muốn mua danh – thì cũng đừng theo chúng, cứ giữ khí tiết của mình trong thời khốn cùng, như vậy sẽ hanh thông.

*Hào 3: 包羞.
Lục tam: Bao tu .
Dịch: Hào 3, âm: Chứa chất sự gian tà, xấu hổ.
Giảng: Hào này, không trung, không chính, là kẻ đứng đầu bọn tiểu nhân (vì ở trên cùng nội quái khôn), cho nên rất xấu, đáng ghét.

*Hào 4: 有命, 无咎.疇離祉.
Cửu tứ: Hữu mệnh, vô cữu. Trù li chỉ.
Dịch : Hào 4 dương : có mệnh trời (tức như thời vận đã tới) thì không lỗi mà bạn của mình cũng nhờ cậy mình mà được hưởng phúc.
Giảng: Hào này ở quá nửa quẻ Bĩ, có mòi sắp hết bĩ rồi, cho nên nói là thời vận đã tới; nó là dương ở trong ngọai quái Càn, chính là người quân tử thực hiện được chí của mình. Bạn của nó, tức hai hào 5, 6 cùng là dương cả - cũng sẽ được hưởng phúc.

*Hào 5: 休否, 大 人吉.其亡, 其亡, 繫于苞桑.
Cửu ngũ: Hưu bĩ, đại nhân cát.
Kỳ vong, kỳ vong, hệ vu bao tang.
Dịch: Hào 5, dương : làm cho hết bĩ, đó là đạo tốt của bậc đại nhân (tuy nhiên, phải biết lo). Có thể mất đấy, (đừng quên điều đó thì mới vững như buộc vào một cụm dâu (dây dâu nhiều rễ, ăn sâu dưới đất, rất khó nhổ).
Giảng: Hào này có đức dương cương trung chính, lại ở vào ngôi chí tôn, trong thời Bĩ sắp hết, cho nên lời đoán là tôt. Những vẫn phải thận trọng, đừng sai sót.
Theo Hệ từ hạ chương V thì Khổng tử đọc tới hào này, bàn thêm rằng: “Người quân tử khi yên ổn thì không nên quên rằng sẽ có thể nguy; khi vững thì không quên rằng có thể mất, khi trị thì không quên rằng sẽ có thể loạn. Nhờ vậy mà thân an nước nhà giữ vững được.”

*Hào 6: 傾否, 先否, 後喜.
Thượng cửu: Khuynh bĩ, tiên bĩ, hậu hĩ.
Dịch: Hào trên cùng, dương: đánh đổ được cái bĩ, trước còn bĩ, sau thì mừng.
Giảng: Đây là thời cuối cùng của Bĩ mà bĩ cực thì thái lai; người quân tử có tài sẽ dắt cả bạn bè (trỏ hào 4 và 5) mà đánh đổ dược bĩ. Nhưng mới đầu còn phải lo lắng (tiên bĩ) sau mới mừng là bước lên được cảnh Thái rồi.

*Thêm:
Chúng ta để ý: Quẻ Thái, mới đến hào 3, còn thịnh cực mà Dịch đã khuyên phải giữ được chính đáng trong cảnh gian nan (gian trinh); còn quẻ Bĩ, khi mới tới hào 4, mới có mòi sắp hết bĩ mà Dịch đã khuyên là thời đã tới, người quân tử nên thực hiện chí của mình đi. Nghĩa là luôn luôn phải sẵn sàng để nắm ngay lấy cơ hội.

#7 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 28/12/2015 - 11:25

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




13. THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN

Khách quái là Càn (trời). Chủ quái là Li (lửa).

Tượng lửa được tiếp khí sẽ bùng cháy lớn, vượt mọi trở ngại.

Phạm trù: Đối nhân.
Cho đối tượng: Dân chúng.
Tên là ĐỒNG NHÂN: Đồng lòng và chung sức của con người.
Đức của người là sự hòa đồng nhiệt huyết (hỏa), đồng lòng và chung sức . Con người muốn hoàn thành việc lớn cần hòa đồng chung sức với nhau. Phải biết bao dung độ lượng với nhau.
Hình tượng: Lòng dân.

Thoán từ: 同人于野 亨利涉大川利君子貞.
*Hào 1: 同人于門 无咎.
*Hào 2: 同人于宗 吝.
*Hào 3: 伏戎于莽 升其高陵 三歲不興.
*Hào 4: 乘其墉 弗 克攻吉.
*Hào 5: 同人先號咷而 後笑大師克相遇.
*Hào 6: 同人于郊无悔.

Thoán từ: 同人于野 亨利涉大川利君子貞.
Mọi người hòa đồng được với nhau như một cánh đồng bao la rộng lớn thì lợi cho việc vượt sông lớn (thực hiện những việc lớn, khó khăn), và điều này cũng chắc chắn lợi cho việc lãnh đạo của người quân tử.

Hào từ:

*Hào 1: 同人于門 无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Ly. Hòa đồng ở miệng, không có lỗi lầm gì. Tức mới ban đầu mọi người mới đồng thanh, chưa đồng lòng, như vậy cũng chẳng lỗi lầm gì.

*Hào 2: 同人于宗 吝.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Ly. Hòa đồng chỉ trong dòng phái sẽ phải hối tiếc. Tức là tự nhiên có nhiều dòng phái, thời hiện nay có thêm đảng phái, nếu cực đoan chỉ biết dòng phái của mình hay đảng phái của mình lâu dài sẽ bị hối tiếc.

*Hào 3: 伏戎于莽 升其高陵 三歲不興.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Ly. Cất giấu binh khí như trồng cỏ trên gò cao, ba năm chẳng thấy mọc tốt. Tức là để hòa đồng được với nhau thì phải cất binh khí mà không dùng đến.
Chổng quái có chủ quái Hỏa (lửa) nhưng khách quái lại là Thiên (Trời), với ý nghĩa của tự nhiên là lửa cháy luôn hướng lên trời. Vì vậy, đây là ngọn lửa nhiệt huyết bao dung, đồng cam cộng khổ với nhau, cùng nhau hướng thiện, nên không phải là chiến tranh.

*Hào 4: 乘其墉 弗 克攻吉.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Càn. Tiếp hào 3. Trồng cỏ lên trên bờ đất của tường thành nhỏ (thành bằng đất) cũng vậy. Qua đó mà từ bỏ tính hiếu thắng thích dùng binh khí đi thì sự hòa đồng sẽ bền chắc và tốt lành.

*Hào 5: 同人先號咷而 後笑大師克相遇.
Hào dương. Trung vạch khách quái Càn. Gặp nhau mà trước thì khóc lóc sau thì cười vui là sự hòa đồng mà tấm lòng đồng thuận cùng nhau, tìm được chỗ dựa ở nhau, đây là sự hòa đồng tạo lên những quần thể lớn mạnh và đông đúc.

*Hào 6: 同人于郊无悔.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. Hòa đồng càng rộng rãi, càng không có gì phải hối tiếc.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


13. QUẺ THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN

Trên là Càn (trời), dưới là Li (lửa)

Không thể bế tắc, cách tuyệt nhau mãi được, tất phải có lúc giao thông hòa hợp với nhau; cho nên sau quẻ Bĩ tới quẻ Đồng Nhân.
Đồng nhân là cùng chung với người, đồng tâm với người.
Thoán từ:
同人于野, 亨.利涉大川.利君子貞.
Đồng nhân vu dã, hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh.
Dịch: Cùng với người ở cánh đồng (mênh mông) thì hanh thông. (gian hiểm như) Lội qua sông lớn, cũng lợi. Quẻ này lợi cho người quân tử trung chính.
Giảng: li ở dưới là lửa, sáng, văn mình, Càn ở trên là Trời. Quẻ này có tượng lửa bốc lên cao tới trời, cũng soi khắp thế giới (cánh đồng mênh mông có nghĩa đó). Cho nên tốt. dù có hiểm trở gì, cũng vượt được (Phan Bội Châu bảo đó “chính là cảnh tương đại đồng rất vui vẻ”) Muốn vậy phải có được trung chính của người quân tử .
Thoán truyện cùng hào 2 ở nội quái ly, hào âm độc nhất, quan trọng nhất trong 6 hào mà giảng thêm:
Hào đó âm nhu đắc vị (tức là chính) đắc trung, lại ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc vị đắc trung trong ngọai quái Càn, thế là có hiện tượng nội ngọai tương đồng, nên gọi là đồng nhân. Văn minh (Ly) ở phía trong, cương kiện (Càn) tức dụng ở ngoài, mà được cả trung lẫn chính, ứng hợp với nhau, đó là tượng người quân tử thông suốt được tâm tri của thiên hạ.
Đại tượng truyện bàn thêm: Người ta muốn thực hiện được cảnh tượng mọi vật cùng sống chung với nhau thì phải phân biệt từng loại của các chủng tộc, xét kỹ mỗi sự vật (quân tử dĩ loại tộc, biện vật); hễ cùng loại thì đặt chung với nhau và cho mỗi vật được phát triển sở năng, thỏa được sở nguyện, có vậy thì tuy bất đồng mà hòa đồng được.

Hào từ:

*Hào 1: 同人于門, 无咎.
Sơ cửu: Đồng nhân vu môn, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương : Ra khỏi cửa để cùng chung với người thì không có lỗi.
Giảng: Hào dương này, như người quân tử mới bắt đầu ra đời, đã muốn “đồng” (cùng chung) với người khác thì có lỗi, có gì đáng trách đâu?

*Hào 2: 同人于宗, 吝.
Lục nhị: Đồng nhân vu tôn, lận.
Dịch: Hào 2, âm: (chỉ) chung hợp với người trong họ, trong đảng phái, xấu hổ.
Giảng: Hào này tuy đắc trung đắc chính, nhưng ở vào thời Đồng nhân, nên cùng chung với mọi người mà lại chỉ ứng hợp riêng với hào 5 ở trên, như chỉ cùng chung với người trong họ, trong đảng phái của mình thôi, thế là hẹp hòi, đáng xấu hổ.

*Hào 3: 伏戎于莽, 升其高陵, 三歲不興.
Cửu tam: Phục nhung vu mãng,
Thăng kì cao lăng, tam tuế bất hưng.
Dịch: Hào 3, dương : núp quân ở rừng rậm (mà thập thò) lên gò cao, ba năm chẳng hưng vượng được.
Giảng: Hào này muốn hợp với hào 2 (âm) ở dưới, nhưng nó quá cương (dương ở dương vị), lại bất đắc trung, như một kẻ cường bạo; mà 2 đã ứng hợp với 5 ở trên, 3 sợ 5 mạnh nên không dám công kích 2, chỉ núp trong rừng, rình trộm, rồi thập thò lên đồi cao mà ngó (3 ở trên cùng nội quái, nên nói vậy); như vậy ba năm cũng không tiến (hưng lên) được.

*Hào 4: 乘其墉, 弗, 克攻, 吉.
Cửu tứ: thừa kỳ dung, phất, khắc công, cát.
Dịch: Hào 4, dương : cưỡi lên tường đất rồi mà không dám đánh thế là tốt.
Giảng: hào này cũng là dương cương, bất trung, bất chính, cũng muốn hợp với 2, lăng áp 3 mà cướp 2 (hào 3 ở giữa 2 và 4 cũng như bức tường ngăn cách 2 và 4, 4 ở trên 3 như đã cưỡi lên bức tường đó); nhưng tuy cương mà ở vị âm, còn có chút nhu, nên nghĩ lại, không thể lấn áp 3 được, như vậy không nên, cho nên Hào từ bảo “thế thì tốt” .
Tiểu tượng truyện khen là biết phản tắc (反則) tức biết trở lại phép tắc.

*Hào 5: 同人, 先號咷而. 後笑, 大師克相遇.
Cửu ngũ: Đồng nhân, tiên hào đào nhi
Hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.
Dịch: Hào 5, dương: Cùng với người, trước thì kêu rêu, sau thì cười, phải dùng đại quân đánh rồi mới gặp nhau.
Giảng: hào này dương cương trung chính, ứng hợp với hào 2, thật là đồng tâm đồng đức, tốt. Nhưng giữa 5 và 2, còn có hai hào 3 và 4 ngăn cản, dèm pha, phá rối, nên mới đầu phải kêu rêu, phải dùng đại quân dẹp 3 và 4 rồi 2 và 5 mới gặp nhau mà vui cười. Công việc hòa đồng nào mới đầu cũng bị nhiều kẻ ngăn cản như vậy, không dễ dàng thực hiện ngay được, dù là hợp với công lý, với hạnh phúc số đông.

*Hào 6: 同人于郊, 无悔.
Thượng cửu: Đồng nhân vu giao, vô hối.
Dịch: Hào trên cùng, dương : cùng với người ở cánh đồng ngoài đô thành, không hối hận.
Giảng: “Giao” là cánh đồng ngòai đô thành, không rộng bằng “dã” (đồng nội nơi nhà quê). Hào này tuy ở cuối quẻ Đồng nhân, không có hào nào ứng hợp với nó, cho nên chí chưa được thì hành như mình muốn, mới chỉ như cùng với người ở cánh đồng ngoài đô thành thôi, chưa ở giữa quãng đồng nội được.

*Thêm:
Đọc quẻ này, chúng ta rút ra được hai lời khuyên:
- Muốn hòa đồng thì đừng có tinh thần đảng phái; phải tôn trọng đặc tính của mỗi hạng người, khả năng cùng nhu cầu của mỗi người.
- Công việc hòa động mọi người tuy rất chính đáng, mang hạnh phúc cho dân chúng nhưng cũng gian nan, bị nhiều kẻ phá.


-------------------------------------------------------------------




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




14. HỎA THIÊN ĐẠI HỮU

Tượng mặt trời giữa trưa.

Khách quái là Ly (Lửa). Chủ quái là Càn (trời).

Phạm trù: Đối nhân.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là ĐẠI HỮU: Bao dung và rộng lượng.
Đức của trời là bao dung và rộng lượng, cho hết thảy vạn vật dựa vào mà sinh tồn phát triển. Rộng lớn, bao dung độ lượng đã là bản chất của Trời từ khi vũ trụ khởi sinh.
Hình tượng: Vương đạo.

Thoán từ: 大有元亨.
*Hào 1: 无交害匪咎艱則无咎.
*Hào 2: 大車以載有攸往无咎.
*Hào 3: 公用亨于天子小人弗克.
*Hào 4: 匪其彭无咎.
*Hào 5: 厥孚交如威如吉.
*Hào 6: 自天祐之吉无不利.

Thoán từ: 大有元亨.
Người cầm đầu mà có đức tính của Trời là bao dung và rộng lượng thì mọi việc sẽ hanh thông.

Hào từ:

*Hào 1: 无交害匪咎艱則无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Càn. Không vì mình mà hại người, gian nan mà vẫn giữ được phép tắc này mới không phạm sai lầm. Tức là phải biết bao dung với người khác, dù mình bị gian nan, sai lầm cũng không bắt người khác phải gánh chịu hay đổ lỗi cho người ta.

*Hào 2: 大車以載有攸往无咎.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Càn. Xe chở quá nặng gặp du đãng (những người vô công rỗi nghề nay đây mai đó) cũng chẳng lỗi gì. Tức là xe quá nặng, bị du đãng lấy bớt mà đi được thì xem ra lại tốt. Hàm ý những người quá giàu có bị mất mát một ít cho người khác thì nên biết bao dung độ lượng thì mới không có lỗi gì.

*Hào 3: 公用亨于天子小人弗克.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Càn. Như thoái từ. Bao dung độ lượng là đức mà thiên tử phải có khi hành sự, người dân chúng không có cũng chẳng sao.

*Hào 4: 匪其彭无咎.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Ly. Tiếp hào 3. Dân chúng không được mạnh mẽ và thịnh vượng không phải lỗi của họ mà là của bậc thiên tử không có đức bao dung và rộng lượng.

*Hào 5: 厥孚交如威如吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Ly. Lấy bao dung độ lượng để tin nhau thì mối bang giao và uy tín với nhau mới thật sự là tốt lành.

*Hào 6: 自天祐之吉无不利.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Ly. Người cầm đầu tự rèn luyện được đức bao dung và rộng lượng của Trời thì tốt lành và không có gì mà không lợi.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


14. QUẺ HỎA THIÊN ĐẠI HỮU


Trên là Ly (Lửa), dưới là Càn (trời

Đã cộng đồng với mọi người thì mọi người về với mình, mà sở hữu của mình cũng lớn, cho nên sau quẻ Đồng nhân, tới quẻ Đại hữu (có lớn).
Thoán từ:
大有: 元亨.
Đại hữu: Nguyên hanh.
Dịch: Có lớn thì rất hanh thông.
Giảng: ☲ ở trên Càn là lửa ở trên trời, chiếu sáng mọi vật như vậy là “có lớn” Ly lại có nghĩa là văn minh, Càn là cương kiện, gồm cả văn minh và cương kiện cho nên rất hanh thông.
Theo Thoán truyện: Còn một cách giảng nữa: quẻ này chỉ có một hào âm, nó thống lĩnh quần dương, 5 hào dương đều theo nó, có nghĩa là mọi người về với nó, mà nó được “có lớn”. Sở dĩ nó thống lĩnh được vì nó ở ngôi tôn mà lại đắc trung. Nó ứng hợp với hào 2, dương ở giữa quẻ Càn, như vậy nó vừa văn minh vừa cương kiện, ứng với trời (Càn) mà hành động đúng với thời.
Đại tượng truyện khuyên: người quân tử trong quẻ này phải ngăn đón ngay điều dữ khi nó chưa phát hiện, và biểu dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời (át ác dương thiện, thuận thiên hưu mệnh: chữ hưu ở đây là tốt).

Hào từ:

*Hào 1: 无交害, 匪咎; 艱則无咎.
Sơ cửu: Vô giao hại, phỉ cữu; nan tắc vô cửu.
Dịch : Hào 1. dương : chưa làm việc gì tai hại, chưa có lỗi; nhưng phải (cẩn thận) cư xử như gặp lúc gian nan thì mới khỏi lỗi.
Giảng: Đại hữu là có lớn. Hào 1 như con một nhà giàu sang, còn trẻ, chưa làm gì tai hại thì chưa có tội, nhưng vì là con nhà giàu, ít người ưa, nếu lại kiêu căng xa xỉ thì sẽ gây oán ghét, cho nên Hào từ khuyên sống trong cảnh gian nan thì mới khỏi tội.

*Hào 2: 大車以載, 有攸往, 无咎.
Cửu nhị: đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cửu.
Dịch: Hào 2, dương : xe lớn chở nặng, đi chốn nào (ý nói làm gì) cũng được, không có lỗi.
Giảng: Hào này tốt nhất trong quẻ : dương cương mà đắc trung, vừa có tài vừa khiêm tốn, được hào 5, âm ở trên ứng hợp, như được vua hết sức tin dùng sẽ thành công, cho nên ví với cỗ xe lớn chở nặng đi đường xa, đâu cũng tới được.

*Hào 3: 公用亨于天子, 小人弗克.
Cửu tam: Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc.
Dịch: Hào 3, dương : như bậc công (hầu) mở tiệc mời thiên tử hạng tiểu nhân không đương nổi việc đó.
Giảng: Thời xưa chữ [ 亨 ] đọc là hanh (nghĩa là hanh thông) mà cũng đọc là hưởng) nghĩa là hưởng dụng, dâng, yến tiệc, lễ lớn) Chu Hi hiểu là triều hiến. R.Wilhem hiểu là đem đất đai của cải dâng thiên tử, hoặc cho dân chúng.
Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên. Hào 3 này dương cương đắc chính, đứng trên cùng nội quái, cho nên ví với một bậc công; ở vào thời Đại hữu tất có nhiều đất đai, nhân dân; nên bậc thiên tử cũng nể, tới dự tiệc do vị công đó đãi. Những phải là người quân tử, có đức hạnh, không kiêu, mới làm như vậy được; còn hàng tiểu nhân, thấy thiên tử tới nhà mình càng kiêu căng, xa xỉ thì không đương nổi danh dự đó, mà chỉ hại thôi (tiểu nhân hại dã – lời Tiểu tượng truyện)

*Hào 4: 匪其彭, 无咎.
Cửu tứ: phỉ kỳ bành, vô cữu.
Dịch: Hão, dương: đừng làm ra vẻ thịnh vượng (khoe của, sống sang quá) thì không có lỗi.
Giảng: Chữ bành [ 彭 ] ở đây, Trình tử hiểu là thịnh vượng; Phan Bội Châu dẫn câu “Hành nhân bành bành” trong Kinh Thi mà hiểu là rầm rộ. Chúng tôi châm chước hai nghĩa đó mà dịch như trên.
Hào này ở địa vị cao, gần hào 5, mà bất trung , bất chính, e có họa tới nơi, nên Hào từ khuyên phải khiêm tốn, tiết kiệm. Tiểu tượng truyện cũng khuyên phải phân biệt thị phi họa phúc cho rành thì mới khỏi lỗi.

*Hào 5: 厥孚交如, 威如, 吉.
Lục ngũ: quyết phu giao như, uy như, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Lấy đức tin, chí hành mà giao thiệp, và phải có uy thì tốt.
Giảng: Hào này ở vị chí tôn, đượccả 5 hào dương theo, nên phải đem đức tin, lòng chí thành mà đối đãi với người dưới. Nhưng vì là âm, nên ngại rằng quá nhu, nên Hào từ khuyên phải có chút uy mới được.
Tiểu tượng truyện cơ hồ hiểu khác, bảo phải dùng uy vũ, đừng khinh dị mà phải phòng bị đạo tắc (uy như chi cát, dị nhi vô bị dã) .

*Hào 6: 自天祐之, 吉, 无不利.
Thượng cửu: tự thiên hựu chi, cát, vô bất lợi.
Dịch: hào trên cùng, dương : tự trời giúp cho, tốt, không có gì mà chẳng lợi.
Giảng: Ở thời Đại hữu, thịnh trị, hào dương cương này ở trên cùng mà chịu hạ mình theo hào 5, chỉ vì 5 có đức thành tín; như vậy là không kiêu, tuy thịnh mà không đầy tràn, nên được trời giúp cho, hóa tốt, chứ lẽ thường hào cuối cùng, Đại hữu đã đến màn cuối, khó mà tốt được.

*Thêm:
Khổng tử đọc tới hào này bảo: “Trời sở dĩ giúp cho là vì thuận với đạo trời; người sở dĩ giúp cho là vì có lòng thành tín” . Ông muốn nói hào 5 được các hào khác giúp là vì có lòng thành tín; còn hào trên cùng được trời giúp vì thuận với đạo trời: trọng người hiền (hào 5) không kiêu.
Quẻ này khuyên chúng ta sống trong cảnh giàu có, nên khiêm, kiệm: giao thiệp với người , nên chí thành.
Phan Bội Châu nhận xét rằng trong 64 quẻ , không quẻ nào tốt đều như quẻ này: hào 1, 2, 3 đều không có lỗi, hào 4 được hanh thông, hào 5 tốt, hào 6 đã tốt hơn nữa, “không có gì mà chẳng lợi”. Ngay đến quẻ Càn, quẻ Thái hào cuối cùng cũng xấu, kém quẻ này. Đại hữu chính là thời thịnh trị sau thời đại đồng.

Thanked by 1 Member:

#8 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 29/12/2015 - 10:58

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




15. ĐỊA SƠN KHIÊM

Khách quái là Khôn (đất). Chủ quái là Cấn (núi).

Tượng là núi đất, do vậy, thấp và mềm nên gọi là KHIÊM.

Phạm trù: Hành sự.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là KHIÊM: nhún nhường, khiêm nhường.
Hình tượng: Trước nhường sau nhịn.


Thoán từ: 謙亨君子有終.
*Hào 1: 謙謙君子用涉大川 吉.
*Hào 2: 鳴謙貞吉.
*Hào 3: 勞謙君子有終吉.
*Hào 4: 无不利撝謙.
*Hào 5: 不富以其鄰利用侵伐无不利.
*Hào 6: 鳴謙利用行師征邑國.

Thoán từ: 謙亨君子有終.
Nhún nhường sẽ hanh thông nếu người quân tử trước sau đều nhún nhường.

Hào từ

*Hào 1: 謙謙君子用涉大川 吉.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Nhún nhường và nhường nhịn người quân tử nên dùng để dẫn dắt người dân vượt sông lớn (làm những việc khó khăn).

*Hào 2: 鳴謙貞吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Làm cho mọi người đều biết mình biết nhún nhường thì chỉ có tốt lành.

*Hào 3: 勞謙君子有終吉.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Kiêm nhường dù khó nhọc mà người quân tử vẫn trước sau đều khiêm nhường là tốt lành (như thoái từ).

*Hào 4: 无不利撝謙.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Không gì là không lợi khi tỏ ra kiêm nhường.

*Hào 5: 不富以其鄰利用侵伐无不利.
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Khiêm nhường thì chẳng giầu mà có thể sai khiến được nước láng giềng, từ đó lợi dụng khiêm nhường để chinh phạt kẻ không phục mình không gì là không lợi.

*Hào 6: 鳴謙利用行師征邑國.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. Khi đã có tiếng là khiêm nhường, có thể lợi dụng điều này để rời đất của mình mà đến kinh đô kiến tạo sự nghiệp lớn (Tham chiếu chồng quái ĐỊA THỦY SƯ).


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


15. QUẺ ĐỊA SƠN KHIÊM

Trên là Khôn (đất), dưới là Cấn (núi)

Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm.
Thoán từ
謙: 亨, 君子有終.
Khiêm: Hanh, quân tử hữu chung.
Dịch: Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối.
Giảng: Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông.
Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ.
Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người .
Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.
Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí).

Hào từ

*Hào 1: 謙謙君子, 用涉大川, 吉.
Sơ lục: khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát.
Dịch : Hào 1, âm – Nhún nhường, nhún nhường, người quân tử dùng đức ấy để qua sông lớn thì tốt.
Giảng: Hào này âm như mà lại ở dưới cùng, thật là khiêm hạ, dầu gặp hoàn cảnh hiểm nguy nào cũng vượt được.
Tiểu tượng truyện khuyên người quân tử trau giồi tư cách mình bằng đức khiêm hạ, (Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục)

*Hào 2: 鳴謙, 貞吉.
Lục nhị: Minh khiêm, trinh cát.
Dịch:Hào 2, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức khiêm, nếu chính đáng thì tốt.
Giảng: hào này nhu thuận, đắc trung, đắc chính, rất tốt, cho nên bảo là tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm. Nhưng ngại tiếng tăm lừng lẫy thì dễ ham danh, mà hóa ra quá khiêm đến mức giả nhún nhường hoặc nịnh bợ), nên Hào từ khuyên phải giữ đức trung, chính (trinh) của hào 2 thì mới tốt.

*Hào 3: 勞謙, 君子 有終, 吉.
Cửu tam: Lao khiêm, quân tử hữu chung, cát.
Dịch: Hào 3, dương : Khó nhọc (có công lao) mà nhún nhường, người quân tử giữ được trọn vẹn, tốt.
Giảng: hào này có đức dương cương, làm chủ cả quẻ, năm hào âm đều trông cậy vào, như người có địa vị (ở trên cùng nội quái), có tài năng (hào dương ) mà khiêm tốn (vì ở trong quẻ Khiêm), không khoe công, nên càng được mọi người phục, mà giữ được địa vị, đức độ tới cùng.
Theo Hệ từ thượng truyện chương VIII, Khổng tử đọc hào này, giảng thêm: “Khó nhọc mà không khoe khoang, có công với đời mà chẳng nhận là ân đức, đức như vậy là cực dày”.

*Hào 4: 无不利, 撝謙.
Lục tứ: vô bất lợi, huy khiêm.
Dịch: Hào 4, âm: Phát huy sự nhún nhường thì không gì là không lợi.
Giảng: Hào này nhu thuận mà đắc chính, tốt đấy, nhưng vì ở trên hào 3 là người có công lao, mà lại ở gần hào 5, là vua, nên càng phải phát huy thêm đức khiêm, mới tránh được mọi khó khăn mà không gì là không lợi.

*Hào 5: 不富以其鄰, 利用侵伐, 无不利.
Lục ngũ: Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt, vô bất lợi.
Dịch: Hào 5, âm: chẳng cần giàu (có thế lực) mà thâu phục đựơc láng giềng (được nhiều người theo); nhưng phải có chút uy, chinh phạt kẻ nào chưa phục mình thì mới không gì là không lợi.
Giảng: Hào này âm nhu, đắc trung, ở địa vị chí tôn, nên tự nhiên thâu phục được nhiều người, nhưng nếu nhu quá, thiếu uy thì không phải là tư cách một ông vua, nên Hào từ khuyên nên dùng uy võ đối với kẻ nào chưa phục mình. Hào này có thể dùng uy được vì ở vị dương (lẻ).

*Hào 6: 鳴謙, 利用行師, 征邑國.
Thượng lục: Minh khiêm, lợi dụng hành sư, chính ấp quốc.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm, được nhiều người theo có thể lợi dụng điều đó mà ra quân, nhưng cũng chỉ trị được những kẻ trong ấp của mình không phục mình thôi.
Giảng: hào này thể nhu, vị nhu, ở vào thời cuối cùng quẻ Khiêm, cho nên khiêm nhu cùng vực, tiếng tăm lừng lẫy, nhiều người theo đấy; nhân đó mà có thể ra quân chinh phạt những kẻ không theo mình, nhưng vì tài kém, nên chỉ trị được những kẻ trong ấp mình thôi, chưa thỏa chí được.

*Thêm:
Quẻ này hào nào cũng tốt không nhiều thì ít, không kém quẻ Đại hữu bao nhiêu.
Đa số các triết gia Trung Hoa rất đề cao đức Khiêm, nhất là Khổng tử và Lão tử, vì họ cho rằng luật trời hễ đầy quá thì vơi, trong khi đầy phải nghĩ tới lúc sẽ vơi, phải khiêm hạ, đừng tự phụ.
Không thể dẫn hết những châm ngôn của Trung Hoa về đức khiêm được; trong quẻ này chúng ta đã thấy được mấy câu như Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm, nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm, khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục. Trong Đạo đức kinh, cũng rất nhiều câu, như: Hậu kỳ thân nhi thân tiên; Qúi dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ; Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi: Bất cảm vi thiên hạ tiên . .
Nhưng khiêm nhu của Lão tử có vẻ triệt để, tuyệt nhiên không tranh hơn với ai, mà khiêm nhu trong Dịch thì không thái quá, vẫn trọng đức trung (hào 2).


-----------------------------------------------------------------------



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



16. LÔI ĐỊA DỰ

Khách quái là Chấn (sấm sét,). Chủ quái là Khôn (đất)

Tượng sấm trong đất. Tượng che dấu ý chí sắt đá trong hành vi nhu thuận, hay thay đổi một cách có tính toán.

Phạm trù: Hành sự.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là DỰ: Do dự, dự liệu, giữ cho yên vui.
Người quân tử khi hành sự phải lấy giữ yên làm gốc. Do vậy, trong hành động cần có tính toán dự liệu rà đi xét lại cẩn thận, và phải biết lấy mềm thắng cứng thì mới giữ yên được thiên hạ.
Hình tượng: Trong ấm ngoài êm.

Thoán từ: 豫利建侯 行師.
*Hào 1: 鳴豫 凶.
*Hào 2: 介于石不終日貞吉.
*Hào 3: 盱豫悔遲有悔.
*Hào 4: 由豫大有得勿疑朋盍簪.
*Hào 5: 貞疾恆不死.
*Hào 6: 冥豫成有渝无咎.

Thoán từ: 豫利建侯 行師.
Biết dự liệu trước sau lợi cho xưng hầu bá và trong điều hành ở kinh sư.

Hào từ:

*Hào 1: 鳴豫 凶.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Mới dự liệu mà để cho người khác biết thì nguy.

*Hào 2: 介于石不終日貞吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Chí vững như đá (không lo lắng, xao động), nhưng đừng cả ngày không do dự thì mới chắc chắn tốt.

*Hào 3: 盱豫悔遲有悔.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 2. Nhưng vừa lo lắng vừa do dự sẽ hối tiếc, lại còn chậm chạp không thay đổi sẽ càng hối tiếc.

*Hào 4: 由豫大有得勿疑朋盍簪.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Dùng do dự thì sẽ có được vương đạo (ĐẠI HỮU là hình tượng của vương đạo) nhưng chớ có nghi ngờ bạn bè phò trợ mới mau thành tựu.

*Hào 5: 貞疾恆不死.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Có tật hay do dự thường khó chết.

*Hào 6: 冥豫成有渝无咎.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Dự liệu kín đáo để thay đổi cho đúng sẽ không có lỗi.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

16. QUẺ LÔI ĐỊA DỰ

Trên là Chấn (sấm sét,) dưới là Khôn (đất)

Đã Đại hữu mà lại Khiêm thì tất nhiên là vui vẻ, sung sướng, cho nên sau quẻ Khiêm, tới quẻ Dự (vui, sướng).
Thoán từ :
豫: 利建侯, 行師.
Dự: Lợi kiến hầu, hành sư.
Dịch: vui vẻ: Dựng tước hầu (để trị dân), ra quân thì tốt.
Giảng: Có ba cách giảng ý nghĩa quẻ này.
- Chấn ở trên, Khôn ở dưới, có nghĩa là ở trên thì động, hành động; ở dưới thuận theo, như vậy tất vui vẻ.
- Sấm ở trên đất, nghĩa là khí dương phát động (chấn thuộc dương) mà muôn vật ở trên phát sinh, cũng là cảnh tượng vui vẻ.
- Quẻ này chỉ có một hào dương (hào 4), 5 hào âm đều theo nó, nó làm chủ trong quẻ , như một người tài đức, làm việc gì cũng thuận cả, tất thành công, sẽ vui vẻ, an ổn.
- Thuận với lẽ tự nhiên thì dù trời đất cũng nghe theo, huống hồ là việc dựng tước hầu, ra quân, dân há lại không theo.
- Thoán truyện bàn rộng thêm: Cái đạo thuận lẽ mà hành động đó là đạo trời, cho nên mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng ban ngày ban đêm, không bao giờ lầm; bốn mùa thay nhau chẳng bao giờ sai. Thánh nhân thuận lẽ mà hành động thì hình phạt không phiền phức mà dân chúng phục tòng.

Hào từ:

*Hào 1: 鳴豫, 凶.
Sơ lục: Minh dự, hung.
Dịch: Hào 1, âm: Khoe mình vui sướng một cách ồn ào, xấu.
Giảng: Chữ Dự, tên quẻ có nghĩa là trên dưới thuận nhu hành động mà cùng vui vẻ; còn chữ dự trong các hào thì có nghĩa là cá nhân vui vẻ.
Như hào âm nhu ở dưới cùng này, bất trung, bất chính, là một tiểu nhân, ỷ có hào 4 cương kiện và có địa vị ở trên ứng viện, lấy làm đắc ý, bộc lộ nỗi sung sướng của mình một cách ồn ào, thế là kiêu mạn, xấu.

*Hào 2: 介于石, 不終日, 貞吉.
Lục nhị: giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.
Dịch: Hào 2, âm: Chí vững như đá, chẳng đợi hết ngày (mà ứng phó ngay), chính đính, bền, tốt.
Khổng tử, theo Hệ từ hạ truyện, Chương V, cho rằng người quân tử biết trước được triệu chứng từ khi mới có dấu hiệu, cho nên ứng phó mau, giao tiếp với kẻ trên thì không nịnh, với kẻ dưới thì không nhờn, biết lúc nào nên nhu, lúc nào nên cương.

*Hào 3: 盱豫, 悔遲, 有悔.
Lục tam: Hu dự, hối trì, hữu hối .
Dịch: Hào 3, âm: Ngửa mặt lên trên (mong được phú quí) mà vui mừng, như vậy thế nào cũng ăn năn, mà sửa đổi chậm, lại càng ăn năn hơn.
Giảng: Hào này cũng bất trung, bất chính, như kẻ tiểu nhân ngó lên trên là hào 4 dương cương, mong được phú quí mà vui mừng; không sớm rút chân ra khỏi cái bẩy quyền thế thì sẽ ân hận lớn.

*Hào 4: 由豫, 大有得; 勿疑, 朋盍簪.
Cửu tứ: Do dự, đại hữu đắc; vật nghi, bằng hạp trâm.
Dịch: Hào 4, dương : người khác nhờ mình mà vui, mình có thể thành công lớn được; cứ hết lòng chí thành, đừng nghi ngờ thì các bạn thanh khí sẽ lại giúp mình đông mà chóng.
Giảng: Hào này làm chủ trong quẻ , có tài, có địa vị cao, lại được hào 5 (vua) hết lòng tin, nên tạo hạnh phúc được cho người , thành công lớn được.
Nhưng là hào dương độc nhất trong quẻ một mình đảm đương gánh nặng, có lúc chán nản, nghi ngờ, nên Hào từ khuyên cứ chí thành, thì sẽ có nhiều bạn tới giúp.

*Hào 5: 貞疾, 恆, 不死.
Lục ngũ: Trinh tật, hằng, bất tử.
Dịch: hào 5, âm : Bệnh hoài, dai dẳng nhưng không chết.
Giảng: Hào 5, ở địa vị chí tôn, nhưng âm nhu, và có hào 4 được lòng dân, gánh hết việc thiên hạ, chuyên quyền; 5 chẳng phải làm gì cả, chỉ chìm đắm trong cảnh hoan lạc (vì ở thời Dự), nên ví với một người bị bệnh hoài. Nhưng may là có 5 đắc trung mà 4 cũng không áp bức, nên vẫn giữ được hư vị, cũng như bị bệnh dai dẳng mà không chết.
Phan Bội Châu cho hào 5 này đúng là trường hợp các vua Lê nhu nhược bị chúa Trịnh chuyên quyền, nhưng vẫn giữ được hư vị.

*Hào 6: 冥豫,成有渝, 无咎.
Thượng lục: Minh dự, thành hữu du, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, âm: mê tối vì hoan lạc, nhưng nếu biết sửa đổi nết xấu thì không lỗi.
Giảng: hào này âm nhu, bất trung bất chính, lại ở thời cuối quẻ Dự, cho nên ví với người mê tối vì hoan lạc. Nhưng cũng may, hào này ở trong ngoại quái Chấn, Chấn có nghĩa là động, có hy vọng nhúc nhích tự cường được, như vậy sẽ không xấu.

*Thêm:
Chúng ta nhận thấy tên quẻ là Vui, mà sáu hào chỉ có hai hào (2 và 4) là tốt, còn 4 hào kia xấu nhiều hay ít cả, xấu nhất là hào 1 vì kiêu mạn, khoe khoang ồn ào cái vui bất chính của mình; mà tốt nhất là hào 2, vì không ham vui mà giữ vững chí mình.
Phan Bội Châu dẫn câu “Sinh ư ưu hoạn, nhi tử ư an lạc” của Mạnh tử để kết, là tóm tắt được triết lý của quẻ này. Quốc gia cũng như cá nhân, hễ sống trong cảnh vui sướng, vui vẻ quá thì sẽ mau chết.

Thanked by 1 Member:

#9 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 30/12/2015 - 11:28

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




17. TRẠCH LÔI TÙY

Khách quái là Đoài (chằm). Chủ quái là Chấn (động, sấm sét)

Tượng sét đánh xuống đầm, có hiệu quả hay không tùy theo đánh xuống nước hay trên bờ.

Phạm trù: Hành sự. Lấy động chế tĩnh.
Cho đối tượng: Người cầm đầu.
Tên là TÙY: Tùy theo.
Hình tượng: Tùy cơ ứng biến.

Thoán từ: 隨 元 亨 利 貞 无咎.
*Hào 1: 官有渝貞吉出門交有功.
*Hào 2: 係小子失丈夫.
*Hào 3: 係丈夫失小子隨有求得 利居貞.
*Hào 4: 隨有獲貞凶有孚 在道 以明何咎.
*Hào 5: 孚于嘉吉.
*Hào 6: 拘係之乃從維之王用亨于西山.

Thoán từ: 隨 元 亨 利 貞 无咎.
Người dẫn đầu biết tùy cơ ứng biến thì hanh thông, lợi và chắc chắn không có lỗi.

Hào từ:

*Hào 1: 官有渝貞吉出門交有功.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. Nếu việc công cần phải giao du mới chắc chắn tốt, thì nên ra khỏi cửa mà giao thiệp sẽ thành công. Tức là phải biết tùy theo yêu cầu của công việc mà có phương thức thực hiện đúng thì mới thành công.

*Hào 2: 係小子失丈夫.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Đi cùng đứa trẻ con thì đừng như ông già.

*Hào 3: 係丈夫失小子隨有求得 利居貞.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Tiếp ý hào 2. Đi cùng ông già thì đừng như đứa trẻ con. Phải biết tùy theo đi cùng ai mà ứng xử thì được lợi và chắc chắn yên ổn. Tức là người cầm đầu phải biết tùy theo thời cơ và hoàn cảnh mà có hành xử đúng mực mới đảm bảo thành công.

*Hào 4: 隨有獲貞凶有孚 在道 以明何咎.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 3. Nếu không vậy mà lại tùy theo mong muốn của mình thì chỉ có nguy. Có lòng tin vào đạo lý thì phải sáng suốt, không nên lỗi lầm như vậy.

*Hào 5: 孚于嘉吉.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 4. Có lòng tin vào đạo lý sẽ mang lại phúc lành thì tốt..

*Hào 6: 拘係之乃從維之王用亨于西山.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Bị bắt buộc mãi thì chi bằng tùy theo nó. Vương nên dùng cách này mà hưởng đất Tây Sơn.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

17. QUẺ TRẠCH LÔI TÙY

Trên là Đoài (chằm), dưới là Chấn (động, sấm sét)

Dự là vui vẻ, vui vẻ thì có nhiều người theo nên tiếp sau là quẻ Tùy. Tùy là theo.
Thoán từ
隨: 元, 亨, 利, 貞, 无咎.
Tùy: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vô cữu.
Dịch: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi, không có lỗi.
Giảng: Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó là cái tượng hành động mà được người vui theo.
Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là tùy.
Lời thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ “vô cữu” (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là “đức” (tính cách) của Tùy; còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không có lỗi.
Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh đều là điều kiện để “Tùy” có lợi mà không có lỗi. Theo người nhưng phải theo cái hay, theo đạo ; người có rất thiện (nguyên) , việc có thông thuận (hanh), có cái lợi công (lợi), thì mới nên theo, và khi theo thì phải giữ tiết tháo (trinh) thì mới không có lỗi.
Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa.
Thoán truyện bàn rộng thêm, đưa một điều kiện nữa: Theo mà phải đúng thời mới được. Ví dụ thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó. (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai!)

Hào từ:

*Hào 1: 官有渝, 貞吉, 出門交有功.
Sơ cửu: Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công.
Dịch: Hào 1, dương : chủ trương thay đổi, hễ chính thì tốt, ra ngoài giao thiệp thì có công.
Giảng: chữ “quan” ở đây có nghĩa là chủ, chữ “du” có nghĩa là thay đổi . Chu Hi hiểu là chủ trương thay đổi. Phan Bội Châu hiểu là cái thể của mình thay đổi, vì hào 1 là dương đáng lẽ làm chủ hai hào âm ở trên, nhưng ngược lại phải tùy hai hào đó (vì hào dương ở dưới cùng).
Hiểu theo cách nào thì vẫn : cứ chính đáng, theo lẽ phải, thì tốt (trinh cát). Đừng theo tư tình, mà theo người ngoài (xuất môn) nếu họ phải , thì thành công.

*Hào 2: 係小子, 失丈夫.
Lục nhị: Hệ tiểu tử, thất trượng phu.
Dịch: Hào 2, âm: Ràng buộc với kẻ thấp kém (nguyên văn là : con nít) mà mất kẻ trượng phu.
Giảng: Hào này âm nhu,không biết giữ mình, gần đâu tùy đấy, nên ràng buộc với hào 1 dương (tiểu tử), mà bỏ mất hào 5 cũng dương , ở trên, ứng hợp với nó.
Quẻ này, hễ là hào âm thì không dùng chữ tùy là theo, mà dùng chữ hệ là ràng buộc, có ý cho rằng âm nhu thì vì tư tình, hoặc lợi lộc mà quấn quít, còn dương cương thì vì chính nghĩa mà theo.

*Hào 3: 係丈夫, 失小子; 隨有求得, 利居貞.
Lục tam: Hệ trượng phu, thất tiểu tử;
Tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.
Dịch: Hào 3, âm: Ràng buộc với trượng phu, bỏ kẻ thấp kém; theo như vậy cầu xin cái gì thì đựơc đấy, nhưng phải chính đáng mới có lợi.
Giảng: Hào này cũng âm nhu như hào 2, gần đầu thân cận đấy, cho nên thân với hào 4 dương cương, có địa vị ở trên (tức với trượng phu) mà bỏ hào 1 (tiểu tử). Nó xin 4 cái gì cũng được vì 4 hơi có thế lực; nhưng Hào từ khuyên đừng xu thế trục lợi, phải giữ tư cách chính đáng thì mới tốt.

*Hào 4: 隨有獲, 貞凶.有孚, 在道, 以明何咎.
Cửu tứ: Tùy hữu hoạch, trinh, hung.
Hữu phu, tại đạo, dĩ minh hà cữu.
Dịch: Hào 4, dương : Theo thì thu hoạch được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà cũng có thể gặp hung được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lý, lấy đức sáng suốt mà ứng phó thì không có lỗi.
Giảng: Hào này như một vị cận thần, được vua tin cậy (5 và 4 cùng là dương cả), ở vào thời Tùy là thiên hạ theo mình, như vậy thu hoạch được lớn (có thể hiểu là được lòng dân, hoặc lập được sự nghiệp); nhưng chính vì vậy mà có thể gặp hung (chẳng hạn bị ngờ là chuyên quyền, bị vua ganh ghét như Nguyễn Trãi). Cho nên Hào từ khuyên giữ lòng chí thành theo đạo lý sáng suốt ứng phó (nghĩa là có đủ ba đức: tín, nhân, trí) thì mới khỏi lỗi.

*Hào 5: 孚于嘉, 吉.
Cửu ngũ: phu vu gia, cát.
Dịch: Hào 5, dương. Tín thành với điều thiện thì tốt.
Giảng: Hào 5, dương cương, ở vị tôn, trung và chính, lại ứng hợp với hào 2, cũng trung chính, cho nên rất tốt. “Gia” , điều thiện, ở đây là đức trung chính.

*Hào 6: 拘係之, 乃從維之.王用亨于西山.
Thượng lục: câu hệ chi, mãi tòng duy chi.
Vương dụng hanh vu Tây Sơn.
Dịch: Hào trên cùng, âm. Ràng buộc lấy, theo mà thắt chặt lấy; Thái Vương nhà Chu, được nhân tâm như vậy mới lập được nghiệp vương hanh thịnh ở Tây sơn (tức Kỳ sơn).
Giảng: Hào này ở cuối quẻ Tùy, là được nhân tâm theo đến cùng cực, như thắt chặt với mình, như vua Thái Vương nhà Chu, lánh nạn rợ Địch, bỏ ấp Mân mà chạy sang đất Kỳ Sơn (năm -1327), người ấp Mân già trẻ trai gái dắt díu nhau theo, đông như đi chợ.
Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch câu: “Vương dụng hanh vu Tây sơn” như vậy.
Chu Hi bảo chữ [ 亨 ] phải đọc là hưởng và hiểu là : vua dùng ý thành mà làm tế hưởng ở đất Tây Sơn.
J. Legge cũng dịch như Chu Hi. R.Wilhem cũng đọc là hưởng mà hiểu khác nữa: Vua cho những công thần được phụ hưởng (thờ chung với tổ tiên nhà Chu) ở nhà Thái Miếu tại Tây Sơn.

*Thêm:
Quẻ này khuyên chúng ta chỉ nên theo chính nghĩa (chứ đừng vì tư tình, vì lợi) và biết tùy thời, như vậy thì tốt tới cùng được (hào cuối, đạt đến cực điểm mà vẫn không xấu.)



-------------------------------------------------------------------------------



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



18. SƠN PHONG CỔ

Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Tốn (gió).

Tượng là gió thổi núi mòn. Gió thổi lâu dài sẽ khiến núi phải thay hình đổi dạng.

Phạm trù: Hành sự. Lấy động chế tĩnh.
Cho đối tượng: Người cầm đầu.
Tên là CỔ: Cổ xúy, cổ động.
Hình tượng: Nối gót cha ông.

Thoán từ: 蠱元亨 利涉大川先甲三日 後甲三日.
*Hào 1: 幹父之蠱有子考无咎 厲 終吉.
*Hào 2: 幹母之蠱 不可貞.
*Hào 3: 幹父之蠱 小有悔 无大咎.
*Hào 4: 裕父之蠱 往見吝.
*Hào 5: 幹父之蠱 用譽.
*Hào 6: 不事王侯高尚 其事.

Thoán từ: 蠱元亨 利涉大川先甲三日 後甲三日.
Người cầm đầu có khả năng cổ súy người theo mình thì sẽ hanh thông. Ích lợi khi vượt sông lớn. Cổ súy cần nắm rõ hai chữ 津 tân (trước giáp ba ngày) là thấm nhuần và 丁 đinh (sau giáp ba ngày) là kỹ càng.

Hào từ:

*Hào 1: 幹父之蠱有子考无咎 厲 終吉.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Dùng công lao của người cha để cổ súy những người có cha đã già thì không có lỗi nhưng khó khăn, chung cuộc mới tốt.

*Hào 2: 幹母之蠱 不可貞.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Dùng công lao của người mẹ để cổ súy cũng được nhưng kết quả không chắc chắn.

*Hào 3: 幹父之蠱 小有悔 无大咎.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Nâng cao công lao của người cha để cổ xúy cho mọi người, có chút hối hận những không có lỗi lớn.

*Hào 4: 裕父之蠱 往見吝.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Dùng sự khoan dung của người cha ra cổ súy sau khi đã vượt qua khó khăn nguy hiểm thì sẽ thấy hối hận.

*Hào 5: 幹父之蠱 用譽.
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Dùng công lao của người cha để cổ súy sau khi đã vượt qua khó khăn nguy hiểm thì cần phải có thêm lời khen ngợi (mới tốt).

*Hào 6: 不事王侯高尚 其事.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Cổ súy sau khi đã vượt qua khó khăn nguy hiểm không nên hành xử như mình là bậc vương hầu, mà lấy sự cao thượng làm nguyên tắc hành xử.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


18. QUẺ SƠN PHONG CỔ


Trên là Cấn (núi), dưới là Tốn (gió)

Vui theo thì tất có công việc làm, cho nên sau quẻ Tùy, tới quẻ Cổ. Cổ có hai nghĩa: đổ nát và công việc. Hễ đổ nát thì phải sửa sang lại, thế là có công việc.
Thoán từ:
蠱: 元亨, 利涉大川.先甲三日, 後甲三日.
Cổ: Nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên
Tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật.
Dịch: Đổ nát mà làm lại mới thì rất tốt, vượt qua sông lớn thì lợi. Ba ngày trước ngày giáp (nghĩa là phải tìm nguyên nhân từ trước), ba ngày sau ngày giáp (phải nghĩ đến tương lai nên thể nào).
Giảng: Quẻ này trên là núi, dưới là gió, gió đụng núi, quật lại, đó là tượng loạn, không yên, tất phải có công việc.
Cũng có thể giảng như sau: tốn ở dưới là thuận, mà Cấn ở trên là ngưng chỉ; người dưới thì thuận mà người trên cứ ngồi im; hoặc người dưới một mực nhu, người trên một mực cương (Tốn thuộc âm, mà hào 1 cùng là âm, còn Cấn thuộc dương, mà hào cuối cùng thuộc dương ), để nén người dưới, như vậy mọi sự sẽ đổ nát, phải làm lại.
Đổ nát mà làm lại thì rất nên, rất tốt; phải xông pha nguy hiểm, nhưng rồi sẽ có lợi.
Tuy nhiên phải suy nghĩ, có kế hoạch trước sau. Ví dụ bắt tay vào việc là ngày giáp, thì phải nghĩ tới ba ngày trước ngày giáp, tức ngày tân [辛], tìm xem vì lẽ gì mà có sự đổ nát, và muốn đổi cũ sang mới (mới cũng là tân, nhưng chữ tân này [新], người Trung Hoa thường có cách mượn một chữ đồng âm để diễn một ý khác) thì phải làm sao. Rồi lại nghĩ đến ba ngày sau, tức ngày đinh [ 丁] , mà đinh ninh (chữ [丁 寧] này) phòng bị cho tương lai.
Làm lại mới mà được như vậy thì rất tốt.
Thoán truyện và Đại tượng truyện không giảng gì khác.

Hào từ:

*Hào 1: 幹父之蠱, 有子, 考无咎, 厲, 終吉.
Sơ lục: Cán phụ chi cổ, hữu tử, khảo vô cữu , lệ, chung cát.
Dịch: Hào 1, âm: Sửa sang sự đổ nát của cha; nhờ con mà cha không lỗi; nhưng cũng có thể nguy đấy, phải biết răn sợ, sau mới tốt.
Quẻ Cổ này lấy việc trong nhà làm thí dụ, nên nói đến cha, con.

*Hào 2: 幹母之蠱, 不可貞.
Cửu nhị: Cán mẫu chi cổ, bất khả trinh.
Dịch: Hào 2, dương : Sửa sang sự đổ nát của mẹ, không nên cố chấp (trinh)
Giảng: Hào này dương cương, đắc trung, trên ứng với hào 5 âm nhu, nên ví như con (2) với mẹ (5). Hào 2 có tài, sửa sang được, nhưng tính cương cường, có thể xung đột với 5, cho nên Hào từ khuyên đừng cố chấp mà phải mềm dẻo.

*Hào 3: 幹父之蠱, 小有悔, 无大咎.
Cửu tam: Cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.
Dịch: Hào 3, dương: sửa sang sự đổ nát của cha, có chút hối hận những không có lỗi lớn.
Giảng: Hào này là dương lại ở vị dương, là quá cương, nóng nảy, không hợp đạo trung cho nên làm vài việc đáng ăn năn; nhưng làm nổi việc, đắc chính, nên không đến nỗi có lỗi lớn.
Ví như người con trung ngôn, trực gián mà giữ được đạo lý cho cha.

*Hào 4: 裕父之蠱, 往見吝.
Lục tứ: Dụ phụ chi Cổ, vãng kiến lận.
Dịch: Hào 4, âm: (Vì dùng dằng mà chỉ) kéo dài sự đổ nát của cha, nếu cứ như vậy hoài thì sẽ hối tiếc.
Giảng: Hào âm, nhu lại ở vị âm, là người thiếu nghị lực, nhút nhát, không dám cương quyết sửa sự đổ nát của cha, để cho nó kéo dài hoài thì xấu cho cả gia đình mà phải hối hận.

*Hào 5: 幹 父之蠱, 用譽.
Lục ngũ: Cán phụ chi cổ, dụng dự
Dịch: Hào 5, âm: sửa sự đổ nát cho cha, mà được tiếng khen.
Giảng: Âm nhu ở ngôi chí tôn, không đủ tài sáng nghiệp, nhưng nhờ có đức trung mà ở dưới ứng với hào 2, dương cương là người có tài, sửa sự đổ nát được, rốt cuộc thành công, cả hai được tiếng khen.

*Hào 6: 不事王侯, 高尚 其事.
Thượng cửu: Bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.
Dịch: Hào trên cùng, dương : Không xu phụ bậc vương hầu, mà nêu cao tư cách (đức của mình.)
Giảng: Hào này dương cương ở trên hào 5, như một vị hiền nhân quân tử cao khiết, ở ngoài mọi việc, không màng phú quí, không xu phụ vương hầu, giữ chí hướng của mình làm phép tắc trong thiên hạ.

*Thêm:
Người Trung Hoa rất trọng đức hiếu, mà có hiếu trước hết là giữ được danh dự cho gia đình, làm vẻ vang cho tổ tiên, cho nên nếu cha mẹ làm điều gì trái đạo lý thì con có bổn phận can ngăn (cha có con như vậy là nhà có phúc), nếu còn nhu nhược quá, dùng dằng không dám can thì có lỗi lớn; nếu cương cường quá mà xung đột với cha mẹ thì có lỗi, nhưng nhẹ, tốt nhất là giữ đạo trung, mềm mỏng mà kiên trì, ngoài nhu mà trong cương.
Quẻ này kết một cách bất ngờ: hào trên cùng không nói gì về việc sửa sang sự đổ nát cả, mà chỉ khen bậc hiền nhân treo gương danh tiết cho thiên hạ soi.
Nên để ý: Cổ là đổ nát, rất xấu mà thoán từ khen là tốt, chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân, mà canh tân là điều rất tốt. Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc cùng mà không bắt đầu trở lại.

Thanked by 2 Members:

#10 Vongkiep

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 840 Bài viết:
  • 738 thanks

Gửi vào 30/12/2015 - 19:08

Câu "tiên giáp tam nhật,hậu giáp tam nhật" Ông giải rất hay.

Nguyên lúc ban đầu,Kinh Dịch là bộ sách bói,nên không bị ngọn lửa của Tần Thuỷ Hoàng thiêu mất.

Trình Di và Chu Hy đâu có biết bói,nên khi giảng Dịch rất khiên cưỡng.

Tôi ủng hộ Ông nên đi theo hướng này!

Thanked by 2 Members:

#11 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 31/12/2015 - 07:10

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vongkiep, on 30/12/2015 - 19:08, said:

Câu "tiên giáp tam nhật,hậu giáp tam nhật" Ông giải rất hay.

Nguyên lúc ban đầu,Kinh Dịch là bộ sách bói,nên không bị ngọn lửa của Tần Thuỷ Hoàng thiêu mất.

Trình Di và Chu Hy đâu có biết bói,nên khi giảng Dịch rất khiên cưỡng.

Tôi ủng hộ Ông nên đi theo hướng này!


Hình ảnh đại diện cho SƠN PHONG CỔ:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Gió thổi núi mòn. Giống cổ người, nơi phát ra tiếng nói để cổ động cổ súy. Rất rõ hai chữ thấm nhuần và kỹ càng.

Thanked by 1 Member:

#12 NgocHoaVT

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 683 Bài viết:
  • 1832 thanks

Gửi vào 31/12/2015 - 09:36

Bác binhlq

Hai chữ: MẬT MÃ, bác có thể giải nghĩa theo cách của Bác được không ạ?

Cháu đọc từ bài #1 => #9, cháu nhận tháy dường như một cách giải Dịch, mà chưa thấy hàm nghĩa MẬT MÃ KINH DỊCH (theo cháu lơ mơ hiểu về hai chữ MẬT MÃ thôi ạ)

Cảm ơn bác.

Thanked by 1 Member:

#13 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 31/12/2015 - 11:23

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

NgocHoaVT, on 31/12/2015 - 09:36, said:

Bác binhlq

Hai chữ: MẬT MÃ, bác có thể giải nghĩa theo cách của Bác được không ạ?

Cháu đọc từ bài #1 => #9, cháu nhận tháy dường như một cách giải Dịch, mà chưa thấy hàm nghĩa MẬT MÃ KINH DỊCH (theo cháu lơ mơ hiểu về hai chữ MẬT MÃ thôi ạ)

Cảm ơn bác.

Kinh Dịch bao gồm 64 chồng quái được dẫn xuất từ bát (tám) quái là Càn (Thiên), Đoài (Trạch), Tốn (Phong), Ly (Hỏa), Khảm (Thủy), Chấn (Lôi), Cấn (Sơn), Khôn (Địa). Cách chồng như sau: Lấy tám quái làm chủ quái đặt xuống trước, lần lượt chồng các quái khác làm khách quái lên trên thì được 64 chồng quái.

Nguyên thủy Kinh Dịch chỉ có tên chồng quái, thoái từ và sáu hào từ. Đây là bản mật mã dùng chữ tượng hình, khi mới đọc rất tối nghĩa hoặc có rất nhiều nghĩa mà phải hiểu đúng ý nghĩa của tượng mới giải nghĩa được. Đấy chính là lý do bác đặt tên cho chủ đề này là MẬT MÃ KINH DỊCH.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




19. ĐỊA TRẠCH LÂM

Khách quái là Khôn (đất). Chủ quái là Ðoài (chằm).

Tượng thủy lợi dẫn nước từ hồ (ĐOÀI) tưới cho đất (KHÔN) trồng trọt.
Người là quan phụ mẫu của dân phải tiếp xúc người dân như tưới nước cho đất. Nước phải đến kịp thời, thấm đẫm đến mọi chỗ, mọi nơi mới cho mùa màng bội thu.

Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Vua quan.
Tên là LÂM (nắm): Nắm vững dân, tiếp xúc dân, vỗ về dân chúng, yên dân, đi đến.
Hình tượng: Đèn trời soi xét.

Thoán từ: 臨 元亨 利貞至于八月有凶.
*Hào 1: 咸臨貞吉.
*Hào 2: 咸臨 吉 无不利.
*Hào 3: 甘臨无攸利既憂之无咎.
*Hào 4: 至臨无咎.
*Hào 5: 知臨大君之宜吉.
*Hào 6: 敦臨吉无咎.

Thoán từ: 臨 元亨 利貞至于八月有凶.
Người cầm đầu tiếp xúc, nắm rõ lòng dân thì xã hội sẽ hanh thông và chắc chắn có thành tựu. Quá tám tháng mà không nắm bắt tường tận thì nguy (quá hào 4 mà chưa tường tận thì nguy, mỗi hào là hai tháng, sáu hào là một năm).

Hào từ

*Hào 1: 咸臨貞吉.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài. Mới hai tháng đầu mà đã nắm đều khắp toàn dân thì chắc chắn tốt lành.

*Hào 2: 咸臨 吉 无不利.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 1. Sau bốn tháng thì cũng tốt lành và không bị bất lợi.

*Hào 3: 甘臨无攸利既憂之无咎.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Đoài. Dùng lời nói ngọt để dụ dỗ dân chúng thì chẳng có lợi gì. Trừ phi là lúc người dân ốm đau, có tang thì không xấu.

*Hào 4: 至臨无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khôn. Đến hạn tám tháng, lúc này đã nắm dân tường tận thì không xấu, còn không sẽ nguy (như thoái từ).

*Hào 5: 知臨大君之宜吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Khôn. Hiểu rõ việc yên dân là việc vua sáng phải làm được thì thật tốt lành.

*Hào 6: 敦臨吉无咎.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. Sau khi dân yên sẽ là thời của sự tốt lành và không có xấu xa.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


19. QUẺ ĐỊA TRẠCH LÂM

Trên là Khôn (đất), dưới là Ðoài (chằm).

Tự quái truyện giảng: Cổ là công việc, có công việc rồi mới làm lớn được; cho nên sau quẻ Cổ tới quẻ Lâm. Lâm có nghĩa là lớn.
Nhưng Lâm còn có nghĩa nữa là tới (như lâm chung là tới lúc cuối cùng, tới lúc chết; hoặc lâm hạ: người trên tới người dưới).
Thoán từ:
臨: 元亨, 利貞.至于八月有凶.
Lâm: Nguyên hanh, lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung.
Dịch: (dương) lớn lên và tới, rất hanh thông, chính đính thì lợi. Đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ xấu.
Giảng: Mới đầu là quẻ Khôn, 5 hào âm. Một hào dương tới thay hào 1 âm ở dưới, rồi một hào dương nữa tới thay hào 2 âm, thành ra quẻ Lâm . Thế là dương cung lớn dần, tới ngày thịnh lớn, nên gọi là Lâm.
Một cách giảng nữa: trên chằm (đoài) có đất, tức là đất tới sát nước, nên gọi là Lâm (tới gần).
Theo cách giảng thứ nhất, dương cương lớn lần mà âm nhu tiêu lần, thế là đạo gần tới lúc thông, cho nên bảo là rất hanh thông.
Xét theo hào thì hào 2 cương trung, ứng với hào 5, nhu trung, nhân sự có phần vui vẻ, cũng hanh thông nữa (Thoán truyện) .
Trong cảnh hanh thông, đừng nên phóng túng mà nên giữ vững chính đạo, (lợi trinh): nếu không thì đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ hung.
Có nhiều thuyết giảng hai chữ “bát nguyệt” ở đây chúng tôi không biết tin thuyết nào chỉ xin hiểu đại ý là “sau này sẽ hung”; mà không chép những thuyết đó.
Đại tượng truyện bàn thêm: đất tới sát chằm, có cái tượng quân tử tới dân, giáo hóa dân không bao giờ thôi, bao dung, giữ gìn dân không có giới hạn (vô cương) .

Hào từ

*Hào 1: 咸臨, 貞吉.
Sơ cửu: Hàm lâm, trinh cát.
Dịch: Hào 1, dương : Cùng tới, giữ chính đạo thì tốt.
Giảng: Trong quẻ này chỉ có hai hào dương tới lấn bốn hào âm, cho nên hai hào dương phải hợp lực nhau cùng tới, mới chiến thắng được. Hào 1 đắc chính (vì là dương mà ở vị dương lẻ) cho nên khuyên nên giữ chính đạo của mình.
Chu Hi, theo Trình Di cho chữ “hàm” ở đây có nghĩa là cảm, hào 1 dương ứng hợp với hào 4 âm, như vậy là vì cảm ứng với hào 4 mà tới.

*Hào 2: 咸臨, 吉, 无不利.
Cửu nhị: Hàm lâm, cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, dương : cùng tới, tốt, không gì là không lợi.
Giảng: Nghĩa cũng như hào 1. Hào 2, dương cương đắc trung, gặp lúc dương đương lên, cho nên hiện tại tốt lành mà tương lai cũng thuận lợi.
Tiểu tượng truyện thêm 4 chữ: vị thuận mệnh dã (chưa thuận mệnh vậy). Trình Di giảng là hào 2, dương trung, cảm ứng với hào 5 âm trung , hai hào đó cảm ứng với nhau không phải vì theo mệnh của người trên, cho nên tốt, không gì là không lợi. Chu Hi không chấp nhận lời giảng đó, bảo: “chưa rõ ý nghĩa ra sao”
Phan Bội Châu giảng: hào 1 và 2 phải cùng tới thì mới tốt, phải lấy sức người giúp mệnh trời, chứ không ngồi yên mà chờ mệnh trời.

*Hào 3: 甘臨, 无攸利; 既憂之, 无咎.
Lục tam: Cam lâm, vô du lợi; Kí ưu chi, cô cửu.
Dịch: Hào 3 âm: Ngọt ngào (a dua) mà tới (để dụ dỗ hào 2) thì không có lợi đâu; nhưng đã biết lo sửa tính thì không có lỗi nữa.
Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất chính nên ví với bọn tiểu nhân, dùng lời ngọt ngào mà dụ dỗ hào 2.

*Hào 4: 至臨, 无咎.
Lục tứ: Chi lâm, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Hết lòng thành thực tới với hào 1, không có lỗi.
Giảng: Hào này cũng là âm nhu, nhưng đắc chính (âm ở vị âm), có lòng thành thực, lại ứng với hào 1 là người có tài, chính đáng (hào 1 cũng đắc chính), nên không có lỗi gì cả.

*Hào 5: 知臨, 大君之宜, 吉.
Lục ngũ: Trí lâm, đại quân chi nghi, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Dùng đức sáng suốt mà tới, đúng là tư cách một vị nguyên thủ, tốt.
Giảng: hào âm này ở vị chí tôn, có đức trung, ứng hợp với hào 2, dương , có thể ví với một vị nguyên thủ tuy ít tài (âm) nhưng sáng suốt, biết người nào có tài (hào 2), tín nhiệm, ủy thác việc nước cho người đó, như vậy kết quả chắc tốt.

*Hào 6: 敦臨, 吉, 无咎.
Thượng lục: Đôn lâm, cát, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Lấy lòng đôn hậu mà tới (với đời), tốt, không có lỗi.
Giảng: Hào này là âm, ở cuối cùng ngoại quái Khôn, là có đức rất nhu thuận, ở thời Lâm, tức thời của dương, của quân tử đương tiến, nó hướng về hai hào dương ở dưới cùng (mặc dầu không hào nào trong 2 hào đó ứng với nó) mà dắt mấy hào âm kia theo hai hào dương đó, cho nên khen nó là đôn hậu, tốt, không có lỗi.


------------------------------------------------------------------------------



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




20. PHONG ĐỊA QUÁN

Khách quái là Tốn (gió). Chủ quái là Khôn (đất).

Tượng gió trong lòng đất, hay xúc cảm, cảm nhận trong lòng của con người.
“Tề hồ Tốn” là câu trong Hậu thiên bát quái tượng cho nề nếp, chuẩn mực xã hội. Chủ quái Khôn tượng cho đức nhu thuận của người quân tử. Vì là đức KHÔN nên người quân tử để mà giáo hóa dân chúng theo nền nếp, chuẩn mực xã hội thì dùng chính mình làm gương cho dân chúng noi theo.

Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Vua quan.
Tên là QUÁN: Làm gương, quan sát, nhìn nhận, cảm nhận, chiêm nghiệm, noi theo.
Gương mẫu. Làm gương cho dân chúng noi theo.
Hình tượng: Mẫu nghi thiên hạ.

Thoán từ: 觀 盥而不薦有孚顒若.
*Hào 1: 童觀小人无咎 君子吝.
*Hào 2: 闚觀利女貞.
*Hào 3: 觀我生進退.
*Hào 4: 觀國之光利用 賓于王.
*Hào 5: 觀我生君子无咎.
*Hào 6: 觀其生君子无咎.


Thoán từ: 觀 盥而不薦有孚顒若.
Làm gương phải như người chủ tế, mới đang rửa tay chứ chưa dâng lễ mà khuôn mặt đã toát lên lòng tin, lòng thành kính với lễ tế.

Hào từ:

*Hào 1: 童觀小人无咎 君子吝.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khôn. Làm gương như đứa trẻ con, người dân không thấy xấu nhưng người quân tử làm gương như vậy thì sẽ phải hối hận về sau.

*Hào 2: 闚觀利女貞.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Khôn. Làm gương chỉ để dân chúng nhìn rồi bắt chước làm theo thì chỉ có người nữ là lợi. Tức là làm gương để cảm hóa dân chúng noi theo, chứ không phải để bắt chước y nguyên. Làm như thế chỉ nguời nữ với bản tính nhu thuận chỉ việc làm theo thì lợi.
Thời hiện nay thì có các người mẫu thời trang là làm gương làm mẫu theo kiểu của hào này, lợi cho phụ nữ khi mua sắm.

*Hào 3: 觀我生進退.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khôn. Tiếp ý hào 2. Làm gương là để dân noi theo cách sống, cách tiến thoái của mình.

*Hào 4: 觀國之光利用 賓于王.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Các nước mẫu mực, phát triển rực rỡ là những tấm gương mà các vị vua nên noi theo để mà đổi mới thì có lợi.

*Hào 5: 觀我生君子无咎.
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 3. Lấy cách sống của ta làm gương cho dân thì ta phải sống như người quân tử mới không có lỗi.

*Hào 6: 觀其生君子无咎.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 4. Lấy cách sống của những người quân tử khác để làm gương cho dân chúng cũng không có lỗi.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


20. QUẺ PHONG ĐỊA QUÁN

Trên là Tốn (gió) dưới là Khôn (đất)

Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thấy, cho nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu thị cho người ta thấy, Quan là xem xét
Thoán từ:
觀: 盥而不薦, 有孚顒若.
Quán: Quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược.
Dịch: Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ rồi, không cần phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy thì người khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình.
Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài.
Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo.
Đó là giải nghĩa tên quẻ.
Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu.
Muốn biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên có lòng chí thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là điều quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng được, có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng tốt.
Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo.
Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục.

Hào từ:

*Hào 1: 童觀, 小人无咎, 君子吝.
Sơ lục: Đồng quan, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.
Dịch: Hào 1, âm: Trẻ con nhìn lên (không hiểu gì), tiểu nhân thì không đáng trách, quân tử mà như vậy thì hối tiếc.
Giảng: Tên quẻ thì đọc là Quán, người trên (hào 5) biểu thị, làm gương cho người dưới. Nhưng xét từng hào thì đọc là quan, người dưới xem xét tư cách, hành vi của người trên. Hào 5, dương , đắc trung làm chủ quẻ, tượng trưng cho người trên, ông vua.
Hào nào cũng nhìn lên hào 5 cả, hào 1 ở xa quá, như con nít tò mò mà nhìn lên, không hiểu gì cả, nhưng vì là con nít, không đáng trách; người quân tử mà như vậy mới đáng trách.

*Hào 2: 闚觀, 利女貞.
Lục nhị: Khuy quan, lợi nữ trinh.
Dịch: Hào 2, âm: Nhìn lên, chỉ thích hợp với nết trinh của đàn bà thôi.
Giảng: Hào này âm nhu, trung chính, là người con gái có nết trinh, ngó lên hào 5, không thấy được đạo lý của 5, con gái như vậy thì được. Người trượng phu mà như thế thì đáng xấu hổ (khả xú dã – Tiểu tượng truyện.)

*Hào 3: 觀我生, 進退.
Lục tam: Quan ngã sinh, tiến thoái.
Dịch: Hào 3, âm: Xét bản thân, hành vi của mình, xem nên tiến lên (theo hào 4) hay nên đứng yên, đừng để phải lui xuống 2.
Giảng: Hào này bất chính (âm mà ở vị dương), lại ở trên cùng nội quái, có thể tiến hay thoái; Hào từ khuyên đừng ngó lên hào 5, cứ tự xét bản thân, hành vi của mình, nếu đối phó được với hoàn cảnh thì tiến lên, không thì thôi, như vậy là chưa sai đường lối.

*Hào 4: 觀國之光, 利用 賓于王.
Lục tứ: Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.
Dịch: Hào 4, âm: Xem cái quang vinh của nước mà lợi dụng địa vị thân cận với vua.
Giảng: Hào này âm, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, tức là vị thân cận với vua (quí khách của vua) được vua tín nhiệm, xem xét đức sáng của vua (vua hiền thì nước mới vinh quang, nền vinh quang của nước tức là đức sáng của vua), mà bắt chước, đem tài sức ra giúp đời.

*Hào 5: 觀我生君子, 无咎.
Cửu ngũ: Quan ngã sinh quân tử, vô cữu.
Dịch: Hào 5, dương: Xét bản thân, hành động của ta hợp với đạo quân tử , như vậy là không có lỗi.
Cũng có thể chấm câu như vầy: Quan ngã sinh, quân tử vô cữu; và dịch là người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của ta (tức hào 5) mà noi theo thì không có lỗi.
Giảng: Hào 5 ngôi chí tôn, cương cường mà trung chính là bậc quân tử làm gương cho 4 hào ở dưới, mọi người đều ngó vào.
Tiểu tượng truyện bàn rộng: “Quan ngã sinh, quan dân dã” nghĩa là muốn xem đức của ta (của vua) thì cứ xem phong tục đạo đức của dân”, vì vua mà hiền minh thì dân tình tốt, vua u mê thì dân tình xấu.

*Hào 6: 觀其生君子, 无咎.
Thượng cửu: Quan kỳ sinh quân tử , vô cữu.
Dịch: hào trên cùng, dương: xét bản thân, hành động của hào này hợp với đạo quân tử, như vậy là không có lỗi.
Cũng có thể chấm câu như vầy: quan kỳ sinh, quân tử vô cữu; và dịch là : người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của nó (của hào cuối cùng) mà noi theo thì không có lỗi.
Giảng: Hào từ: hào này y như hào từ 5, chỉ khác hào 5 dùng chữ ngã là ta, mà hào này dùng chữ kỳ là của nó (của hào trên cùng. Là vì hào 5 là vua, nói với hào 4 là cận thần, tự xưng là ta; còn hào này là lời Chu Công nói về hào trên cùng, cũng như đã nói về các hào 1, 2, 3, 5 ở dưới.
Hào trên cùng này cũng là dương như hào 5, cũng là quân tử , tuy không phải ở ngôi chí tôn, nhưng ở trên cao hơn hết, cũng làm gương cho các hào âm trông vào. Vì nó có tư cách quân tử , nên không có lỗi.

*Thêm:
Quẻ Quán này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người dưới noi gương người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết noi gương.

Sửa bởi binhlq: 31/12/2015 - 11:17


Thanked by 2 Members:

#14 NgocHoaVT

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 683 Bài viết:
  • 1832 thanks

Gửi vào 01/01/2016 - 11:38

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

binhlq, on 31/12/2015 - 11:23, said:

Kinh Dịch bao gồm 64 chồng quái được dẫn xuất từ bát (tám) quái là Càn (Thiên), Đoài (Trạch), Tốn (Phong), Ly (Hỏa), Khảm (Thủy), Chấn (Lôi), Cấn (Sơn), Khôn (Địa). Cách chồng như sau: Lấy tám quái làm chủ quái đặt xuống trước, lần lượt chồng các quái khác làm khách quái lên trên thì được 64 chồng quái.

Nguyên thủy Kinh Dịch chỉ có tên chồng quái, thoái từ và sáu hào từ. Đây là bản mật mã dùng chữ tượng hình, khi mới đọc rất tối nghĩa hoặc có rất nhiều nghĩa mà phải hiểu đúng ý nghĩa của tượng mới giải nghĩa được. Đấy chính là lý do bác đặt tên cho chủ đề này là MẬT MÃ KINH DỊCH.


Vâng, cháu cảm ơn Bác đã giải thích hai chữ MẬT MÃ ạ

#15 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 04/01/2016 - 10:34

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



21. HỎA LÔI PHỆ HẠP

Khách quái là Ly (lửa). Chủ quái là Chấn (sấm).

Tượng sét đánh sinh lửa cháy, tượng xã hội con người thời nguyên thủy hoang sơ, văn hóa chưa phát triển, con người dùng răng để cắn trong mọi phép xử lý cuộc sống.
“Đế xuất hồ Chấn”, câu trong Hậu thiên bát quái chỉ ra cách con người xuất hiện chính ở chồng quái này.

Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là PHỆ HẠP: Dùng răng để cắn, man rợ, dã man, hình luật, kìm kẹp.
Hình tượng: Hai hàm răng.

Thoán từ: 噬嗑亨利用獄.
*Hào 1: 屨校滅趾无咎.
*Hào 2: 噬膚滅鼻无咎.
*Hào 3: 噬腊肉遇毒小吝无咎.
*Hào 4: 噬 乾胏得金矢利艱貞吉.
*Hào 5: 噬乾肉得黃金貞厲无咎.
*Hào 6: 何校滅耳凶.

Thoán từ: 噬嗑亨利用獄.
Kìm kẹp tạo sự hanh thông phát triển cho xã hội loài người thửa ban sơ, mông muội. Dùng trong ngục tù thì có lợi.

Hào từ

*Hào 1: 屨校滅趾无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Chấn. Luôn phải dùng kẹp chân sẽ dần mất chân, nhưng không có lỗi lớn. Tức là nếu một người bị cùm kẹp thường xuyên sẽ teo mất chân, nhưng nếu anh ta là thành phần gây rối loạn xã hội trong thời kỳ xã hội loài người mới manh nha thì như thế cũng tốt mà không phạm sai lầm gì vì cũng chẳng có cách nào khác..

*Hào 2: 噬膚滅鼻无咎.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Chấn. Giữa thời nguyên thủy, con người vẫn cùng nhau dùng răng để xé thịt con mồi, việc này có thể cắn vào mũi nhau mà mất mũi. Nhưng cũng chẳng phải lỗi lầm lớn vì cũng không có cách nào khác.

*Hào 3: 噬腊肉遇毒小吝无咎.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Chấn. Cắn thịt khô, thịt ngộ độc, đáng ân hận một chút nhưng cũng chẳng xấu. Tức là người đông dần lên, thức ăn khó khăn, phải ăn cả thịt khô của con mồi đã chết từ lâu có thể bị ngộ độc nhưng đói quá thì cũng phải ăn vì không cũng chết đói.

*Hào 4: 噬 乾胏得金矢利艱貞吉.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Ly (văn minh), đã le lói ánh sáng văn minh. Cắn thịt liền xương đã phơi khô, được mũi tên đồng, biết làm những việc khó thì chỉ có tốt lành. Tức là lúc này con người đã bắt đầu biết chế biến thức ăn, phơi khô thịt để dự trữ lúc đói kém (không phải ăn xác chết khô nữa). Cũng đã biết sử dụng cung tên bằng đồng để săn bắn, lúc này theo lịch sử hiện đại gọi là thời kỳ đồ đồng. Nghề rèn chế tác công cụ đã phát triển (làm được việc khó thì lợi và tốt lành).

*Hào 5: 噬乾肉得黃金貞厲无咎.
Hào âm. Trung quái của khách quái Ly. Cắn miếng thịt dùng để ăn, được đồ trang sức bằng vàng. Phải gắng gỏi mới không có lỗi. Tức là lúc này con người đã biết dùng đồ trang sức xã hội đang dần vào thời kỳ phát triển của văn minh nhưng tập tính, lề thói vẫn còn man rợ cho nên phải gắng gỏi rèn luyện mới không phạm sai lầm mà phải chịu hình phạt.

*Hào 6: 何校滅耳凶.
Hào dương. Thượng vạch của khách quái Ly. Tiếp ý hào 5. Thời văn minh phát triển rồi thì việc lạm dụng hình phạt cùm chân, giam trong ngục tối cách ly xã hội (mất dần tai, tai sẽ ngễnh ngãng dần vì không nghe thấy gì) sẽ tiểm ẩn nguy hiểm.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

21. QUẺ HỎA LÔI PHỆ HẠP

Trên là ly (lửa), dưới là Chấn (sấm)

Tự quái truyện giảng: tình, lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp nhau được; nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách đã, cho nên sau quẻ Quan, tới quẻ Phệ hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp là hợp.
Thoán từ:
噬嗑: 亨, 利用獄.
Phệ hạp: Hanh, lợi dụng ngục.
Dịch: Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông; dùng vào việc hình ngục thì có lợi .
Giảng: Quẻ Phệ hạp này nói về việc hình ngục.
Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới; ở giữa có ba vạch đứt, là miệng há ra; xen vào một vạch liền như một cái quẻ cản ngang miệng, làm gián cách hai hàm răng; Phải cắn gãy, trừ nó đi rồi hai hàm mới hợp với nhau được.
Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng.
Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt.
Lại xét riêng hào 5, hào làm chủ trong quẻ; nó ở ngôi cao, âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn nên có một chút nhu, hiếu sinh; nếu chỉ cương thôi thì hóa ra tàn khốc, hiếu sát mất.
Đó là đại ý Thoán truyện. Đại tượng truyện bảo tiên vương theo ý nghĩa quẻ Phệ hạp này mà làm sáng tỏ sự trừng phạt và răn bảo bằng pháp luật. (Tiên vương dĩ minh phạt, sắc pháp: 先王以明罰, 敕法 cũng có người hiểu là sắp đặt pháp luật hoặc ban bố pháp luật)

Hào từ

*Hào 1: 屨校滅趾, 无咎.
Sơ cửu: Lí giảo diệt chỉ, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương : ví như chân đạp vào cái cùm mà đứt ngón chân cái, không có lỗi lớn.
Giảng: Trong quẻ này hào 1 và hào trên cùng là người không có chức vị, bị chịu hình; còn 4 hào kia là người có chức vị áp dụng hình pháp.
Hào 1 ở dưới cùng là hạng dân thường, mới làm bậy mà bị tội nhẹ (cùm chân, chặt ngón chân cái) thì sẽ sợ phép nước mà sau không làm điều ác nữa, cho nên không có lỗi lớn.

*Hào 2: 噬膚, 滅鼻, 无咎.
Lục nhị: Phệ phu, diệt tị, vô cữu.
Dịch: Hào 2, âm: Cắn miếng thịt mềm, sứt cái mũi, không có lỗi.
Giảng: hào này cũng như ba hào sau, dùng chữ phệ (cắn) để trỏ người dùng hình pháp.
Hào 2 âm nhu đắc trung, chính lại được hào 5 ứng, tức là người được vua ủy cho quyền hình pháp, vì vậy dễ thu phục được kẻ có tội, công việc dễ như cắn miếng thịt mềm. Nhưng vì hào 2 cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải quá tay một chút, kẻ bị tội chịu hình phạt khá đau, như bị cắn vào mũi, đó là lỗi của hắn chứ hào 2 vẫn là trung chính, không có lỗi.

*Hào 3: 噬腊肉, 遇毒, 小吝, 无咎.
Lục tam: Phệ tích nhục, ngộ độc, tiểu lận, vô cữu.
Dịch: Hào 3, âm: Cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc, đáng ân hận một chút, nhưng không có lỗi.
Giảng: Hảo 3, âm: Không trung chính, dùng hình ngục và không được người phục, có phần bị oán nữa, như cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc; những ở vào quẻ Phệ hạp, dùng hình pháp để giữ trật tự cho xã hội, cho nên việc làm của mình tuy đáng ân hận, mà không có lỗi lớn.

*Hào 4: 噬 乾胏, 得金矢, 利艱貞, 吉.
Cửu tứ: phệ can trỉ (có người đọc là tỉ)
đắc kim thỉ , lợi gian trinh, cát.
Dịch: Hào 4, dương : Cắn phải thứ thịt liền xương mà phơi khô, được mũi tên đồng, chịu khó nhọc mà vững lòng giữ đường chính thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương ở gần ngôi chí tôn (hào 5) là người cương trực, có trách nhiệm; lại ở ngoại quái Ly, nên có tài minh đóan, cho nên dù gặp kẻ ngoan cố cũng trị được dễ dàng, như cắn được miếng thịt liền xương (cứng) phơi khô, mà vẫn giữ được đạo cương trực, tượng bằng mũi tên bằng đồng.
Nhưng vì hào này cương, mà cương quyết thì e gặp khó khăn, nên Hào từ khuyên phải chịu khó nhọc, tuy cương mà vị lại nhu (hào thứ 4, chẳn), nên lại khuyên phải vững chí. Có hai điều kiện đó thì mới tốt.

*Hào 5: 噬乾肉, 得黃金, 貞厲, 无咎.
Lục ngũ: phệ can nhục, đắc hoàng kim, trinh, lệ, vô cữu.
Dịch: Hào 5, âm: Cắn miếng thịt khô, được vàng (danh dự quí báu); phải giữ vững đạo, thường lo sợ, thì không có lỗi.
Có sách giảng về hai chữ “hoàng kim” như sau: kim là vật quí, tượng trưng ngôi chí tôn của hào 5, hoàng là sắc của đất, của trung ương (đen là màu của phương bắc, đỏ của phương nam, xanh của phương đông, trắng của phương tây), tượng trưng đức trung của hào 5.

*Hào 6: 何校滅耳, 凶.
Thượng cửu: Hạ giảo diệt nhĩ, hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương : cổ tra vào gông, bị tội cắt tai, xấu.
Giảng: Hào này lại nói về kẻ thụ hình như hào 1. Xấu hơn hào 1, vì dương cương lại ở cuối quẻ, trỏ hạng cực ác, nên bị tội nặng: đeo gông, cắt tai.
Theo hệ từ hạ truyện, chương V thì Khổng tử bàn như sau: “. . .không tích lũy nhiều điều ác thì không đến nỗi bị diệt thân thể (như hào này). Kẻ tiểu nhân cho rằng (. . .) một điều ác nhỏ là vô hại, nên cứ làm; vì vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc( . . ) tội hóa lớn mà không thể tha thứ được”.

*Thêm:
Quẻ này xét về việc hình ngục, đại ý khuyên: Người xử hình phải sáng suốt trước hết, cương quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi), có chút từ tâm, và luôn luôn phải giữ đạo chính, thận trọng (hào 5).
Hào 4 cũng tốt, vì vừa cương vừa nhu, có tài và có địa vị.
- Nên răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ, nếu không dân sẽ quen làm bậy, ác cứ tích lũy mà mắc tội lớn.


---------------------------------------------------



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




22. SƠN HỎA BÍ

Khách quái là Cấn (núi). Chủ quái là Ly (lửa).

Tượng lửa cháy trên núi thì sáng rõ và rực rỡ.
Ly (lửa) tượng của văn minh.

Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là BÍ: Dùng công cụ,văn minh, văn hóa, rực rỡ, đồ trang sức, làm đẹp.
Hình tượng: Râu tóc.

Thoán từ: 賁亨 小利 有攸往.
*Hào 1: 賁其趾舍車而徒.
*Hào 2: 賁其須.
*Hào 3: 賁如濡如永貞吉.
*Hào 4: 賁如皤如白馬翰如 匪寇 婚媾.
*Hào 5: 賁于丘園束帛戔戔吝終吉.
*Hào 6: 白賁无咎.

Thoán từ: 賁亨 小利 有攸往.
Văn minh thì hanh thông, người dân được lợi nhưng cũng bắt đầu xuất hiện những thói hư tật xấu đặc trưng của văn minh.

Hào từ.

*Hào 1: 賁其趾舍車而徒.
Hào dương. Hạ vạch của chủ quái Ly. Cái chân chỉ mạnh mẽ cường tráng khi không đi xe mà đi bộ.

*Hào 2: 賁其須.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Ly. Văn minh như bộ râu. Tức là nền văn minh, văn hóa như bộ râu con người, nó không có công dụng theo nghĩa đen như là người ta không thể dùng nó làm công cụ để sản xuất. Nhưng nó lại thể hiện tư cách văn hóa và làm đẹp cho khuôn mặt của người đàn ông. Văn hóa văn minh cũng vậy, nó như bộ râu của xã hội loài người.

*Hào 3: 賁如濡如永貞吉.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Ly. Văn hóa phải như sự thấm ướt, thẩm thấu từ từ nhưng đến đến mọi chỗ mọi nơi thì luôn luôn chỉ có tốt lành.

*Hào 4: 賁如皤如白馬翰如 匪寇 婚媾.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Cấn. Văn hóa mà thô kệch, kệch cỡm như con ngựa khoác bộ lông chim trắng thì chẳng khác gì cưỡng hiếp văn hóa vậy.

*Hào 5: 賁于丘園束帛戔戔吝終吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Cấn. Trang trí ở gò vườn, mà dùng tấm lụa nhỏ, mỏng, tuy là bủn xỉn, bị chê cười đấy, nhưng chung cuộc thì tốt lành.
Trang trí ở vườn tược chỉ nên đơn giản, chỉ dùng tấm lụa nhỏ, mỏng cho đỡ tốn, dù có bị cười chê, nhưng như vậy còn hơn là xa hoa, vì biết trọng cái gốc là sự chất phác thì cuối cùng cái được lại là tốt lành và hạnh phúc.

*Hào 6: 白賁无咎.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Cấn. Chất phác trong văn hóa sẽ chẳng có gì phải hối hận.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


22. QUẺ SƠN HỎA BÍ

Trên là Cấn (núi), dưới là Ly (lửa)

Đám đông, hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, có văn vẻ, cho nên tiếp theo quẻ Phệ Hạp là quẻ Búi là văn vẻ, rực rỡ, sáng sủa trang sức.
Thoán từ:
賁: 亨, 小利, 有攸往.
Bí: hanh, tiểu lợi, hữu du vãng.
Dịch: Trang sức văn vẻ thì hanh thông; làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ mà thôi.
Giảng: Trên là núi, dưới là lửa; lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, trang sức cho núi.
Còn một cách giảng nữa: trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly, như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn.
Nói cách khác, vắn tắt mà không sai mấy thì nội quái có một hào âm trang sức cho hai hào dương , còn ngoại quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ Bí: trang sức.
Vật gì cũng vậy: có chất, tinh thần; mà lại thêm văn, hình thức, thì tốt (hanh thông), nhưng nếu chỉ nhờ ở trang sức mà thành công thì lợi ít thôi.
Thoán truyện bàn rộng thêm: âm nhu và dương cương giao với nhau, thay đổi lẫn nhau (tức hào 2 và hào trên cùng như trên mới giảng). Ðó là cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) của trời; còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế (quẻ Cấn ở trên có nghĩa là ngăn, hạn chế), vì tuy nó có công giáo hóa thiên hạ, nhưng nhiều quá thì văn thắng chất, xấu.
Đại tượng truyện còn khuyên: Việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm.

Hào từ.

*Hào 1: 賁其趾, 舍車而徒.
Sơ cửu: Bí kì chỉ, xả xa nhi đồ.
Dịch: Hào 1, dương, Trang sức, trau giồi ngón chân (địa vị thấp) của mình; bỏ cách sung sướng là ngồi xe mà nên đi bộ (chịu khó nhọc).
Giảng: Hào này dương cương, ở cuối cùng nội quái Ly, tức như người có đức sáng suốt mà ở địa vị thấp nhất. Chỉ nên trau giồi phẩm hạnh của mình trong địa vị đó (ví như ngón chân, bộ phận thấp nhất trong thân thể), mà an bần, chịu đi bộ chứ đừng ngồi xe.

*Hào 2: 賁其須.
Lục nhị: Bí kì tu.
Dịch: Hào 2, âm: trang sức bộ râu.
Giảng: Chữ tu ở đây nghĩa là râu, cũng như chữ tu : 鬚
Hào này làm chủ nội quái ly, có công dụng trang sức cho quẻ Ly, đặc biết là cho hào 3 dương ở trên nó, cho nên ví nó như bộ râu trang sức cho cái cằm (hào 3). Nó phải phụ vào hào 3 mà hành động. Hào 3 có tốt thì tác động của hào 2 mới tốt, cũng như phải có cài cằm đẹp thì để râu mới thêm đẹp, nếu cằm xấu thì để râu càng thêm khó coi. Nói rộng ra thì bản chất phải tốt, xứng với sự trang sức; chất và văn phải xứng nhau.

*Hào 3: 賁如濡如, 永貞吉.
Cửu tam: Bí như, nhu như,vĩnh trinh cát.
Dịch: Hào 3, dương: Trang sức mà đằm thắm, hễ giữ vững chính đạo thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương, đắc chính, lại ở trên cùng nội quái ly, có cái nghĩa rất văn minh; tượng trưng người có tài trang sức cho hai hào âm ở trên và dưới nó, tính rất đằm thắm với hai hào âm (có người dịch “nhu như” là trang sức một cách nhuần nhã, thấm nhuần). Vì vậy mà nên coi chừng, đừng say mê vì tư tình, mà phải bền giữ chính đạo thì mới tốt, không bị người xâm lấn (mạc chi lăng dã: Tiểu tượng truyện).

*Hào 4: 賁如皤如, 白馬翰如, 匪寇, 婚媾.
Lục tứ: Bí như, bà (có người đọc là ba) như, bạch mã hàn như, phỉ khấu, hôn cấu.
Dịch: hào 4 âm: Muốn trang sức cho nhau (nhưng không được) nên chỉ thấy trắng toát. Hào 4 như cưỡi ngựa trắng mà chạy như bay (đuổi kịp hào 1), rốt cuộc cưới nhau được vì kẻ gián cách hai bên (hào 3) không phải kẻ cướp (người xấu).
Giảng: hào 4 âm nhu, ứng với hào 1 dương cương, cả hai đều đắc chính ,tình ý hợp nhau, muốn trang sức cho nhau, nhưng bị hào 3 ở giữa ngăn cách, nên không trang sức cho nhau được, chỉ thấy trắng toát (trắng nghĩa là không có màu, không trang sức). Mặc dầu bị 3 cản trở, 4 vẫn cố đuổi theo 1, rốt cuộc 3 vốn cương chính, không phải là xấu, không muốn làm hại 4 và 1, cặp này kết hôn với nhau được.

*Hào 5: 賁于丘園, 束帛戔戔, 吝, 終吉.
Lục ngũ: bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận, chung cát.
Dịch : Hào 5, âm: Trang sức ở gò vườn, mà dùng tấm lụa nhỏ, mỏng, tuy là bủn xỉn, đáng chê cười đấy, nhưng rốt cuộc được tốt lành.
Giảng: Hào 5, âm nhu, đắc trung, làm chủ quẻ Bí; vì là âm nhu nên có tính quá tằn tiện, lo trang sức cái gì hữu dụng như vườn tược thôi, mà lại chỉ dùng tấm lụa nhỏ, mỏng cho đỡ tốn, cho nên bị cười chê, nhưng như vậy còn hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên cuối cùng vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân (hữu hỉ dã: lời Tiểu tượng truyện.)

*Hào 6: 白賁, 无咎.
Thượng cửu: Bạch bí, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: lấy sự tố phác, như màu trắng (không màu mè gì cả) làm trang sức, không có lỗi.
Giảng: Hào này là thời cuối cùng của quẻ Bí, trang sức, màu mè đã cùng cực rồi; mà vật cực tắc phản, người ta lại trở lại sự chất phác, nên không có lỗi gì cả. Trong văn học sử, chúng ta thấy sau những thời duy mĩ quá mức, người ta lại “phục cổ”, trở lại lối văn bình dị, tự nhiên thời xưa.

*Thêm:
Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ, có trang sức mới là văn minh, nhưng vẫn nên trọng chất hơn văn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng, và không nên xa hoa, màu mè quá.

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

7 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 7 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |