Jump to content

Advertisements




MẬT MÃ KINH DỊCH

Kinh Dịch Tiên Thiên bát quái Hậu Thiên bát quái Mật mã

43 replies to this topic

#31 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 26/01/2016 - 08:31

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




53. PHONG SƠN TIỆM

Khách quái là Tốn (gió). Chủ quái là Cấn (núi)

Chủ quái Cấn tượng của sự trưởng thành, thành thân trong câu "Thành hồ Cấn" của Hậu Thiên bát quái. Khách quái Tốn tượng của nề nếp gia phong trong câu "Tề hồ Tốn" của Hậu Thiên bát quái. Cho nên, hình tượng của chồng quái là sự hòa nhập vào nề nếp gia phong nhà chồng của người vợ mới cưới hay sự luyện tập hòa nhập lối sống xã hội của người trưởng thành. Đó là sự tiệm cận từ từ có phép tắc quy định bởi các chuẩn mực xã hội.

Phạm trù: Xã hội loài người. Lấy tĩnh chế động.
Cho thành phần: Người dân.
Tên là TIỆM: Tiệm cận, học tập, rèn luyện, hòa nhập.
Hình tượng: Hòa cùng nhịp điệu. Học đi đôi với hành.

Thoán từ: 漸女歸吉利貞.
*Hào 1: 鴻漸于干小子厲有言无咎.
*Hào 2: 鴻漸于磐飲食衎衎吉.
*Hào 3: 鴻漸于陸夫征不復婦孕不育凶利禦寇.
*Hào 4: 鴻漸于木或得其桷无咎.
*Hào 5: 鴻漸于陵婦三歲不孕終莫之勝吉.
*Hào 6: 鴻漸于陸其羽可用為儀吉.

Thoán từ: 漸女歸吉利貞.
Người con gái khi về nhà chồng biết cách tiếp cận dần dần để hòa nhập thì tốt lành chắc chắn.

Hào từ:
Các hào từ đều lấy chim hồng (hạc) để minh họa. Chim hồng là loại chim sống trên mặt nước. Quá trình tiệm cận lớn lên trên mặt nước, lên trên cạn, đến trưởng thành đủ lông đủ cánh để bay cùng cả đàn được quảng diễn từ hào một đến hào sáu.

*Hào 1: 鴻漸于干小子厲有言无咎.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Chim hồng dần đi lên bến nước, mới bơ ngơ về nhà chồng có bị đối xử như con hầu thì nên gắng gỏi dùng lời bàn bạc sẽ không có lỗi.

*Hào 2: 鴻漸于磐飲食衎衎吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Chim hồng đi trên tảng đá, ăn uống vui vẻ, tốt. Tức là người con gái phải biết là ăn uống là con đường chiếm lấy trái tim đàn ông, nếu biết nấu ăn và nấu ăn ngon thì tốt. Khi đó, dù người đàn ông có khô khan như tảng đá cũng phải mềm lòng.

*Hào 3: 鴻漸于陸夫征不復婦孕不育凶利禦寇.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Chim hồng đi trên đường bộ. Lúc này phải biết đến những hiểm nguy trong cuộc sống gia đình như chồng đi chinh chiến có thể không về, vợ mang thai sinh con ra không nuôi được và những điều thiết yếu bảo vệ gia đình khỏi giặc cướp khi mất mùa.

*Hào 4: 鴻漸于木或得其桷无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Chim hồng đậu trên một cây to hoặc cây cột to không có lỗi. Tức là nếu người con gái biết tìm hiểu, làm theo và dựa vào nề nếp gia phong, chuẩn mực xã hội sẽ không có lỗi.

*Hào 5: 鴻漸于陵婦三歲不孕終莫之勝吉.
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Chim hồng vượt qua gò cao, như là vợ có ba năm không đẻ nhưng cuối cùng thì không gì thắng được điều tốt lành. Tức là với việc tiếp cận từ từ làm quen dần thì không có chướng ngại nào có thể cản trở nổi.

*Hào 6: 鴻漸于陸其羽可用為儀吉.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Chim hồng nhìn thấy cả đồng bằng (bay bổng trên trời cao). Lông vũ của nó đã dùng để bay được và đã có đầy đủ dáng vẻ trưởng thành. Tức là đã tiếp cận dần dần đầy đủ, người vợ đã làm chủ được vị trí mới của mình, đã hòa cùng nhịp điệu với gia đình chồng.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


53. QUẺ PHONG SƠN TIỆM

Trên là Tốn (gió), dưới là Cấn (núi)

Ngừng rồi thì có lúc phải tiến lần lần, cho nên sau quẻ Cấn tới quẻ Tiệm. Tiệm là tiến lần lần.
Thoán từ:
漸: 女歸, 吉, 利貞.
Tiệm: Nữ qui, cát, lợi trinh.
Dịch: tiến lần lần; Như con gái về nhà chồng, tốt; giữ vững đạo chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này trên là Tốn (ở đây có nghĩa là cây), dưới là Cấn (núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt tên là Tiệm.
Cấn còn có nghĩa là ngăn, Tốn còn có nghĩa là thuận, ngăn ở dưới mà thuận ở trên, để cho tiến, nhưng không cho tiến vội, mà tiến lần lần thôi. Như trường hợp con gái về nhà chồng, việc gả con, phải thận trong, thung dung, không nên hấp tấp, có vậy mới tốt.
Xét bốn hào ở giữa quẻ, từ 2 tới 5, từ dưới tiến lên, hào nào cũng đắc chính ( hào âm ở vị âm, hào dương ở vị dương), nhất là cũng đắc chính, đắc trung ; cho nên Thoán từ khuyên giữ vững đạo chính như những hào đó thì tốt.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tĩnh như nội quái Cấn, vẫn hoà thuận như ngoại quái Tốn thì không vấp váp, không bị khốn cùng.
Đại Tượng truyện Khuyên người quân tử nên theo tượng quẻ này mà tu thân, tiến lần lần cho được thành người hiền, rồi thành bậc thánh, để cải thiện phong tục cho dân (Quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục).

Hào từ:

*Hào 1: 鴻漸于干, 小子厲, 有言, 无咎.
Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn, vô cữu.
Dịch: Hào 1, âm: Con chim hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại (hoặc tiểu nhân) cho là nguy, than thở, nhưng không có lỗi.
Giảng: Hồng là loài chim sống ở mặt nước, di thê, mùa lạnh thì bay xuống phương Nam, mùa nóng trở về phương Bắc, bay từng đàn, có thứ tự; sáu hào quẻ Tiệm đều tượng trưng bằng chim hồng.
Hào 1 âm nhu, ở dưới cùng, như chim hồng mới tiến được tới bờ nước, than thở không tiến được mau, cho là nguy, vì còn nhỏ, chưa hiểu biết (tiểu tử), sự thực thì tuy chưa tiến được mấy, nhưng vẫn không tội lỗi gì.

*Hào 2: 鴻漸于磐, 飲食衎衎, 吉.
Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm: Chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt.
Giảng: Hào này đắc trung, đắc chính, âm nhu mà ứng với hào 5 dương cương ở trên, nên tiến được một cách dễ dàng, tới đậu ở phiến đá lớn, vui vẻ, ung dung.
Tiểu tượng truyện khuyên hào này được hào 5 giúp đỡ thì phải làm gì đáp lại, chứ đừng ăn không.

*Hào 3: 鴻漸于陸, 夫征不復, 婦孕不育, 凶. 利禦寇.
Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung, lợi ngự khấu.
Dịch: Hào 3, dương: Chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang (đẻ con mà) không nuôi, xấu; đuổi cướp thì có lợi.
Giảng:Hào này đã tiến lên đất bằng, nó dương cương còn muốn tiến nữa, mà không muốn ngó lại; nó ở sát hào 4 âm nhu, thân với 4 nhưng không chính ứng với nhau, mà cả hai đều bất trung, ví như cặp vợ chồng không chính đáng; chồng (hào 3) bỏ vợ mà đi không ngó lại, vợ (hào 4), có mang đẻ con mà không nuôi, xấu. Nếu hoà thuận với nhau mà giữ đạo chính (trừ cái bất chính đi như trừ cướp) thì có lợi.

*Hào 4: 鴻漸于木, 或得其桷, 无咎.
Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ giốc, vô cữu.
Dịch: Hào 4 âm: Chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
Giảng: Hào 4 âm nhu mà ở trên hào 3 dương cương, như chim hồng bay lên cây cao, không phải chỗ đậu của nó (vì nó vốn ở trên nước), nhưng may được cành thẳng, thì cũng yên ổn. Hào này bản chất âm, nhu thuận mà lại ngoại quái Tốn cũng có nghĩa thuận, nên được yên ổn.

*Hào 5: 鴻漸于陵, 婦三歲不孕.終莫之勝, 吉.
Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng. Chung mạc chi thắng, cát.
Dịch: Hào 5, dương: chim hồng lên gò cao; vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không gì thắng nổi điều chính, tốt.
Giảng: Hào dương này ở ngôi cao, chính ứng với hào 2, âm ở dưới, như vợ chồng muốn ăn nằm với nhau, nhưng hào 5 bị hào 4 ngăn cản (ghen với 2); hào 2 lại bị hào 3 ngăn cản (ghen với 5) thành thử ba năm vợ chồng bị cách trở, mà vợ không có mang được. Nhưng 3 và 4 không thắng được 2 và 5 vì 2 và 5 đều đắc trung, mà việc 5 với 2 kết hợp với nhau là chính đáng, nên rốt cuộc chúng phải chịu thua.

*Hào 6: 鴻漸于陸 , 其羽可用為儀, 吉.
Thượng cửu: Hồng tiệm vu quì (chữ 陸 dùng như chữ 逵 quì là đường mây), kì vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Chim hồng bay bổng ở đường mây, lông nó (rớt xuống) có thể dùng làm đồ trang điểm, tốt.
Giảng: Theo thường lệ, hào trên cùng, ở trên hào 5 chí tôn, không có “vị” gì cả, vô dụng. Trong quẻ này, nó ở cao hơn cái gò cao, tức ở trên không trung, trên đường mây (vân lộ). Nó là hạng xuất thế, khí tiết thanh cao, khác phàm; tùy không trực tiếp giúp đời, nhưng tư cách làm gương cho đời, xã hội có họ thì mới văn minh, cũng như lông con hồng không dùng vào việc ăn uống cất nhà, cày ruộng, chở đồ . . được, nhưng làm đồ trang điểm như cờ, quạt, mũ, thì lại quí.



---------------------------------------------------------------------------------------





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




54. LÔI TRẠCH QUI MUỘI

Khách quái là Chấn (sấm). Chủ quái là Đoài (chằm).

Chủ quái Đoài tượng xã hội trong câu "Duyệt ngôn hồ Đoài" của Hậu Thiên bát quái. Khách quái Chấn tượng sự bất thường, bất ngờ, biến động, phát sinh trong câu "Xuất hồ Chấn" của Hậu Thiên bát quái. Cho nên tượng của chồng quái là sự bất thường đột ngột phát sinh trong xã hội. Và cách xử lý nó là lấy tĩnh chế động, lấy mềm mỏng để thắng cứng, chấp nhận một vị thế thấp kém để chờ cho qua thời điểm biến động tồi tệ như là nhận làm em gái (QUI MUỘI).

Phạm trù: Xã hội loài người. Lấy tĩnh chế động.
Cho thành phần: Người dân.
Tên là QUI MUỘI: Chấp nhận làm em gái.
Hình tượng: Ve sầu thoát xác.

Thoán từ: 歸妹征凶无 攸利.
*Hào 1: 歸妹以娣跛能履征吉.
*Hào 2: 眇能視利幽人之貞.
*Hào 3: 歸妹以須反歸以娣.
*Hào 4: 歸妹愆期遲歸有時.
*Hào 5: 帝乙歸妹其君之袂不如其娣之袂良月幾望吉.
*Hào 6: 女承筐无實士刲羊无血无攸利.

Thoán từ: 歸妹征凶无 攸利.
Chấp nhận làm em gái để tránh điều hung mà không mất đi điều lợi.

Hào từ:

*Hào 1: 歸妹以娣跛能履征吉.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài. Chấp nhận làm em gái mà thành vợ lẽ, nàng hầu thì hành động như vậy chẳng khác gì người thọt lại hay đi. Làm như vậy để được tốt lành thì thật xa vời.

*Hào 2: 眇能視利幽人之貞.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 1. Hoặc như người chột lại hay nhìn, chỉ có thể có lợi cho những người hết sức sâu sắc và thâm trầm.

*Hào 3: 歸妹以須反歸以娣.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 2. Cho nên, chấp nhận làm em gái phải tránh bị trở thành vợ bé. Tức là trong xã hội muôn mặt đời thường, có người hiền kẻ ác, có người lương thiện nhưng cũng lắm kẻ dã tâm. Một khi đã chấp nhận làm em gái để tránh tai họa và chờ phúc lành mà lại để bị biến thành vợ lẽ, nàng hầu (tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa) thì thật khó mà đến được bến bờ hạnh phúc. Cho nên, khi dụng cách này phải hết sức tỉnh táo, sâu sắc và thâm trầm mới được.

*Hào 4: 歸妹愆期遲歸有時.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Chấp nhận làm em gái cho sai hẹn, nhằm chậm trễ ít lâu để chờ có duyên lành khác.

*Hào 5: 帝乙歸妹其君之袂不如其娣之袂良月幾望吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 4. Hoặc như Đế Ất (nữ hoàng, quận chúa) chấp nhận làm em gái, ngày ra mắt tay áo không đẹp bằng tay áo người hầu. Làm thế chính là để trông chờ thời tốt lành sau này. Tức là tự làm xấu mình để không khơi gợi dục tình của người đàn ông, như vậy sẽ ít bị để ý. Người phụ nữ trong chiến tranh loạn lạc cũng vậy, thường tự bôi bẩn để bảo vệ mình.

*Hào 6: 女承筐无實士刲羊无血无攸利.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 5. Cho nên, để có thể thoát khỏi tình huống bất ngờ, bất trắc và nguy hiểm (dụng kế ve sầu thoát xác) thì phải giả như người nữ thiếu khuôn phép, không thật thà, hay người sĩ tử không khí huyết tranh đấu để tránh điều hung mà không mất đi điều lợi (như thoái từ).


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:



54. QUẺ LÔI TRẠCH QUI MUỘI

Trên là Chấn (sấm), dưới là Đoài (chằm)

Đã tiến lên thì phải tới, về một nơi nào đó (nơi đó là mục đích); cho nên sau quẻ Tiệm tới quẻ Qui muội. Qui là về, muội là em gái; qui muội là em gái về nhà chồng.
Thoán từ:
歸妹: 征凶, 无 攸利.
Qui muội: chinh hung, vô du lợi.
Dịch: Con gái nhỏ về nhà chồng, tiến lên thì xấu, không có gì lợi cả.
Giảng: Nội quái là Đoài (con gái nhỏ), ngoại quái là Chấn (con trai lớn); chấn lại có nghĩa là động, Đoài có nghĩa là vui vẻ, thuận theo; con gái nhỏ về với trưởng nam, cho nên gọi là qui muội.
Trai gái phối hợp nhau vốn là “cái nghĩa lớn của trời đất” vì có vợ chồng rồi mới có gia đình, xã hội. Vậy mà Thoán từ bảo là xấu, vì lẽ:
- Cặp trai gái này không xứng nhau: trai lớn quá (trưởng nam) gái nhỏ quá (muội).
- Tình của họ không chính đáng: gái chỉ vì vui (hoà duyệt, đức của nội quái Ðoài) mà tự động (Chấn) theo trai; cũng có thể giảng là vì gái cầu trai mà trai đã bị động theo gái; như vậy là bất chính. Sự bất chính đó còn thấy trên bốn hào ở giữa nữa; không một hào nào ở vị chính đáng.
- Lại thêm hào 3 và 5 đều là âm mà cưỡi lên dương: 4 và 2 có cái tượng vợ ăn hiếp chồng.
Ngay từ buổi đầu, sự phối hợp đó không được chính đáng thì biết trước được về sau không có gì lợi, chỉ tệ hại thôi (Lời Đại Tượng truyện).

Hào từ:

*Hào 1: 歸妹以娣, 跛能履, 征吉.
Sơ cửu: Qui muội dĩ qui đệ, bả năng lý, chinh cát.
Dịch: Hào 1, dương: Em gái về nhà chồng làm vợ bé, chân thọt mà đi được, tiến đi thì tốt.
Giảng: Ý nghĩa chung của quẻ là xấu, nhưng mỗi hào xấu hay tốt tùy hoàn cảnh. Như hào này dương cương ở vị thấp nhất, không có chính ứng ở trên, nên ví với người con gái nhỏ có đức, nhưng không được làm vợ cả (không có chính ứng; hào 4 cũng là dương), chỉ làm vợ bé thôi, giúp đỡ vợ cả. Vì làm vợ bé, nên bảo là chân thọt, vì giỏi giúp việc nên bảo là đi được. Cứ tiến đi siêng năng giúp việc thì tốt.
Thời xưa các vua chúa cưới một người vợ chính thì có năm ba em gái hay cháu gái cô dâu đi phù dâu rồi ở luôn bên nhà trai, gọi là “đệ” như vợ bé.

*Hào 2: 眇能視, 利幽人之貞.
Cửu nhị: Diểu (miểu) năng thị, lợi u nhân chi trinh.
Dịch : Hào 2, dương: chột mà thấy được âm thầm giữ đức trinh chính thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương đắc trung, là người con gái hiền, trinh; nhưng chính ứng với hào 5 âm nhu, bất chính, tức như gặp người chồng dở, không dựng nổi cơ đồ, nên ví với người chột mắt. Cứ âm thầm giữ đức trung của mình thì tốt. Đây là hoàn cảnh một người không gặp thời.

*Hào 3: 歸妹以須, 反歸以娣.
Lục tam: qui muội dĩ tu, phản qui dĩ đệ.
Dịch: Hào 3, âm: Em gái về nhà chồng, chờ đợi mãi, nóng lòng trở về làm vợ bé.
Giảng: Hào này ở trên cùng nội quái, có địa vị, đáng lẽ không phải làm vợ bé. Nhưng vì là âm nhu, bất trung bất chính, mà lại đa tình (ham vui là tính cách của nội quái đoài) tính nết như thế nên ế chồng, chờ đợi mãi không ai chịu lấy, đành phải trở về làm vợ bé vậy. Kẻ ham công danh, phú quí, cầu cạnh người, kết quả bị người khinh, coi như tôi tớ, cũng giống cô gái trong hào này.

*Hào 4: 歸妹, 愆期, 遲歸, 有時.
Cửu tứ: Qui muội, khiên kì, trì qui, hữu thời.
Dịch: Hào 4, dương: em gái về nhà chồng, lỡ thời; nhưng dù chậm gả ít lâu, rồi cũng sẽ có lúc gặp đựơc chồng tốt..
Giảng: Hào này dương cương, ở ngoại quái là người con gái đã hiền lại sang, nhưng không có hào chính ứng với nó (vì 1 cũng là dương), nên lỡ thời, không sao, cứ đợi giá cao, chậm trễ ít lâu rồi sẽ gặp duyên lành.

*Hào 5: 帝乙歸妹, 其君之袂, 不如其娣之袂良, 月幾望, 吉.
Lục ngũ: Đế Ất qui muội, kì quân chi duệ, bất như kì đệ chi duệ lương, nguyệt cơ vọng, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Vua Đế Ất (nhà Thương) cho em gái về nhà chồng, tay áo của công chúa (cô dâu) không đẹp bằng tay áo của cô phù dâu (vợ bé); như trăng đêm muời bốn (sắp đến rằm) tốt.
Giảng: Hào này âm nhu đắc trung, ở địa vị cao quí mà lại chính ứng với hào 2 dương, địa vị thấp, như nàng công chúa em vua Ðế Ất mà hạ giá với bình dân. Đã vậy mà khi rước dâu, y phục của nàng lại không đẹp bằng y phục mấy cô phù dâu (vợ bé). Như vậy là đức hạnh rất cao, không hợm mình địa vị cao quí, lại coi thường phục sức. Đức như vậy thật đẹp, như trăng mười bốn (trăng mười bốn tròn, đẹp mà chưa đầy hẳn; chưa đầy hẳn có nghĩa là Khiêm hư).

*Hào 6: 女承筐, 无實.士刲羊, 无血, 无攸利.
Thượng lục: Nữ thừa khuông ,vô thực.
Sĩ khuê dương, vô huyết, vô du lợi.
Dịch: Hào trên cùng, âm: (Để cúng tổ tiên) người con gái (vợ) xách giỏ mà giỏ không có đồ cúng, người con trai (chồng) cắt cổ con cừu để lấy huyết mà (cắt giả vờ) không có huyết, không có gì lợi cả.
Giảng: Năm hào trên, các cô em gái đều về nhà chồng cả rồi, hào này là hào trên cùng, muộn nhất, mà lại không có chính ứng ( hào 3 ứng với nó cũng là âm), không thành vợ chồng chính thức được, chỉ sống bậy bạ với nhau, không có gì lợi cả.
Hồi xưa, khi cúng tổ tiên, bổn phận của vợ là dâng đồ cúng, của chồng là dâng huyết cừu; người con gái trong hào này xách giỏ dâng đồ cúng mà giỏ lại trống không, còn người con trai cắt cổ cừu để lấy huyết thì lại cắt giả vờ, không có huyết; như vậy thì tổ tiên nào chứng giám, trai gái không thành vợ chồng chính thức được. Vì hữu danh mà vô thực.

*Thêm:
Hào đẹp nhất trong quẻ là hào 5. Việc kén dâu, kén vợ, trọng người có đức, không hợm mình cao sang, giàu có, coi thường phục sức, mà khiêm tốn.

Thanked by 1 Member:

#32 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 29/01/2016 - 10:21

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




55. LÔI HỎA PHONG

Khách quái là Chấn (sấm). Chủ quái là Ly (lửa)

Tượng lửa cháy phát ra tiếng nổ và tia chớp, tượng cháy nổ, pháo hoa. Chủ quái Ly tượng văn minh và phát triển. Khách quái Chấn tượng cho sự phá vỡ, phát sinh, biến đổi. Cho nên, tượng của chổng quái là sự tốt tươi, phong phú văn minh, song nếu quá đầy đủ sẽ sinh dư thừa mà bị hỗn loạn (có câu phú quí sinh lễ nghĩa là ở chỗ này). Cho nên, thoái từ và các hào từ của chồng quái đều khuyên khi phong mãn, đầy đủ thì xã hội phải có quy hoạch, phân hoạch cho gọn gàng, phân minh mới tránh được sự sụp đổ.

Phạm trù: Xã hội loài người. Phân công lao động xã hội.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là PHONG : Tươi tốt, phong phú.
Hình tượng: Cơm sôi nhỏ lửa. Quy hoạch, phân hoạch trong xã hội đã phát triển.

Thoán từ: 豐亨王假之勿憂宜日中.
*Hào 1: 遇其配主雖旬无咎往有尚.
*Hào 2: 豐其蔀日中見斗往得疑疾有孚發若吉.
*Hào 3: 豐其沛日中見沬折其右肱无咎.
*Hào 4: 豐其蔀日中見斗遇其夷主吉.
*Hào 5: 來章有慶譽吉.
*Hào 6: 豐其屋蔀其家闚其戶闃其无人三歲不覿凶.

Thoán từ: 豐亨王假之勿憂宜日中.
Tươi tốt đạt được khi chưa thực sự to lớn. Cho nên, chớ nên nghĩ phải như mặt trời giữa trưa mới là đầy đủ (tượng của chồng quái HỎA THIÊN ĐẠI HỮU). Tức là đừng lên phong mãn quá như mặt trời giữa trưa, bởi vì lúc đó là lúc bắt đầu về chiều.

Hào từ.

*Hào 1: 遇其配主雖旬无咎往有尚.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Ly, tượng của văn minh và thịnh vượng. Bất ngờ được lấy công chúa, tuy có tuổi nhưng cũng chẳng sao, vì lấy xong rồi thì sẽ được chiều chuộng. Tức là con gái có thì, công chúa cũng vậy, cho nên quá kén chọn (như thoái từ) bị quá lứa thì phải lấy vội lấy vàng xong lại còn phải chiều chuộng nó mới được.

*Hào 2: 豐其蔀日中見斗往得疑疾有孚發若吉.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Ly. Phong mãn như tán rừng cây rậm rạp, giữa trưa đứng dưới tán mà có thể nhìn thấy sao Bắc đẩu ở phía chân trời. Che phủ dày đặc như vậy thì thường cây bên dưới sẽ phát triển ốm yếu mà chết. Chỉ khi gieo hạt mà che phủ dày đặc giúp cho việc nứt hạt nảy mầm thành cây thì lại tốt.

*Hào 3: 豐其沛日中見沬折其右肱无咎.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Ly. Tiếp ý hào 2. Còn như tán cây phát triển quá nhanh che kín bầu trời, giữa trưa mà chỉ nhìn thấy lờ mờ tối thì chặt bớt những cành không quan trọng cũng chẳng sao. Tức là khi đã quá phong mãn loại bỏ bớt những thứ rườm rà cũng chẳng sao.

*Hào 4: 豐其蔀日中見斗遇其夷主吉.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Phong mãn như tán rừng cây rậm rạp, giữa trưa đứng dưới tán mà có thể nhìn thấy sao Bắc đẩu ở phía chân trời. Nếu chặt bớt cây đi thì luôn luôn là tốt. Tức là khi đã quá nhiều bỏ bớt đi để tránh đổ vỡ thì luôn luôn tốt.

*Hào 5: 來章有慶譽吉.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 4. Sau đó lại quy hoạch cho phân minh (phân vùng rõ ràng cây tán cao, cây tán thấp, chỗ gieo hạt cây) thường mang đến sự tốt lành. Tức là, xã hội văn minh thịnh vượng phải biết phân công lao động xã hội, chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa cao thì xã hội mới thực sự tốt đẹp.

*Hào 6: 豐其屋蔀其家闚其戶闃其无人三歲不覿凶.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Tiếp ý hào 5. Như là quá thịnh vượng lại không biết quy hoạch chỗ ở cho phân minh, sẽ khiến cho nhà cửa san sát nhau mà nhà nọ dòm vào được trong nhà kia. Do đó, đành phải đóng cổng ít ra vào, có khi nhiều năm cũng không qua thăm nhau. Bởi vậy, sẽ không còn tình hàng xóm láng giềng, mất đi mối quan hệ xã hội này thì thật xấu.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


55. QUẺ LÔI HỎA PHONG

Trên là Chấn (sấm), dưới là Ly (lửa)

Qui là về, là tới nơi, tới mục đích, đạt kết quả (qui kết), mà đạt được kết quả thì thịnh lớn, cho nên sau quẻ Qui (muội) tới quẻ Phong (thịnh lớn).
Thoán từ.
豐: 亨. 王假之, 勿憂, 宜日中.
Phong : hanh. Vương cách chi, vật ưu, nghi nhật trung.
Dịch: thịnh lớn thì hanh thông. Bậc vương giả tới được đừng lo, nên giữ đạo trung như mặt trời đứng giữa trời.
Giảng: Dưới là Ly (sáng suốt), trên là Chấn (động) sáng suốt mà hành động thì làm nên được sự nghiệp thịnh lớn. Chỉ bậc vương giả có quyền có vị mới làm tới nơi được. Khi đã thịnh lớn thì người sáng suốt biết rằng sẽ phải suy nên thường lo; nhưng đừng nên lo suông, cứ giữ được đạo trung như mặt trời (nội quái Ly có nghĩa là mặt trời) đứng ở giữa trời thì sẽ tốt.
Đại Tượng truyện áp dụng vào việc hình ngục, khuyên người trị dân nên sáng suốt mà soi xét tình dân mạnh mẽ xử đoán thì mau xong việc.

Hào từ.

*Hào 1: 遇其配主, 雖旬, 无咎, 往有尚.
Sơ cửu: Ngộ kì phối chủ, tuy tuần, vô cữu, vãng hữu thượng.
Dịch: Hào 1, dương: Gặp được người chủ hợp với mình, tuy ngang nhau nhưng không có lỗi tiến đi thì có công nghiệp đáng khen.
Giảng: Hào này ở nội quái Ly, có đức sáng suốt, có tài (vì là dương), ở trên ứng với hào 4, thuộc ngoại quái Chấn, có đức hoạt động, mà cũng có tài (dương cương ) Bình thường thì ứng với nhau, phải một âm một dương mới tốt, ở hào này thì khác, cùng là dương cả mà cũng tốt, vì 1 sáng suốt, 4 hoạt động, hai hào dương thành, chứ không tương phản, giúp nhau làm nên sự nghiệp lớn được. Hai hào ngang nhau, biết châm chước ý kiến nhau là điều tốt cho sự hợp tác; nếu một bên cầu thắng, một bên chỉ nhường, thì không còn là hợp tác nữa, khó mà thành công lớn được.

*Hào 2: 豐其蔀, 日中見斗.往, 得疑疾, 有孚發若, 吉.
Lục nhị: phong kì bộ, nhật trung kiến đẩu;
Vãng, đắc nghi tật, hữu phu phát nhược, cát.
Dịch: Hào 2, âm: Bị màn che lớn, dày quá, như ban ngày (mặt trờ bị che lấp) mà thấy sao Bắc đẩu; tiến đi thì bị ngờ và ghét, cứ lấy lòng chí thành mà cảm hoá được người trên thì tốt.
Giảng: Hào âm này ở giữa quẻ Ly, đắc trung đắc chính; nhưng kẻ ứng với nó là hào âm, âm nhu bất chính, không giúp được nó, không tin nó; nó như một hiền thần gặp một ám chúa, nên ví với mặt trời (quẻ Ly) bị mây mù che dày. Có muốn theo 5 thì bị 5 nghi kỵ và ghét; chỉ có cách giữ vững đức trung trinh, lấy lòng chí thành mà đối xử với 5, rồi sau 5 sẽ tỉnh ngộ. Chữ 若 nhược ở đây trỏ hào 5.

*Hào 3: 豐其沛, 日中見沬.折其右肱, 无咎.
Cửu tam: Phong kỳ bái, nhật trung kiến muội.
Chiết kì hữu quăng, vô cữu.
Dịch: Hào 3 dương: bị màn che kín mít, ban ngày mà thấy sao nhỏ (muội) gẩy cánh tay phải, không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương, ở trên cùng quẻ Ly là người sáng suốt, có tài; nhưng hào trên cùng ứng với nó lại bất tài (âm nhu), không giúp gì được nó; đã vậy nó còn bị hào 4 che ám, hoàn cảnh còn tệ hơn hào 2 nữa, cho nên bảo là bị tấm màn che kín mít, ban ngày mà tối như đêm, thấy được cả những vì sao nhỏ. Như vậy hào 3 như người bị gẩy cánh tay phải (trỏ hào 5 không giúp gì được nó), nó không có lỗi vì hoàn cảnh khiến vậy.

*Hào 4: 豐其蔀, 日中見斗, 遇其夷主, 吉.
Cửu tứ: Phong ki bộ, nhật trung kiến đẩu, ngộ kì di chủ, cát.
Dịch: Hào 4, dương: Bị màn che lớn dày quá, như ban ngày mà thấy sao Bắc Ðẩu gặp được bạn bằng vai vế, tốt.
Giảng: Hào này dương cương, ở địa vị cao, có thể lập được sự nghiệp, nhưng bất trung, bất chính lại bị hào 5 âm nhu, hôn ám che lấp hoàn cảnh cũng như hào 2, cũng ban ngày mà thấy sao Bắc đẩu, nhưng nay được hào 1 ở dưới đồng đức (cũng dương cương ) bằng vai vế ứng với nó, cũng coi là tốt được.

*Hào 5: 來章, 有慶, 譽, 吉.
Lục ngũ: Lai chương, hữu khánh, dự, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Mời những nhân tài giúp mình thì được phúc, có tiếng khen, tốt.
Giảng: Hào này ở địa vị chí tôn, âm nhu, không có tài tạo được sự nghiệp thịnh lớn, nhưng khá là có đức trung (ở giữa ngoại quái), và có hào 3, 4 dương cương , hiền tài ở dưới mình, nếu biết mời họ giúp mình thì có phúc và được tiếng khen, tốt.

*Hào 6: 豐其屋, 蔀其家, 闚其戶.闃其无人,三歲不覿, 凶.
Thượng lục: Phong kì ốc, bộ kì gia, khuy kì hộ,
Huých kì vô nhân, tam tuế bất địch, hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Cất nóc nhà rất cao lớn mà phòng mình ở lại nhỏ hẹp, bị bưng bít (tự mình không muốn ai lui tới với mình), cho nên nhìn vào cửa, lặng tanh không thấy bóng người, ba năm không thấy ai (hoặc không giác ngộ) xấu.
Giảng: Hào này khó hiểu, mỗi sách giảng một khác, chúng tôi theo cách hiểu của Phan Bội Châu vì hợp với Tiểu Tượng truyện hơn cả.
Hào này âm nhu, như người hôn ám, mà ở trên cùng, có địa vị rất cao, y như người cất nhà, nóc rất cao (địa vị cao), mà buồng mình ở lại thấp hẹp (bản tính âm nhu), thế là tự mình che lấp mình, nên không ai lui tới với mình, do đó mà đứng ở cửa nhìn vào, không thấy bóng người, ba năm không thấy ai (hoặc ba năm vẫn không giác ngộ: địch là thấy rõ). Không gì xấu hơn.

*Thêm:
Tên quẻ là thịnh lớn, rất tốt mà không có hào nào thật tốt, hào nào cũng có lời răn đe. Cổ nhân muốn cảnh cáo chúng ta ở thời thịnh lớn, có phúc thì cũng có sẵn mầm hoạ, phải cẩn thận lắm mới được.
Các quẻ khác, thường hào dương ứng với âm, âm ứng với dương mới tốt; quẻ này trái lại, dương ứng với dương (như 1 và 4) mới tốt. Đó cũng là một lời khuyên nữa: ở thời thịnh, người ta thường vì quyền lợi chia rẽ nhau mà hoá suy, phải biết đồng đức, đồng tâm với nhau, thì mới tránh được hoạ.




-------------------------------------------------------------------------------




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




56. HỎA SƠN LỮ

Khách quái là Ly (lửa). Chủ quái là Cấn (núi).

Tượng lửa trong núi, tượng lữ khách qua núi gặp đêm phải đốt lửa nghỉ tạm hay cảnh đốt rừng làm nương của dân du canh du cư không có nơi ở cố định. Chủ quái Cấn (núi) tượng cho hòa bình và ổn định, khách quái Ly (lửa) tượng cho tranh chấp, đấu tranh. Cho nên, việc tranh chấp, thi thố và phát triển xã hội trong thời bình thì tối cần sự bình đẳng, rành mạch để có thể phân công lao động xã hội rõ ràng. Từ đó định hướng để đưa xã hội phát triển vượt lên những thiếu thốn, khó khăn trong hòa bình, cùng thịnh vượng và thuận theo Tự nhiên.

Phạm trù: Xã hội loài người.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là LỮ: Đồng đều, thứ tự.
Hình tượng: Bó đũa cột cờ. Bình đẳng có thứ bậc để phát triển xã hội.


Thoán từ: 旅小亨旅貞吉.
*Hào 1: 旅瑣瑣斯其所取災.
*Hào 2: 旅即次懷其資得童僕貞.
*Hào 3: 旅焚其次喪其童僕貞厲.
*Hào 4: 旅于處得其資斧我心不快.
*Hào 5: 射雉一矢亡終以譽命.
*Hào 6: 鳥焚其巢旅人先 笑後號咷喪牛于易凶.

Thoán từ: 旅小亨旅貞吉.
Đồng đều thì mọi người dân đều được hanh thông. Nhưng phải có thứ bậc rõ ràng thì mới chắc chắn tốt lành. Tức là đồng đều phải có thứ bậc và có thứ bậc phải đồng đều.

Hào từ.

*Hào 1: 旅瑣瑣斯其所取災.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Đồng đều mà lẫn lộn rời rạc thì ở chỗ nào cũng chỉ chuốc lấy tai vạ.

*Hào 2: 旅即次懷其資得童僕貞.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Tiếp ý hào 1. Cho nên đồng đều phải sắp đặt thứ tự phân minh, tôn trọng tư chất của cá nhân thì sẽ có được lớp những người lao động trẻ tuổi và thuần phác.

*Hào 3: 旅焚其次喪其童僕貞厲.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Tiếp ý hào 2. Còn đồng đều mà lại phá hủy mọi quy tắc xắp xếp, tổ chức và thứ tự sẽ rất khó khăn để hình thành được lớp những người lao động trẻ tuổi và thuần phác.

*Hào 4: 旅于處得其資斧我心不快.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Ly, tượng xã hội văn minh. Xã hội văn minh bình đẳng mọi nơi mà lại có ý tham tiền của, đồ dùng cho riêng mình thì không bao giờ thấy thỏa mái.

*Hào 5: 射雉一矢亡終以譽命.
Hào âm. Trung vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 4. Như là bắn con chim trĩ (để chiếm cho riêng mình, chim trĩ tượng cho thái bình thịnh trị, có hình trên mặt trống đồng) thì đó là một việc làm gây mất hết sự yên ổn của Đạo. Tức là để cho sự phân hóa giàu nghèo gây bất bình đẳng trong xã hội sẽ gây sự bất ổn trong tự nhiên.

*Hào 6: 鳥焚其巢旅人先 笑後號咷喪牛于易凶.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Ly. Tiếp ý hào 5. Làm điều đó cũng nguy hiểm như chim bị đốt mất tổ (tan cửa nát nhà) hay người khách bộ hành trước còn cười sau khóc than vì sao Ngưu biến mất (Sao Ngưu là sao sáng nhất khi nhìn bằng mắt thường trong chòm sao Thiên Ưng – chim ưng nhà Trời, sao Ngưu còn có tên là Altair – con chim đang bay, cũng được dùng để định hướng như sao Đẩu). Tức là gây bất ổn trong tự nhiên thì chẳng khác gì chim mất tổ, người bộ hành mất phương hướng mà gặp nguy hiểm.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:

56. QUẺ HỎA SƠN LỮ

Trên là Ly (lửa), dưới là Cấn (núi)

Thịnh lớn đến cùng cực thì phải suy, đến nỗi mất chỗ ở, phải đi ở đậu đất khách, cho nên sau quẻ Phong tới quẻ Lữ. Lữ là bỏ nhà mà đi tha phương.
Thoán từ:
旅: 小亨. 旅貞, 吉.
Lữ: tiểu hanh, Lữ trinh, cát.
Dịch: Ở đậu; hơi hanh thông. Đi ở đậu mà giữ đạo chính thì tốt.
Giảng: chỗ ở của lửa là mặt trời hay lò, chứ không phải ở trên núi: trên núi lâu lâu vẫn có đám lửa cháy rừng hay đốt rừng, nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Cho nên dùng các tượng lửa (ly) ở trên núi Cấn để chỉ cảnh bỏ nhà mà đi ở đậu quê người.
Cảnh đó là cảnh bất đắc dĩ, nhiều lắm chỉ có thể hơi hanh thông được thôi, nếu người đi ở đậu biết giữ đức trung, thuận, như hào 5, yên lặng như nội quái Cấn, sáng suốt như ngoại quái Ly. Hào 5 đắc trung mà lại là âm ở giữa hai hào dương, biết thuận theo dương. Cái đạo ở đậu là mềm mỏng, đừng làm cao để người ta khỏi ghét; nhưng mặt khác, cũng phải yên lặng sáng suốt giữ tư cách, đạo chính của mình để người ta khỏi khinh. Giữ cho đạo được nghĩa lý trong hoàn cảnh đó thật là khó (lữ chỉ thời nghĩa, đại hĩ tai: lời Thoán truyện).
Đại tượng truyện cũng lại áp dụng vào việc hình pháp, khuyên phải xử đoán sáng suốt (Ly) và thận trọng (như Cấn) đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục (quân tử dĩ minh thận dụng hình, như bất lưu ngục)

Hào từ.

*Hào 1: 旅瑣瑣, 斯其所取災.
Sơ lục: Lữ toả toả, tư kì sở thủ tai.
Dịch: Hào 1, âm: Ở đậu mà tư cách nhỏ nhen, tẳn mẳn tức là tự chuốc lấy hoạ.
Giảng: hào này âm nhu, ở vị thấp nhất, ví với người chí đã cùng, tư cách hèn hạ đối với chủ nhà mình ở đậu mà tham lam, tẳn mẳn, khiến người ta ghét, như vậy là tự rước hoạ vào mình.

*Hào 2: 旅即次, 懷其資, 得童僕, 貞.
Lục nhị: Lữ tức thứ, hoài kì tư, đắc đồng bộc, trinh.
Dịch: Hào 2, âm: Ở đất khách, được chỗ trọn an lành, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ tín cẩn.
Giảng: Ở đất khách nên nhu thuận, mà hào này âm nhu, đắc trung, đắc chính, trên lại ứng với hào 5, cũng âm nhu, đắc trung mà lại văn minh (ở ngoại quái Ly), như gặp được chủ nhà tốt, mình có chỗ trọn an lành, lại giữ được tiền, có đầy tớ tín cẩn, mọi việc đều tốt cả.

*Hào 3: 旅, 焚其次, 喪其童僕, 貞, 厲.
Cửu tam: Lữ, phần kì thứ, táng kì đồng bộc, trinh, lệ.
Dịch: Hào 3, dương: Ở đất khách, mà (tự mình) đốt chỗ trọ, mất đầy tớ, dù chính đáng cũng nguy.
Giảng: Hào này quá cương (dương ở vị dương), bất trung, ở đất khách như vậy không tốt, vị lại khá cao, có ý tự cao, bị chủ nhà trọ đuổi, như vậy không khác gì tự đốt chỗ trọ của mình, đầy tớ cũng không ưa mình, mất lòng cả người trên kẻ dưới, dù mình có chính đáng, cũng nguy.

*Hào 4: 旅于處, 得其資斧, 我心不快.
Cửu tứ: Lữ vu xử, đắc kì tư phủ, ngã tâm bất khoái.
Dịch: Hào 4, dương: tới đất khách, được chỗ ở tạm, có tiền của và đồ hộ thân (tượng trưng bằng cái búa), nhưng trong lòng không vui.
Giảng: tuy dương cương nhưng ở vị âm, lại ở dưới cùng ngoại quái, là biết mềm mỏng, tự hạ, tức biết xử thế, cho nên được chỗ ở tạm, có tiền của, vật liệu để phòng thân, nhưng ở trên, hào 5 âm nhu không giúp đỡ gì được 4, ở dưới, hào 1, ứng với 4 âm nhu, lại thấp hèn, cũng chẳng giúp đỡ 4 được gì, vì vậy là lòng 4 không vui.
Các sách cho “tư phủ” là cái búa sắc bén, và giảng là : lữ khách tới nơi, không có quán trọ, chỉ có mảnh đất gai góc, phải dùng búa bén để phá bụi bờ mà làm chỗ ở, nên trong lòng không vui.

*Hào 5: 射雉, 一矢亡, 終以譽命.
Lục ngũ: Xạ trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh.
Dịch : Hào 5, âm : Bắn con trĩ, mất một mũi tên, sau được khen và phúc lộc (hoặc chức vị: mệnh) .
Giảng: Thường hào 5 trỏ ngôi vua, nhưng nếu vua là làm lữ khách thì là vua mất nước, cho nên chỉ nên coi là một lữ khách thôi, một lữ khách văn mình (ở ngoại quái ly), nhũn nhặn, mềm mỏng (âm nhu) được lòng mọi người (đắc trung) , như vậy tất được tốt đẹp như bắn được con trĩ (một loài chim đẹp – tượng quẻ Ly) tốn hao không mấy mà được tiếng khen, và phúc lộc.

*Hào 6: 鳥焚其巢, 旅人先 笑, 後號咷, 喪牛于易, 凶.
Thượng cửu: điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào, táng ngưu vu dị, hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương: con chim cháy mất tổ, người lữ hành trước cười, sau kêu khóc, vì láu táu (vô ý) đánh mất con bò (đức nhu thuận), xấu.
Giảng: thân phận ở đậu mà lại ở trên chủ nhà, đã là nghịch cảnh rồi, đã vậy lại quá cương (hào dương), mất lòng người, tất bị đuổi đi, như con chim cháy mất tổ. Mới đầu hớn hở, vì được ở trên người, sau phải kêu khóc vì mất chỗ trọ. Sở dĩ vậy vì khinh dị đánh mất đức nhu thuận (tượng bằng con bò) rất cần ở thời ở đậu.

*Thêm:
Cuối quẻ Lữ này, cụ Phan Bội Châu có ghi cảm tưởng:
“xử cảnh kh*n n*n không gì bằng Lữ, thiệp thế rất khó khăn cũng không gì bằng Lữ. Tạp quái (truyện) nói rằng: “Lữ là ít người thân yêu, là đường cùng khốn của người vậy: Lữ quả thân dã, nhân chi cùng dã.
“Tuyền sáu hào không một chữ cát, chữ hanh nào cả . . Dở sinh gặp hồi đen rủi, gởi thân ở đất khách quê người . . may khỏi tai hoạ là hạnh phúc đã lớn rồi. Vậy nên trung chính như Lục Nhị (hào 2, âm), văn minh nhu trung như Lục ngũ (hào 5, âm) mà hào từ không có chữ cát hanh. Huống gì quá cương , bất trung như Cửu tam (hào 3, dương). Thượng cửu (hào trên cùng, dương) nữa ru? Vậy nên người ở vào thời Lữ, nên mang chặt lấy hai chữ nhu, trung làm bùa hộ thân”
Đọc lời của Cụ, chúng tôi vô cùng cảm thán. Trong mấy chục năm, vì quốc gia, dân tộc, Cụ gởi thân quê người, gặp biết bao cảnh tủi nhục, nỗi gian nguy, rốt cuộc cũng không tránh khỏi tai hoạ, nhưng lúc nào cũng giữ được tư cách, khí phách chí hướng. Ai hiểu được tình cảnh lữ thứ, hiểu được quẻ Lữ hơn Cụ?

#33 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 03/02/2016 - 06:57

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




57. THUẦN TỐN

Khách quái là Tốn (gió, thuận). Chủ quái là Tốn (gió, thuận).

Gió thêm gió thì càng mạnh hay góp gió thành bão. Khi này, không khí bị xáo trộn mạnh, di chuyển hỗn loạn khiến con người phải trốn tránh. Cho nên, tượng của nó là lằng ngoằng, xáo trộn và trốn tránh.

Pham trù: Xã hội loài người. Tĩnh và Động.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là TỐN (TRỐN): Hỗn loạn, xáo động, trốn tránh, khuất tất.
Hình tượng: Bão tố mịt mùng.

Thoán từ: 巽小亨利有攸往利見大人.
*Hào 1: 進退利武人之貞.
*Hào 2: 巽在床下用史巫 紛若吉无咎.
*Hào 3: 頻巽吝.
*Hào 4: 悔亡田獲三品.
*Hào 5: 貞吉悔亡无不利无初有終先庚三日後庚三日吉.
*Hào 6: 巽在床下喪其資斧貞凶.

Thoán từ: 巽小亨利有攸往利見大人.
Người dân trốn tránh khi gặp thời thế bất lợi thì sau sẽ hanh thông, có lợi cho du thủ du thực (mượn gió bẻ măng), có lợi cho việc xưng vương xưng bá.

Hào từ:
Gió hình thành trên trời, không khí cọ xát trên mặt đất. Cho nên, ba hào của chủ quái tượng cho hay thay đổi sẽ gây xáo trộn mà phải trốn tránh (xem chồng quái THIÊN PHONG CẤU). Ba hào của khách quái tượng cho khi hỗn loạn phải trốn tránh thì cần nắm chắc các nguyên tắc cơ bản (xem chồng quái ĐỊA PHONG THĂNG).

*Hào 1: 進退利武人之貞.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Tốn. Khi đang tiến hoặc lùi thì lại tạo lợi thế chắc chắn cho người dùng vũ lực. Tức là khi tiến hoặc lui sẽ thay đổi vị trí, gây xáo trộn trong bố trí đội hình, tạo sơ hở để đối phương có lợi thế phục kích, chặn đường hoặc tấn công có trọng điểm vào chỗ sơ hở một cách dồn dập.

*Hào 2: 巽在床下用史巫 紛若吉无咎.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Tốn. Trốn dưới gầm giường mà vẫn còn quần che đậy hòng rối rít phân bua cho thuận thì tốt và không có lỗi. Tức là ham của lạ bị bắt gặp (chồng quái THIÊN PHONG CẤU tượng cho nữ tính) may mà vẫn còn mặc quần áo nên chối cãi được.

*Hào 3: 頻巽吝.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Tốn. Tiếp ý hào 2. Nhưng nhiều lần như vậy thì sẽ phải hối hận (vì hết đường chối cãi vòng vo).

*Hào 4: 悔亡田獲三品.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Khi gặp thời thế xấu, hoặc nạn cướp phá thì đất đai trồng trọt nên chia thành nhiều phần, nhiều nơi. Tức là chia đất đai ra nhiều phần để trồng nhiều loại cây nhằm hạn chế rủi ro, mất chỗ này còn chỗ khác.

*Hào 5: 貞吉悔亡无不利无初有終先庚三日後庚三日吉.
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 4. Khi này để chắc chắn tốt lành, không bị bất lợi và không có trước nhưng vẫn có sau thì phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản sau: làm tốt việc hạ mình thấp xuống như bãi sông (trước canh ba ngày, mượn âm ẩn nghĩa chữ 汀 đinh : Bãi thấp, bãi sông) và làm tốt việc hòa mình vào môi trường như cá rô (sau canh ba ngày, mượn âm ẩn nghĩa chữ 鯚 quý: Cá rô).

*Hào 6: 巽在床下喪其資斧貞凶.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Tiếp ý hào 5. Tiếp ý hào 2. Đừng như trốn dưới gường mà không còn mảnh vải che thân thì chắc chắn gặp nguy.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


57.QUẺ THUẦN TỐN

Trên dưới đều là Tốn (gió, thuận)

Lâm vào cảnh ở quê người thì thái độ nên thuận tòng người, cho nên sau quẻ Lũ tới quẻ Tốn. Tốn là gió mà có nghĩa là thuận, là nhập vào.
Thoán từ.
巽: 小亨, 利有攸往, 利見大人.
Tốn: tiểu hanh, lợi hữu du vãng , lợi kiến đại nhân.
Dịch: Thuận thì hơi được hanh thông, tiến hành thì có lợi, lựa bậc đại nhân mà tin theo thì có lợi.
Giảng: Quẻ này có một hào âm ở dưới hai hào dương, là âm phục tòng dương, nên gọi là Tốn. tiểu nhân mà phục tòng quân tử thì có thể tốt, nhưng phải có việc để tíến hành, chứ không phải chỉ ở yên mà tốt, lại phải lựa bậc đại nhân (có tài, đức) mà tin theo. Đại nhân trỏ hào 2 và hào 5, cũng mà dth, tiểu nhân là hào 1 và hào 4. Nhất là hào 5, đắc trung lại đắc chính nữa, 1 và 4 đều phải theo hào đó.
Đại tượng truyện giảng: trên là gió, dưới là gió (Tốn), là có hai luồng gió tiếp tục theo nhau. Người quân tử tiếp tục xuất phát mệnh lệnh để thi hành chính sự, mà thiên hạ phục tòng, cũng như vạn vật ngả theo gió.

Hào từ:

*Hào 1: 進退, 利武人之貞.
Sơ lục: tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh.
Dịch: Hào 1, âm: Tiến lui tự do, thêm vào cái chí hướng bền của hạng võ dũng thì có lợi.
Giảng: Hào này âm nhu ở dưới cùng quẻ Tốn là người nhu thuận thái quá, còn nghi ngờ, không cương quyết tiến hay lui, không thể làm gì được; Hào từ khuyên phải theo cái chí kiên cường của hạng người võ dũng thì mới trị được tật nghi hoặc.

*Hào 2: 巽在床下, 用史巫 紛若, 吉,无咎.
Cửu nhị: Tốn tại sàng hạ, dụng sử vu phân nhược, cát, vô cữu.
Dịch: Hào 2, dương: Thuận nép ở dưới giường, dùng vào việc lễ bái, đồng cốt rối ren thì tốt, không có lỗi.
Giảng: Hào dương mà ở vào vị âm thời Tốn (thuận), nên quá thuận đến nỗi nép ở dưới giường. May àm đắc trung, không phải là kẻ siểm nịnh, mà lại có lòng thành; trong việc tế thần, mà như vậy thì tốt, không có lỗi. “sử” là chức quan coi việc tế, “Vu” là chức quan coi về việc trừ tai hoạ, như đồng cốt. “Phân nhược” (rối ren) dùng để tả việc cúng tế, cầu thần.

*Hào 3: 頻巽吝.
Cửu tam: Tần tốn, lận.
Dịch: Thuận tòng quá nhiều lần (quá mức), đáng xấu hổ.
Giảng: Hào này quá cương (dương ở vị dương), bất đắc trung, vốn nóng nảy, kiêu căng, thất bại nhiều lần, sau mới làm bộ tự hạ, thuận tòng, nhưng lại thuận tòng quá mức, việc gì cũng thuận tòng dù không phải lúc, đáng xấu hổ, R. WilheLm giảng: suy nghĩ đi suy nghĩ lại nhiều lần kĩ quá, mà không quyết định hành động, xấu hổ.

*Hào 4: 悔亡, 田獲三品.
Lục tứ: Hối vong, điền hoạch tam phẩm.
Dịch: Hào 4, âm: Hối hận mất đi; đi săn về, được chia cho ba phần.
Giảng: Hào này âm nhu, hào 1 ứng với nó cũng âm nhu, không giúp gì được nó, mà lại bị kẹt giữa 4 hào dương ở trên và dưới, xấu; nhưng nhờ nó đắc chính, địa vị cao (ở ngoại quái, sát hào 5) mà lại có đức tự khiêm, thuận tòng, nên được trên dưới mến, chẳng những không có gì hối hận mà còn được thưởng công. Thời xưa đi săn về, chia làm 3 phần (phẩm vật): một phần để làm đồ tế, một phần để đãi khách, một phần giao cho nhà bếp. Có công lớn mới được chia như vậy.

*Hào 5: 貞吉, 悔亡, 无不利, 无初有終. 先庚三日, 後庚三日.吉.
Cửu ngũ: Trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sở hữu chung.
Tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát
Dịch: Hào 5, dương : giữ đạo chính thì tôt, hối hận mất đi, không có gì là không lợi, mới đầu không khá mà cuối cùng tốt; (đinh ninh như ) trước ngày canh ba ngày, (đắn đo như) sau ngày canh ba ngày, tốt.
Giảng: Hào này ở thời Tốn, phải thuận tòng, mà bản thể và vị đều là dương cả, mới đầu không tốt (vô sợ), e có điều hối hận, may mà đắc trung, đắc chính, hợp với tư cách một vị chủ, cứ giữ đức trung, chính ấy thì sau sẽ tốt (hữu chung), hối hận mất hết mà không có gì không lợi. Tuy nhiên, muốn kêt quả được tốt thì trước khi hành động, canh cải, phải đinh ninh cân nhắc cho kỹ, rồi sau khi canh cải phải khảo nghiệm chu đáo.
Trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh Tân, Nhâm, quí, Canh đứng hàng thứ 7, quá giữa, tới lúc phải thay đổi. (chữ Canh trong hào từ 庚cũng dùng như chữ Canh 更 là đổi) Ba ngày trước ngày Canh là ngày Đinh, chữ Đinh 丁 này mượn nghĩa chữ đinh 叮嚀 (đinh ninh); ba ngày sau ngày Canh là ngày Quí, chữ quí này 癸 mượn nghĩa chữ quĩ 揆度 (quĩ đạc là đo lường)
Cách dùng chữ ở đây cũng như cách dùng chữ trong Thoán từ quẻ Cổ.

*Hào 6: 巽在床下, 喪其資斧, 貞凶.
Thượng cửu: Tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ, trinh hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Thuận nép ở dưới giường, mất đồ hộ thân, cứ giữ thói xấu đó thì càng bị hoạ.
Giảng: Ở trên cùng quẻ Tốn là thuận tòng đến cùng cực như kẻ nép ở dưới giường; tới nỗi đức dương cương – ví với đồ hộ thân (tư phủ) của mình cũng mất luôn. Cứ giữ thói xấu xa, đê tiện, siểm nịnh đó thì càng bị hoạ.



----------------------------------------------------------------------------------------------





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




58. THUẦN ĐOÀI

Khách quái là Đoài (chằm, hòa duyệt). Chủ quái là Đoài (chằm, hòa duyệt)

Đàm nối tiếp đầm thì nước sẽ hòa vào nhau và thông với nhau trong sự tĩnh tại. Cho nên, tượng của nó là ĐOÀI (thông đạt, hòa thuận).

Pham trù: Xã hội loài người. Tĩnh và Động.
Cho đối tượng: Mọi người.
Tên là ĐOÀI: Thông đạt, yên vui, ổn định, rõ ràng.
Hình tượng: An cư lạc nghiệp.

Thoán từ: 兌亨利貞.
*Hào 1: 和兌吉.
*Hào 2: 孚兌吉悔亡.
*Hào 3: 來兌凶.
*Hào 4: 商兌未寧介疾有喜.
*Hào 5: 孚于剝有厲.
*Hào 6: 引兌.

Thoán từ: 兌亨利貞.
Thông đạt, ổn định thì hanh thông và chắc chắn có lợi.

Hào từ.
Đầm hình thành dưới đất, hơi nước bốc lên trời. Cho nên, ba hào của chủ quái tượng cho phải thấu hiểu nhau thì mới thông đạt ổn định (xem chồng quái ĐỊA TRẠCH LÂM). Ba hào của khách quái tượng cho phải thấu hiểu môi trường sống, môi trường tự nhiên thì mới thông thẳng yên vui (xem chồng quái THIÊN TRẠCH LÍ).

*Hào 1: 和兌吉.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài. Cùng ăn nhịp với nhau để hiểu nhau và cùng nhau yên vui thì tốt lành.

*Hào 2: 孚兌吉悔亡.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 1. Sự thấu hiểu nhau làm cho nẩy nở sự yên vui thông đạt với nhau thì tốt lành và chẳng có gì phải hối hận.

*Hào 3: 來兌凶.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 2. Chứ còn chỉ lại gần nhau để mong thông đạt ổn định mà không hiểu nhau thì chẳng có gì lành.

*Hào 4: 商兌未寧介疾有喜.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hòa 3. Nên phải biết đắn đo trước khi thông thuận cùng nhau, chưa hiểu nhau thì chẳng lên vội vàng thì mới có thể yên vui được.

*Hào 5: 孚于剝有厲.
Hào dương. Trung vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 4. Bởi vì trong môi trường tự nhiên luôn luôn có sự gọt giũa ý chí và năng lực qua những gian lao thử thách của cuộc sống.

*Hào 6: 引兌.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Đoài. Tiếp ý hào 5. Cho nên hiểu nhau, dựa vào nhau và cùng rèn luyện để dẫn dắt nhau đấu tranh sinh tồn mới đạt được ổn định và yên vui.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


58. QUẺ THUẦN ĐOÀI

Trên dưới đều là Đoài (chằm, hòa duyệt)

Tốn có nghĩa là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng nhau, thì mới ưa nhau mà hoà duyệt, vui vẻ với nhau, cho nên sau quẻ Tốn tới quẻ Đoài. Đoài là chằm mà cũng có nghĩa là hoà duyệt.
Thoán từ.
兌; 亨.利貞.
Đoài; Hanh. Lợi trinh.
Dịch: Vui thì hanh thông. Hợp đạo chính thì lợi.
Giảng: Đoài là chằm, cũng là thiếu nữ. Nước chằm làm cho cây cỏ vui tươi, sinh vật vui thích; thiếu nữ làm cho con trai vui thích. Vui thích thì hanh thông, miễn là phải hợp với đạo chính; phải ngay thẳng, thành thực, đoan chính. Đoài có hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở ngoài, nghĩa là trong lòng phải thành thực rồi ngoài mặt nhu hoà, như vậy là hợp với đạo chính, tốt.
Thoán truyện – Giảng rộng ra: vui vẻ mà hợp với đạo chính thì là thuận với trời, hợp với người. Vui vẻ mà đi trước dân thì dân quên khó nhọc; vui vẻ mà xông vào chốn nguy hiểm thì dân quên cái chết mà cũng xông vào; đạo vui vẻ (làm gương cho dân) thật lớn thay; khuyến khích dân không gì bằng.
Đại Tượng truyên thiên về sự tu thân, khuyên người quân tử nên họp bạn cùng nhau giảng nghĩa lý, đạo đức, rồi cùng nhau thực hành (dĩ bằng hữu giảng tập), để giúp ích cho nhau mà hai bên cùng vui vẻ.

Hào từ.

*Hào 1: 和兌吉.
Sơ cửu: Hoà đoái, cát.
Dịch: Hào 1, dương: Hoà thuận, vui vẻ, tốt.
Giảng: dương ở dưới cùng quẻ đoài là quân tử mà khiêm hạ, ở trên lại không tư tình với ai (vì 4 cũng là dương, không phải là âm, tiểu nhân), nên chỉ dùng đạo chính mà hoà thuận vui vẻ với mọi người, tốt.

*Hào 2: 孚兌吉.悔亡.
Cửu nhị: Phu đoài, cát, hối vong.
Dịch: Hào 2, dương: Trung trực mà vui vẻ, tốt, hối hận mất đi.
Giảng: Ở gần hào 3, âm nhu, tiểu nhân, nhưng hào 2 này đã dương cương mà lại đắc trung, cho nên có đức thành thực cương trung, không nhiễm xấu của hào 3, không bị hối hận.

*Hào 3: 來兌凶.
Lục tam: Lai đoài, hung.
Dịch: Hào 3, âm: Quay lại cầu vui với người ở dưới, xấu.
Giảng: Âm nhu, bất trung bất chính, là hạng tiểu nhân tìm vui mà không giữ đạo; là phận gái ở giữa bốn người con trai (4 hào dương, 2 ở trên, 2 ở dưới), cầu vui với 2 người ở trên, thì không dám vì phận thấp, phải quay lại cầu với 2 người ở dưới, nhưng họ cũng không thèm, vì hào 1 cương trực mà chính, hào 2 cương trực mà trung, kết quả là xấu.

*Hào 4: 商兌, 未寧, 介疾,有喜.
Cửu tứ; Thương đoài, vị ninh, giới tật, hữu hỉ.
Dịch: Hào 4, dương: cân nhắc xem nên cầu vui ở phía nào mà chưa quyết định được rồi sau theo chính bỏ tà, đáng mừng.
Giảng: Dương cương mà ở vị âm, chưa thật là quân tử, ở trên thừa tiếp hào 5 vừa trung vừa chính, nhưng ở dưới lại gần hào 3, tiểu nhân, cho nên mới đầu do dự, cân nhắc xem nên hướng về phía nào; nhưng nhờ có đức dương cương, đồng đức với 5, nên sau hướng về 5, quyết tâm bỏ tà theo chính, thật đáng mừng.

*Hào 5: 孚于剝, 有厲.
Cửu ngũ : Phu vu bác, hữu lệ.
Dịch: Hào 5, dương: Nếu tin kẻ tiểu nhân mà tiêu mòn (bác) hết đức trung chính của mình thì nguy.
Giảng: Hào này dương cương, trung chính, địa vị chí tôn, ở vào thời Đoái mà thân cận với hào trên cùng âm nhu là kẻ tiêu nhân làm chủ sự vui, rồi ham vui bậy bạ thì nguy; đây là lời răn kẻ trị nước.

*Hào 6: 引兌.
Thượng lục: Dẫn đoài.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Đem sự vui thú tới.
Giảng: Ở trên cùng quẻ Đoài mà âm nhu là kẻ chuyên siểm nịnh, dụ dỗ người ta tìm vui một cách bất chính. Tất nhiên là xấu rồi, chẳng cần nói.

*Thêm:
Chúng ta để ý; 6 hào thì 2 hào âm là tiểu nhân dụ dỗ 4 hào dương quân tử, và 4 hào này giữ được chính đạo cả, vì Kinh dịch tin như Khổng tử rằng muốn làm vui lòng người quân tử mà không dùng chính đạo thì không thành công (duyệt chi bất dĩ đạo, bất duyệt dã. Luận ngữ XIII 25).

Thanked by 1 Member:

#34 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 05/02/2016 - 07:47

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




59. PHONG THỦY HOÁN

Khách quái là Tốn (gió). Chủ quái là Khảm (nước).

Tượng gió trong nước hay nước chảy thành luồng nước.

Phạm trù: Hành sự. Lấy động chế tĩnh.
Cho đối tượng: Người quân tử, người cầm đầu.
Tên là HOÁN: Hoán đổi, hoán chuyển, thay đổi, lưu thông, vận động, tự do, phóng khoáng.
Hình tượng: Hải lưu.

Thoán từ: 渙亨王假有廟利涉大川利貞.
*Hào 1: 用拯馬壯吉.
*Hào 2: 渙奔其机悔亡.
*Hào 3: 渙其躬无悔.
*Hào 4: 渙其群元吉渙有丘匪夷所思.
*Hào 5: 渙汗其大號渙王居无咎.
*Hào 6: 渙其血去逖出无咎.

Thoán từ: 渙亨王假有廟利涉大川利貞.
Hoán chuyển sẽ làm cho xã hội hanh thông và vương đạo được tôn thờ. Có lợi khi vượt sông lớn (thực hiện những việc khó khăn, trọng đại). Có lợi cho việc gìn giữ sự trong sạch của vương đạo.

Hào từ.

*Hào 1: 用拯馬壯吉.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Khảm. Cho con ngựa vận động liên tục để giữ cho gân cốt của nó cường tráng thì tốt.

*Hào 2: 渙奔其机悔亡.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Khảm. Tiếp ý hào 1. Dùng cách như vậy để luôn sẵn sàng thay đổi ngay khi có cơ hội thì sẽ không có gì phải hối tiếc.

*Hào 3: 渙其躬无悔.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Khảm. Tiếp ý hào 2. Cho nên bắt buộc thân thể luôn vận động thì sẽ không bao giờ phải hối tiếc.

*Hào 4: 渙其群元吉渙有丘匪夷所思.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Thay đổi phải giữ được quần thể xã hội (không tan đàn xẻ nghé), người cầm đầu làm được như vậy mới tốt lành. Thay đổi để hợp nhất thì không được xóa đi đặc trưng văn hóa riêng của các dân tộc khác.

*Hào 5: 渙汗其大號渙王居无咎.
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Thay đổi để vỡ ra một tên hiệu lớn, thay đổi để cho giữ sự thịnh vượng ở lại thì không có gì là xấu cả. (汗 hãm: tan lở. 王 vượng: sự thịnh vượng)

*Hào 6: 渙其血去逖出无咎.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Hoán chuyển chức vụ của người trong hoàng tộc để trừ khử mầm họa từ trong ra thì không xấu (như thoái từ).


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


59. QUẺ PHONG THỦY HOÁN

Trên là Tốn (gió), dưới là Khảm (nước)

Hoà vui đến cực điểm rồi thì sẽ ly tán, vì vậy sau quẻ đoài đến quẻ Hoán. Hoán là lìa, tan tác.
Thoán từ.
渙; 亨.王假有廟.利涉大川.利貞.
Hoán; hanh. Vương cách hữu miếu,
Lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.
Dịch: Lìa tan: hanh thông. Vua tới nhà Thái miếu, vượt qua sông lớn thì lợi, giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Trên là gió, dưới là nước (Khảm cũng có thể hiểu là mây – như quẻ Thủy lôi Truân, cũng gọi là Vân Lôi truân); gió thổi trên nước (hay mây) làm nước tung tóe ra (hay mây tan rã ra), cho nên đặt tên quẻ là Hoán.
Thường thì nhóm họp mới hanh thông (như quẻ tụy), nhưng ly tán cũng có khi hanh thông, chẳng hạn sương mù tụ lại nhiều quá, nắng lên, nó tan đi thì tốt, hoặc thời nhiễu loạn, dân chúng tụ họp lại chống đối, phải giải tán đi v.v.. Hể hợp thời thì tốt, trái lại thì xấu. Muốn cho công việc giải tán hanh thông thì nhà cầm quyền phải có lòng chí thành, như một ông vua tới nhà Thái miếu; lại phải biết mạo hiểm như có gan vượt qua sông lớn; sau cùng phải giữ đạo chính, đừng làm những việc bất chính.
Thoán truyện giảng ý nghĩa hanh thông của quẻ này như sau: nội quái vốn là quẻ Khôn, một hào dương của quẻ Càn vào thay hào 2 quẻ Khôn mà thành quẻ Khảm; ngoại quái vốn là quẻ Càn, hào 1 quẻ Khôn vào thay hào 1 quẻ Càn, thành quẻ Tốn. Vậy là trong trùng quái Hoán có một hào dương cương ở trong, một hào âm nhu ở ngoài, mà hào này đắc vị, thuận theo 2 hào dương ở trên nó để tiến lên, như vậy là tốt.
Vượt qua sông lớn mà có lợi vì quẻ có cái tượng gỗ (Tốn cũng là cây, gỗ) ở trên nước, tức thuyền ở trên nước, nhờ thuyền mà qua sông được. Nghĩa bóng là nhờ người có tài mà làm nên việc lớn.
Đại Tượng truyện bàn rộng ra, khuyên sau khi giải tán rồi lại nên nghĩ tới việc nhóm họp lại, mà muốn nhóm họp, thống nhất nhân tâm thì nên đặt lễ tế Thượng đế, tế Tổ tiên.

Hào từ.

*Hào 1: 用拯, 馬壯, 吉
Sơ lục: Dụng chứng, mã tráng, cát.
Dịch: Hào 1, âm: Dùng con ngựa mạnh để cứu vớt, tốt.
Giảng: Ở đầu thời ly tán, còn có thể gom lại được; hào này âm nhu, kém tài, không đủ sức, nhưng trên có hào 2 dương cương đắc trung, ỷ thác vào được, như đi đường xa có con ngựa khỏe, cho nên tốt.

*Hào 2: 渙,奔其机, 悔亡.
Cửu nhị: Hoán, bôn kì kỉ, hối vong.
Dịch: Hào 2, dương: Lúc ly tán, nên đựa vào hào 1 làm ghế ngồi thì hối hận mất đi.
Giảng : Thời này là thời ly tán rồi, dễ có việc ăn năn; hào này dương cương đã giúp đựơc cho hào 1, bây giờ nên dựa vào 1 làm ghế ngồi, đỡ đần nhau thì khỏi phải hối hận.

*Hào 3: 渙其躬, 无悔.
Lục tam: Hoán kì cung, vô hối.
Dịch: Hào 3, âm: đánh tan lòng riêng tây của mình đi thì không hối hận.
Giảng: Hào này âm nhu, bất trung ,bất chính, là người có lòng vị kỉ, nhưng ở vị dương lại được hào trên cùng chính ứng với nó, mà có lòng lo việc đời (vì là dương cương); nếu 3 bỏ tính vị kỉ đi, lo gánh việc đời với hào trên cùng, thì sẽ không hối hận.

*Hào 4: 渙其群, 元吉.渙有丘, 匪夷所思.
Lục tứ: hoán kì quần, nguyên cát. Hoán kì khâu, phỉ di sở tư.
Dịch: Hào 4 âm: Giải tán bè phái của mình đi, rất tốt. Vì như vậy là giải tán cái nhỏ để tập hợp cái lớn lại thành gò đống; điều đó người thường không thể nghĩ tới được.
Giảng: Hào này âm nhu, thuận, giúp đỡ hào 5 vừa cương vừa đắc trung, như vị đại thần giúp một minh quân, mà biết giải tán bè phái của mình đi (sở di nói vậy vì hào 1 ở dưới không ứng viện với 4, cũng như 4 không còn bè phái), để đoàn kết, tập hợp cả quốc dân mà cùng lo cứu nước; như vậy là giải tán cái nhỏ để gom cái lớn lại thành gò đống, rất tốt. Người thường không hiểu được lẽ đó mà chê sao lại giải tán đảng của mình. Muốn vậy phải là người đắc chính (âm ở vị âm) , và đắc trung, cương cường như hào 5.

*Hào 5: 渙汗其大號, 渙王居, 无咎.
Cửu ngũ: Hoán hãn kì đại hiệu, hoán vương cư,vô cữu.
Dịch: Hào 5, dương: Ban bố hiệu lệnh lớn khắp nước như mồ hôi phát ra ở khắp thân thể, phát hết kho lẫm của vua để chu cấp cho dân, không có lỗi.
Giảng: năm chữ “Hoán hãn kì đại hiệu” tối nghĩa. Chu Hi giảng là hủy bỏ các hiệu lệnh trước đi, những hiệu lệnh đó như mồ hôi, chảy ra mà không trở lại”. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên là ban bố hiệu lệnh đi khắp nơi. J Legge và R. WilheLm cũng hiểu như vậy, nhưng giảng là những hiệu lệnh đó cứu nguy được cho dân như người bị bệnh mà phát tán, làm cho mồ hôi toát ra vậy.
Ba chữ sau: “Hoán vương cư” nghĩa dễ hiểu: vua nên tán tài để tụ dân, cũng như hào 4, giải tán bè phái để tụ dân, đều là chính sách tốt ở thời ly tán cả.

*Hào 6: 渙其血去, 逖出, 无咎.
Thượng cửu: hoán kỳ huyết khử, địch xuất, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Tan (trừ) được máu )vết thương cũ), thoát khỏi kinh sợ (chữ [逖 ] ở đây nên đổi làm chữ dịch [惕] là kinh sợ), không có lỗi.
Giảng: hào này ở cuối thời ly tán, sắp hết xấu; nó có tài (dương cương), lại được hào 3 ứng viện, cho nên nó thành công, trừ được vết thương ly tán và thoát khỏi cảnh lo sợ.

*Thêm:
Phan Bội Châu so sánh quẻ này với quẻ Tụy, đại ý như sau:
Tụy và Hoán là hai thời trái ngược nhau, một thời nhóm họp một thời lìa tan, nhưng thời nào cũng hanh thông được cả, miễn là biết hành động hợp lúc và có lòng chí thành: Thoán từ hai quẻ đều có 4 chữ: “Vua tới Thái miếu”, nghĩa là phải chí thành như nhà vua khi vào tế ở Thái miếu.
Nhưng hai quẻ khác nhau ở chỗ. Tụy có 4 chữ: “lợi kiến đại nhân”, Hoán có 4 chữ: “Lợi thiệp đại xuyên” vì ở thời Tụy, thuận cảnh, chỉ cần có người tài đức là làm nên việc còn ở thời Hoán, nghịch cảnh, phải có tài đức mà lại phải mạo hiểm nữa. Đó là thâm ý của cổ nhân.
Sáu hào quẻ Hoán ý nghĩa rất phân minh: hào 1, còn mong cứu chữa được; hào 2 ly tán đã nhiều rồi, chưa cứu được; hào 3 có thể bắt tay làm việc, muốn vậy phải bỏ lòng vị kỷ đi; hào 4, phải giải tán bè phái để đoàn kết toàn dân; hào 5 phải ra hiệu lệnh mới, ban phát của riêng, hào 6 thì thành công. Quan trọng nhất là lời khuyên hào 4 và 5.



----------------------------------------------------------------------------




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




60. THỦY TRẠCH TIẾT

Khách quái là Khảm (nước). Chủ quái là Đoài (chằm)

Tượng giữ nước trong đầm. Chủ quái Đoài tượng cho xã hội trong câu "Duyệt ngôn hồ Đoài" của Hậu tiên bát quái. Khách quái Khảm tượng cho những lao khổ, nguy hiểm trong câu “Lao hồ Khảm” của Hậu thiên bát quái. Tượng của chồng quái là khi xã hội đang phát triển phải đối mặt với những gian nan, lao khổ và những vấn nạn xã hội. Tên của chồng quái chỉ ra cách thức giải quyết, đó là TIẾT (tiết chế), tức là hệ thống quan lại, người thừa hành phải biết tiết chế và điều tiết cùng dân chúng giải quyết các khó khăn, vấn nạn trong xã hội.

Phạm trù: Hành sự. Lấy động chế tĩnh.
Cho đối tượng: Quan lại, người thừa hành.
Tên là TIẾT: Tiết chế, điều tiết, tiết kiệm, trật tự, phân đoạn, tách rời.
Hình tượng: Thủy lợi.

Thoán từ: 節亨苦節不可貞.
*Hào 1: 不出戶庭无咎.
*Hào 2: 不出門庭凶.
*Hào 3: 不節若則嗟若无咎.
*Hào 4: 安節亨.
*Hào 5: 甘節吉往有尚.
*Hào 6: 苦節貞凶悔亡.

Thoán từ: 節亨苦節不可貞.
Tiết chế thì hanh thông. Nhưng tiết chế quá mức thì không chắc chắn vậy.

Hào từ:

*Hào 1: 不出戶庭无咎.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài, tượng xã hội. Xã hội mới phát triển mà chỉ biết có việc nhà mình cũng chẳng sao. Tức là buổi ban đầu của xã hội chưa cần hoạt động phối hợp tập thể để giải quyết khó khăn, khi này chỉ biết chăm lo cho bản thân gia đình mình, cá nhân mình thì cũng chẳng sao.

*Hào 2: 不出門庭凶.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 1. Nhưng xã hội đã phát triển và bắt đầu hình thành những vấn nạn xã hội mà chỉ biết chăm lo cho làng mình, xóm mình, đồng đảng của mình thì xã hội sẽ nguy nan (như hào 2 chồng quái THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN).

*Hào 3: 不節若則嗟若无咎.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 2. Bởi vì nếu không đồng lòng chung sức toàn xã hội cùng tiết chế giải quyết khó khăn, vấn nạn xã hội thì chao ôi ta sẽ phải ngập chìm trong nó. (若 nhược: nó)

*Hào 4: 安節亨.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Khảm, tượng hiểm nguy, lao khổ. Gặp hiểm nguy thì làm cho dân chúng cùng thuận theo sự tiết chế thì sẽ qua được.

*Hào 5: 甘節吉往有尚.
Hào dương. Trung vạch khách quái Khảm. Tiếp ý hào 4. Nếu làm cho dân chúng cam chịu tiết chế thì tốt lành, khi khó khăn nguy hiểm qua đi xã hội sẽ có sự phát triển cao hơn.

*Hào 6: 苦節貞凶悔亡.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khảm. Tiếp ý hào 5. Nhưng đừng tiết chế quá mức thì chỉ có bị dân chúng cho là hung ác rồi ân hận mà chết (như thoái từ).


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


60. QUẺ THỦY TRẠCH TIẾT

Trên là Khảm (nước), dưới là Đoài (chằm)

Không thể để cho ly tán hoài được, tất phải chặn bắt lại, tiết chế lại, cho nên sau quẻ Hoán tới quẻ Tiết.
Thoán từ:
節: 亨.苦節不可貞.
Tiết : Hanh. Khổ tiết bất khả trinh.
Dịch: Tiết chế thì hanh thông. Nhưng tiết tiết chế đến mức cực khổ thì không ai chịu được lâu.
Giảng: Theo tượng quẻ, trên chằm có nước; bờ chằm hạn chế số nước chứa trong chằm, cho nên đặt tên là quẻ Tiết.
Cái gì cũng vừa phải thì mới tốt, thái quá cũng như bất cập đều xấu cả. Quẻ này có ba hào cương, ba hào nhu, không bên nào quá; lại thêm hào 2 và hào 5 đều là dương cương mà đắc trung, như vậy là xử sự đươc trúng tiết, cho nên việc gì cũng hanh thông. Nhưng tiết chế qúa, bắt người ta khổ cực thì không ai chịu được lâu, như vậy không còn hanh thông nữa.
Thoán truyện khuyên nhà cầm quyền nên theo luật tiết chế của trời đất: bốn mùa thay đổi, nắng mưa, nóng lạnh đều có chừng mực, mà trị dân: hạn chế lòng ham muốn, tính xa xỉ của con người, bắt dân làm việc vừa sức thôi, như vậy không tốn của cải, không hại dân (tiết dĩ chế độ, bất thương tài, bật hại dân). Lời đó giống lời khuyên trong Luận ngữ: “Tiết dụng nhi ái dân” (dè dặt trong việc tiêu dùng mà yên dân).
Đại tượng truyện khuyên người quân tử (quân tử ở đây trỏ hạng người trị dân) đặt ra số, độ, nghĩa là hạn định một chừng mực nào đó trong sự làm việc và hưởng thụ của dân, tùy đạo đức, tài nghệ của mỗi người. (Quân tử, dĩ chế số độ, nghị đức hạnh). Như vậy là Đại tượng truyện đã cho chữ tiết một tác dụng rất lớn: tiết chế có nghĩa gần như kế hoạch hoá ngày nay và có mục đích thi hành sự công bằng trong xã hội, như lời Đại tượng truyện quẻ Khiêm (xứng vật bình thí: cho sự vật được cân xứng, quân bình).

Hào từ:

*Hào 1: 不出戶庭, 无咎.
sơ cửu: Bất xuất hội đình, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương: không ra khỏi sân ngõ, không có lỗi.
Giảng: Hào này dùng chữ tiết với nghĩa tự mình tiết chế mình, tức dè dặt. Ở với tời Tiết chế, làm việc gì cũng phải đúng mức (trung tiết) mới tốt. Hào, 1 dương cương , đắc chính, ở đầu thời Tiết chế, biết thận trọng, không ra khỏi sân ngõ, vì biết là thời chưa thông, hãy còn tắc, như vậy là đúng với đạo tiết chế, không có lỗi. Hai chữ “hộ đình chúng tôi dịch theo nghĩa “ngoại chi đình” của Chu Hi. J legge dịch là không ra khỏi cái sân ở ngoài cái cửa (door): R. Wilhelm dịch là không ra khỏi cái sân và cái cửa (door).

*Hào 2: 不出門庭, 凶.
Cửu nhị: Bất xuất môn đình, hung.
Dịch: Hào 2, dương: không ra khỏi cái sân ở trong cửa, xấu.
Giảng: Hào này đáng lẽ ra giúp việc được, vì thời đã khác thời của hào 1 đã thông rồi không tắc nữa mà lại được hào 5 ở trên cũng dương như mình giúp sức cho; vậy mà đóng cửa không ra cũng như 1, hành vi đó xấu (hung).
Chữ môn J.Legge và R Wilhelm đều dịch là gate, cửa ngõ, tức cửa ở ngoài cùng. Từ Hải chỉ giảng: cửa có một cánh gọi là hộ, hai cánh gọi là môn, tối không biêt cái nào là cửa ngõ, cái nào là cửa nhà. Phan Bội Châu không phân biệt thế nào là môn, là hộ, dịch là cửa hết. Ðiểm đó không quan trọng; chỉ cần hiểu đại khái là không ra khỏi nhà, không đi đâu.

*Hào 3: 不節若, 則嗟若,无咎.
Lục tam: Bất tiết nhược, tất ta nhược, vô cữu.
Dịch: Hào 3, âm: không dè dặt (tự tiết chế mình) mà phải than vãn, không đổ lỗi cho ai được.
Giảng: Âm nhu, bất trung bất chính, lại cưỡi lên hai hào dương, mà muốn tiến tới cõi nguy hiểm (quẻ Khảm ở trên), như vậy là không biết dè dặt, tự chế, rước vạ vào thân, còn đổ lỗi cho ai được nữa.

*Hào 4: 安節,亨.
Lục tứ: An tiết, hanh.
Dịch: Hào 4, âm: Vui vẻ tự tiết chế (không miễn cưỡng) hanh thông.
Giảng: Nhu thuận, đắc chính, vâng theo hào 5, thực tâm dè dặt, tự tiết chế đúng thời, cho nên hanh thông.

*Hào 5: 甘節, 吉.往有尚.
Cửu ngũ: Cam tiết, cát. Vãng hữu thượng.
Dịch: Hào 5, dương: Tiết chế mà vui vẻ (cho là ngon ngọt) thì tốt. Cứ thế mà tiến hành thì được người ta trọng, khen.
Giảng: Hào này ở vị chí tôn, làm chủ quẻ Tiết, có đủ các đức dương cương trung chính tự tiết chế một cách vui vẻ, thiên hạ noi gương mà vui vẻ tiết chế, cho nên tốt; và cứ thế mà tiến hành thì có công lớn, đáng khen.

*Hào 6: 苦節, 貞凶, 悔亡.
Thượng lục: Khổ tiết, trinh hung. Hối vong.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Tiết chế mà tới mức cực khổ, nếu cứ giữ mãi (trinh) thôi đó thì xấu. Nếu biết hối hận, bớt thái quá đi thì hết xấu.
Giảng: Hào này trái với hào trên, vì ở trên cùng quẻ Tiết, có nghĩa là tiết chế thái quá, tới cực khổ, không ai chịu được hoài như vậy.
Hai chữ “hối vong” ở đây không có nghĩa thường dùng là hối hận tiêu tan đi, mà có nghĩa là nếu hối hận thì cái xấu (hung) sẽ tiêu tan đi.

*Thêm:
Sau một cuộc ly tán, phong tục suy đồi, kinh tế cùng quẩn, cho nên phải tiết dục, tiết chế nhu cầu. Nhưng tiết chế một cách vừa phải thôi (không nên thái quá) mà hợp thời thì mới tốt. Chúng ta nhận thấy 6 hào chia làm 3 cặp: 1 và 2 liền nhau mà 1 tốt, 2 xấu; 3 với 4 liền nhau mà 3 xấu, 4 tốt; 5 và 6 liền nhau mà 5 tốt 6 xấu; chỉ do lẽ hoặc hợp thời hay không, đắc trung, đắc chính hay không.

Thanked by 1 Member:

#35 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 07/02/2016 - 19:09

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




61. PHONG TRẠCH TRUNG PHU

Khách quái là Tốn (gió). Chủ quái là Đoài (chằm)

Tượng của chủ quái Đoài là xã hội loài người trong câu "Duyệt ngôn hồ Đoài" của Hậu thiên bát quái. Tượng của khách quái Tốn là quy luật tự nhiên, nề nếp gia phong, đạo đức trong câu "Tề hồ Tốn" của Hậu thiên bát quái. Cho nên, tượng của chồng quái là chuẩn mực xã hội, Đạo chính, Đạo Tự nhiên.

Pham trù: Lấy tĩnh chế động.
Cho đối tượng: Mọi người trong xã hội.
Tên là TRUNG PHU: Giữ Đạo chính, thuận theo tự nhiên.
Giữ vững Đạo chính (Đạo Tự nhiên) để vượt qua gian khó.
Hình tượng: Thuận buồm xuôi gió.

Thoán từ: 中孚豚魚吉利涉大川利貞.
*Hào 1: 虞吉有它不燕.
*Hào 2: 鶴鳴在陰其子和之我有好爵吾與爾靡之.
*Hào 3: 得敵成鼓或罷或泣或歌.
*Hào 4: 月幾望馬匹亡无咎.
*Hào 5: 有孚攣如无咎.
*Hào 6: 翰音登于天貞凶.

Thoán từ: 中孚豚魚吉利涉大川利貞.
Thuận theo tự nhiên như lợn và cá thì tốt lành, chắc chắn lợi cho việc vượt sông lớn, có lợi giữ vững sự trong sạch và thuần phác. Tức là, nếu ta thuận theo tự nhiên sẽ vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Như cá hồi được tự nhiên định hướng hợp lại thành đàn để vượt sông lớn về nơi sinh đẻ.

Hào từ:

*Hào 1: 虞吉有它不燕.
Hào dương. Hạ vạch chủ quái Đoài. Biết đắn đo tìm hiểu trước khi thuận theo thời tốt lành. Chứ vẫn còn nghi nghờ sẽ chẳng bao giờ được yên ổn.

*Hào 2: 鶴鳴在陰其子和之我有好爵吾與爾靡之.
Hào dương. Trung vạch chủ quái Đoài. Chim hạc dù hót nơi khuất bóng, con nó tự nhiên sẽ hòa theo. Chúng ta cùng giữ Đạo chính thì chỉ có một chén rượu ngon vẫn chia nhau cùng hưởng.

*Hào 3: 得敵成鼓或罷或泣或歌.
Hào âm. Thượng vạch chủ quái Đoài. Tiếp ý hào 2. Cho nên, giữ vững Đạo chính thì ngay đến đối thủ vẫn có thể ca ngợi ta hoặc vui vẻ cùng ta hoặc cùng ta đi khắp nơi, cùng ta ca hát được.

*Hào 4: 月幾望馬匹亡无咎.
Hào âm. Hạ vạch khách quái Tốn. Đến ngày hẹn ước mà người thuận theo tự nhiên chạy mất thì không lỗi. Tức là vì thuận theo tự nhiên người đó trốn tránh hẹn ước là có lý do chính đáng không nên trách lỗi.

*Hào 5: 有孚攣如无咎.
Hào dương. Trung vạch khách quái Tốn. Thuận theo tự nhiên thì dù bị ràng buộc với nhau cũng không thấy có lỗi.

*Hào 6: 翰音登于天貞凶.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Tốn. Phản tự nhiên mà cho rằng gà kêu có thể thấu tận trời xanh thì chỉ có gặp nguy hiểm.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


61. QUẺ PHONG TRẠCH TRUNG PHU

Trên là Tốn (gió), dưới là Đoài (chằm)

Đã định tiết chế thì người trên phải giữ đức tín để người dưới tin theo, cho nên sau quẻ Tiết tới quẻ Trung phu. Trung phu là có đức tin (phu) ở trong (trung) lòng.
Thoán từ:
中孚: 豚魚吉, 利涉大川, 利貞.
Trung phu: Đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.
Dịch: trong lòng có đức tin tới cảm được heo và cá, tốt như vậy thì lội qua sông lớn được, giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: quẻ này ở giữa có hai hào âm (hai nét đứt), như trong lòng trống rỗng (hư tâm) không có tư dục, tư ý; còn 4 hào dương là nét liền, đặc, thực (trái với hư), mà hào 2 và hào 5 lại đắc trung (ở giữa nội và ngoại quái), vậy là có đức trung thực. Do đó mà đặt tên quẻ là Trung phu.
Theo nghĩa thì trên là Tốn, thuận với người dưới; dưới là Đoài, phục tòng người trên; như vậy là cảm hoá được dân.
Lòng chí thành cảm được những vật ngu, không biết gì như heo và cá. Lấy lòng chí thành, hư tâm mà ứng phó với nguy hiểm thì vượt được hết, như qua sông lớn mà ngồi chiếc thuyền trống không (hư chu), không chở gì cả, thật là an toàn. Phải giữ chính đạo mới tốt.
Đại Tượng truyện giảng: gió ở trên, chằm ở dưới, là gió (làm ) động được nước như lòng thành thực cảm động được người. Nên tuy lòng trung thành mà xử việc thiên hạ; như xử tội thì sét đi xét lại, tìm cách cứu tội nhân, tha cho tội chết.

Hào từ:

*Hào 1: 虞吉, 有它, 不燕.
Sơ cửu: Ngu cát, hữu tha, bất yến.
Dịch: Hào 1, dương: liệu tính cho chắc chắn rồi mới tin thì tốt; có lòng nghĩ khác thì không yên.
Giảng: Hào này mới vào thời Trung phu, tuy ứng với hào 4, âm nhu, đắc chính là người đáng tin, nhương bước đầu, phải xét cho kỹ lưỡng xem 4 có đáng tin không, khi đã tin rồi thì đừng đổi chí hướng, lòng phải định rồi mới tĩnh mà yên được.

*Hào 2: 鶴鳴在陰.其子和之.我有好爵.吾與爾靡之.
Cửu nhị: Minh hạc tại âm, kỳ tử hoạ chi;
Ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mĩ chi.
Dịch: Hào 2, dương: Như con hạc mẹ gáy ở bóng râm, con con nó hoạ lại; lại như tôi có chén rượu ngon, tôi cùng anh chia nhau.
Giảng: Hào này ứng với hào 5 ở trên, cả hai đều có đức dương cương , lại đắc trung đều có lòng thành thực, đều là những hào quan trọng trong quẻ Trung phu; hai bên cảm ứng, tương đắc với nhau như hạc mẹ gáy mà hạc con hoạ lại, hoặc như một người có chén rượu ngon mà chia với bạn.
Theo Hệ từ thượng truyện, Chương VIII, số 5, Khổng tử giải thích ý nghĩa hào này như sau:
“Người quân tử ở trong nhà mà nói ra, nếu lời nói hay thì người ngoài nghìn dặm cũng hưởng ứng, huống chi là người ở gần; . . hành vi từ gần phát ra thì ảnh hưởng hiện ngay ở xa . . như vậy chẳng nên thận trọng lắm ư?”
Khổng tử đã hiểu rộng “tiếng gáy của con hạc” là lời nói hay; và “chén rượu ngon’ là hành vi đẹp, mà khuyên chúng ta phải thận trọng về ngôn, hành.

*Hào 3: 得敵, 成鼓, 或罷, 或泣, 或歌.
Lục tam: Đắc dịch, hoặc cổ, hoặc bãi, hoặc khấp, hoặc ca.
Dịch: Hào 3, âm: gặp được bạn (địch) lúc thì đánh trống vui múa, lúc thì chán nản mà ngừng, lúc thì khóc, lúc thì hát.
Giảng: Hào này âm nhu bất chính, bất trung, ứng với hào ở trên cùng, dương cương mà bất trung, bất chính, như hai người ăn ở với nhau mà không thành thực, tính tình thay đổi luôn luôn, vui đó rồi khóc đó “Hoặc cổ hoặc bãi”, (có người hiểu là: lúc thì cổ võ, lúc thì bỏ đi).

*Hào 4: 月幾望, 馬匹亡, 无咎.
Lục tứ: Nguyệt cơ vọng, mã thất vong, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Trăng mười bốn (gần tới rằm), con người bỏ bạn mà tiến lên, không lỗi.
Giảng : Hào này đắc chính, thân cận với hào 5, được vua tín nhiệm sự thịnh vượng đã gần tới tuyệt đỉnh rồi, như trăng mười bốn gần đến ngày rằm. Nó ứng với hào 1, hai bên cặp kè nhau như cặp ngựa, nhưng nó biết phục tòng đạo lý, nên sau bỏ 1, để chuyên nhất với 5, như vậy không có tội lỗi gì.

*Hào 5: 有孚攣如, 无咎.
Cửu ngũ: Hữu phu luyến như, vô cữu.
Dịch: Hào 5, dương: có lòng chí thành ràng buộc, không lỗi.
Giảng: Như trên đã nói, hào này ở ngôi chí tôn, có đủ đức trung chính, thành tín buộc được lòng thiên hạ.

*Hào 6: 翰音登于天, 貞凶.
Thượng cửu: Hàn âm đăng vu thiên, trinh hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương: tiếng gà lên tận trời, dù có chính đáng cũng xấu.
Giảng: Hào này dương cương, không đắc trung lại ở vào thời thành tín đã cùng cực, đức tin đã suy, vậy là có danh mà không có thực. Lại thêm không biết biến thông, muốn cố giữ đức tín (vì có tính dương cương, cho nên ví với con gà không là loài bay cao được mà muốn lên tới trời.

*Thêm:
Vậy lòng thành tín vẫn là tốt, nhưng phải đừng thái quá mà biết biến thông, Phan Bội Châu nhắc truyện ngụ ngôn anh chàng họ Vĩ (có sách nói là họ Vi) thời Xuân Thu hẹn với một người con gái ở dưới cầu; người đó không tới, nước lên cao, anh ta cứ ôm cột cầu chịu chết. Tín như vậy là ngu, không biết biến thông.


-----------------------------------------------------------------------




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




62. LÔI SƠN TIỂU QUÁ

Khách quái là Chấn (sấm). Chủ quái là Cấn (núi).

Tượng là sấm trong núi nên nhỏ, không vang xa nên tên chồng quái là TIỂU QUÁ. Tượng khi thời khó khăn, loạn lạc nên mưu sự nhỏ thì thành (qua), còn mưu sự lớn sẽ không thành.

Pham trù: Lấy tĩnh chế động.
Cho đối tượng: Mọi người trong xã hội.
Tên là TIỂU QUÁ: Cái nhỏ thì qua.
Cách hành xử để vượt qua khó khăn trở ngại.
Hình tượng: Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm.

Thoán từ: 小過亨利貞可小事不可 大事飛鳥遺之音不宜上宜下大吉.
*Hào 1: 飛鳥以凶.
*Hào 2: 過其祖遇其妣不及其君遇其臣无咎.
*Hào 3: 弗過防之從或戕之凶.
*Hào 4: 无咎弗過遇之往厲必戒勿用永貞.
*Hào 5: 密雲不雨自我西郊公弋取彼在穴.
*Hào 6: 弗遇過之飛鳥離之凶是謂災眚.

Thoán từ: 小過亨利貞可小事不可 大事飛鳥遺之音不宜上宜下大吉.
Biết “nhỏ thì qua” sẽ tốt lành và ích lợi chỉ khi mưu sự nhỏ và ngược lại nếu mưu sự lớn.
Như con chim biết rằng mình khi bay để lại tiếng kêu (có bất trắc, khó khăn khi bay) thì nó không mưu cầu sự bay cao nữa mà hạ thấp xuống sẽ đại cát.
Tức là khi gặp nguy hiểm, khó khăn thì chỉ mưu đồ việc nhỏ, giảm thiểu hành sự sẽ vượt qua được khó khăn nguy hiểm.

Hào từ:

*Hào 1: 飛鳥以凶.
Hào âm. Hạ vạch chủ quái Cấn. Như đã nói ở thoái từ, khi có các nguy hiểm rình rập mà lại muốn như chim bay bổng sẽ gặp nguy hiểm.

*Hào 2: 過其祖遇其妣不及其君遇其臣无咎.
Hào âm. Trung vạch chủ quái Cấn. Chỉ qua ông mà vẫn cảm nhận được bà thế nào. Dù không gặp vua mà vẫn biết cách làm việc của bề tôi (làm việc nhỏ) thì không bị lỗi (Nên tự biết việc của mình và tự cảm nhận không cần gặp gỡ, trao đổi để giảm thiểu hành sự).

*Hào 3: 弗過防之從或戕之凶.
Hào dương. Thượng vạch chủ quái Cấn. Thời loạn lạc mà bỏ qua việc phòng vệ sẽ dễ bị bắt hoặc bị giết rất nguy hiểm.

*Hào 4: 无咎弗過遇之往厲必戒勿用永貞.
Hào dương. Hạ vạch khách quái Chấn. Thời loạn lạc sẽ chẳng có lỗi nếu bỏ qua nhưng việc gặp gỡ dễ gặp nguy, nên giới hạn hành vi, chớ dùng một phương thức quá lâu. Tức là nên hạn chế hành vi, giả nghèo khó, ít gặp gỡ bạn bè vì có thể gây họa cho họ.

*Hào 5: 密雲不雨自我西郊公弋取彼在穴.
Hào âm. Trung vạch khách quái Chấn. Như thoán từ của chồng quái PHONG THIÊN TIỂU SÚC số 9, là lúc mọi người hiệp lực, hợp những cố gắng nhỏ (tiểu súc) để vượt qua khó khăn nguy hiểm. Mây vần vũ nhưng chưa mưa được vì chờ các ngọn gió đã hợp lại thổi từ phía tây. Lúc này lấy chung sức với mọi người là chính và chọn lấy việc nhỏ nào mà mình có sở trường.

*Hào 6: 弗遇過之飛鳥離之凶是謂災眚.
Hào âm. Thượng vạch khách quái Chấn. Đang hợp lực cùng mọi người mà bỏ đi như chim lìa đàn bay đi sẽ gặp nguy hiểm, thật là một tai họa và sai lầm.


Tham chiếu bản dịch của Cụ Nguyễn Hiến Lê:


62. QUẺ LÔI SƠN TIỂU QUÁ

Trên là Chấn (sấm), dưới là Cấn (núi)

Tin (Trung phu) mà làm ngay, không xét đều tin đó phải hay không , thì có thể mắc lầm lỗi, cho nên sau quẻ Trung phu tới quẻ Tiểu quá. Quá có hai nghĩa: lỗi; ra ngoài cái mức vừa phải thoán từ dưới đây dùng nghĩa sau.
Thoán từ:
小過: 亨, 利貞. 可小事, 不可 大事.飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉.
Tiểu quá: Hanh, lợi trinh. Khả tiểu sự, bất khả đại sự.
Phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát.
Dịch: Cái nhỏ nhiều: Hanh thông hợp đạo chính thì lợi. Có thể làm việc nhỏ, không thể làm việc lớn. Con chim bay mà để tiếng kêu lại, không nên lên cao mà nên xuống thấp. Người quân tử biết được như vậy thì tốt.
Giảng: Quẻ này trái với quẻ Đại quá số 28. đại quá có 4 hào dương ở giữa, 2 hào âm ở dưới cùng và trên cùng, như vậy dương nhiều hơn âm, mà dương có nghĩa là lớn, âm là nhỏ, cho nên Đại quá có nghĩa là cái lớn (dương) nhiều hơn. Tiểu quá có 2 hào dương ở giữa, 4 hào âm ở trên và dưới, như vậy là âm – tức cái nhỏ - nhiều hơn dương tức cái lớn; cho nên đặt tên là Tiểu quá. Tiểu quá là cái nhỏ nhiều hơn; nhưng cũng có nghĩa là quá chút ít.
Bình thường thì vừa phải là hay. Nhưng cũng có khi quá một chút lại hay, chẳng hạn trong nhà, chồng tiêu pha nhiều quá, vợ chắt bóp một chút để được trung bình; hoặc khi thiên về bên tả quá, muốn lấy lại mức trung thì lại nên thiên về bên hữu một chút. Nhưng việc gì cũng phải hợp lẽ, hợp thời, hợp đạo chính thì mới được. Đó là ý nghĩa câu đầu.
Câu thứ hai” “Chỉ nên “quá” trong việc nhỏ, không nên “quá trong việc lớn; vì việc nhỏ, lỡ có quá một chút, hậu quả không tai hại, còn việc lớn mà lỡ quá một chút, một li có thể đi một dặm hậu quả rât nặng nề, như việc nước, lỗi lầm một chút có thể gây chiến tranh hoặc sự suy sụp về kinh tế. . . .
Thoán truyện giảng: Các hào dương (lớn) đều không đắc trung, là quân tử nhất thời, không làm việc lớn được.
Câu thứ ba tối nghĩa, không hiểu sao lại dùng tượng con chim bay ở đây. Mỗi nhà giải thích một khác: Chu Hi bảo “trong thực, ngoài hư như con chim bay”, có lẽ vì cho hai hào âm ở dưới như hai chân chim, hai hào âm ở trên như hai cánh chim xòe ra? Còn về ý nghĩa thì có người giảng: người quân tử ở thời Tiểu quá nên khiêm tốn, không nên có tiếng tăm lớn, chỉ nên như tiếng chim kêu khi bay, thoáng qua mà thôi; mà cũng không nên ở ngôi cao, như con chim không nên bay lên cao. Hai chữ “đại cát”, các sách đều dịch là rất tốt; Phan Bội Châu dịch là tốt cho người quân tử, nếu đừng có tiếng tăm, đừng ở ngôi cao “Đại” đó trỏ người quân tử.
Đại Tượng truyện giản: Chấn ở trên Cấn là tiếng sấm ở trên núi, bị nghẹt vì núi mà thu hẹp lại, nên gọi là Tiểu quá. Người quân tử ở thời này chỉ nên làm quá trong việc nhỏ, như có thể quá cung kính, quá thương cảm trong việc ma chay, quá tiết kiệm.

Hào từ:

*Hào 1: 飛鳥以凶.
Sơ lục: Phi điểu dĩ hung.
Dịch: Hào 1, âm: Chim (nên nấp mà lại) bay, nên xấu.
Giảng: Hào này âm nhu, bất tài, được hào 4, dương; giúp, lại ở thời “hơi quá” (Tiểu quá), nên hăng hái muốn làm việc quá, e mắc vạ, cho nên xấu. Chỉ nên làm chim nấp, đừng làm chim bay.

*Hào 2: 過其祖, 遇其妣, 不及其君. 遇其臣, 无咎.
Lục nhị: Quá kì tổ, ngộ kì tỉ, bất cập kì quân.
Ngộ kì thần ,vô cữu.
Dịch: Hào 2, âm: Vượt qua ông mà gặp bà; không được gặp vua thì nên giữ phận bề tôi, như vậy không lỗi.
Giảng: Hào nay nhu thuận, trung chính ở vào thời Tiểu qua,1 có quá một chút mà không lỗi. Nó là âm đáng lẽ cầu dương mà nó lại vượt hai hào dương (3 và 4 ) để gặp (ứng với 5) nghĩa là gặp âm nữa, cho nên Hào từ nói là vượt ông mà gặp bà. Hào từ khuyên hào này ở thấp, là phận làm tôi, không gặp được vua thì cứ giữ phận bề tôi (đứng vào hàng những bề tôi khác) .
Hào này tối nghĩa, chúng tôi dịch theo Phan Bội Châu, Chu Hi giảng là: không gặp được vua thì gặp bề tôi, như vậy là giữ được trung, chính, tuy hơi quá (vì muốn gặp vua) mà không lỗi (sau gặp bề tôi). Cả hai cách giảng đều không xuôi.

*Hào 3: 弗過防之, 從或戕之, 凶.
Cửu tam: Phất quá phòng chi, tòng hoặc tường chi, hung.
Dịch: Hào 3, dương: Chẳng quá phòng bị (tiểu nhân) thì rồi sẽ bị chúng làm hại đấy.
Giảng: Thời Tiểu qua; tiểu nhân nhiều hơn quân tử, nên đề phòng quá cẩn thận thì tốt. Hào này dương cương đắc chính là quân tử, nhưng vì quá cương (dương ở vị dương), tự thị, không đề phòng cẩn thận nên bị vạ. Hào này xấu nhất trong quẻ vì bị 2 hào âm ở trên ép xuống, 2 hào âm ở dưới thúc lên, chỉ có mỗi hào 4 là bạn, mà chẳng giúp được gì.

*Hào 4: 无咎, 弗過遇之, 往厲, 必戒; 勿用永貞.
Cửu tứ: vô cữu, phất quá ngộ chi, vãng lệ, tất giới; vật dụng vĩnh trinh.
Dịch: Hào 4, dương: không lỗi vì không quá dương mà vừa đúng với đạo lý thời Tiểu quá; nếu tiến tới thì nguy, nên răn về điều đó, đừng cố giữ đức cương của mình, mà nên biến thông.
Giảng: hoàn cảnh hào này y hệt hào 3; cũng bị 2 hào âm ép ở trên, 2 hào âm thúc ở dưới, và cũng ở chỗ chưa dứt được với nội quái, chưa lên hẳn được ngoại quái, đáng lẽ cũng xấu, nhưng nhờ 4 tuy dương mà ở vị âm, như vậy là hơi biết mềm dẻo, không quá cương như 3, đúng với đạo lý thời Tiểu quá, chi nên không có lỗi.
Tuy nhiên phải nhớ đừng tiến lên mà theo hai hào âm, như vậy là quá nhu mất, sẽ nguy; mà cũng đừng cố chấp giữ tính dương cương của mình, mà nên biến thông.

*Hào 5: 密雲不雨, 自我西郊; 公弋,取彼在穴.
Lục ngũ: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao;
Công dặc, thủ bỉ tại huyệt.
Dịch: Hào 5, âm: mây kịt mà không mưa ở cõi tây của ta, công bắn mà bắt lấy nó ở hang.
Giảng: Âm dương tiếp xúc với nhau thì mới thành mua, nay âm lên quá cao rồi (hào 5), dương ở dưới, âm dương bất hoà, có cái tượng mây kịt mà không mưa ở cõi tây của ta (như thoán từ quẻ Tiểu súc số 9), đại ý là không làm được gì cả; vì là âm nhu, bất tài lại ở vào thời âm nhiều quá. Chỉ có một cách là xuống tìm hào 2, cũng âm, mà làm bạn. Chữ “cộng” (ông) ở đây trỏ hào 5, “bỉ” (nó) trỏ hào 2; hào 2 ở vị âm, tối tăm cho nên ví với cái hang.

*Hào 6: 弗遇過之, 飛鳥離之. 凶, 是謂災眚.
Thượng lục: phất ngộ quá chi, phi điểu li chi. Hung, thị vị tai sảnh.
Dịch: Hào trên cùng, âm: không đúng với đạo mà lại sai quá, như cánh chim bay cao quá, xa quá, sợ bị tai vạ.
Giảng: Hào này âm nhu, mà biến động vì ở ngoại quái Chấn (động), lại ở vào cuối thời Tiểu quá,1 là thái quá, cho nên bảo là sai đạo quá; có cái tượng con chim bay cao quá, xa quá rồi; khó kéo lại được mà còn sợ bị tai vạ nữa. Hào 6 này âm là tiểu nhân, tiểu nhân mà vượt lên trên quân tử (dương hào 4), cho nên răn là sẽ bị tai hoạ.

*Thêm:
Quẻ này khuyên quân tử ở vào thời tiểu nhân quá nhiều thì đừng nên quá cương như hào 3, mà nên mềm mỏng một chút, biến thông như hào 4.

Thanked by 1 Member:

#36 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 07/02/2016 - 23:04

63. THỦY HỎA KÍ TẾ

Khách quái là Khảm (nước). Chủ quái dưới là Ly (lửa)

Tưởng lửa đun nước, nước bốc hơi dưới ánh mặt trời. Vì Khảm (nước) là khách quái nên nước không làm tắt chủ quái Ly (lửa) mà ngược lại bị chuyển thành hơi nước. Cho nên, là tượng của sự giải thoát.

Phạm trù: Nhân tình.
Cho đối tượng: Dân chúng.
Tên là KÍ TẾ: Đã qua sông, giải thoát, xong việc.
Hình tượng: Chân tâm, chân thiện.



--------------------------------------





64. HỎA THỦY VỊ TẾ

Khách quái là Ly (lửa). Chủ quái là Khảm (nước)

Tượng nước dập tắt lửa trở lại từ đầu hay tượng của sự luân hồi. Lửa không thể cháy trong nước, cần làm lại bằng cách khác. Hay là tâm linh của kiếp này đã không rèn luyện thành công cho việc giải thoái sẽ phải luân hồi làm lại từ đầu.

Phạm trù: Nhân tình.
Cho đối tượng: Dân chúng.
Tên là VỊ TẾ: Chưa qua sông, luân hồi trở lại, làm đi làm lại.
Hình tượng: Vô thủy vô chung.

Thanked by 1 Member:

#37 Nature88

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 148 Bài viết:
  • 92 thanks

Gửi vào 09/02/2016 - 23:13

Kính chúc Bác Binhlq và gia đình năm mới sức khoẻ dồi dào, đông đầy hạnh phúc, vạn sự cát tường, tràn đầy may mắn!
(Không cùng chủ đề nhưng muốn gửi lời chúc và cảm ơn đến Bác)

Thanked by 1 Member:

#38 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 14/02/2016 - 14:30

Đính chính: Vì lý do kỹ thuật nên các cập nhật tiếp tục sẽ không ở trang jaoom.com mà sẽ cập nhật tại trang giaohoa.com. Mong các bạn thông cảm.

Trân trọng
Lê Bình

Thanked by 1 Member:

#39 TranBaHieu

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 27 Bài viết:
  • 18 thanks

Gửi vào 15/02/2016 - 15:50

Quần tinh, vạn hữu là phân thể của Thái Cực, y như Bát quái là phân thể của Thái Cực theo đồ bản sau. Nghiên cứu đồ bản trên, ta thấy: Kiền (Càn): thuần Dương, tương ứng với phần thuần Dương của Thái Cực. Khôn: thuần Âm, tương ứngvới phần thuần Dương của Thái Cực. Tốn, Đoài: 1 hào Âm, 2 hào Dương, tương ứng với Dương nhiều Âm ít của Thái Cực. Chấn, Cấn: 1 hào Dương, 2 hào Âm, tương ứng với Dương ít Âm nhiều của Thái Cực. Khảm, Ly: ở vào nơi Âm Dươnggần như ngang ngửa của Thái Cực (hào Âm hay hào Dương ở giữa là rất quý, nên ảnh hưởng có thể gần như quân bình với 2 hào ngoài). Thế tức là bất kỳ hào quái nào (hiện tượng nào, vật thể nào) cũng là phân thể của Thái

Thanked by 1 Member:

#40 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 17/02/2016 - 11:56

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TranBaHieu, on 15/02/2016 - 15:50, said:

Quần tinh, vạn hữu là phân thể của Thái Cực, y như Bát quái là phân thể của Thái Cực theo đồ bản sau. Nghiên cứu đồ bản trên, ta thấy: Kiền (Càn): thuần Dương, tương ứng với phần thuần Dương của Thái Cực. Khôn: thuần Âm, tương ứngvới phần thuần Dương của Thái Cực. Tốn, Đoài: 1 hào Âm, 2 hào Dương, tương ứng với Dương nhiều Âm ít của Thái Cực. Chấn, Cấn: 1 hào Dương, 2 hào Âm, tương ứng với Dương ít Âm nhiều của Thái Cực. Khảm, Ly: ở vào nơi Âm Dươnggần như ngang ngửa của Thái Cực (hào Âm hay hào Dương ở giữa là rất quý, nên ảnh hưởng có thể gần như quân bình với 2 hào ngoài). Thế tức là bất kỳ hào quái nào (hiện tượng nào, vật thể nào) cũng là phân thể của Thái

Tôi đã biên dịch cả hai pho kinh là Đạo Đức Kinh và Dịch Kinh mà không thấy chỗ nào nói về Thái cực. Chỉ có mấy ý nhưng cũng khó cho là liên quan đến Thái cực như sau:


"CHƯƠNG 42: ÂM DƯƠNG
道生一, 一生二, 二生三, 三…生萬物. 萬物負陰而抱陽, 中氣以爲和.
人之所惡, 唯孤, 寡, 不穀. 而王公以爲稱. 故, 物或損之而益, 或益之而損.
人之所敎, 我亦敎之, 梁强者不得其死, 吾將以爲敎父.
Đạo sinh một (vật), một sinh hai, hai sinh ba, ba … sinh vạn vật. Vạn vật đều dựa vào khí âm để dưỡng khí dương, dùng trung khí để hòa hợp."

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Khó có thể coi "một" ở đây là Thái cực được.

Hào 6 chồng quái ĐỊA THIÊN THÁI
"*Hào 6: 城 復 于 隍 勿 用 師 自 邑 告 命 貞 吝 .
Hào âm. Thượng vạch khách quái Khôn. THÁI CỰC BĨ LAI. Lúc này cần đắp thành lũy mà giữ đất, tự mình mà chống giữ không tin ai kể cả thầy của mình. Đây là lúc bắt đầu chiến tranh loạn lạc vàng thau lẫn lộn và thời BĨ đang đến."

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Hào 6 chồng quái THIÊN ĐỊA BĨ

"*Hào 6: 傾否 先否 後喜.
Hào dương. Thượng vạch khách quái Càn. BĨ CỰC THÁI LAI, dù thấy còn BĨ thì nên vui vẻ vì vận BĨ sắp qua."

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cả hai hào cũng có nói về thời Thái nhưng không hàm ý như bạn nói.

Thanked by 1 Member:

#41 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 05/03/2016 - 10:44

Chim trĩ tượng của thái bình thịnh trị được nhắc đến ít nhất hai lần trong Dịch Kinh. Chim trĩ cũng có trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Vậy sự tương ứng của mật mã Dịch Kinh và mật mã trên trống đồng Ngọc Lũ như thế nào?

TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ý nghĩa thế nào với hình tượng mặt trời ở trung tâm và ba vạch họa tiết từ trong ra, sau đó ba vạch họa tiết người và chim thú, ngoài là ba vạch họa tiết và một vạch đặc lớn ngoài cùng?

Ba vạch miêu người và vạn vật:

Sao lại có 12 người trang phục như các vị thần xen giữa các họa tiết miêu tả cảnh trồng trọt chăn nuôi, lễ hội và bảo vệ lãnh thổ?

Sao lại có 6 con gà, 10 con hươu ? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa ?

Sao lại chỉ có 18 con chim ?

#42 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 12/03/2016 - 16:17

Đầu tiên phải chân thành cám ơn bạn Danhnguyen và TranBaHieu, các bạn nói về Thái Cực khiến tôi suy nghĩ tìm tòi xem có cái gì ghi nhận về nguyên lý vũ trụ cực kỳ quan trọng đó. Và tôi đã tìm thấy nó ở Trống đồng Ngọc Lũ.

Đầu tiên xét hình mặt trời và các vạch chính trên mặt trống đồng.

Theo tài liệu lưu trữ:
"Hoa văn trên mặt trống[sửa | sửa mã nguồn]
Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh. Xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình tam giác.

Từ trong ra ngoài có tất cả 16 vành hoa văn đồng tâm bao bọc lấy nhau. Các vành 1, 5, 11 và 16 là những hàng chấm nhỏ. Các vành 2, 4, 7, 9, 13 và 14 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3 là những chữ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

gãy khúc nối tiếp. Vành 12 và 16 là văn răng cưa. Vành 6, 8 và 10 là vành có hình người, động vật được xếp xung quanh ngôi sao và ngược chiều kim đồng hồ.

Hình người: Người có thể đang mặc váy dài, có hai vạt tỏa ra hai phía, vừa đi vừa múa, có người tay cầm rìu, có người thổi kèn, có người cầm giáo, cán giáo có trang trí lông chim. Hoặc có thể người đang quay mặt về phía nhà cầu mùa, xõa tóc, mặc váy hay có đôi trai gái đang cầm chày giã vào một chiếc cối, đầu chày có trang trí lông chim.
Hình nhà: có hình nhà liên quan đến nghi lễ tôn giáo, có mái hình cung, hai đầu là hai trụ đứng để chắn phên. Hoặc có nhà hình thang nóc cong lên như hình thuyền, hai đầu có hình chim mắt to, hai bên có cột chống đỡ. Nóc nhà có hai con chim đậu, một con trong giống hình chim công, một con trông giống hình gà trống...
Vành 8 gồm hai nhóm, mỗi nhóm có 10 con hươu cách nhau bằng hai tốp chim bay, một tốp 6 con và một tốp 8 con. Cứ một con hươu đực thì đến một con hươu cái.

Vành 10 gồm 36 con chim, 18 con chim đậu và 18 con chim đang bay. Chim bay là loại chim mỏ dài, có mào, đuôi và chân dài, mình gầy thuộc loại cò, sếu hoặc vạc; chim đậu có nhiều loại. Con thì mỏ ngắn vênh lên, con thì mỏ dài chúc xuống, phần đông là chim ngậm mồi. Các con chim đậu đều có đuôi ngắn."

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ta nhận thấy rõ ràng sự biểu diễn nguyên lý Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh phóng to:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trung tâm của mặt trống là hình tượng của THÁI CỰC. Hình tượng mặt trời biểu diễn cho THÁI DƯƠNG. Thiếu dương và Thiếu âm được biểu diễn bằng 4 vạch âm dương 1,2 và 4,5 đối xứng nhau qua vạch phân cách 3 (những chữ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

gãy khúc nối tiếp). Vạch dương là vạch của các chấm và vạch âm là vạch của các hình tròn có các chấm ở tâm.
Thái âm là hai vạch âm ở vành ngoài cùng giữa hai vạch phân cách (văn răng cưa).
Tám vạch nằm giữa hai vạch phân cách biểu diễn cho bát quái.
(còn tiếp)

Sửa bởi binhlq: 12/03/2016 - 16:24


Thanked by 2 Members:

#43 binhlq

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 737 Bài viết:
  • 848 thanks
  • LocationĐông Hưng Thái Bình

Gửi vào 19/03/2016 - 15:40

Thái cực sinh Lưỡng nghi sinh Tứ tượng sinh Bát quái, vậy 64 chồng quái được sinh và tượng bằng gì?

Ta nhận thấy ngay rằng việc xếp chồng nhau của tám vành tượng cho bát quái cũng là cách sinh của chồng quái. Tức là lấy một quái làm chủ quái và lần lượt chồng các chồng quái khác lên thì ta được các chồng quái.

Sáu mươi tư chồng quái trên trống đồng được tượng bằng các con chim, hươu và người đang bay và đi (dịch chuyển).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vì sao lại là tượng cho 易 (dịch, dị) bằng chim, hươu và người đi?.

Vì chữ 鳥 điểu: chim, chữ 鹿 lộc: con hươu, chữ 易 di: đi lại (nghĩa Nôm) đều tương đồng với chữ 易 dịch, dị: dịch trong Dịch Kinh.

Ba mươi hai con chim dịch chuyển trên trời tượng cho 32 chồng quái. Ba mươi hai người và hươu dịch chuyển dưới đất tượng cho 32 chồng quái đối ứng.

(còn tiếp)

Thanked by 1 Member:

#44 TieuNguNhi

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 17 Bài viết:
  • 2 thanks

Gửi vào 16/07/2016 - 19:59

Cảm ơn anh binhlq đã giới thiệu những kiến thức mới. Nhưng có điều trong hệ thống sơ nguyên thuỷ của Lục Hào ( hào là đối tượng nghiên cứu) thì hệ thống bát quái Tiên Thiên sẽ không được sử dụng, điểm trọng môn này là bát quái Hậu Thiên. Đôi lời góp ý. Thân!






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |