Jump to content

Advertisements




Ký sự bên kia không gian chiều thứ tư


117 replies to this topic

#16 minhminh

    Ban Điều Hành

  • Ban Điều Hành
  • 3811 Bài viết:
  • 24195 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 04:47

Judas theo thày , tất nhiên Judas hiểu biết về thày mình hơn ai hết
Thế mà vẫn bán thày mình chỉ với 30 đồng bạc
Người đời sau chỉ luôn nguyền rủa Judas là kẻ phản bội
Nhưng ít ai hiểu được rằng lòng tham tiền của xoá mất lương tri để khiến con người có thể làm những điều vong luân bại lý nhất .

Thanked by 2 Members:

#17 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 07:49

II - KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 5!

Cần quán xét nhân quả cho rõ. Mục Liên có chịu tội cho mẹ là Thanh Đề thì chỉ trả quả cho phần mẹ Mục Liên vì mình gây quả , còn quả Thanh Đề gieo vớí những người khác thì chính Thanh Đề phải thọ trả . Cẩn thận nếu không lại rơi vào cứu cánh biện minh cho phương tiện mà nghiệp quả càng nặng hơn.

Thanked by 1 Member:

#18 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 10:54


40 - GÓC ĐỐI LẬP

Các bạn nhất thiết lại phải cùng tôi băng qua sa mạc trong cuộc hành trình này nữa rồi vậy!

Chúng ta không thể bỏ qua giai đoạn này cho được. Bởi đó chính là nền tảng duy nhất để làm sáng tỏ cũng như đưa tư duy chúng ta về đến đích kịp giai đoạn được. Thế giới này rất lạ, nếu ta đi qua sa mạc thì sẽ về đến trước! Bằng như đi tắt, lại không thể về đến nơi được!! Vì thế trong bài viết này, tôi sẽ cố gắng lướt qua. Vì nó gây nhức đầu và nhàm chán vô cùng trong suốt cuộc du hành (xóc ổ gà). Chúng ta cố gắng nhé:

Ta quan sát mô hình trật tự tự nhiên cũa vũ trụ vào thời điểm cột mốc của 2.500 năm trước.

Ở về vị trí cũng như góc độ đối lập với tôn giáo là khoa học. Ta xem xét thấy triết gia Heraclitus, đầu tiên đại diện cho tính biến động thuộc dương! Tiếp đến là Parmenides là thể hiện tính bất biến thuộc âm!! Và ngay sau đó, hai triết gia tiếp theo là Demokritus và Leucippus, hợp nhất tư tưởng lại và đại diện cho tính trung hòa!!!

Ta thấy ngay cái lý Tam Tài đã xuất hiện một cách tiềm ẩn, ngay tại trong tư tưởng cội rễ ban đầu đó của nền khoa học vật lý của nhân loại rồi! Như Heraclitus được thể hiện là Thiên (cha). Parmenides có mô phỏng là Địa (mẹ). Leucippus và Dmokritus phản ảnh lý Nhân (con). Từ đó ta xác định ngay rằng; Tư tưởng triết học chính là cha đẻ của tư duy khoa học của nhân loại chúng ta.

Tiếp đến, khoảng 200 năm sau đó (thế kỷ thứ 3 trước CN). Aristotle mới dựa trên những nền tảng tư tưởng thời thượng cổ đó mà thiết kế và đưa mô hình vào khoa học. Và nền khoa học dựa trên nền tảng của mô hình này tồn tại suốt 2.000 năm! Dĩ nhiên ta thấy Nhà Thờ ủng hộ mô hình này của Aristotle suốt thời kỳ trung cổ.

Thế rồi mãi đến thế kỷ thứ 15, là thời kỳ phục hưng. Ta nhận thấy sự xuất hiện của Galileo. Và Galileo là người đã đưa toán học vào khoa học. Thế cho nên nhân loại đã xem Galileo là cha đẻ của nền khoa học hiện đại.

Tiếp đến trong thế kỷ thứ 17 thì quan điểm nhị nguyên tâm vật ra đời từ tư duy cũng như quan điểm của Descartes. Ngay trong thế kỷ này thì Newton đã ủng hộ thế giới quan có tính cơ giới này của Descartes và phát huy nền tảng đó đến cuối thế kỷ thứ 19. Để rồi sự chuyển tiếp giữa cổ điển và hiện đại là Lý Thuyết Trường của Maxwell và Faraday. Ta gọi lý thuyết này là bán cổ điển.

Và trong thế kỷ 20 thì chúng ta đã biết Einstein dựa trên nền tảng của Newton mà khai sinh ra Thuyết Tương Đối. Rồi trong thập niên 20 thì Thuyết Lượng Tử cũng đã được sinh ra đời từ thân thể của Thuyết Tương Đối. Và cuối thế kỷ 20 là sự thai nghén của Lý Thuyết Dây, và học thuyết này đã cất tiếng khóc chào đời ngay trước cửa của Kỷ Nguyên Mới.

Đó là nền tảng tư duy cũng như quan điểm chung, của tất cả các nhà khoa học hiện nay trên toàn cầu, đối với các học thuyết cũng như định luật chung. Và cùng kết luận tính từ học Thuyết của Newton thuộc về cổ điển. Và Lý Thuyết Trường của Maxwell và Faraday là bán cổ điển. Còn Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử thuộc về hiện đại. Lý Thuyết Dây thì đang chưa thống nhất nên còn bỏ dở dang.

Do tầm phát triển chung hiện nay của Việt Nam, rất khó tiếp cận đối với lĩnh vực khoa học vật lý. Tôi sẽ hợp nhất cả hai học thuyết này làm một trong những bài viết cùng các bạn. Chúng ta chỉ việc hình dung là: Thuyết Tương Đối có giá trị tương đương như góc quan sát của Đạo Chúa. Và Thuyết Lượng Tử thì là mô hình của Đạo Phật rồi vậy.

Vì thế nên nếu ta khó hiểu thì có thể mượn tạm một trong hai vị trí đó để quan sát cũng như nắm bắt mô hình chung nhé. Hoặc sẽ dễ hơn cho bạn nào biết qua Dịch Học, thì sẽ hình dung giữa Âm và Dương là quan sát ổn cả thôi. Bằng không nữa, thì ta đành phải chấp nhận khuyết mất một góc nhìn sự việc vậy. Tuy nhiên lòng tin sẽ lấp đầy tất cả. Bởi đó chính là nẻo mà Đạo đã dành cho tất cả mọi người, kể cả kẻ mù chữ. Dĩ nhiên lòng tin đó cũng phải được đặt đúng chỗ chứ không phải một niềm tin mù quáng. Rồi đổ tất cả cho hai chữ thiên cơ... Có vẻ chưa ổn..., lại đệm thêm vài câu bất khả lậu mà che mắt thiên hạ cho được.

Chúng ta tiếp tục cuộc hành trình:

Nếu như ta xét từ cột mốc 2.500 năm trở về quá khứ trước đó nữa thì sẽ thấy. Nền khoa học đã hoàn toàn bị bỏ rơi lại trong tư tưởng triết học của Triết gia Heraclitus mất rồi. Tư duy khoa học phương tây có phăng theo mối dây của trường phái Milesians đến triết gia Thales là dứt hẳn. Ở đây ta thấy lại vẫn xuất hiện cái lý của Tam Tài như 3 vị triết gia đồng thời là Thales-Anaximander-Anaximenes. Thế nhưng tại địa phương tư tưởng tam tài này thì mọi người đã rối loạn lên hết cả rồi. Họ nói chung không còn biết gốc rễ ở đâu nữa cả!?

Sự sai lạc gốc cội nguồn đối với tư duy phương tây từ tư tưởng ngọn lửa soi đường về đêm trường quá khứ của Heraclitus. Rồi phăng lần theo tới ngọn lửa của Anaximander thuộc người Milesian, đang sống tại Hy Lạp trong thuở ấy. Bởi vị triết gia này đang đối lập tư tưởng Thales với nguồn cội đầu tiên là nguyên lý của nước! (khởi thủy).

Mọi người đều không thể thấy được rằng: Vị triết gia đầu tiên của Hy Lạp là Thales đó. Lúc sinh thời, đã từng sang xứ Êgyptô và đã học và mang tư tưởng này từ đó trở về Hy Lạp!? Và đây chính là vùng mà người dân Do Thái đã từng định cư trong giai đoạn đó. Vậy tư tưởng đó chính là tư tưởng trong Kinh Cựu Ước mà ra cả thôi. Không thể khác được.

Đó chính là lý do nền khoa học của nhân loại chúng ta. Mãi tận ngày hôm nay vẫn chưa có thể thoát ra tầm ảnh hưởng của Chúa Trời cho được. Sở dĩ có những nhà bác học chống đối khi vừa tìm ra được một học thuyết hay định luật nào đó. Khi về cuối đời thì họ vẫn phải quy phục. Bởi họ đã lầm lẫn quan điểm gốc từ tư tưởng đối lập của ông tổ Anaximander với Thales.

Như thế nếu chúng ta xét từ giai đoạn này trở đi nữa. Thì thấy quan điểm của Đạo Phật cũng phải đành chịu rớt lại trong cuộc thưởng lãm về không gian quá khứ xa hơn thời điểm này nữa rồi vậy. Bởi năm 2.500 Phật mới ra đời. Điều này có nghĩa gốc rễ vẫn còn lại để xem xét chính là Balamon với Kinh Veda.

Vậy ta thấy 3 tư tưởng vẫn tồn tại và tiếp tục được xem xét đến chính là Kinh Thánh, Kinh Veda và tất nhiên là Kinh Dịch. Tất cả tư tưởng khác, đã bị bỏ rơi lại phía sau lưng của thực tại này, trong giai đoạn của miền quá khứ đang bàn đến rồi vậy.

Xét theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Người ta thống nhất là Sử Thi Ri-Veda xuất hiện vào giai đoạn là 1.500 năm trước công nguyên. Thế nhưng quan điểm của Ấn Độ Giáo thì cho rằng phải tăng tuổi thọ lên thêm 1.000 năm nữa mới chính xác! Vậy ta có hai giai đoạn thời gian cho Sử Thi Ri-Veda là: 3.500 năm và 4.500 năm!

Còn xét về Kinh Thánh thì bộ này đã có tất cả là 4.000 năm bao gồm cả Tân Ước lẫn Cựu Ước!!

Riêng về tuổi thọ của Kinh Dịch thì rõ ràng thống nhất với quan điểm chung là 5.000 năm đi rồi!!!

Tuy nhiên tôi xem xét và cuối cùng thì nêu ra quan điểm chung để các bạn cùng tham khảo như sau: Lịch Sử của dân tộc Việt Nam có một giá trị tương đương 4.000 năm là không phải bàn cãi nữa. Thế nhưng, qua trang này thì chúng ta đã ít nhiều nhìn thấy những giá trị thực tại là 9.000 năm mới đủ cho một chu kỳ đưa ra ánh sáng toàn cục được. Và lịch sử của dân tộc được phục hồi thì cũng đủ đúng với chu kỳ đó không sai.

Tuy nhiên ta cũng đã biết số 4 là số thành trong trật tự tự nhiên mô hình của vũ trụ. Ngoài phạm vi đó thì có nguy cơ xóa nhòa hết mọi thực tại hiển nhiên có thể xét thấy trong các giác quan thông thường chung. Vì cái lý đó nên ta thống nhất quy xét tất cả vào giới hạn trong cột mốc của 4.000 năm để xem xét là đủ để được gọi là hợp tính logic. Từ đây chúng ta sẽ hiểu rằng ta đang khu trú trong một phạm vi đủ thấy mà thôi. Bằng như nới rộng thì sẽ có mô hình như; 40.000 năm, 400.000 năm, hoặc 4 tỉ năm vẫn phản ảnh một nguyên lý có mô hình như thế cả.

Ví dụ: ta đang xem xét trong 360 giây, hoặc 360 phút, 360 ngày. Rồi lại 360 năm, 3.600 năm, 3 tỷ 6 năm vẫn thế. Thế rồi đầy những kẻ nông vội, đang xem xét trong 360 năm, đã bác bỏ đi mô hình phản ảnh của 360 giờ rồi!?

Và tôi giới thiệu dông dài một tí qua mô hình của hệ số 4 như sau:

Nay ta xét tổng thể sơ lược những gì mà tôi vừa nêu ra ở trên. Bởi chúng ta đang là người phương đông. Thế cho nên tôi dẫn ra một tư tưởng của phương đông. Vốn đã được trích từ tinh hoa của Dịch Học, làm thước đo tư duy chung như: "Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba. Ba sinh vạn vật" . Đó chính là câu phát biểu của Lão Tử. Điều này có nghĩa số 4 chính là số thành rồi vậy.

Thế cho nên tại sao ta cứ thấy văn hóa chung cứ phải xét trong hệ thống như: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Sinh, Trưởng, Liễm, Tàng. Xuân, Hạ, Thu, Đông v.v... Rồi lại; Ngư, Tiều, Canh, Mục. Cầm, Kỳ, Thi, Họa... Thậm chí cho đến tận những tầng thấp hơn cũng xét Cầm, Kỳ, Thi. Tửu. Rồi Cờ, Bạc, Rượu, Chè. Kể cả ti tiện nhất như Ăn, Ngủ,... vân vân và v.v...

Tất nhiên chúng ta cũng đang sống và phát triển giới hạn trong quan điểm của Không - Thời gian 4 chiều mà thôi. Và hiện nay, với quan điểm của tất cả các nhà bác học thì họ đều cho rằng: Chúa tạo dựng vũ trụ chứ không hề là bất kỳ ai khác cho được cả. Vậy ta cùng dựa trên quan điểm khoa học đương đại này, để mô phỏng lại mô hình của không gian vũ trụ ban đầu đó như sau:

... Nghe rằng Chúa Trời đã tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày. Vậy 6 ngày này, ta hãy tượng trưng là 6 cõi ban đầu để xem xét toàn diện vậy. Bởi thế giới của miền quá khứ này vốn đã là một thế giới trừu tượng hết cả rồi. Bất kể có là ngày đầu tiên hay cho đến tận thời điểm hiện nay, vẫn phản ảnh trung thành một cách tuyệt đối như thế đối với tư duy của mọi đương đại. Vả lại; Kinh Dịch, Kinh Thánh hoặc Kinh Veda nói chung, cũng đều phản ảnh một cách trừu tượng như thế cả!

Xét trong 6 ngày đó, ta thấy Kinh Thánh ghi chép là Chúa Trời đã tạo dựng những loài động vật trên mặt đất, trong ngày cuối cùng. Theo trật tự đó thì Người đã tạo "Con Rắn" trước tiên và "Con Người" là cuối cùng trong ngày thứ 6 này. Tuy nhiên Người đã tạo con người theo mô phỏng hình dáng của Người. Và trao toàn quyền cho loài người cai quản vạn vật trong vũ trụ mà Chúa đã tạo nên đó.

Vậy ta xét thấy rằng Tổ Thần cội rễ của Ấn Độ Giáo chính là Thần Rắn Naga rồi vậy. Và đây chính là một sự thật mà chúng ta khó có thể phủ nhận trước sự công bình này cho được. Tuy nhiên ta xét thấy trong những hạt giống mà Người đã gieo trong thời điểm của buổi ban đầu đó. Thì "Giống Người" chính là "Hạt Nhân" cơ bản nhất của vũ trụ đi rồi. Và đó cũng chính là "Hạt Của Chúa", mà nền khoa học chúng ta hiện nay đang dò tìm một cách vô vọng, vì lạc cội rễ suốt hàng ngàn năm qua.

Mọi sự khác trong ngày thứ 6 đó, bao gồm cả ngày đầu tiên. Chúng ta tạm thời để xét tới những giá trị chi tiết sau này (tôi sẽ xét tới cùng các bạn). Hiện tại thì chúng ta đang khai thác được một giá trị thực tại của mô hình cơ bản của vũ trụ đang tiềm ẩn trên tay rồi. Chúng ta nhất thiết phải làm rõ giá trị này trước đã. Bởi như những nguyên lý của nền khoa học hiện nay là:

Ta có thể quan sát chỉ riêng một mô hình cơ bản đó thôi. Ta nhất định đã có thể hiểu được toàn bộ tất cả các giá trị khác rồi vậy. Vì thế chớ có vội mà xem xét tiếp những giá trị khác trong cõi thứ 6 đó. Bởi điều đó sẽ dễ khiến ta rơi vào tình huống bỏ hình bắt bóng là một sự thực. Bởi tôi biết rất rõ là thế giới này vốn rất hư ảo, và lẫn lộn thực hư khôn lường.

Vậy chúng ta cùng tham gia quan sát vật bị quan sát này (tôi ký hiệu là "m" cho phù hợp với khoa học hiện nay) xem sao nhé. Điều này cũng có nghĩa là ta đã đồng nhất giữa người quan sát và vật bị quan sát rồi vậy. Lại đáp ứng thêm một nguyên tắc nữa của nền khoa học cho đối tượng vật thể cơ bản của vũ trụ, đã từng được đặt ra làm tiêu chí quan sát.

Với quan điểm của phương đông thì đây chính là một Tiểu Vũ Trụ rồi vậy! Dĩ nhiên là vật bị quan sát này, hội đủ mọi thành phần cấu tạo của một Đại Vũ Trụ mà ta đang sống và cùng vận hành trong đó.

Thế nhưng khi ta quan sát là bằng những giác quan thông thường. Cho nên những giác quan này bị hạn chế phía bên ngoài thực tại của mô hình này mất rồi. Thế cho nên ta nhất định phải huy động luôn cả công cụ của sự thấy, để mà quán xét những cơ cấu nội tại tiềm ẩn phía bên trong đó nữa. Điều này Phật đã từng gọi là Uẩn Giác, và phải dùng cái công cụ đó để mà trực chỉ quy tâm; Kiến Tánh.

Chúng ta thấy sự việc đã thật sự phức tạp trầm trọng đi rồi đấy. Tuy nhiên chúng ta cứ yên tâm. Bởi tôi đã đưa các bạn du hành đến đây rồi. Dĩ nhiên tôi có trang bị sẵn mọi công cụ có thể. Hầu chúng ta có thể sử dụng mà khai thác toàn bộ những giá trị gì tiềm ẩn trong đó để thưởng lãm chung! Và giá trị của công cụ khai thác thế giới của Tiểu Vũ Trụ đó chính là Kinh Dịch. Đồng thời, tôi cũng sẽ dựa trên những gì mà đại đa số trong chúng ta xưa nay đã từng biết qua, để hướng dẫn tham khảo chung.

Ví dụ điển hình như câu: "Kiến Tánh, Quy Căn" của Nhà Phật vậy.

Thế cho nên tôi sẽ trình bày sơ qua cái ý nghĩa của câu "Kiến Tánh, Quy Căn" này của Nhà Phật trong bài viết tiếp đến cùng các bạn vậy.

Tôi tin rằng; Qua bài viết sắp đến đó. Chúng ta mới bắt đầu hiểu được những giá trị gì mà Phật xưa nay đã từng gọi với hai tiếng "vô biên".

Hy vọng qua trang này: Chúng ta sẽ tập quen dần với những điều lạ lẫm của Đạo. Khi đã thích nghi với trạng thái sốc thông thường của thế nhân. Ta mới bắt đầu đủ để bước qua ngưỡng cửa để vào "Thế Giới Đạo"...

Nhớ: Thế Giới Đạo chứ chưa phải là Vũ Trụ Đạo đâu nhé! Dĩ nhiên, từng giai đoạn, ta sẽ có từng phương tiện khác nhau để mà..., Tham Hành.

.
Bạn đọc tự do chia sẻ

__________________________________________________________

41 - KIẾN TÁNH.

Quy Tâm - Kiến Tánh - Quy Căn.

Chúng ta đều nghe rằng Phật đã dạy như thế! Và ta xét thấy câu như trên là đủ một chu trình trọn vẹn như hệ thống phát triển của Tam Tài! Nếu ta xét thuần theo quan niệm của Phật giáo, thì câu đó cũng thể hiện đủ ý Tam Tạng như: Tạng Kinh - Tạng Luật - Tạng Luận vậy.

Thế cho nên tôi lý Luận, giải theo Luật, diễn nghĩa Kinh như sau:

Từ hai chữ Quy Tâm là nguyên nhân, chuyển tiếp qua Kiến Tánh là nhân duyên. Và từ Kiến Tánh nối đến Quy Căn là thành quả. Vậy nguyên nhân vốn rất đơn giản và dễ hiểu như..., không gian 3 chiều vậy. Nếu thế thì Kiến Tánh thuộc ranh giới, là ngưỡng cửa của không gian chiều thứ tư rồi. Và tất nhiên câu Quy Căn thuộc về địa phương của phía bên kia không gian chiều thư tư!

Ta thấy lúc này, những giá trị đó không còn trong trạng thái vô minh chung nữa rồi. Bởi Phật nói đạo tại Tâm. Nếu trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Vậy ta đã trực chỉ đối tượng Tâm rồi. Ta bắt đầu quan sát vật bị quan sát (m) đó để tìm cái gọi là "Kiến Tánh" xem sao nhé. Chúng ta cùng tham gia..., quan sát:

Vậy hai từ Kiến Tánh phải được hiểu theo nghĩa đơn giản nhất như.. Kiến = Thấy và Tánh =..., hơi khó thấy một chút rồi!

Bởi Tánh hoặc Tính là vốn có giá trị như nhau. Quy đổi giữa cách gọi chung của Bắc hay Nam mà ra thôi! Như bản tánh, bản tính. Từ nguyên này sẽ được thể hiện rạch ròi khi ta dùng câu Tính Chất hay Tánh Chất. Ta bắt đầu nhận ra câu tánh chất có vẻ như muốn..., lạc đi rồi đấy!

Vì thế cho nên ta rất khó nhận ra được cái Tánh đó là Tánh gì cho rõ ràng được nữa. Do bản thân của nó còn tiềm ẩn trong đó là Mệnh giá! Điều này ta lại hay tách rời ra giá trị riêng là Bản Mệnh. Vậy câu Tính Mệnh hay Tánh Mạng vốn là cái ý nghĩa gốc của từ Kiến Tánh.

Từ đây ta suy ra... rất dễ sáng nghĩa là; Mệnh hay Mạng của ta thuộc Mạng nào? Nếu bất chợt ai đó hỏi như thế thì ta trả lời ngay, không suy nghĩ là; Mệnh Kim, Mệnh Mộc, Mệnh Hỏa v.v...

Từ đó ta mới thấy (kiến) cái Tánh của Mạng này thuộc Tính Chất nào rồi vậy. Từ đó suy ra;

Tính Hỏa là hun đúc, bốc lên. Tính Thủy là trầm lặng, lắng xuống. Tính Mộc là co duỗi, cong thẳng v.v... Và ta nhận ra ngay đó chính là 5 Tánh của Ngũ Hành. Thế nhưng 5 Tánh đó vận hành luân chuyển đủ một chu kỳ tuần hoàn khắp lục cõi biến hóa thành 60 Mệnh, thể hiện trong Lục Thập Hoa Giáp.

Vậy là ta đã Kiến Tánh của chính bản mệnh của cá nhân mình không sai lạc rồi vậy. Thoạt trông, thì thấy cái Tánh này biến hóa "vô thường" khắp đại lục cõi đó. Thế nhưng trong tổng thể của 60 tiểu cõi đó. Cái Tánh này vẫn "thường hằng" như thế, mãi từ vô thủy cho đến vô chung.

Để Kiến Tánh thôi, chúng ta đã thấy nó phức tạp như thế rồi. Các bạn thấy rằng tôi không cố "vẽ ra" như thế, mà bản Tánh của nó vốn là như thế. Đó là ta đã thấy và biết như thế về cái Tánh này của ta. Chúng ta khoan bàn đến sự hiểu về nó đã. Chúng ta tiếp tục bước qua chiếc cầu nối Kiến Tánh này với địa phương Quy Căn xem sao đã nhé.

Căn là..., "Rễ". Quy thuộc..., "Trở Về".

Đơn giản thế thôi! Thế nhưng do ta tưởng thế, sự việc vốn lại phức tạp hơn thế!! Bởi đó là Tánh của Đạo.

Là vì ta biết cái gốc Rễ của cái Tánh (Tính của Bản Mệnh) này ở đâu, để mà còn Quy về cho đúng bản thể của nó mới được chứ? Bởi cái Mệnh đều phải có Số cả! Ta chỉ suy đơn giản như: Trong hệ thống của 60 số Hoa Giáp đó. Thì cái bản mệnh của ta thuộc vị trí số mấy trong tổng số đó mới được. Sự việc rắc rối vô cùng. Vậy tôi chỉ đưa chúng ta lướt qua như thế này nhé; Tôi chỉ thẳng ra là:

5 Tánh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là Ngũ Hành, và; Cái gốc của Ngũ Hành ở tại 4 Mùa. Ta thấy thoắt một cái là, Tiểu Vũ Trụ đã đồng nhất cùng Đại Vũ Trụ rồi đấy!

Bởi sự biến hóa của Đạo vốn là như thế cả. Tuy nhiên nếu ta nắm được cái gốc (tướng tinh) của sự việc. Cho dù nó có biến hóa muôn hình, vạn trạng. Cũng không có thể che sự thấy của ta cho được.

Vậy ta nhất thiết phải truy xét cái bản thể gốc rễ của đại vũ trụ, để còn đưa cái tiểu vũ trụ của ta "quy căn" mà đồng nhất trong đó nữa chứ! Được như thế rồi, thì ta mới có thể đồng nhất cùng vũ trụ mà vận hành, hầu mà mong hành đạo cho được. Từ hành tới đắc hay không đắc, lại còn là một chuyện khác nữa, rất diệu vợi...

Vậy ta tính (toán số- mô hình- lý luận) ra rằng:

Gốc của 5 Hành tiềm ẩn trong 4 Mùa là: Xuân thuộc Mộc, Hạ thuộc Hỏa, Thu thuộc Kim, Đông thuộc Thủy. Và cuối cùng thì Thổ tiềm ẩn trong gốc của 4 Mùa. Đó chính là chia đều cho 4 tháng cuối của mỗi Mùa.

Khi đã xác định được như thế rồi. Nếu Mệnh của tiểu vũ trụ ta thuộc Thủy. Bây giờ Mùa của đại vũ trụ lại là Kim! Ta nhất định phải..., "Chờ Thời" vậy. Khi Thời (là mùa, thời gian) vận hành tới, thì ta mới có thể xác định bản thể, để mà đồng nhất cùng nhịp vận hành của Tạo Hóa được. Bằng như ta là Mệnh Hỏa thì điều đó có nghĩa là...; "Lỡ Vận" mất rồi vậy. Từ thời điểm của luận giải này. Ta xác định được ngay một thiên cơ (số trời) tiềm ẩn là: Số mệnh của Chúa Jêsu là thời ở Mùa Đông, thuộc Thủy! Số mệnh của Phật Thích Ca là vận ở mùa Hạ, thuộc Hỏa!! Cho nên ta thấy tình huống "chờ thời", đỡ hơn hoàn cảnh "lỡ vận" cho bất kể ai, đã trót mang thân phận làm kiếp con người, trôi lạc khắp cõi ta bà... một cách vất vưởng...

Để rồi khi thời của Đạo vận hành đến, thế nhưng mệnh số của ta đã lỡ! Hoặc lúc ta muốn tham thiền, nhập định để hành đạo. Trong khi cái thời - vận - hành đã qua đi. Lúc đó ta cho dù ta có biết, cũng đành phải chờ chuyển kiếp mà thôi. Không có thể níu kéo quy luật của Tạo Hóa lại cho được. Nói gì đến những kẻ không hề biết đến "thiên lý" bao giờ, để còn hiểu được "thiên ý" nữa. Mà cứ nghĩ rằng ta tham thiền vài ba mươi năm, thậm chí năm mười ngày nhập thất. Là đứng ra giảng thao thao bất tuyệt về đạo!! Lại còn phán bạt mạng về thiên cơ, rồi tỏ vẻ như không dám nói ra cho khắp cả thiên hạ biết nữa chứ!!!

Vì thế, ta mới đủ ý thức rằng Quy Căn rất không hề đơn giản cho bất cứ ai bao giờ cả. Từ đây ta mới xác định được bản thể của ta từ khi mới lọt lòng Mẹ. Thời điểm chào đời đó, ta đã hấp thụ cái khí đầu tiên của Đại Vũ Trụ khi đó, vốn đã làm nên cái bản Tính mà thành ra cái chất Mệnh của Tiểu Vũ Trụ ta là Kim hay Mộc, Thủy v.v...

Đó cũng chính là điều mà tại sao Phật lại phải mô tả là; "Hằng muôn ức kiếp, khó tìm cầu".

Nếu ta cứ tham thiền, hành một cách vô minh như Phật đã có từng nói như thế. Ta khởi gieo nguyên nhân đã vốn là vô minh thì, tác nghiệp báo thành quả là luân hồi chuyển kiếp... trong u minh. Không biết đâu là nhân duyên để xác định quay lại hay tiếp tục được nữa. Bởi không quay đầu là lầm, là biển mê. Bằng như tiếp tục là lạc, là trôi dạt.

Là tại vì vẫn còn đầy rẫy những quy luật của vũ trụ, mà ta chưa biết được là bản "mệnh" của mình, có đồng "tính" chất cùng "máy tạo" hay không nữa. Ví như trong suốt quá trình sinh tồn, va chạm cùng cõi ta bà đầy ô tạp này. Ta đã nhiễm phải tạp chất (tánh) hay thể (mệnh) dạng nào đó, mà ta vẫn chưa gột rửa ra cho được! Vì ta có biết được đâu mà xả bỏ cho được?

Tất cả điều đó ta có nghe Phật gọi là Luân Hồi, mà không có thể biết đến cũng như lĩnh hội cho được. Tuy nhiên đó chỉ là một phần rất nhỏ bé của điều được gọi là Đạo như Phật hay Chúa nói đến. Dù sao thì tôi cũng đã viết mở ra tới đây rồi. Chúng ta lại tiếp tục tham khảo thêm một tí nữa về cái Lý của Đạo nhé.

Thôi! Xả hết những điều "luật tạng" cùng với "luận tạng" vừa qua đi. Không chấp.

Thế có nghĩa là ta đã "cố chấp" vào cái gọi là "vô minh" rồi đấy! Con người không có thể vượt qua đạo lý cũng như quy luật của Tạo Hóa cho được. Bằng như ta vẫn cố chấp? Đến năm 2023 thì quy luật đào thải của vũ trụ sẽ thực thi trách nhiệm đó.

Sau năm 2023, những ai còn sót lại, sẽ bước vào Kỷ Nguyên Mới. Họ sẽ nhớ rất rõ sự kiện trước đó để làm gương. Tuy nhiên qua một chu kỳ của 2.000 năm sau đó nữa. Mọi người dần quên đi chính xác những sự kiện của thời điểm 2017. Lại một cuộc nữa là 4.000 năm. Quy luật trật tự tự nhiên của vũ trụ lại: Tất cả đã bị thời gian xóa nhòa đi mọi thực tại hôm nay đối với ký ức của những thế hệ đương thời tương lai đó mất rồi.

Thế cho nên những gì thuộc chu kỳ thứ 3 của 6.000 năm. Nhân loại muốn nắm bắt điều gì trong quá khứ đó thì phải đồng nhất trong đó. Và phương pháp duy nhất để có thể đồng nhất là Tham Thiền vậy. Mọi phương hướng đứng bên ngoài để suy diễn sự việc bên trong thế giới đấy là bất khả. Thế cho nên mọi lập luận, giả thuyết cũng chỉ đơn thuần là giả thuyết mà thôi. Cho dù đó có là một bác học hay triết gia. Vũ trụ hiện tại đang chứng minh điều đó trên bình diện.

Sẽ lấy làm bất hạnh thay cho tất cả những ai. Đã vội xem những giả thuyết đấy là sự thật, rồi dựa trên đó làm nền móng mà xây dựng một mô hình cho riêng mình. Sự việc sẽ trở thành mối nguy cho xã hội, một khi cá nhân đó có thực lực đủ để triển khai mô hình đó vào xã hội. Bởi vì đó chính là mảnh đất màu mỡ cho những thế hệ kém cỏi đương thời khi đấy bám vào và nảy mầm...

Quy luật của sự tiến hóa lại thực thi trách nhiệm đào thải. Cứ thế...

Ta lại phải quay trở lại với vòng luân hồi của nhà Phật. Bởi những điều đó Phật gọi là "Khổ Não" chung. Lại một chu kỳ lập lại của một phương hướng truy tìm sự giải thoát... Cứ thế...

Mọi sự việc chỉ có thể chấm dứt "Chu Kỳ Luân Hồi" khi: Ta phát hiện ra những sai lầm nào đó, đã từng bị vùi lấp và bỏ sót qua trong guồng máy của Tạo Hóa mà thôi. Khi đó guồng máy của Thợ Tạo mới thoát khỏi sự Luân Hồi, để có thể sinh ra khái niệm Luân Vãng, đắp đổi Luân Chuyển cho đủ được gọi là Luân Lý, mà vận hành theo quy luật vốn có của vũ trụ ban đầu.

Và trong thời điểm của luận giải này. Tư duy của chúng ta lại phải luân hồi trở lại từ ban đầu vậy. Bởi ta chưa có thể thoát ra khỏi vòng luân hồi đó cho được. Vì ta chưa có thể hiểu biết rốt ráo về sự việc. Vậy tôi lại điển hình một sự "luân hồi quan điểm" nữa như sau:

Chúng ta quay trở lại câu khởi đề. Để xác định lại từ những gì đơn giản nhất, mà ta đã bỏ qua như:

"Quy Tâm"!

Vậy ta sẽ Quy về vị trí nào trong cái Tâm của ta? Đó cũng chính là điều mà ta nghe nhà phật thường gọi là Định Tâm vậy. Sự việc rắc rối vô cùng là bởi căn cứ vào đâu để mà xác định cho được bây giờ. Ít nhất ta cũng phải biết và nắm rõ về những thành phần, cơ cấu thực tại của bản thân bên trong của ta trước đã. Sau đó thì mới có thể xác định chính xác vị trí của Tâm để mà mong trụ trong đó cho được.

Và nếu muốn hiểu biết điều đó thì: Công cụ duy nhất có thể khai thác lại chính là Dịch Học. Và muốn giải phẫu để xem xét những sự việc đó. Nhất định ta phải mượn những công cụ của lĩnh vực Y Học. Bởi có câu: "Y Dịch đồng nhất lý". Và tôi cũng đã có từng phát biểu rằng: Cánh cửa đầu tiên để bước vào thế giới của Dịch chính là Y Học. Bằng như ta đi lầm sang cánh cửa khác, tất phải lạc lối trong thế giới thực tại của Dịch là điều phải xảy đến.

Vậy tôi đưa các bạn đi tắt đến một thực tế là: Ta nhất định phải tham khảo ngay tác phẩm tiêu biểu nhất của Y Học là: Hoàng Đế Nội Kinh. Ta xét thấy nổi bật trên hết trong tác phẩm này chính là hệ thống Kinh Lạc. Khoan bàn đến những tính lý cũng như sự vận hành của hệ thống này đã. Ta chỉ việc hình dung ra giá trị đơn giản nhất của nó ở chổ:

Kinh là dọc, Lạc là Ngang. Thế thôi. Điều này được phản ảnh trong mô hình của đại vũ trụ chúng ta như hệ thống của Kinh Tuyến và Vĩ Tuyến trên trái đất vậy. Căn cứ vào Kinh Tuyến và Vĩ Tuyến đó. Ta mới có thể xác định được tọa độ để mà định vị. Bằng không? Thì chỉ là trò hề mà thôi. Bởi nếu ta đang lạc ở đâu đó trên toàn miền địa cầu này. Ta kêu cứu với điều kiện phải xác định được tọa độ qua hai trục Kinh tuyến và Vĩ tuyến đó. Ắt sẽ có cứu cánh. Bằng như không xác định được thì..., miễn bàn vậy.

Lưu ý: Thiên thư, là để chép thiên cơ bao gồm cả thiên ý lẫn thiên tượng trong đó. Điển hình: Sử Thiêng cũng như giống nòi của dân tộc Việt Nam đã khải định từ cội nguồn là: Nếu Kinh là Vương (Kinh Dương Vương), thì Lạc cũng là Quân (Lạc Long Quân) vậy !!!, ???, ... Thể hiện Kinh = Dương và phản ảnh Lạc = Âm để định hướng cho giống nòi!!! Sừng sững 5.000 năm qua rồi. Cháu con ngàn đời, muôn kiếp vẫn không thể nào nhìn ra thiên ý đó cho được. (chỉ quen tranh diễn mãi cảnh... Mù Rờ Voi, rồi cãi nhau triền miên!).

Cùng một lý như thế do câu: Thiên địa Nhân gian đồng nhất lý. Biết được hệ thống Kinh Lạc trong tiểu vũ trụ này thì ta mới có thể tiến hành xác định vị trí mà Định Tâm cho được. Đó là tôi chỉ mới bàn về Hình thôi, chưa bàn đến Khí trong đó.

Quả thực tại là: Vô Biên!...

Do tính vô biên đó, tôi lại tiếp tục đưa các bạn tham khảo ở một góc quan sát khác nữa là: Ta nhất định phải biết qua Y Học, để có thể biết được hệ thống Kinh - Lạc, Lục Phủ - Ngũ Tạng, Huyệt - Mạch vận hành ra sao. Thì sau đó mới có thể xác định được "Tâm Người" để định (tri nhân sự của cá nhân ta thôi). Nhất định phải tường địa lý - phong thủy, chuẩn huyệt mạch để mà định "Tâm Đất". Thông thiên văn, tính vận khí bốn mùa mà định "Tâm Trời". Sau mới có thể đồng nhất trong một quy luật của Tam Giới mới có thể nói được câu "Nhập Định", chuẩn bị tham thiền. Trong khi muốn Tham Thiền lại là cả một bộ máy của thiên tạo, vận hành nhất loạt cùng một quy luật (vũ điệu) của vũ trụ trong đó nữa...

Đó là Đạo. Và Đạo vốn Vô Biên.

Cho nên câu "hàng muôn ức kiếp khó tìm cầu", của Phật là chính xác một cách tuyệt đối. Thế nhân chúng ta nếu có may mà liễu ngộ một tí gì đó. Mới biết được là khi đứng trước Đạo, con người thật bé nhỏ vô cùng vậy. Tôi lại phải mượn một câu nữa của Phật mà kết luận rằng: Tôi, hoặc ai đó trong chúng ta, chỉ là thực tại của:

Một “vi trần”

_____________________________________________________________


42 - EINSTEIN NÓI GÌ VỀ THUYẾT TƯƠNG ĐỐI?

Kể từ lúc công bố Thuyết Tương Đối, nhân loại chúng ta không thể nào hiểu nổi Einstein muốn nói đến điều gì?!

Một hôm, có một nhà nghiên cứu lấy làm bực bội. Ông tìm đến và bảo với nhà đại bác học rằng: “Ông hãy làm ơn giải thích một cách dễ hiểu nhất về Thuyết Tương Đối cho tôi xem có được không?”

Và Einstein đã đáp ứng theo yêu cầu đó như sau;

- Tôi có quen một người bạn bị Mù Bẩm Sinh. Một hôm, tôi đến rủ anh ta:
- Anh có đi uống sữa với tôi không?
- Người bạn Mù lấy làm ngạc nhiên và thắc mắc hỏi lại:
- Thế Sữa là gì?
- Nhà Bác Học ôn tồn giải thích;
- Là một loại chất lỏng, màu trắng.
- Người bạn Mù Bẩm Sinh vẫn chưa hiểu:
- Chất lỏng? Tôi hiểu rồi. thế còn màu trắng thì ra sao!?
- Bác Học từ tốn giải thích tiếp:
- Màu trắng giống như màu lông của con Hạc ấy.
- Người Mù Bẩm Sinh làu bàu
- Lông thì ai mà chẳng biết. Nhưng con Hạc như thế nào mới được?
- Vẫn nhẫn nại, nhà bác học tiếp tục:
- Con Hạc là con vật có cái cổ cong.
- Anh bạn Mù thậm chí xoa xoa tay vào cổ mình lẩm bẩm;
- Cổ thì đây rồi, thế còn cong?
- Nhà Bác Học tận tình cầm tay anh bạn mù kéo duỗi ra rồi bảo:
- Như vầy, được gọi là thẳng.
- Sau đó Bác Học gập tay anh ta lại và tiếp:
- Như vầy, được gọi là cong.
- Đến đây, anh bạn Mù chợt reo lên:
- A! tôi hiểu rồi.
- Sau đó anh bạn Mù tự duỗi tay ra rồi bảo:
- Như vầy, có nghĩa là thẳng.
- Nhà Bác Học vui vẽ xác nhận:
- Chính xác
- Người bạn Mù phấn khởi, tự gập tay vào và tiếp:
- Như vầy, có nghĩa là cong.
- Nhà Bác Học hài lòng khẳng định:
- Không sai.
- Rồi người bạn Mù Bẩm Sinh tiếp:
- Vậy như vầy cũng có nghĩa là Sữa! Thôi, tôi biết Sữa Rồi!!, Tôi không đi đâu!!!.

Đó chính là những gì dễ hiểu nhất về Thuyết Tương Đối mà Einstein đã lý giải ngay từ đầu, nếu tôi không muốn nói là từ Thuyết Tương Đối hẹp.

Đại đa số trong chúng ta đều đã biết qua giai thoại người mù bẩm sinh này, nhưng thực sự chúng ta chưa hiểu gì về giai thoại của Thuyết Tương Đối ấy cả.

Vì sự việc tưởng chừng đơn giản nhưng thực sự lại phức tạp trầm trọng đến vô cùng. Cũng chính vì chưa hiểu giai thoại người mù bẩm sinh, nên Einstein mới trở thành không thể nào hiểu nổi. Và cũng vì chúng ta chưa có thể hiểu nổi giai thoại ấy, vốn “dễ hiểu nhất”, cho nên càng không có thể có chuyện hiểu được hai anh em sinh đôi. Chính vì không hề có chuyện đó, cho nên những cuộc tranh cãi về anh em sinh đôi mới nổ ra trên diễn đàn khoa học khắp thế giới. Và đó cũng là minh chứng xác thực và hùng hồn nhất, cho điều chúng ta chưa có thể hiểu được.

Chính Einstein, cha đẻ của học thuyết này, vẫn chưa có thể lý giải nổi điều mấu chốt cơ bản nhất của học thuyết này là ở chỗ nào, để mà có thể dễ hiểu hơn được!

Tôi tạm giải quyết vấn đề tranh cãi này "có thể im lặng bớt lại" như sau:

Theo Einstein thì đây chính là cách giải thích "dễ hiểu nhất" rồi! Thế cho nên sẽ không hề có "dễ hiểu nhì" cho bất cứ đề tài nào hoặc cho bất cứ ai! Vậy xem xét chung giai thoại này; Ta thấy Einstein đã giải thích một cách ngắn gọn và súc tích nhất rồi! Thế nhưng anh bạn mù cứ hiểu có một nữa vấn đề thôi!! Thậm chí bác học đã cầm tận tay, cuối cùng anh bạn vẫn hiểu sai về những điều Einstein muốn diễn tả về Sữa!!! Bởi anh bạn đó vốn là người mù từ trong lòng mẹ rồi.

Nếu như Einstein có giải thích lại, vẫn lập lại như thế! Bởi đây chính là cách giải thích dễ hiểu nhất rồi!! Lấy đâu ra dễ hiểu hai, ba, hay bốn, hoặc v.v... nữa cho được? Bởi có một sự thật mà không ai trong chúng ta dám nhìn thẳng vào là; Chúng ta vốn là người mù bẩm sinh đối với Thuyết Tương Đối của Einstein.

Ta xét thấy người mù bẩm sinh hỏi rất chân thành. Bác học cũng đã ra sức giải thích một cách thiện chí. Thế mà vẫn hiểu sai như thế! Huống hồ chi chúng ta lại cứ tỏ vẻ ra như hiểu biết hơn để mà hạch hỏi, chất vấn, tranh cãi nữa...!! Sự việc càng không có lối thoát.

Vậy tôi đưa ra một giải pháp như thế này, chúng ta cùng tham khảo:

- Người mù Bẩm Sinh tiếp:
- Tôi...
- Nhà Bác Học ngắt:
- ... Là Người Mù Bẩm Sinh.

Nhìn chung; Đại đa số tư duy của chúng ta sẽ hiểu rằng: Điều đó có nghĩa là bác học có giải thích nữa thì cũng lại luẩn quẩn như vậy nữa mà thôi.

Lối thoát ở chỗ là: Thế nhưng, ta biết người mù bẩm sinh đó sẽ định nói điều gì?

Ví dụ: Người mù đó nói rằng: Tôi không hiểu, nhưng tôi cứ đi theo xem sao.

Vậy có nghĩa là sau đó, người mù sẽ biết được Sữa là gì. Tuy cũng chỉ là một phần nào đó thôi. Nhưng anh ta sẽ bằng lòng và chấp nhận được.

Sau đó nữa, ta sẽ đủ để suy ra rằng: Lần sau nếu bác học có đến rủ. Chắc chắn anh bạn mù kia sẽ trả lời là "có" hoặc "không" mà thôi. Và lần thứ ba, bác học đang lui cui nghiên cứu. Bất chợt anh bạn mù đến và hỏi:

Bác học ơi!... Có đi uống Sữa không?

-------------

Điều này đã được phản ảnh qua sự việc Oppenheimer từng có đi "uống Sữa" cùng với Einstein trong dự án Manhattan! Để rồi cuối cùng Oppenheimer đã khẳng định qua câu trả lời phỏng vấn:

... Để..., tôi tìm xem người thứ ba là ai ?!

Điều này có nghĩa là ngoài Einstein và Oppenheimer ra. Không còn ai có thể hiểu nổi học thuyết này nữa cả!!! Dĩ nhiên Oppenheimer có biết về "Sữa" thật đấy. Thế nhưng ông lại không có thể hiểu thấu cho được!!!

Sự thật này được phản ảnh cho thấy đến mãi ngày hôm nay. Nhân loại chúng ta vẫn chưa làm cách nào hợp nhất được hai học thuyết này lại với nhau được. Ta xét thấy ngày đó, Einstein đã từng muốn làm điều này trong những ngày đầu tiên khi ông công nhận Thuyết Lượng Tử rồi. Riêng cá nhân tôi thì tôi phát biểu rằng: Vì hai học thuyết đó chưa đủ độ trưởng thành, cho nên chưa có thể kết hợp được.

Nếu xem xét kỹ càng hơn. Ta sẽ phát hiện trước đó, Einstein đã biết học thuyết của mình là có khiếm khuyết điều gì đó mà ông tìm chưa ra được. Đó chính là câu phát biểu thường xuyên lập lại trên môi ông là khi ông xem xét đẳng thức E=mc2: Chưa đủ! Vẫn còn một thực tại nào đó, tiềm ẩn ở phía sau đó nữa!?

Như thế. Vì tương lai của nhân loại hôm nay, kể cả tương lai của những thế hệ mai sau nữa. Thế hệ của chúng ta hôm nay; Nhất định phải tìm cho bằng được, những giá trị nào mà hai học thuyết này đã từng bị bỏ sót qua trước đây. Cho nên chúng ta lại phải làm tiếp công việc mà ngày đó Einstein phải bỏ dở dang bởi tác động của cơn thác Lượng Tử lúc đấy. Tôi lưu ý chung: Từ xưa đến nay, nền khoa học vật lý đều dựa vào một trong hai nguyên tắc để xem xét. Một là dựa trên những phương trình, đẳng thức để xem xét. Hai là dựa trên hệ quy chiếu quán tính.

Bởi chúng ta đang bàn đến sự việc ở góc độ ngoài chuyên môn. Thế cho nên chúng ta dựa trên nền tảng của hệ quy chiếu quán tính thông thường để cùng nhau tham gia quan sát nhé.

Chúng ta cùng bắt đầu với đẳng thức E=mc2.

E=mc2. Là một đẳng thức năng lượng tiềm ẩn toàn phần! Trong đó, tôi sẽ giới thiệu sơ qua từng phần, để cộng đồng chúng ta cùng biết và có thể hình dung sự việc chung như: Ký hiệu E là đại diện cho năng lượng. Ký hiệu m có nghĩa là khối lượng vật chất. Và c2 có nghĩa là vận tốc ánh sáng (trong chân không), bình phương.

Thế cho nên đối tượng đầu tiên mà chúng ta cần phải mang lên bàn phẫu thuật chính là đối tượng; "m" rồi vậy! Chúng ta cũng tuân thủ theo mô hình chuẩn của nền khoa học vật lý là mô hình của "Chất Điểm".

Ví dụ: Là ta đã tháo rời từng thành phần của một sự vật ra thành một đối tượng cơ bản và nhỏ nhất mà không thể tháo rời ra được nữa rồi. Như.., một hạt cát, đối với sự hình dung của những giác quan thông thường của chúng ta chẳng hạn. Nhỏ nữa thì là một hạt bụi vậy.

Và qua bài này thì chúng ta cũng đã biết rồi. Nhỏ hơn thì là một nguyên tử. Nữa thì là hạt electron, proton hay neutron trong đó. Muốn nữa thì trong thế giới hạ nguyên tử là các quark up, down, charm, strange v.v... Như thế, ta biết chắc quark Newtrino là cơ bản nhất hiện nay rồi đấy. Đó là lý do tại sao hiện nay ta cứ nghe nói đến đối tượng Newtrino là bởi nguyên cớ này. Ta đã có một nền tảng kiến thức vững vàng như thế để hiểu đối với mô hình chất điểm rồi vậy. Không hề hoang mang khi ai đó, nói lung tung về mô hình chất điểm này rồi vậy.

Tôi thấy nhất thiết phải lý giải rõ hơn nữa cho các bạn rằng: Nếu như ta muốn xem mô hình là chất điểm theo nghĩa thông thường thì Hạt electron là có khối lượng bé nhất rồi. Ta cứ hình dung đó là thuộc về không gian 3 chiều vật lý bằng trực giác đơn thuần. Riêng Hạt photon thì đang ở giữa ranh giới của hữu hình và vô hình. Là không gian chiều thứ tư. Tôi gọi ranh giới này là độ mông hạn ảnh. Bởi khi Hạt photon vận hành rơi vào địa phương của 3 chiều thì nó biểu hiện tính Hạt. Khi nó rơi qua địa phương bên kia của không gian chiều thứ tư thì nó thể hiện tính Sóng. Chính vì thế nên ta thấy photon có đặc điểm lưỡng tính sóng hạt là bởi do nguyên cớ; Hạt photon đang ở giữa ranh giới này. Và tất cả thế giới hạ nguyên tử mà ta nghe gọi với những cái tên quark là vô hình. Thuộc không gian chiều thứ 5, 6, 7... trở đi rồi.

Tuy nhiên, những điều đó thuộc về tư duy phương tây, cũng như quan điểm của các nhà chuyên môn phía bên trong các phòng thí nghiệm. Vậy tôi sẽ đưa chúng ta (những cộng đồng ngoài chuyên môn, phía bên ngoài các phòng thí nghiệm), trở về với địa phương phương đông của mình. "Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn" nhé. Thế cho nên chúng ta có thể cùng nhau tham khảo được như sau:

Thật ra điều này thì Phật Thích Ca cũng đã từng phát biểu trước các nhà khoa học những 2.500 năm rồi. Trong bài vừa rồi, tôi cũng đã có giới thiệu qua cùng các bạn rồi đấy. Đối tượng mô hình cơ bản của chất điểm như quark newtrino đó chính là:

"Một vi trần"!

Các nhà chuyên môn cứ việc quan sát với các phương trình, đẳng thức của họ đối với chất điểm newtrino. Chúng ta cũng hoàn toàn yên tâm quan sát, và bàn bạc cùng với hệ quy chiếu quán tính thông thường với đối tượng "vi trần" của mình mà không hề gặp trở ngại gì cả. Bởi như tôi đã có từng nói: Cộng đồng nhân loại của chúng ta hôm nay. Nhất định phải sang sông.

Chúng ta lại tiếp tục cuộc du hành bỏ dở khi nãy:

Khi chúng ta xem xét đối tượng chất điểm cơ bản là "vi trần" này bằng quan điểm của tư duy phương đông của mình. Thì điều đó cũng có nghĩa là ta đã sử dụng đúng công cụ để khai thác rồi vậy. Bởi phương đông vốn thuộc về chiều cảm giác bằng tâm lý, đối lập với phương tây là trực giác là vật lý!

Thế cho nên ta dễ dàng nhận ra rằng: Đối tượng "vi trần" này mới chính là vật thể cơ bản nhất của vũ trụ! Đó mới chính là Hạt Của Chúa!! Bởi Người đã từng gieo hạt "Giống Người" này vào cuối ngày thứ 6 trong Vườn Địa Đàng, mãi từ thuở mới tạo dựng vũ trụ ban đầu rồi!!! Không hề là bất kỳ hạt nào khác mà nền khoa học hiện nay đang đi tìm trong sự lầm lạc một cách vô vọng. Cái "Hạt" mà Nhà Máy L.H.C gọi đó, phải có tên là "Hạt Higgs" mới đủ chính xác! Chúng ta thấy khái niệm "xác xuất" là một khái niệm đầy tai hại cho Thuyết Lượng Tử rồi vậy.

Bởi vì nền khoa học vật lý đã đánh mất điều thiêng liêng này trong tư duy tại thời điểm mà; Descartes cách ly tâm vật thành thế giới quan cơ giới. Thật là cả một nỗi tai hại chung cho nhân loại suốt 360 năm qua (vừa đủ một Vận!).

Thế cho nên ta xác định một cách vững vàng rằng: Vật thể cơ bản của của vũ trụ chính là "Con Người", không thể sai cho được. Là "Hạt Của Chúa". Là đối tượng mà Phật gọi là "Vi Trần". Có ký hiệu m' (khối lượng vật thể). Thay vì m là khối lượng vật chất.

Vậy tôi xin được phát biểu để khai sinh một đẳng thức vừa ra đời: E=mt.

E=mt chính là điều tiềm ẩn phía sau của đẳng thức E=mc2 mà Einstein đã dò tìm trong vô vọng. Vì điều này còn nằm ở trong ý niệm của Einstein và ngoài khái niệm của nền khoa học vật lý đương đại.

Một cặp "anh em sinh đôi" của Thuyết Tương Đối.

E=mc2
E=mt.

Chúng ta nghĩ gì? Khi một cặp anh em sinh đôi này lại "chào đời" cách nhau tương đối khoảng 70 năm!!!

Đã đến lúc nhân loại chúng ta khai thác nguồn năng lượng tiềm ẩn này.

_________________________________________________________________________________


43 -, E=mc2 VÀ GIÁ TRỊ TIỀM ẨN

Chỉ có khoa học mới có thể làm sáng tỏ tôn giáo được. Vì thế; Nếu muốn liễu đạo, ta bắt buộc phải đứng vào vị trí này để quan sát.

Điều này cũng giống như nếu ta muốn nhìn rõ đỉnh núi ta đang đứng một cách toàn diện. Ta buộc phải qua đỉnh núi khác để nhìn lại vậy. Bằng như ta cứ đứng tại chỗ thì cũng không có thể nhìn thấy được điều gì cả.

Cho nên chúng ta phải; Đừng mù quáng trong hiện thực (khoa học) và đừng cuồng tín trong huyền ảo (tôn giáo). Thì chúng ta mới có thể nhìn ra toàn bộ chân giá trị thực tại được. Vậy nên ta xem xét những công cụ dự kiến sẽ dùng để khai thác đó. Gồm những gì và đang trong tình trạng nào nhé.

Einstein có gửi gắm di chúc cho những thế hệ tương lai là: "Ba trăm năm sau, có lẽ chúng ta đã phải quay trở lại với vấn đề gốc của chuyển động. Xem xét và tìm ra những manh mối nào đã từng bị bỏ sót qua trước đây. Bằng cách đó, chúng ta sẽ vẽ lại bức tranh khác của thế giới".

Chứ như ta thấy bức tranh thế giới hiện nay, chỉ vẽ toàn một gam màu đen kịt cả tương lai đi rồi. Các nhà khoa học đã thiết kế mô hình tương lai nằm choáng hết diện tích của bức tranh thế giới đó là một "Lỗ Đen"!! Tất cả thông tin và ánh sáng, bao gồm cả ánh sáng tri thức của nhân loại chúng ta đều..., "mất hút"!!!

Qua câu dặn dò đó của Einstein. Chúng ta xét thấy vấn đề mà ta cần tìm, chính là "vấn đề gốc của chuyển động" mà thôi. Vậy đối tượng cần xem xét đến đầu tiên ở đây chính là đẳng thức bất hủ của Einstein: E=mc2.

Bởi vì thành phần "c" chính là sự chuyển động của vận tốc ánh sáng. Một sự chuyển động nhanh nhất trong vũ trụ cho đến tận thời điểm hiện nay. Đó là giá trị vận tốc = 300.000km/s. Thậm chí theo quan điểm của Lý Thuyết Dây thì xem giá trị của vận tốc này là mãi mãi... như thế. (Điều này cũng có nghĩa là không thể nào vượt qua cho được). Gốc của sự chuyển động.

Để giải phẫu đối tượng này một cách toàn diện và thuyết phục nhất. Ta phải hội đủ 3 công cụ mà ta đã từng biết qua trên trang này:

1- Ngôn ngữ thông thường. Quy chiếu ra góc nhìn phương đông là; Lý.
2- Ngôn ngữ hình học..................................................................; Tượng.
3- Ngôn ngữ toán học. .............................................................. ;Số.

Từ đây ta mới có thể ý thức ra được là: Thế thì những cuộc tranh luận về vấn đề này xưa nay, vẫn không có thể đi đến đâu được cả. Bởi chúng ta đã thiếu mất hai công cụ khai thác là ngôn ngữ hình học và ngôn ngữ toán học mất rồi.

Từ đó suy ra...; Trên trang này cũng vậy! Chúng ta chỉ mới có dùng duy nhất mỗi công cụ ngôn ngữ thông thường (Lý) mà khai thác, tham luận chung thôi. Vấn đề là chúng ta nếu xuất sắc lắm thì cũng mới có thể khai thác được 1/3 sự việc mà thôi. Tuy nhiên chúng ta cũng đã thấy thể loại ngôn ngữ u mặc, đã là một rào cản rất lớn mà rất khó vượt qua rồi. Thế nhưng trước đó tôi đã giới thiệu qua "ngôn ngữ đồ hình" (tượng, hình học) như; Thái Cực Tượng Đồ... và Lá Số Thái Ất Thần Kinh, thì chúng ta đã bỏ qua! Song song đó là ngôn ngữ toán học (Số) như Ma Trận Phân Tán các cấp 3-5-9. Chúng ta cũng im lặng mà cho qua luôn!!

Như thế, đâu có hy vọng gì cho chúng ta nắm bắt rõ ràng sự việc cho được! (Ở đây tôi chỉ nhắc chừng và lưu ý riêng với bạn nào cứ hạch hỏi có ý tỏ vẻ hiểu biết và kiểm tra một cách thiếu tế nhị thôi. Nếu ta cứ bình luận một cách công bình thì lại hay biết bao). Thế cho nên ta bắt buộc phải xem xét đến hai công cụ: "E=mc2 và E=hv". Không còn lựa chọn nào khác.

Ta thấy rằng; Trong thế giới huyền bí, vô hình của tôn giáo nói chung. Các giáo phái còn chưa có thể hợp nhất quan điểm với nhau được. Nói gì đến còn đối thủ đối lập sừng xỏ nhất là khoa học nữa. Đối thủ này đang đăng đàn trên diễn đàn khoa học vật lý để chờ đợi so găng nữa kìa. Ý tưởng về sự hợp nhất cả khoa học còn chưa thể tồn tại trong giấc mơ bất chợt của chúng ta nữa, nói gì...

Vậy, chúng ta cùng tham gia:

Theo như Thuyết Tương Đối thì vận tốc của ánh sáng là 300.000km/s (trong chân không). Nếu ta xem xét điều này với chiều sâu hơn nữa của tư duy thì giá trị này chỉ là một "giá trị tương đối" mà thôi! Điều này có nghĩa là còn tiềm ẩn ở phía sau đó một thực tại của giá trị tuyệt đối nữa!! Vậy giá trị đó là giá trị nào?!

Để thiết kế mô hình, ta bắt buộc phải dùng đến công cụ của ngôn ngữ hình học rồi. Thế nhưng trên trang này bị hạn chế nhất định. Nên tôi không có thể trình bày chi tiết những tiến trình đó ra đây cùng các bạn thưởng lãm chung cho được. Ví như một chiếc bảng và phấn để trình bày vậy. Chúng ta đành phải chấp nhận sự khiếm khuyết nhất định đó từ cách sử dụng cũng như làm quen một cách cụ thể với công cụ ngôn ngữ hình học nói chung.

Cho nên tôi chỉ có thể trình ra đây cùng các bạn là mô hình đó có mẫu thiết kế là một hình tròn rất đơn thuần vậy! Mô hình này là tôi mô phỏng dựa theo như sự giải thích dễ hiểu nhất của Einstein chứ không phải chủ ý của cá nhân tôi!! Đó chính là Giai Thoại Người Mù Bẩm Sinh!!!

Chúng ta có thể hình dung một hình tròn trong tư duy để tiếp tục tham khảo. Einstein lúc đương thời cũng thường làm những thí nghiệm bằng sự tưởng tượng như thế cả đấy. Đòi hỏi của thí nghiệm này là một trí tưởng tượng thật phong phú đối với mỗi quan sát viên tham gia quan sát. Nếu không thì chúng ta có thể vẽ một hình tròn lên trang giấy để trước mặt (như tấm bảng đồ hướng dẫn tour di lịch), để suy gẫm mà phỏng dõi theo vậy.

Lưu ý: Thường thì trí tưởng tượng phong phú, luôn có tính hài hước bao gồm trong đó nữa. Đặc tính này là khả năng thiên phú bẩm sinh. Một yếu tố cần phải có trong các thành phần để cấu tạo nên một Thiên Tài. Sự đào tạo từ nhà trường của nhân loại chúng ta, không hề đào tạo ra nổi điều kiện đòi hỏi này được. Thế cho nên cái học mà nhân loại của chúng ta đào tạo chỉ cho ra được Nhân Tài mà thôi. Tóm lại: Thiên Tài là một khái niệm có giá trị vô hạn, đối với mọi khả năng đào tạo từ cái học hữu hạn của nhân loại chúng ta mà thôi.

Ý thức như thế cho hành trang tư duy, chúng ta cùng du hành...;

Theo như sự thống nhất chung trên toàn cầu hiện nay thì phương Bắc là hướng phía bên trên của mọi biểu đồ. Vậy ta hãy đặt điểm xuất phát khởi hành của sự chuyển động tại tọa độ số 0 trên hình tròn đã có đó nhé. Với quan điểm phương đông thì gọi là "khởi thủy". Vậy, khởi thủy, sự chuyển động đó sẽ vận hành theo chiều thuận của kim đồng hồ... Đủ một "chu trình" là sự chuyển động đó về lại đúng vị trí cũ là "điểm không" (0) của hình tròn. Cũng là tọa độ = 360o.

Đó là một chu trình chuyển động đủ. Từ đây suy ra; Chu trình chuyển động đủ là một chu trình có 360o tuyệt đối. Vậy hệ số 300, chỉ là một hệ số của sự chuyển động tương đối mà thôi. Cho nên giá trị thực tại tiềm ẩn của sự chuyển động tuyệt đối của vũ trụ phải là 360.000km/s.

Vì thế: Vận tốc tuyệt đối thực tại của ánh sáng còn tiểm ẩn trong chân không chính là 360.000km/s. Cho nên 300.000km/s chỉ đơn thuần là một giá trị trương đối mà thôi. Và thời điểm của luận giải này; Vận tốc 300.000km/s của Thuyết Tương Đối của Einstein đã hoàn toàn sụp đổ. Đó là một giá trị vận tốc bất toàn, và sự "kiện toàn" chính là 360.000km/s.

Tôi khẳng định: Đó chính là điều tiềm ẩn mà Einstein đã từng dò tìm bằng cảm giác..., trong vô vọng tại miền không-thời gian của nữa đầu thế kỷ 20.

Chúng ta cùng xem xét cơn địa chấn có mã số 360 này, với quan điểm của tư duy phương đông xem sao nhé. "Một Vận" là tất phải có đủ 360 năm rồi còn gì! Nghĩa đen của nó chính là "một sự vận hành", đúng với chu kỳ vốn phải đủ là như thế. Lại xét chi li hơn nữa thì chữ "chu kỳ", cũng có nghĩa là...; Một "Chu" là một (mô hình) vòng tròn. Kỳ là thời kỳ, thời điểm, thời gian vận hành khởi đầu và kết thúc trong đó.

Ta có chia chẻ, tháo rời ra (thu nhỏ) thì là 360 giờ sẽ hình thành Một Tiết! Lớn hơn một tí thì 360 ngày của Một Năm!! Bằng như lắp ráp tổng thể (phóng to) lại có Một Hội 3.600 năm. Hoặc Trung Hội 36.000 năm v.v... cho tới vô hạn... (tiểu, trung, đại hội...)

Cho nên giá trị của đối tượng "c" (360.000km/s) và thêm bình phương (2) nữa, mới đủ thể hiện là một giá trị của vận tốc vô hạn, đúng với mô hình phản ảnh là vô hạn của vũ trụ được. Từ thời điểm này trở về quá khứ là chúng ta đã bị giới hạn trong phạm vi của 300.000km/s. Và dĩ nhiên điều đó ngay lập tức đã là: "Quá Khứ".

Thế nhưng vấn đề rắc rối nảy sinh ổ chỗ: Tọa độ 0 trên biểu đồ của hình tròn cũng là tọa độ 360! Vậy điều đó có nghĩa là 360=0!! Lại một "Hằng Số" vừa ra đời ư?, ...!!!

Ngay lập tức, sự đòi hỏi là phải làm sáng tỏ những vấn đề còn tồn đọng trong đó trước ánh sáng giải trình. (Chúng ta đã có đủ 3 công cụ như mô hình (tượng) là hình tròn, số là 360=0 (số), và tiếp đến là Lý..., thuyết). Và tôi tiếp tục bổ sung bằng cách dựa trên mô hình đó mà "lập luận", nối tiếp như sau:

Xưa nay chúng ta bị giới hạn trong không gian 3 chiều nên điều đó phản ảnh vận tốc ánh sáng tương đối chỉ có 300.000km/s mà thôi. Và 60.000km/s này tiềm ẩn trong không gian chiểu thứ tư, vừa được tôi khai thác. Vậy có nghĩa là số 0 thuộc về phía bên kia của không gian chiều thứ tư rồi vậy. Lý tính của nó thể hiện là không (zero) mà có, thế nhưng có (zero) lại là không, một cách chính xác về thực tại ý nghĩa này.

Và đó cũng chính là "điểm kỳ dị toán học". Bởi ta không biết là bao nhiêu để bằng 0 cho được cả. Ví dụ; 0x0=0. Thế nhưng, 0x1=0, 0x7=0, 0x50=0... Ta có thể nhân cho số bất kỳ, tới vô hạn cũng đều là 0 cả! Và nền khoa học của chúng ta không biết bao nhiêu để bằng không là một tiêu chuẩn cơ bản cho được!! Một thực tại kỳ dị toán học.

Thế nhưng trên trang này thì tôi đã thiết lập là 360=0. Điều này cũng có nghĩa là 0=360, nếu ta xem xét ở chiều ngược lại.

Vậy ta thấy 360.000km/s là vận tốc trong không gian 3 chiều đơn thuần. Ta nhất định phải phát biểu khái niệm không - thời gian là đồng thời. Vậy thì cái chiều thời gian tiềm ẩn trong vận tốc đó thể hiện là 1s. Vấn đề phức tạp nảy sinh là đòi hỏi chứng minh thời gian phải bằng không, để ấn định cho hằng số 360=0!!!

Điển hình một ví dụ dẫn chứng thực nghiệm bằng tưởng tượng như sau:

Ta đi trong khoảng cách 100km với với vận tốc 1h00. Nếu ta di chuyển với vận tốc nhanh hơn gấp đôi thì thời gian sẽ còn 30'. Và gấp 4 lần tốc độ ban đầu thì thời gian còn 15'... Cứ thế...

Ta nhận thấy thời gian ngắn dần so với vận tốc của... khoảng cách. Điều này có nghĩa là vận tốc của thời gian có tỷ lệ nghịch với vận tốc của (khoảng cách) không gian. Không - thời gian lại vốn đồng nhất cho nên 360 phải bằng 0.

Hoặc; Nếu ta suy với vận tốc của một quark trong thế giới hạ nguyên tử thì khoảng cách 100km là vô nghĩa cho mọi dự định thực nghiệm... trong thời gian 1s! Bởi khoảng cách này không hiện hữu nữa rồi. Nó đã bị xóa nhòa ranh giới của khoảng cách đó trước vận tốc mất rồi, chỉ còn là một khái niệm mơ hồ trong ý thức chung mà thôi. Bởi vì thực tại đó (nội suy) đã bằng không, đối với vận tốc của thế giới hạ nguyên tử.

Vì thế; Nếu vận tốc ánh sáng chuyển động theo tỷ lệ thuận, tính từ điểm xuất phát từ tọa độ 0 trên biểu đồ hình tròn. Thì vận tốc của thời gian sẽ chuyển động theo tỷ lệ nghịch, xuất phát tại tọa độ 360 trong mô hình đó.

Như thế: Ta quan sát ở góc độ không gian thì nhìn thấy có giá trị 360=0. Bằng như quan sát vào góc độ thời gian thì sẽ nhận được giá trị 0=360. Tuy nhiên không - thời gian đều đồng nhất phát biểu giá trị; 360=0 là một hằng số hấp dẫn của vũ trụ. Nó sẽ phát huy thực tại giá trị đó ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư. Đó là vũ trụ vô hạn, bao gồm nhiều thế giới tồn tại song song cùng thế giới mà chúng ta đang tồn tại.

Như thế, ta mới xét lại đẳng thức E=mc2 trong một "kiến thức" đủ, thay vì sự cảm thấy còn thiếu điều gì đó của Einstein là đối tượng "c" có giá trị bằng 360.000km/s. Tuy nhiên giá trị này là đối với không - thời gian chiều thứ 4,5,6. Còn giá trị 360=0 là của không - thời gian chiều thứ 7 rồi.

Ta cũng phải đủ ý thức được rằng: Nền khoa học vật lý hiện nay, vẫn chưa có thể nhận biết được là không - thời gian gồm có đủ là bao nhiêu chiều cả thảy cho được! Điều này đang còn là một bài toán hóc búa. Chúng ta chớ vội mà học để nói theo cho có vẻ (giống như là giáo sư), rất hiểu biết là 10, rồi 11, lại còn n chiều nữa !!!, ???. Rất khôi hài đấy.

Thế nhưng có một chi tiết mà chúng ta rất dễ bị bỏ sót qua, mà nó có thể làm thay đổi toàn bộ cục diện là:

Góc đối xứng gương của đẳng thức E=mc2! Đó chính là đẳng thức bổ sung E=mt !!

Nếu ta mổ xẻ tận hồn linh cốt tủy cặp anh em sinh đôi trừu tượng này thì sẽ thấy: E=mc2 là đại diện cho chiều không gian (3 chiều)! Còn E=mt chính là đại diện cho chiều thời gian rồi vậy (chiều thứ tư)!! Trong đó đối tượng " m' " lại chính là vật thể cơ bản của vũ trụ chứ không phải là vật chất cơ bản của vũ trụ!!! Nhưng lại là đồng nhất trong đó mới không thể hiểu nổi cho tầm phát triển vốn giới hạn của tư duy đương đại của chúng ta!?

Chúng ta cứ tạm mượn quan điểm của Dịch Học để hình dung như: E=mc2 thuộc Dương, E=mt thuộc Âm vậy nhé. Cho nên ra sẽ thấy được điều tiềm ẩn đối với thị giác, dẫn đến đánh lừa tư duy là thời gian (t) tiềm ẩn trong © không gian. Khiến Einstein không suy ra được thực tại này. Lý Dịch là Âm bồng dương, dương cõng âm. Quy chiếu trong Tiểu Vũ Trụ, phản ảnh là; Chân hỏa mệnh môn lại ký gửi trong Thận Thủy! Và Như thủy bản hộ trú xứ tại Tâm Hỏa!! Rất ảo diệu. Lão Tử vẫn chưa có thể luận đến đây cho được, nói gì đến sự vận hành và tạo, hóa sau đó nữa. Đó là thực tế.

Tại luận điểm này; Ta thấy nhà máy L.H.C hoàn toàn phá sản với ý tưởng gia tốc của Peter Higgs đi rồi! Bởi chỉ xét riêng trong đẳng thức E=mc2 thôi. Chúng ta đang gia tốc đến một nơi..., không có đích đến!!! Bởi 300.000km/s chỉ là một cái đích tương đối thôi (không hề là đích đến tuyệt đối). Trong khi mọi tiến trình thí nghiệm đều đã chỉ rõ là: Năng lượng chỉ có thể giải phóng khi thời gian đi qua điểm 0 mà thôi!

Trong khi xét ở chiều đối lập của giá trị 300.000 trong tương đối đó, ta có giá trị là 1 (s). Tại sao ta không "giảm tốc"?! Chí ít thì tư duy ta cũng nhận thấy được nơi chân trời sự kiện của 1s đó, rất gần với sự giải phóng năng lượng đang định xứ tại ranh giới của miền địa phương "zero"!

Trong mọi cuộc đua mà ta không hề biết đích đến là ở đâu (!?). Chắc chắn là ta sẽ kiệt sức và quỵ té dọc đường là tất yếu. Một cuộc đua trong vô vọng... một đích đến!!! (Lại còn gia tốc nữa, mới thật hy hữu khôi hài).

Tôi đề xuất "Phương Án B" cho Nhà Máy Gia Tốc Hạt là giảm tốc ngay vậy. Điều này có nghĩa là; "Dừng lại". Tôi đang cần một cắc trong nguồn vốn hoang phí khổng lồ đấy, để đưa nhân loại chúng ta sang sông như một dụ ngôn của Nhà Phật (câu chuyện Phật gặp vị Thiền Sư ngồi 40 năm hoang phí bên dòng sông). Sau rồi hẵng nói đến cái đích 360..., để còn hòng gia tốc, mà vượt qua vùng không gian của vũ trụ khác.

Vì thế tôi phát biểu:

E=mc2 là đẳng thức bán phần năng lượng tiềm ẩn tương đối động! Và;
E=mt là đẳng thức bán phần năng lượng tiềm ẩn tương đối tĩnh!! Bao gồm cả hai đẳng thức này mới đủ gọi là: Đẳng thức năng lượng tiềm ẩn toàn phần được!!!

Chúng ta cũng đã từng và đang cùng tôi thưởng lãm những giá trị thực tại tiềm ẩn đó qua 42 ký sự trên trang này rồi. Cho nên ký sự thứ 43 này cũng là để làm rõ giá trị của giới hạn 10-43 của Hằng Số Planck! Một "hằng số vũ trụ" (của Thuyết Lượng Tử), so với "hằng số hấp dẫn" của (Thuyết Tương Đối) 360=0.

Thế cho nên đối tượng E=hv lại phải được chỉ định giải phẫu để còn song hành mà bám kịp quy luật của vũ trụ cùng "hằng số hấp dẫn" đã được kiện toàn...

Tôi rất muốn đập tan "Bức Tường Planck". Để giải phóng tư duy của biết bao nhà bác học hàng trăm năm nay. Đang mang thân phận tù đày, còn bị xích xiềng, giam cầm phía bên trong của bức tường đó.

________________________________________________________________________



44 -, E=hv BỨC TƯỜNG PLANCK.

Trong tất cả những nhà bác học mà tư duy bị xích xiềng, giam cầm hàng trăm năm qua đó. Tôi biết chỉ có Witten, vị kiến trúc sư trưởng của Lý Thuyết Dây là ý thức thân phận tù đày sau bức tường đó hơn bất kỳ ai khác!

Bởi cái giá trị vô hạn đầy tai hại, đã chối bỏ Lý Thuyết Dây một cách rất phũ phàng! Tôi khẳng định là mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên. Không hề có chiều không gian thứ 11 như Witten từng suy diễn đến đấy, để hy vọng dựa vào giả thuyết này mà xây dựng một mô hình cho vũ trụ tương lai.

Bằng như ta tiếp tục phiêu lưu... trên lối mòn đã mở ra đó? Thì tôi sẽ phát biểu một tiền nghiệm rằng: Khi tư duy suy diễn của các nhà chuyên môn vận hành đến chân tường sự kiện h bức tường Planck. Ta sẽ bắt gặp một sự cố là: Mô hình của không - thời gian đó có nhiều hơn 12 chiều! Thế nhưng có sự cố rắc rối xảy ra là lại kém hơn 14 chiều!! Và vấn đề thực sự phức tạp một cách trầm trọng là..., lại không hẳn là 13 chiều!!! Các nhà bác học của nhân loại chúng ta hãy cứ hậu nghiệm...

Chúng ta cùng khảo sát bức tường này xem sao nhé:

Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 20. Tạo Hóa đã đặt ra một bài toán hóc búa và đòi hỏi sự phát triển của nhân loại chúng ta phải giải đáp để làm hành trang bước vào kỷ nguyên mới. Đó chính là giá trị nhiệt lượng vô hạn, tuôn ra từ chiếc lò sưởi!

Thế nhưng ta thấy trong ngày đó; Planck đã có những thủ thuật hoán đổi từ các tờ đô la, như một trò cờ bạc bịp cùng mô hình tự nhiên của Tạo Hóa trong thời điểm đó! Ta xét thấy Planck đã dùng tình huống "giải pháp" để vượt qua giai đoạn chứ không phải là "giải đáp" như giai đoạn đã đặt ra và đòi hỏi.

Và cũng từ đó cho đến tận hôm nay. Cả hai người trong cuộc là Einstein và Planck, vẫn không có thể nào hiểu nổi là tại sao lại xảy ra tình huống "ăn may" một cách kỳ lạ như vậy cho được!? Einstein đã không công khai công kích điều này. Bởi trong thời điểm đó thì Planck lại chính là ân nhân của Einstein, nên ông nhất định đã; "Ăn cây nào thì phải rào cây nấy" mà thôi. Chính điều này đã giữ tình bạn của hai tính cách khác biệt này bền chặt với nhau.

Ta có thể thấy điều đó được phản ảnh qua câu phát biểu của Einstein đối với Thuyết Lượng Tử, trong cuộc tranh cãi trên diễn đàn Copenhagen như: " Chúa không chơi trò đổ xúc xắc với nhân loại của chúng ta". Thế nhưng không ai ngoài Planck hiểu được là Einstein đã công kích thẳng vào cái cội rễ và làm lung lay học Thuyết Lượng Tử lúc đó rồi. Dĩ nhiên là Niels Bohr cũng đã cảm nhận ra được điều đó... Tất cả những ai còn lại trong thời điểm đó là; Không thể hiểu nổi tới đó cho được.

Điều mà cả Einstein và Planck không hiểu tại sao thủ pháp hoán đổi của các tờ đô la lại giải quyết được những giá trị vô hạn tổng thể là ở chỗ: Tình cờ là do 7 mệnh giá đó có thể tính toán và trao đổi giá trị đến vô hạn. Và đặc biệt hơn là điều đó lại ngẫu nhiên trùng hợp với 7 ngày mà Chúa đã tạo dựng vũ trụ tổng thể trong đó.

Tại vì thế (một phương pháp mà Thuyết Lượng Tử đã gọi với khái niệm "đối ngẫu")!

Sở dĩ Planck phát kiến điều này là dựa trên câu nói một "bó ánh sáng" (quantum) của Einstein, trong lúc thảo luận cùng ông về nhiệt lượng tuôn ra từ chiếc lò sưởi. Ta xét thấy ngay cả lúc vừa chào đời. Thuyết Lượng Tử cũng đã không thể khẳng định được điều gì chính xác cả! Ví như một "lượng..." nào đó, không xác định được!! (lượng... nhiệt của lò sưởi tuôn ra). Để rồi sau đó "cố" gọi thành tên là "lượng..., tử"! Tóm lại: Điều này có nghĩa là một lượng nào đấy rất nhỏ bé (tử) mà ta không xác định được. Thế cho nên mới gọi chung là một bó!!! (ánh sáng). Và cái tên "Lượng Tử" cũng bao hàm ý đó.

Một ví dụ điển hình dễ hiểu cùng các bạn là:

Theo quan điểm của người Việt thì ta gọi một bó như là một bó mía chẳng hạn. Chúng ta đều biết điều đó cũng có nghĩa là "một chục". Thế nhưng điều này lại lệ thuộc theo góc độ của vị trí và không gian tác động, khiến xảy ra sự cố như: Ở miền Bắc thì một chục có giá trị là 10 cây mía. Vào miền Trung thì có thể một chục với giá trị là 12 cây! Thế nhưng Miền Nam lại có tình huống một chục lại mang giá trị lên đến 14 cây mía nữa kia!!

Tóm lại: Một chục là một giá trị có tính xác xuất. Không khẳng định được. Và một "bó ánh sáng" hay khái niệm "quan tum" cũng cùng một giá trị được hiểu và hình dung như thế.

Lưu ý: Chính cái từ ngữ "một chục", có giá trị tương đương như "một bó...". Để rồi những người không hiểu xuất phát có cội nguồn như thế. Rồi tư duy suy diễn lầm khái niệm "một chục", bị lạc gốc cội nguồn. Dẫn đến hình thành quan niệm cá nhân, tranh cãi nhau về "một chục... đồng". Chỉ có mỗi giá trị là 10 đồng một cách "chính xác" tuyệt đối!!! Khiến dẫn đến sai lạc mất cái tinh thần của Thuyết Lượng Tử là "xác xuất" đi rồi.

Và thế là tai họa sẽ đến cho học Thuyết Lượng Tử, đang diễn ra hiện nay đối với những giáo sư, tiến sĩ giấy. Nhan nhản trên bình diện địa cầu chứ không riêng gì một Việt Nam.

Và dĩ nhiên với 7 mệnh giá của tờ đô la, đều có chứa một lượng giá trị khác nhau (xác định được). Nên nó đã trao đổi và tính toán với một giá trị đáp số lên đến vô hạn...

Tuy nhiên để khu trú trong một giới hạn có thể, để cho tư duy cũng như sự phát triển của nhân loại chúng ta nắm bắt được. Planck đã thiết kế nên bức tường có mô hình E=hv. Trong đó ký hiệu "h", là hằng số có giá trị 10-43!

Để các bạn có thể hình dung ra con số cực kỳ bé nhỏ này, tôi mượn một ví dụ như sau:

Như hiện nay thì Lý Thuyết Dây đang là ứng cử viên sáng giá nhất trên vũ đài khoa học vật lý đương đại. Thế cho nên mô hình của lý thuyết này được xây dựng vũ trụ trên nền tảng giống như một sợi dây (không phải mô hình chuẩn của chất điểm). Họ quy định chiều dài của sợi dây ban đầu đó có khoảng cách (quãng tính) bằng chiều dài Planck. Và chiều dài Planck đó có giá trị = 10-33 so với hằng số Planck là 10=43.

Điều này có nghĩa là nhỏ bé cỡ một phần triệu tỷ tỷ của một cm! (10-33cm). Một sự bé nhỏ đã hoàn toàn bỏ rơi sức tưởng tượng của hầu hết chúng ta ở phía bên ngoài của thực tại này rồi. Ví dụ: Nếu như chúng ta hình dung..., phóng to một nguyên tử lên bằng cả vũ trụ thì; Lúc đấy chiều dài Planck này chỉ mới có thể cao bằng một cái cây bình thường mà thôi!!!

Sau khi các bạn có thể mường tượng ra như thế rồi, chúng ta lại tiếp tục nhé:

Nếu như để phá kỷ lục về giá trị 10-43 của hằng số Planck! Tôi sẽ không ngần ngại ghi ngay là: 10-45!! Phá kỷ lục!!!

Với một giá trị này, tôi cam đoan; Mãi mãi, nền khoa học của nhân loại chúng ta không có thể phát biểu được điều gì hơn thế nữa. Thế nhưng điều này chẳng qua là tôi chỉ mới nới rộng phạm vi bức tường này lớn hơn thêm thôi. Vấn đề đòi hỏi là ta phải đập tan bức tường giới hạn đó. Giải phóng sự giam cầm tư duy của nhân loại, những thân phận bị tù đày hàng trăm năm qua của các nhà bác học.

Tôi biết; Đại đa số họ đã quen với những xích xiềng, giam cầm đằng sau bức tường đó hàng trăm rồi. Không biết thế giới tự do bên ngoài, họ có thích nghi được với nó hay không nữa!? Một hiện tại cận cảnh, rất khủng khiếp..., mà ta có thể nhìn thấy rất rõ ngay trong tầm mắt.

Dù sao tôi vẫn cứ phải làm những việc phải làm là:

Tôi không suy diễn là Max Planck có khai thác và "mượn tạm" công cụ hằng số đó từ địa phương của tôn giáo hay không! Mà tôi cứ tạm xem đó lại là một sự ngẫu nhiên (đối ngẫu) nữa của Thuyết Lượng Tử như: Con số -43 này vốn lại là nguồn tài nguyên định xứ trong thế giới của Ấn Độ Giáo; Đạo Hindu!

Thật "quá sốc" cho tư duy chung của nhân loại chúng ta !!!

Bởi con số 43 chính là số chu kỳ vũ trụ trong Kinh Veda, và Ấn Độ Giáo gọi đó là Chu kỳ Kalpa! Đó là con số nói lên một chu kỳ mà vũ trụ từ lúc sinh thành cho tới khi hủy diệt. Tôi chỉ có thể trình bày đại khái ra đây cùng các bạn là theo quan điểm của họ thì một năm Thần có 12.000 năm (tương đương Một Hội). Và năm loài người là 360 ngày. Vậy 360x12.000= 4.320.000 năm. Và chu kỳ Kalpa có 4.320.000x1000 (1ngày Brahma) =4.320.000.000 năm.

Có một sự thật là từ trong thời thượng cổ. Toán học của Ấn Độ đã xuất sắc và chính xác hơn hẳn nền toán học của Hy lạp rồi. Họ chỉ chịu thua kém Hy Lạp trong lĩnh vực hình học mà thôi. Ta xét thấy thiên ý là ở chỗ: Do Ấn Độ Giáo vốn là đa Thần. Thế cho nên họ không có được một Tượng Thần nào rõ ràng cả. Thế nên hình học (hình tượng, tượng hình) không thể có mô hình nào cụ thể cho được! Họ phải chịu khiếm khuyết trong lĩnh vực thiết kế, tạo mô hình cụ thể vậy.

Ta xét thấy đến miền định quán của hệ thống số -43 này. Nguồn cội của Kinh Veda cũng đã bị dứt căn (Rễ)! Vật ta chỉ còn xét trong hệ "lưỡng nghi", giữa Kinh Thánh (sử Chúa) và Kinh Dịch (sử Tiên) còn lại mà thôi. Ta thấy cũng hợp với quan điểm logic là Kinh Veda có giá trị = 3.500 năm. Và Kinh Thánh lẫn Kinh Dịch tiếp tục được xét trong giá trị 4.000 năm.

Vậy nhân loại chúng ta đã có nghe rằng Chúa tạo dựng vũ trụ ban đầu trong 7 ngày. Do loài người tham vọng, đố kỵ, dẫn đến giết hại lẫn nhau. Người giận quá, bèn phạt với lời nguyền là phải "đền tội" đủ 7x7=49 ngày. Sau hẵng nói đến việc có thể bước qua ngưỡng cửa để mà trở về với Vườn Địa Đàng xưa kia được (Người đã giấu đi rồi).

Xét trong 5 góc độ để quan sát điều này: Về tôn giáo thì quan điểm đơn thuần của nhân loại với Đạo Hindu và Đạo Phật không chấp nhận điều đấy. Đạo Thiên Chúa, Đạo Hồi chấp nhận điều đấy. Tiên Đạo, công bình giữa 2 quan điểm đấy. Về khoa học thì hầu hết cả 5 học thuyết, đều chấp nhận điều đấy. Ta vẫn có được tỷ lệ phiếu bầu cho điều đấy là 7/3. (7x7=49).

Vậy ta xét tiếp trong góc độ công bình là Kinh Dịch. Vào thời điểm tương quan thì lúc đấy Dịch đang diễn Quẻ bói Tiên Thiên. Theo phép bói này thì dùng 50 cọng cỏ thi. Để ra bên ngoài 1 cọng để làm sai số dự trù. Dùng 49 cọng để Diễn Dịch số luân chuyển, đảo điên mà định quẻ trong lục cõi biến (6 hào). Ta thấy Kinh Dịch cũng đã mặc định hệ thống của số 49, vốn tiềm ẩn quy luật của vũ trụ trong đó rồi vậy.

Khảo luận đến đây, thì ta đủ để chỉ ra được và khẳng định rằng: 7x7=49 là công thức mà ngày xưa Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong buổi ban đầu đó. Thế cho nên ta mới xét thấy tất cả mọi giáo chủ của bất kỳ giáo phái nào xưa nay. Nhất định phải sử dụng công thức 49 ngày đó mới có thể đắc đạo cho được. Không có ngoại lệ. Riêng các vị Thiền Sư nào đủ để được luận bàn đến đạo thì cũng phải đủ 49 năm tinh tấn một cách miệt mài. Kỳ dư, mọi người chỉ quen tính lạm bàn đến những điều mà mình chưa bao giờ có thể được biết tới nổi.

Vì thế; Theo hệ quy chiếu quán tính thì: Hằng Số Planck là một giá trị bất toàn. Và để được chu toàn thì phải là -49. Bởi đây chính là hệ số mà Chúa đã thiết kế mô hình và tạo dựng vũ trụ trong thuở ban đầu. Kinh Dịch được xem như là một Sử liệu đầu Tiên để ghi chép và lưu lại điều đấy. Vì thế tôi mới gọi với tên là "Sử Tiên" (điều này cũng có nghĩa là sử kinh của giống nòi Tiên Rồng). Vậy tôi lại tiếp tục khai sinh một hằng số vũ trụ cho Kỷ Nguyên Mới mà Chúa đã từng giấu nhân loại mất đi.

Hằng Số Vũ Trụ là 10-49...

Thời điểm này; Bức Tường Planck, sụp đổ.

Vậy Hằng Số Planck được kiện toàn bằng 10-49. Là một giá trị đủ..., vô hạn. Đáp ứng như quy luật của mô hình vũ trụ đã từng phản ảnh trong mọi thí nghiệm, lý thuyết, định luật xưa nay. Ta chưa xem xét chi tiết tới giá trị vô hạn bao gồm 10-49..., và còn "bình phương" (2) trong đó nữa!!! Điều này dành riêng cho các nhà chuyên môn nơi đỉnh cao của tư duy bác học. Chúng ta không có thể mang ra mà lạm bàn ở đây cho được. Chúng ta chỉ tạm biết hai giá trị ra đời là:

- Hằng số hấp dẫn 360=0.
- Hằng số vũ trụ 10-49.

Hai hằng số này kết hợp với nhau sẽ có giá trị vô cùng. Bởi giá trị 360 đạt tới "trạng thái dừng", sẽ rơi vào chân không tại vô cực. Giá trị 10-49 thì đạt trạng thái chân như, cũng gặp nhau và đồng nhất tại vô cực. Lưu ý chung là: giá trị -49 này có khoảng cách giá trị khác và không khác từ điểm hẹn -40 giao động đến -49. Nguồn năng lượng có thể giải phóng bất kỳ lúc nào. Tôi có thể chỉ ra mô hình đó phản ảnh; Chúa Jêsu là 40 ngày. Phật Thích Ca 48 ngày (có dị bản là 42, vẫn đúng). Hindu và nền khoa học là 43. Về dự trù sai số thì có Giáo Chủ Mohammed của Hồi Giáo là 7 năm sau. Tại Việt Nam thì Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Đạo Hòa Hảo là 4 đến 5 năm sau (cũng từng tích đủ Trầm trong thân, mà vị Giáo Chủ này gọi là Xạ Hương). Đó chính là giá trị của nguồn năng lượng dự trữ sai số của 1, để bằng 50.

Ví dụ đơn thuần và dễ hiểu nhất như: 49x49=2.401 và 50x50=2.500. Cả hai đáp số này đều đúng và đủ cho mọi quá trình vận hành trong và ngoài vũ trụ tương lai. Từ đây ta có thể suy ra:

Tuổi thọ của nền khoa học cũng đã được 2.500 năm! Vụ nổ Big Bang có thể xảy ra bất kỳ lúc nào (tôi mượn khái niệm Big bang của nền khoa học để diễn đạt cho các bạn dễ nắm bắt thôi. Khái niệm này còn đang chờ chúng ta giải phẫu ở một trong các bài viết khác nữa).

Tuy nhiên chúng ta cứ yên tâm. Vì điều đó đã được chuẩn định tại thời điểm 2023 rồi. Điều này khiến dẫn đến việc tất cả các tiên tri trên toàn cầu cứ đoán già, đoán non suốt hàng trăm năm sai số đó, vẫn chưa thấy hiện tượng tận thế xảy ra. Thế nhưng họ vẫn cứ thắc thỏm rằng; "Có thể xảy đến bất kỳ lúc nào", mà chúng ta không có thể tiên nghiệm ra được. Đó là tôi chưa nói đến còn vô vàn những "vị...Thầy, Bà", đầy rẫy tại Việt Nam hiện nay ra vẻ "thiên cơ, không dám nói". Cứ tự dối mình..., gần tới rồi. Dối người..., sắp đến... trong nay mai!!! Gây rối loạn cả khắp thiên hạ cũng như xã hội hiện nay.

Ta cũng nên lưu ý: 2023 là cột mốc cuối. Ta đang trong thời điểm của giá trị 42..., cũng có nghĩa là bất kỳ lúc nào. Chính điều này là cơ sở để các vị kia ký sinh quan điểm tiên tri mà tồn tại... Mà thôi! Đó là những việc hạ hồi phân giải. Hiện tại tôi phải gõ hai chấm xuống dòng là:

Khi đã hội đủ những giá trị đã được kiện toàn cho 3 đẳng thức (đại diện Tam Tài): E=mc2, E=mt, E=hv. Và hai hằng số (đại diện âm dương): 360=0, 10-49. Ta đã trang bị đủ hành trang làm cơ sở, để tiếp tục tour du hành, xem xét đến đối tượng " m' ".

Một "Vi Trần", đồng thời cũng là cả một "Tiểu Vũ Trụ". Đang chờ đón chúng ta tham quan thế giới đó!

.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

45 - MỘT VI TRẦN TRONG VŨ TRỤ.

Qua biết bao rắc rối, cuối cùng chúng ta cũng đã hình thành được 5 vị trí quan sát bao gồm:
1- Đạo Phật
2- Đạo Chúa
3- Kinh Dịch
4- Lượng Tử
5- Tương Đối

Ta dễ dàng nhận thấy Kinh dịch vẫn là chiếc cầu nối giữa Tôn Giáo và Khoa Học. Trong đó ta đã nhìn ra được những giá trị phản ảnh tương đương với nhau như Thuyết Nhà Phật và Thuyết Lượng Tử, đại diện cho âm tính (thuộc chân như). Thuyết Nhà Chúa và Thuyết Tương Đối, đại diện cho dương tính (thuộc chân không).

Và hệ thống đó là mô phỏng mô hình của Ngũ Hành. Tam Tài là cơ cấu "Đạo Học - Dịch Học - Khoa Học". Lưỡng Nghi là hai sự đối lập âm dương phản ảnh giữa "Khoa học và Tôn giáo". Đồng thời, đó cũng là hai tư tưởng và quan điểm của Đông - Tây (hữu hình và vô hình) nói chung. Bởi khi ta nhắc đến phương tây là hiện thực, phương đông là huyền bí.

Với 5 vị trí quan sát này; Ta đủ để quan sát vật bị quan sát là đối tượng "vi trần". Một mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn trong đó, mà ta đã biết qua ký hiệu " m' ". Nếu ta không trải qua những bài viết khô khốc vừa rồi. Thì rất khó có thể chấp nhận cũng như hiểu biết về đối tượng m' này đang tiềm ẩn rất nhiều giá trị cơ bản trong đó rồi vậy. Điều này nếu ai đó bất ngờ ghé vào trang này thì sẽ không hiểu được m', và sẽ kịch liệt phản đối đến cùng là tất yếu vậy.

Trước khi chúng ta cùng giải phẫu đối tượng m' này. Chúng ta cùng tham khảo sơ qua những thông tin liên quan như sau:

Như ta đã biết; m là ký hiệu cho khối lượng vật chất, và m' là ký hiệu cho khối lượng vật thể. Nền khoa học thì vẫn chưa có thể xác định được "Hạt của Chúa" cơ bản qua đối tượng m. Chúng ta đã xác định được "Hạt của Chúa" cơ bản qua đối tượng m' (trong trang này).

Do tư duy của nền khoa học đã "định kiến" quan điểm là thế giới quan cơ giới. Thế cho nên ta thấy cứ tháo rời, lắp ráp bất cứ một cấu trúc nào mà một khi nền khoa học nghiên cứu, xem xét tới. Và một khi chạm đến đối tượng m' này thì cũng giải phẫu, tháo rời và lắp ráp như một cỗ máy vậy!

Và tai họa khôn lường đã và đang diễn ra, một khi nền khoa học vật lý phát triển đến ranh giới của không gian chiều thứ tư. Bởi muốn mổ xẻ đối tượng m' này thì lĩnh vực Y Học phải tham gia. Cho nên ta vẫn thấy hiện nay Y Học (tây y) cứ tháo rời, lắp ráp các thành phần cơ cấu của Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận...

Chúng ta bàn thêm sâu hơn về vấn đề này của Tây Y như sau: Đối với trật tự mô hình tự nhiên của tạo hóa thì phương tây thuộc hình, phương đông thuộc khí. Nên Tây Y phải ý thức và chỉ giới hạn ở những chứng bệnh nào thuộc về hình thôi. Ví như những bệnh hay vết thương ở xương, thịt v.v... Bằng như những bệnh gì thuộc về khí là không thể. Ví như Tâm thần, Parkinson, Huyết áp v.v... Bởi điều này giống như ta dùng dao, kéo để mà cắt, xẻ nước hay không khí vậy. Lĩnh vực khí đó, thuộc về sở trường của Đông Y. Thế cho nên ta nhất định phải phối hợp cả đông và tây y mới đủ. Ví như nói đến hệ thống Kinh, Lạc, Điểm huyệt thì tư duy phương tây rất là lạ lẫm với những khái niệm này. Thậm chí ngay cả tư duy của các nhà bác học, họ cũng rất mơ hồ về những điều "có dạng" như thế.

Ví dụ: Do quan điểm cơ giới nên từ đó cũng ảnh hưởng mà lắp ráp con người. Ranh giới của khí (vô hình) là Ngũ Tạng. Bởi quan điểm tách Tâm (linh hồn) và Vật (thân xác) rồi (Descartes). Cho nên họ không biết rằng, Hồn vốn cư ngụ trong Máu. Một khi thay Tim là rất nguy. Bởi sau đó, người đã được thay Tim sẽ sống với một tâm trạng vô cùng khủng khiếp. Bởi họ sẽ cảm nhận được có một linh hồn khác của ai đó nữa, đang trú ngụ trong họ! Thậm chí có thể chi phối cả hành vi của họ nữa!!

Rất khiếp đảm! Và sẽ là một viễn cảnh đầy kinh hãi cho những ai vốn đã thiếu thể phách (bóng vía). Bởi họ không thể nào thích nghi cho được cả. Càng kinh hoàng hơn nữa là hiện nay lại đang có những bước dò liều lĩnh hơn nữa là thay đầu người!!!

Bởi cái bộ não,bao gồm cả cái đầu đó, hoàn toàn biết rất rõ được rằng; Thân thể kia không phải là của họ. Và đồng thời đó cũng là những cái hồn, phách của người khác (ngụ trong Tim)... Nền khoa học đang đi sai đường. Tôi nhất định phải gióng lên hồi chuông cảnh báo; Tất cả hãy nhanh chóng dừng lại, trước lúc xảy ra những tại hại trầm trọng cho nhân loại, kẻo muộn.

Nước Đức trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Đã từng vấp phải nhiều trở ngại trong những sự nghiên cứu như thế đối với con người rồi. Tôi đã chỉ định ra rất rõ giữa " m " và " m' " rồi.

Nếu như có thể nghiên cứu đến đối tượng " m' " này thì: Đó chính là Y Học phương đông mới là sở trường. Và công cụ để mổ xẻ và quán sát đối tượng này chính là Dịch Lý. Và với tư tưởng của phương đông thì "Y Dịch đồng nhất lý". Và đó cũng chính là những công cụ thuộc về không gian chiều thứ tư; Là nhận thức sự thấy của tư duy cảm giác. Mọi tri thức từ cái thấy của quan điểm trực giác là bất khả. Ngay cả cái tên gọi của khoa học vật lý cũng đã nói lên và chỉ rõ tất cả như: "Vậy Lý" không có nghĩa là "Tâm Lý". Và trên suốt dọc đường phát triển của mình. Nền khoa học vật lý đã bỏ rơi cái tâm của mình cùng vạn vật, ở phía bên kia lằn ranh của Descartes từ thế kỷ thứ 17 mất rồi.

Như tôi đã có trao đổi cùng các bạn là: Tôi đã chọn đứng về phía số đông trong cộng đồng. Điều này có nghĩa là tránh không ngã sang đối tượng m (vật chất). Bởi học thuyết này (tôi đang sở hữu một học thuyết chưa công bố) nếu gặp phải những kẻ có tham vọng là rất nguy hiểm vô cùng. Nó dẫn đến chế tạo ra "vũ khí năng lượng". Vũ khí hạt nhân hiện nay xem ra còn rất nhẹ ký!

Tôi không tiếp tay cùng các nhà chuyên môn để khai thác nó. Tuy thế, họ cũng đủ khả năng làm việc đấy. Bởi đã có công thức. Ta chỉ mãi lo tranh cãi vặt, họ chỉ lo khai thác công thức mà thôi. Đấy là việc của những kẻ tham vọng có chuyên môn.

Riêng tôi thì chỉ ứng dụng công thức (E=m't) khai thác năng lượng cho đối tượng m' là đủ. Vì thế E chính là nguồn năng lượng tiềm ẩn của không gian chiều thứ tu trở đi. m' là khối lượng vật thể của một "vi trần". Và t chính là khoảng thời gian đủ 49 ngày đó vậy. Dĩ nhiên là phải "giảm tốc", để đạt trạng thái "chân như", hầu giải phóng nguồn năng lượng tiềm ẩn của vũ trụ.

Ta có thể xét thấy nguồn năng lượng này đã có biểu hiện một cách rất tiềm ẩn, rải rác trên bình diện giai đoạn hiện nay như:

Vì dụ đó được phản ảnh qua các nhà ngoại cảm chẳng hạn! Thế nhưng các nhà ngoại cảm này, đại đa phần là do họ gặp phải tai nạn mà có. Tình cờ lúc xảy ra tai nạn thì m' đó đã hội đủ những yêu cầu ngẫu nhiên (đối ngẫu) nên có được khả năng đó. Dĩ nhiên tất cả họ đều không thể biết là căn nguyên, nguồn cội từ đâu cho được. Họ không thể giải thích với chính họ chứ nói gì đến người ngoài nào khác cho được.

Nguồn năng lượng đó là có thật. Tuy nhiên chỉ có khả năng trong khoảng thời gian là 4 hoặc 5 năm thôi là cạn hết nguồn. Do trước đó không thể hiểu nổi, thì hầu hết họ đều cho là do một đấng nào đó mà họ có thể nghĩ đến, ban cho. Đến khi cạn nguồn thì lại nghĩ; Do mình ngạo mạn, làm bậy, nên các đấng bề trên đã rút phép! Họ ăn chay, nằm đất, cúng bái cho đến cuối đời mà vẫn không hề phục hồi lại được. Cái hố sâu luôn cận kề bên chân họ là rơi vào mê tín tất cả.

Lúc cạn khả năng, họ sáng suốt lắm thì cũng lập tức đi tìm cách học thiền để mong níu kéo khả năng lại. Dĩ nhiên lúc đó thì họ sẽ bái sư bất kỳ vị Thiền bao gồm (Thiền sư, Thiền sĩ) nào mà họ gặp được. Thế nhưng nguồn năng lượng kia đã một đi không trở lại nữa rồi.

Còn nhóm thứ hai có vẻ khá sáng đôi chút hơn là những vị tập Thiền, khí công, yoga v.v... May phúc thì tụ được một ít tạp khí, hoặc dư khí của nguồn năng lượng đó. Lập tức thi thố khắp thiên hạ rồi "xưng Thầy" đối với tất tần tật cả thiên hạ! Đa số ăn trên, ngồi trước mà nhìn thiên hạ bằng nữa con mắt, mở miệng ra là; phán. Tư duy không khéo, lại lập ra đủ thứ các loại đạo hoặc vị thần linh nào mà tri thức của họ có thể biết đến. Tôi nói rồi; Tạo phúc cho thiên hạ không được mấy, gieo họa quan điểm lầm lạc cho những thế hệ tương lai là rất nhiều. Đặc biệt một số ít có tích lũy chút vốn kiến thức. Vội khoác chiếc áo khoa học lên mình để che đậy sự mê tín, bao gồm hoang mang bên trong.

Tôi đã phát biểu rồi: Khốn nỗi; Chiếc áo khoa học ấy là "quá rộng" đối với tất cả họ. Họ rất muốn khoác, nhưng không vừa được, nó lượm thượm làm sao ấy... (từ luộm thuộm là không đủ).

Và lối mòn chung là lại dẫn đến địa phương của sự mê tín làm định xứ. Cực kỳ hiếm là có những vị: Nắm bắt được một số huyệt mạch, dò theo mà ký sinh để phát huy. Các vị này tương đối sáng giá hơn số đông ít nhiều. Thế nhưng lối mòn chung là vẫn không thế nào lý giải cũng như đào tạo được. Thậm chí chỉ là níu kéo hoặc nâng cấp một cách âm thầm cho chính bản thân họ cũng là bất khả. Do không hề biết nguyên nhân.

Vấn đề là công thức! Bởi chỉ có công thức mới có thể giải ra đáp số một cách chính xác cho vấn đề được đặt ra và yêu cầu đòi hỏi. Thế nhưng ai lập được công thức. Tất nhiên kẻ đó phải hiểu thấu suốt toàn diện tổng các quỹ đạo rồi vậy. Ví dù có nằm mơ như dạng của Mendeleev vẫn là không đủ, dù cực hiếm (một dạng đột biến của vũ trụ, xét theo quan điểm khoa học).

Thế cho nên: Để bắt kịp quy luật tiến hóa của vũ trụ, giai đoạn nhất thiết đến lúc phải sinh ra chức năng của giác quan thứ 6 mới có thể suy thấu, và bắt kịp nhịp vận hành để đi vào tương lai (không phải đi đến).

Ví dụ: Những hiện tượng ngoại cảm gần đây là phản ảnh cho chức năng của giác quan thứ 6 phải hình thành. Nhân tiện, tôi không ngần ngại phát biểu như một lời tiên tri:

Trong Kỷ Nguyên Mới, con người có chức năng của giác quan thứ 6. Khi chào đời, con người không cất tiếng khóc nữa! Mà là tiếng cười!! Những nụ cười mỉm, trên môi của những cư dân Thiên Thần!!! Vì đó là chốn Thiên Đàng, vì đó là cõi Cực Lạc.

Để tránh những suy diễn vội cho là hoang tưởng. Tôi sẽ tạm ứng dụng những quy tắc đơn giản. Tặng không cho những nhà thiên văn thuộc lĩnh vực vũ trụ học một dự án như sau:

Xét mô hình Ngũ Hành như bàn tay 5 ngón làm cơ bản, như trang này đã dẫn và đã thảo luận cùng các bạn. Ta suy ra..., và thấy mô phỏng với thế giới 5 châu, màu sắc 5 gam v.v...

Vậy 5 gam màu này gồm có Trắng, Đen, Xanh, Đỏ, Vàng làm cơ bản. Từ nền móng cơ bản này ta suy diễn tiếp như:

Xét hiện nay, trên khắp 5 châu thì sẽ nhận thấy; Người Châu Á là đại diện cho Da Vàng. Châu Âu đại diện là Da Trắng. Đến Châu Phi thì đại diện Da Đen. Và khu vực Châu Mỹ được thể hiện những bộ tộc Da Đỏ. Vậy thì người Da Xanh đâu!?

Theo như mô hình cơ bản của trật tự tự nhiên của vũ trụ đó. Chúng ta đang thiếu vắng người Da Xanh. Vậy từ đó suy ra...; Chắc chắn trong vũ trụ, đang còn tồn tại ở đâu đó một chủng tộc Da Xanh mà chúng ta chưa có thể biết tới. Đó chính là chủng tộc mà chúng ta quen gọi là "người ngoài hành tinh"! Bởi trật tự của vũ trụ đang tồn tại và nhân loại chúng ta cũng đang tồn tại và vận hành cùng những quy luật của trật tự đó. Người ngoài hành tinh vẫn đang tồn tại, không thể thiếu vắng mà có thể khác đi được.

Với sự quan sát của những thiết bị khoa học hiện nay là không thể nắm bắt điều này cho được. Bởi họ thuộc về không gian chiều thứ tư, và phương Tây là sở đoản, do đã tới giới hạn. Vậy ta quay trở về với sở trường của phương đông để quan sát nhé: Đó chính là công cụ của Dịch Học!

Chúng ta cùng du hành thám hiểm:

Theo như nguyên lý của Dịch thì: Màu Xanh thuộc Mộc. Vị trí Gốc của thời gian tại Mùa Xuân. Góc độ của không gian là hướng Đông v.v... Thế cho nên muốn quan sát người ngoài hành tinh thì ta phải chọn góc độ của không - thời gian đó làm điểm xuất phát và chuẩn bị mọi thiết bị, công cụ thăm dò.

Chờ đến thời điểm khi thời gian đi qua điểm không thì sẽ phát sinh năng lượng tiềm ẩn trong vũ trụ. Ta căn cứ theo cách đo lường thời điểm thời gian của phương tây thì họ quy định điểm 0 là tại Tiết xuân phân.

Vậy Đúng ngày 21 tháng 3 dương lịch. Chính là thời điểm mà Thời gian sẽ đi qua điểm 0. Thủ pháp này, tôi gọi là "điểm huyệt Trời". Các nhà chuyên môn trong lĩnh vực thiên văn, vũ trụ học chỉ việc phát sóng thăm dò tại thời điểm này là sẽ bắt được tín hiệu ngay tức khắc.

Trên đây là tôi chỉ mới bàn lướt qua tổng thể cùng các bạn. Dĩ nhiên chi tiết thì lại còn phải trình bày rất nhiều và nhiều hơn nữa. Thế nhưng ít nhất; Chúng ta đã tiết kiệm được biết bao kinh phí, thời gian để đầu tư vào kế hoạch rà tìm tín hiệu người ngoài hành tinh rồi. Bởi ta cứ không xác định được vị trí, góc độ, thời điểm trong không - thời gian để tiến hành quan sát. Cứ quan sát lung tung, thả trôi trong cả vùng vũ trụ bao la... Không biết thời điểm nào Tạo Hóa đóng, mở then vũ trụ để hướng ống kính đột nhập mà "nhìn trộm" cả.

Ta xét thấy Chúa Jêsu khi mắng mỏ kẻ ác trong quá khứ. Thiên hạ ngỡ thế, nhưng mà Người cũng đã khéo mở cho họ một lối thoát rồi mà vẫn cứ u mê mà căm hận Người! Đó là lúc các vị thông giáo, tranh cãi, biện luận và xin Người một chỉ dấu về nước Thiên Đàng. Ta thấy Kinh Thánh chép lại lời đó như sau: "Loài rắn độc của các ngươi. Ta không cho bất kỳ điều gì cả, ngoài một dấu chỉ thì giờ".

Vậy: "Thì Giờ" mà Người nói (đã cho một cách nhưng không) đó, có nghĩa là Thời Gian! Là không gian chiều thứ tư!!

Chỉ có thời gian mới có thể trả lời tất cả.

Vậy đẳng thức E=mt là dùng để khai thác đối tượng đó (t=thời gian). Dĩ nhiên hằng số vũ trụ phải -49 ngày rồi vậy. Con đường vòng là 49 năm, còn trôi, còn vất vưởng khắp cõi ta bà trong đó nữa...

Thế nhưng quỹ thời gian chỉ còn có 6 năm nữa thôi! 49 ngày. Chính là một cánh cửa tắt rất hẹp, cho cả nhân loại chúng ta đang ở vào thời điểm hiện nay rồi vậy.

.

44 -, E=hv BỨC TƯỜNG PLANCK.

Trong tất cả những nhà bác học mà tư duy bị xích xiềng, giam cầm hàng trăm năm qua đó. Tôi biết chỉ có Witten, vị kiến trúc sư trưởng của Lý Thuyết Dây là ý thức thân phận tù đày sau bức tường đó hơn bất kỳ ai khác!

Bởi cái giá trị vô hạn đầy tai hại, đã chối bỏ Lý Thuyết Dây một cách rất phũ phàng! Tôi khẳng định là mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên. Không hề có chiều không gian thứ 11 như Witten từng suy diễn đến đấy, để hy vọng dựa vào giả thuyết này mà xây dựng một mô hình cho vũ trụ tương lai.

Bằng như ta tiếp tục phiêu lưu... trên lối mòn đã mở ra đó? Thì tôi sẽ phát biểu một tiền nghiệm rằng: Khi tư duy suy diễn của các nhà chuyên môn vận hành đến chân tường sự kiện h bức tường Planck. Ta sẽ bắt gặp một sự cố là: Mô hình của không - thời gian đó có nhiều hơn 12 chiều! Thế nhưng có sự cố rắc rối xảy ra là lại kém hơn 14 chiều!! Và vấn đề thực sự phức tạp một cách trầm trọng là..., lại không hẳn là 13 chiều!!! Các nhà bác học của nhân loại chúng ta hãy cứ hậu nghiệm...

Chúng ta cùng khảo sát bức tường này xem sao nhé:

Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 20. Tạo Hóa đã đặt ra một bài toán hóc búa và đòi hỏi sự phát triển của nhân loại chúng ta phải giải đáp để làm hành trang bước vào kỷ nguyên mới. Đó chính là giá trị nhiệt lượng vô hạn, tuôn ra từ chiếc lò sưởi!

Thế nhưng ta thấy trong ngày đó; Planck đã có những thủ thuật hoán đổi từ các tờ đô la, như một trò cờ bạc bịp cùng mô hình tự nhiên của Tạo Hóa trong thời điểm đó! Ta xét thấy Planck đã dùng tình huống "giải pháp" để vượt qua giai đoạn chứ không phải là "giải đáp" như giai đoạn đã đặt ra và đòi hỏi.

Và cũng từ đó cho đến tận hôm nay. Cả hai người trong cuộc là Einstein và Planck, vẫn không có thể nào hiểu nổi là tại sao lại xảy ra tình huống "ăn may" một cách kỳ lạ như vậy cho được!? Einstein đã không công khai công kích điều này. Bởi trong thời điểm đó thì Planck lại chính là ân nhân của Einstein, nên ông nhất định đã; "Ăn cây nào thì phải rào cây nấy" mà thôi. Chính điều này đã giữ tình bạn của hai tính cách khác biệt này bền chặt với nhau.

Ta có thể thấy điều đó được phản ảnh qua câu phát biểu của Einstein đối với Thuyết Lượng Tử, trong cuộc tranh cãi trên diễn đàn Copenhagen như: " Chúa không chơi trò đổ xúc xắc với nhân loại của chúng ta". Thế nhưng không ai ngoài Planck hiểu được là Einstein đã công kích thẳng vào cái cội rễ và làm lung lay học Thuyết Lượng Tử lúc đó rồi. Dĩ nhiên là Niels Bohr cũng đã cảm nhận ra được điều đó... Tất cả những ai còn lại trong thời điểm đó là; Không thể hiểu nổi tới đó cho được.

Điều mà cả Einstein và Planck không hiểu tại sao thủ pháp hoán đổi của các tờ đô la lại giải quyết được những giá trị vô hạn tổng thể là ở chỗ: Tình cờ là do 7 mệnh giá đó có thể tính toán và trao đổi giá trị đến vô hạn. Và đặc biệt hơn là điều đó lại ngẫu nhiên trùng hợp với 7 ngày mà Chúa đã tạo dựng vũ trụ tổng thể trong đó.

Tại vì thế (một phương pháp mà Thuyết Lượng Tử đã gọi với khái niệm "đối ngẫu")!

Sở dĩ Planck phát kiến điều này là dựa trên câu nói một "bó ánh sáng" (quantum) của Einstein, trong lúc thảo luận cùng ông về nhiệt lượng tuôn ra từ chiếc lò sưởi. Ta xét thấy ngay cả lúc vừa chào đời. Thuyết Lượng Tử cũng đã không thể khẳng định được điều gì chính xác cả! Ví như một "lượng..." nào đó, không xác định được!! (lượng... nhiệt của lò sưởi tuôn ra). Để rồi sau đó "cố" gọi thành tên là "lượng..., tử"! Tóm lại: Điều này có nghĩa là một lượng nào đấy rất nhỏ bé (tử) mà ta không xác định được. Thế cho nên mới gọi chung là một bó!!! (ánh sáng). Và cái tên "Lượng Tử" cũng bao hàm ý đó.

Một ví dụ điển hình dễ hiểu cùng các bạn là:

Theo quan điểm của người Việt thì ta gọi một bó như là một bó mía chẳng hạn. Chúng ta đều biết điều đó cũng có nghĩa là "một chục". Thế nhưng điều này lại lệ thuộc theo góc độ của vị trí và không gian tác động, khiến xảy ra sự cố như: Ở miền Bắc thì một chục có giá trị là 10 cây mía. Vào miền Trung thì có thể một chục với giá trị là 12 cây! Thế nhưng Miền Nam lại có tình huống một chục lại mang giá trị lên đến 14 cây mía nữa kia!!

Tóm lại: Một chục là một giá trị có tính xác xuất. Không khẳng định được. Và một "bó ánh sáng" hay khái niệm "quan tum" cũng cùng một giá trị được hiểu và hình dung như thế.

Lưu ý: Chính cái từ ngữ "một chục", có giá trị tương đương như "một bó...". Để rồi những người không hiểu xuất phát có cội nguồn như thế. Rồi tư duy suy diễn lầm khái niệm "một chục", bị lạc gốc cội nguồn. Dẫn đến hình thành quan niệm cá nhân, tranh cãi nhau về "một chục... đồng". Chỉ có mỗi giá trị là 10 đồng một cách "chính xác" tuyệt đối!!! Khiến dẫn đến sai lạc mất cái tinh thần của Thuyết Lượng Tử là "xác xuất" đi rồi.

Và thế là tai họa sẽ đến cho học Thuyết Lượng Tử, đang diễn ra hiện nay đối với những giáo sư, tiến sĩ giấy. Nhan nhản trên bình diện địa cầu chứ không riêng gì một Việt Nam.

Và dĩ nhiên với 7 mệnh giá của tờ đô la, đều có chứa một lượng giá trị khác nhau (xác định được). Nên nó đã trao đổi và tính toán với một giá trị đáp số lên đến vô hạn...

Tuy nhiên để khu trú trong một giới hạn có thể, để cho tư duy cũng như sự phát triển của nhân loại chúng ta nắm bắt được. Planck đã thiết kế nên bức tường có mô hình E=hv. Trong đó ký hiệu "h", là hằng số có giá trị 10-43!

Để các bạn có thể hình dung ra con số cực kỳ bé nhỏ này, tôi mượn một ví dụ như sau:

Như hiện nay thì Lý Thuyết Dây đang là ứng cử viên sáng giá nhất trên vũ đài khoa học vật lý đương đại. Thế cho nên mô hình của lý thuyết này được xây dựng vũ trụ trên nền tảng giống như một sợi dây (không phải mô hình chuẩn của chất điểm). Họ quy định chiều dài của sợi dây ban đầu đó có khoảng cách (quãng tính) bằng chiều dài Planck. Và chiều dài Planck đó có giá trị = 10-33 so với hằng số Planck là 10=43.

Điều này có nghĩa là nhỏ bé cỡ một phần triệu tỷ tỷ của một cm! (10-33cm). Một sự bé nhỏ đã hoàn toàn bỏ rơi sức tưởng tượng của hầu hết chúng ta ở phía bên ngoài của thực tại này rồi. Ví dụ: Nếu như chúng ta hình dung..., phóng to một nguyên tử lên bằng cả vũ trụ thì; Lúc đấy chiều dài Planck này chỉ mới có thể cao bằng một cái cây bình thường mà thôi!!!

Sau khi các bạn có thể mường tượng ra như thế rồi, chúng ta lại tiếp tục nhé:

Nếu như để phá kỷ lục về giá trị 10-43 của hằng số Planck! Tôi sẽ không ngần ngại ghi ngay là: 10-45!! Phá kỷ lục!!!

Với một giá trị này, tôi cam đoan; Mãi mãi, nền khoa học của nhân loại chúng ta không có thể phát biểu được điều gì hơn thế nữa. Thế nhưng điều này chẳng qua là tôi chỉ mới nới rộng phạm vi bức tường này lớn hơn thêm thôi. Vấn đề đòi hỏi là ta phải đập tan bức tường giới hạn đó. Giải phóng sự giam cầm tư duy của nhân loại, những thân phận bị tù đày hàng trăm năm qua của các nhà bác học.

Tôi biết; Đại đa số họ đã quen với những xích xiềng, giam cầm đằng sau bức tường đó hàng trăm rồi. Không biết thế giới tự do bên ngoài, họ có thích nghi được với nó hay không nữa!? Một hiện tại cận cảnh, rất khủng khiếp..., mà ta có thể nhìn thấy rất rõ ngay trong tầm mắt.

Dù sao tôi vẫn cứ phải làm những việc phải làm là:

Tôi không suy diễn là Max Planck có khai thác và "mượn tạm" công cụ hằng số đó từ địa phương của tôn giáo hay không! Mà tôi cứ tạm xem đó lại là một sự ngẫu nhiên (đối ngẫu) nữa của Thuyết Lượng Tử như: Con số -43 này vốn lại là nguồn tài nguyên định xứ trong thế giới của Ấn Độ Giáo; Đạo Hindu!

Thật "quá sốc" cho tư duy chung của nhân loại chúng ta !!!

Bởi con số 43 chính là số chu kỳ vũ trụ trong Kinh Veda, và Ấn Độ Giáo gọi đó là Chu kỳ Kalpa! Đó là con số nói lên một chu kỳ mà vũ trụ từ lúc sinh thành cho tới khi hủy diệt. Tôi chỉ có thể trình bày đại khái ra đây cùng các bạn là theo quan điểm của họ thì một năm Thần có 12.000 năm (tương đương Một Hội). Và năm loài người là 360 ngày. Vậy 360x12.000= 4.320.000 năm. Và chu kỳ Kalpa có 4.320.000x1000 (1ngày Brahma) =4.320.000.000 năm.

Có một sự thật là từ trong thời thượng cổ. Toán học của Ấn Độ đã xuất sắc và chính xác hơn hẳn nền toán học của Hy lạp rồi. Họ chỉ chịu thua kém Hy Lạp trong lĩnh vực hình học mà thôi. Ta xét thấy thiên ý là ở chỗ: Do Ấn Độ Giáo vốn là đa Thần. Thế cho nên họ không có được một Tượng Thần nào rõ ràng cả. Thế nên hình học (hình tượng, tượng hình) không thể có mô hình nào cụ thể cho được! Họ phải chịu khiếm khuyết trong lĩnh vực thiết kế, tạo mô hình cụ thể vậy.

Ta xét thấy đến miền định quán của hệ thống số -43 này. Nguồn cội của Kinh Veda cũng đã bị dứt căn (Rễ)! Vật ta chỉ còn xét trong hệ "lưỡng nghi", giữa Kinh Thánh (sử Chúa) và Kinh Dịch (sử Tiên) còn lại mà thôi. Ta thấy cũng hợp với quan điểm logic là Kinh Veda có giá trị = 3.500 năm. Và Kinh Thánh lẫn Kinh Dịch tiếp tục được xét trong giá trị 4.000 năm.

Vậy nhân loại chúng ta đã có nghe rằng Chúa tạo dựng vũ trụ ban đầu trong 7 ngày. Do loài người tham vọng, đố kỵ, dẫn đến giết hại lẫn nhau. Người giận quá, bèn phạt với lời nguyền là phải "đền tội" đủ 7x7=49 ngày. Sau hẵng nói đến việc có thể bước qua ngưỡng cửa để mà trở về với Vườn Địa Đàng xưa kia được (Người đã giấu đi rồi).

Xét trong 5 góc độ để quan sát điều này: Về tôn giáo thì quan điểm đơn thuần của nhân loại với Đạo Hindu và Đạo Phật không chấp nhận điều đấy. Đạo Thiên Chúa, Đạo Hồi chấp nhận điều đấy. Tiên Đạo, công bình giữa 2 quan điểm đấy. Về khoa học thì hầu hết cả 5 học thuyết, đều chấp nhận điều đấy. Ta vẫn có được tỷ lệ phiếu bầu cho điều đấy là 7/3. (7x7=49).

Vậy ta xét tiếp trong góc độ công bình là Kinh Dịch. Vào thời điểm tương quan thì lúc đấy Dịch đang diễn Quẻ bói Tiên Thiên. Theo phép bói này thì dùng 50 cọng cỏ thi. Để ra bên ngoài 1 cọng để làm sai số dự trù. Dùng 49 cọng để Diễn Dịch số luân chuyển, đảo điên mà định quẻ trong lục cõi biến (6 hào). Ta thấy Kinh Dịch cũng đã mặc định hệ thống của số 49, vốn tiềm ẩn quy luật của vũ trụ trong đó rồi vậy.

Khảo luận đến đây, thì ta đủ để chỉ ra được và khẳng định rằng: 7x7=49 là công thức mà ngày xưa Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong buổi ban đầu đó. Thế cho nên ta mới xét thấy tất cả mọi giáo chủ của bất kỳ giáo phái nào xưa nay. Nhất định phải sử dụng công thức 49 ngày đó mới có thể đắc đạo cho được. Không có ngoại lệ. Riêng các vị Thiền Sư nào đủ để được luận bàn đến đạo thì cũng phải đủ 49 năm tinh tấn một cách miệt mài. Kỳ dư, mọi người chỉ quen tính lạm bàn đến những điều mà mình chưa bao giờ có thể được biết tới nổi.

Vì thế; Theo hệ quy chiếu quán tính thì: Hằng Số Planck là một giá trị bất toàn. Và để được chu toàn thì phải là -49. Bởi đây chính là hệ số mà Chúa đã thiết kế mô hình và tạo dựng vũ trụ trong thuở ban đầu. Kinh Dịch được xem như là một Sử liệu đầu Tiên để ghi chép và lưu lại điều đấy. Vì thế tôi mới gọi với tên là "Sử Tiên" (điều này cũng có nghĩa là sử kinh của giống nòi Tiên Rồng). Vậy tôi lại tiếp tục khai sinh một hằng số vũ trụ cho Kỷ Nguyên Mới mà Chúa đã từng giấu nhân loại mất đi.

Hằng Số Vũ Trụ là 10-49...

Thời điểm này; Bức Tường Planck, sụp đổ.

Vậy Hằng Số Planck được kiện toàn bằng 10-49. Là một giá trị đủ..., vô hạn. Đáp ứng như quy luật của mô hình vũ trụ đã từng phản ảnh trong mọi thí nghiệm, lý thuyết, định luật xưa nay. Ta chưa xem xét chi tiết tới giá trị vô hạn bao gồm 10-49..., và còn "bình phương" (2) trong đó nữa!!! Điều này dành riêng cho các nhà chuyên môn nơi đỉnh cao của tư duy bác học. Chúng ta không có thể mang ra mà lạm bàn ở đây cho được. Chúng ta chỉ tạm biết hai giá trị ra đời là:

- Hằng số hấp dẫn 360=0.
- Hằng số vũ trụ 10-49.

Hai hằng số này kết hợp với nhau sẽ có giá trị vô cùng. Bởi giá trị 360 đạt tới "trạng thái dừng", sẽ rơi vào chân không tại vô cực. Giá trị 10-49 thì đạt trạng thái chân như, cũng gặp nhau và đồng nhất tại vô cực. Lưu ý chung là: giá trị -49 này có khoảng cách giá trị khác và không khác từ điểm hẹn -40 giao động đến -49. Nguồn năng lượng có thể giải phóng bất kỳ lúc nào. Tôi có thể chỉ ra mô hình đó phản ảnh; Chúa Jêsu là 40 ngày. Phật Thích Ca 48 ngày (có dị bản là 42, vẫn đúng). Hindu và nền khoa học là 43. Về dự trù sai số thì có Giáo Chủ Mohammed của Hồi Giáo là 7 năm sau. Tại Việt Nam thì Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Đạo Hòa Hảo là 4 đến 5 năm sau (cũng từng tích đủ Trầm trong thân, mà vị Giáo Chủ này gọi là Xạ Hương). Đó chính là giá trị của nguồn năng lượng dự trữ sai số của 1, để bằng 50.

Ví dụ đơn thuần và dễ hiểu nhất như: 49x49=2.401 và 50x50=2.500. Cả hai đáp số này đều đúng và đủ cho mọi quá trình vận hành trong và ngoài vũ trụ tương lai. Từ đây ta có thể suy ra:

Tuổi thọ của nền khoa học cũng đã được 2.500 năm! Vụ nổ Big Bang có thể xảy ra bất kỳ lúc nào (tôi mượn khái niệm Big bang của nền khoa học để diễn đạt cho các bạn dễ nắm bắt thôi. Khái niệm này còn đang chờ chúng ta giải phẫu ở một trong các bài viết khác nữa).

Tuy nhiên chúng ta cứ yên tâm. Vì điều đó đã được chuẩn định tại thời điểm 2023 rồi. Điều này khiến dẫn đến việc tất cả các tiên tri trên toàn cầu cứ đoán già, đoán non suốt hàng trăm năm sai số đó, vẫn chưa thấy hiện tượng tận thế xảy ra. Thế nhưng họ vẫn cứ thắc thỏm rằng; "Có thể xảy đến bất kỳ lúc nào", mà chúng ta không có thể tiên nghiệm ra được. Đó là tôi chưa nói đến còn vô vàn những "vị...Thầy, Bà", đầy rẫy tại Việt Nam hiện nay ra vẻ "thiên cơ, không dám nói". Cứ tự dối mình..., gần tới rồi. Dối người..., sắp đến... trong nay mai!!! Gây rối loạn cả khắp thiên hạ cũng như xã hội hiện nay.

Ta cũng nên lưu ý: 2023 là cột mốc cuối. Ta đang trong thời điểm của giá trị 42..., cũng có nghĩa là bất kỳ lúc nào. Chính điều này là cơ sở để các vị kia ký sinh quan điểm tiên tri mà tồn tại... Mà thôi! Đó là những việc hạ hồi phân giải. Hiện tại tôi phải gõ hai chấm xuống dòng là:

Khi đã hội đủ những giá trị đã được kiện toàn cho 3 đẳng thức (đại diện Tam Tài): E=mc2, E=mt, E=hv. Và hai hằng số (đại diện âm dương): 360=0, 10-49. Ta đã trang bị đủ hành trang làm cơ sở, để tiếp tục tour du hành, xem xét đến đối tượng " m' ".

Một "Vi Trần", đồng thời cũng là cả một "Tiểu Vũ Trụ". Đang chờ đón chúng ta tham quan thế giới đó!

.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

45 - MỘT VI TRẦN TRONG VŨ TRỤ.

Qua biết bao rắc rối, cuối cùng chúng ta cũng đã hình thành được 5 vị trí quan sát bao gồm:
1- Đạo Phật
2- Đạo Chúa
3- Kinh Dịch
4- Lượng Tử
5- Tương Đối

Ta dễ dàng nhận thấy Kinh dịch vẫn là chiếc cầu nối giữa Tôn Giáo và Khoa Học. Trong đó ta đã nhìn ra được những giá trị phản ảnh tương đương với nhau như Thuyết Nhà Phật và Thuyết Lượng Tử, đại diện cho âm tính (thuộc chân như). Thuyết Nhà Chúa và Thuyết Tương Đối, đại diện cho dương tính (thuộc chân không).

Và hệ thống đó là mô phỏng mô hình của Ngũ Hành. Tam Tài là cơ cấu "Đạo Học - Dịch Học - Khoa Học". Lưỡng Nghi là hai sự đối lập âm dương phản ảnh giữa "Khoa học và Tôn giáo". Đồng thời, đó cũng là hai tư tưởng và quan điểm của Đông - Tây (hữu hình và vô hình) nói chung. Bởi khi ta nhắc đến phương tây là hiện thực, phương đông là huyền bí.

Với 5 vị trí quan sát này; Ta đủ để quan sát vật bị quan sát là đối tượng "vi trần". Một mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn trong đó, mà ta đã biết qua ký hiệu " m' ". Nếu ta không trải qua những bài viết khô khốc vừa rồi. Thì rất khó có thể chấp nhận cũng như hiểu biết về đối tượng m' này đang tiềm ẩn rất nhiều giá trị cơ bản trong đó rồi vậy. Điều này nếu ai đó bất ngờ ghé vào trang này thì sẽ không hiểu được m', và sẽ kịch liệt phản đối đến cùng là tất yếu vậy.

Trước khi chúng ta cùng giải phẫu đối tượng m' này. Chúng ta cùng tham khảo sơ qua những thông tin liên quan như sau:

Như ta đã biết; m là ký hiệu cho khối lượng vật chất, và m' là ký hiệu cho khối lượng vật thể. Nền khoa học thì vẫn chưa có thể xác định được "Hạt của Chúa" cơ bản qua đối tượng m. Chúng ta đã xác định được "Hạt của Chúa" cơ bản qua đối tượng m' (trong trang này).

Do tư duy của nền khoa học đã "định kiến" quan điểm là thế giới quan cơ giới. Thế cho nên ta thấy cứ tháo rời, lắp ráp bất cứ một cấu trúc nào mà một khi nền khoa học nghiên cứu, xem xét tới. Và một khi chạm đến đối tượng m' này thì cũng giải phẫu, tháo rời và lắp ráp như một cỗ máy vậy!

Và tai họa khôn lường đã và đang diễn ra, một khi nền khoa học vật lý phát triển đến ranh giới của không gian chiều thứ tư. Bởi muốn mổ xẻ đối tượng m' này thì lĩnh vực Y Học phải tham gia. Cho nên ta vẫn thấy hiện nay Y Học (tây y) cứ tháo rời, lắp ráp các thành phần cơ cấu của Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận...

Chúng ta bàn thêm sâu hơn về vấn đề này của Tây Y như sau: Đối với trật tự mô hình tự nhiên của tạo hóa thì phương tây thuộc hình, phương đông thuộc khí. Nên Tây Y phải ý thức và chỉ giới hạn ở những chứng bệnh nào thuộc về hình thôi. Ví như những bệnh hay vết thương ở xương, thịt v.v... Bằng như những bệnh gì thuộc về khí là không thể. Ví như Tâm thần, Parkinson, Huyết áp v.v... Bởi điều này giống như ta dùng dao, kéo để mà cắt, xẻ nước hay không khí vậy. Lĩnh vực khí đó, thuộc về sở trường của Đông Y. Thế cho nên ta nhất định phải phối hợp cả đông và tây y mới đủ. Ví như nói đến hệ thống Kinh, Lạc, Điểm huyệt thì tư duy phương tây rất là lạ lẫm với những khái niệm này. Thậm chí ngay cả tư duy của các nhà bác học, họ cũng rất mơ hồ về những điều "có dạng" như thế.

Ví dụ: Do quan điểm cơ giới nên từ đó cũng ảnh hưởng mà lắp ráp con người. Ranh giới của khí (vô hình) là Ngũ Tạng. Bởi quan điểm tách Tâm (linh hồn) và Vật (thân xác) rồi (Descartes). Cho nên họ không biết rằng, Hồn vốn cư ngụ trong Máu. Một khi thay Tim là rất nguy. Bởi sau đó, người đã được thay Tim sẽ sống với một tâm trạng vô cùng khủng khiếp. Bởi họ sẽ cảm nhận được có một linh hồn khác của ai đó nữa, đang trú ngụ trong họ! Thậm chí có thể chi phối cả hành vi của họ nữa!!

Rất khiếp đảm! Và sẽ là một viễn cảnh đầy kinh hãi cho những ai vốn đã thiếu thể phách (bóng vía). Bởi họ không thể nào thích nghi cho được cả. Càng kinh hoàng hơn nữa là hiện nay lại đang có những bước dò liều lĩnh hơn nữa là thay đầu người!!!

Bởi cái bộ não,bao gồm cả cái đầu đó, hoàn toàn biết rất rõ được rằng; Thân thể kia không phải là của họ. Và đồng thời đó cũng là những cái hồn, phách của người khác (ngụ trong Tim)... Nền khoa học đang đi sai đường. Tôi nhất định phải gióng lên hồi chuông cảnh báo; Tất cả hãy nhanh chóng dừng lại, trước lúc xảy ra những tại hại trầm trọng cho nhân loại, kẻo muộn.

Nước Đức trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Đã từng vấp phải nhiều trở ngại trong những sự nghiên cứu như thế đối với con người rồi. Tôi đã chỉ định ra rất rõ giữa " m " và " m' " rồi.

Nếu như có thể nghiên cứu đến đối tượng " m' " này thì: Đó chính là Y Học phương đông mới là sở trường. Và công cụ để mổ xẻ và quán sát đối tượng này chính là Dịch Lý. Và với tư tưởng của phương đông thì "Y Dịch đồng nhất lý". Và đó cũng chính là những công cụ thuộc về không gian chiều thứ tư; Là nhận thức sự thấy của tư duy cảm giác. Mọi tri thức từ cái thấy của quan điểm trực giác là bất khả. Ngay cả cái tên gọi của khoa học vật lý cũng đã nói lên và chỉ rõ tất cả như: "Vậy Lý" không có nghĩa là "Tâm Lý". Và trên suốt dọc đường phát triển của mình. Nền khoa học vật lý đã bỏ rơi cái tâm của mình cùng vạn vật, ở phía bên kia lằn ranh của Descartes từ thế kỷ thứ 17 mất rồi.

Như tôi đã có trao đổi cùng các bạn là: Tôi đã chọn đứng về phía số đông trong cộng đồng. Điều này có nghĩa là tránh không ngã sang đối tượng m (vật chất). Bởi học thuyết này (tôi đang sở hữu một học thuyết chưa công bố) nếu gặp phải những kẻ có tham vọng là rất nguy hiểm vô cùng. Nó dẫn đến chế tạo ra "vũ khí năng lượng". Vũ khí hạt nhân hiện nay xem ra còn rất nhẹ ký!

Tôi không tiếp tay cùng các nhà chuyên môn để khai thác nó. Tuy thế, họ cũng đủ khả năng làm việc đấy. Bởi đã có công thức. Ta chỉ mãi lo tranh cãi vặt, họ chỉ lo khai thác công thức mà thôi. Đấy là việc của những kẻ tham vọng có chuyên môn.

Riêng tôi thì chỉ ứng dụng công thức (E=m't) khai thác năng lượng cho đối tượng m' là đủ. Vì thế E chính là nguồn năng lượng tiềm ẩn của không gian chiều thứ tu trở đi. m' là khối lượng vật thể của một "vi trần". Và t chính là khoảng thời gian đủ 49 ngày đó vậy. Dĩ nhiên là phải "giảm tốc", để đạt trạng thái "chân như", hầu giải phóng nguồn năng lượng tiềm ẩn của vũ trụ.

Ta có thể xét thấy nguồn năng lượng này đã có biểu hiện một cách rất tiềm ẩn, rải rác trên bình diện giai đoạn hiện nay như:

Vì dụ đó được phản ảnh qua các nhà ngoại cảm chẳng hạn! Thế nhưng các nhà ngoại cảm này, đại đa phần là do họ gặp phải tai nạn mà có. Tình cờ lúc xảy ra tai nạn thì m' đó đã hội đủ những yêu cầu ngẫu nhiên (đối ngẫu) nên có được khả năng đó. Dĩ nhiên tất cả họ đều không thể biết là căn nguyên, nguồn cội từ đâu cho được. Họ không thể giải thích với chính họ chứ nói gì đến người ngoài nào khác cho được.

Nguồn năng lượng đó là có thật. Tuy nhiên chỉ có khả năng trong khoảng thời gian là 4 hoặc 5 năm thôi là cạn hết nguồn. Do trước đó không thể hiểu nổi, thì hầu hết họ đều cho là do một đấng nào đó mà họ có thể nghĩ đến, ban cho. Đến khi cạn nguồn thì lại nghĩ; Do mình ngạo mạn, làm bậy, nên các đấng bề trên đã rút phép! Họ ăn chay, nằm đất, cúng bái cho đến cuối đời mà vẫn không hề phục hồi lại được. Cái hố sâu luôn cận kề bên chân họ là rơi vào mê tín tất cả.

Lúc cạn khả năng, họ sáng suốt lắm thì cũng lập tức đi tìm cách học thiền để mong níu kéo khả năng lại. Dĩ nhiên lúc đó thì họ sẽ bái sư bất kỳ vị Thiền bao gồm (Thiền sư, Thiền sĩ) nào mà họ gặp được. Thế nhưng nguồn năng lượng kia đã một đi không trở lại nữa rồi.

Còn nhóm thứ hai có vẻ khá sáng đôi chút hơn là những vị tập Thiền, khí công, yoga v.v... May phúc thì tụ được một ít tạp khí, hoặc dư khí của nguồn năng lượng đó. Lập tức thi thố khắp thiên hạ rồi "xưng Thầy" đối với tất tần tật cả thiên hạ! Đa số ăn trên, ngồi trước mà nhìn thiên hạ bằng nữa con mắt, mở miệng ra là; phán. Tư duy không khéo, lại lập ra đủ thứ các loại đạo hoặc vị thần linh nào mà tri thức của họ có thể biết đến. Tôi nói rồi; Tạo phúc cho thiên hạ không được mấy, gieo họa quan điểm lầm lạc cho những thế hệ tương lai là rất nhiều. Đặc biệt một số ít có tích lũy chút vốn kiến thức. Vội khoác chiếc áo khoa học lên mình để che đậy sự mê tín, bao gồm hoang mang bên trong.

Tôi đã phát biểu rồi: Khốn nỗi; Chiếc áo khoa học ấy là "quá rộng" đối với tất cả họ. Họ rất muốn khoác, nhưng không vừa được, nó lượm thượm làm sao ấy... (từ luộm thuộm là không đủ).

Và lối mòn chung là lại dẫn đến địa phương của sự mê tín làm định xứ. Cực kỳ hiếm là có những vị: Nắm bắt được một số huyệt mạch, dò theo mà ký sinh để phát huy. Các vị này tương đối sáng giá hơn số đông ít nhiều. Thế nhưng lối mòn chung là vẫn không thế nào lý giải cũng như đào tạo được. Thậm chí chỉ là níu kéo hoặc nâng cấp một cách âm thầm cho chính bản thân họ cũng là bất khả. Do không hề biết nguyên nhân.

Vấn đề là công thức! Bởi chỉ có công thức mới có thể giải ra đáp số một cách chính xác cho vấn đề được đặt ra và yêu cầu đòi hỏi. Thế nhưng ai lập được công thức. Tất nhiên kẻ đó phải hiểu thấu suốt toàn diện tổng các quỹ đạo rồi vậy. Ví dù có nằm mơ như dạng của Mendeleev vẫn là không đủ, dù cực hiếm (một dạng đột biến của vũ trụ, xét theo quan điểm khoa học).

Thế cho nên: Để bắt kịp quy luật tiến hóa của vũ trụ, giai đoạn nhất thiết đến lúc phải sinh ra chức năng của giác quan thứ 6 mới có thể suy thấu, và bắt kịp nhịp vận hành để đi vào tương lai (không phải đi đến).

Ví dụ: Những hiện tượng ngoại cảm gần đây là phản ảnh cho chức năng của giác quan thứ 6 phải hình thành. Nhân tiện, tôi không ngần ngại phát biểu như một lời tiên tri:

Trong Kỷ Nguyên Mới, con người có chức năng của giác quan thứ 6. Khi chào đời, con người không cất tiếng khóc nữa! Mà là tiếng cười!! Những nụ cười mỉm, trên môi của những cư dân Thiên Thần!!! Vì đó là chốn Thiên Đàng, vì đó là cõi Cực Lạc.

Để tránh những suy diễn vội cho là hoang tưởng. Tôi sẽ tạm ứng dụng những quy tắc đơn giản. Tặng không cho những nhà thiên văn thuộc lĩnh vực vũ trụ học một dự án như sau:

Xét mô hình Ngũ Hành như bàn tay 5 ngón làm cơ bản, như trang này đã dẫn và đã thảo luận cùng các bạn. Ta suy ra..., và thấy mô phỏng với thế giới 5 châu, màu sắc 5 gam v.v...

Vậy 5 gam màu này gồm có Trắng, Đen, Xanh, Đỏ, Vàng làm cơ bản. Từ nền móng cơ bản này ta suy diễn tiếp như:

Xét hiện nay, trên khắp 5 châu thì sẽ nhận thấy; Người Châu Á là đại diện cho Da Vàng. Châu Âu đại diện là Da Trắng. Đến Châu Phi thì đại diện Da Đen. Và khu vực Châu Mỹ được thể hiện những bộ tộc Da Đỏ. Vậy thì người Da Xanh đâu!?

Theo như mô hình cơ bản của trật tự tự nhiên của vũ trụ đó. Chúng ta đang thiếu vắng người Da Xanh. Vậy từ đó suy ra...; Chắc chắn trong vũ trụ, đang còn tồn tại ở đâu đó một chủng tộc Da Xanh mà chúng ta chưa có thể biết tới. Đó chính là chủng tộc mà chúng ta quen gọi là "người ngoài hành tinh"! Bởi trật tự của vũ trụ đang tồn tại và nhân loại chúng ta cũng đang tồn tại và vận hành cùng những quy luật của trật tự đó. Người ngoài hành tinh vẫn đang tồn tại, không thể thiếu vắng mà có thể khác đi được.

Với sự quan sát của những thiết bị khoa học hiện nay là không thể nắm bắt điều này cho được. Bởi họ thuộc về không gian chiều thứ tư, và phương Tây là sở đoản, do đã tới giới hạn. Vậy ta quay trở về với sở trường của phương đông để quan sát nhé: Đó chính là công cụ của Dịch Học!

Chúng ta cùng du hành thám hiểm:

Theo như nguyên lý của Dịch thì: Màu Xanh thuộc Mộc. Vị trí Gốc của thời gian tại Mùa Xuân. Góc độ của không gian là hướng Đông v.v... Thế cho nên muốn quan sát người ngoài hành tinh thì ta phải chọn góc độ của không - thời gian đó làm điểm xuất phát và chuẩn bị mọi thiết bị, công cụ thăm dò.

Chờ đến thời điểm khi thời gian đi qua điểm không thì sẽ phát sinh năng lượng tiềm ẩn trong vũ trụ. Ta căn cứ theo cách đo lường thời điểm thời gian của phương tây thì họ quy định điểm 0 là tại Tiết xuân phân.

Vậy Đúng ngày 21 tháng 3 dương lịch. Chính là thời điểm mà Thời gian sẽ đi qua điểm 0. Thủ pháp này, tôi gọi là "điểm huyệt Trời". Các nhà chuyên môn trong lĩnh vực thiên văn, vũ trụ học chỉ việc phát sóng thăm dò tại thời điểm này là sẽ bắt được tín hiệu ngay tức khắc.

Trên đây là tôi chỉ mới bàn lướt qua tổng thể cùng các bạn. Dĩ nhiên chi tiết thì lại còn phải trình bày rất nhiều và nhiều hơn nữa. Thế nhưng ít nhất; Chúng ta đã tiết kiệm được biết bao kinh phí, thời gian để đầu tư vào kế hoạch rà tìm tín hiệu người ngoài hành tinh rồi. Bởi ta cứ không xác định được vị trí, góc độ, thời điểm trong không - thời gian để tiến hành quan sát. Cứ quan sát lung tung, thả trôi trong cả vùng vũ trụ bao la... Không biết thời điểm nào Tạo Hóa đóng, mở then vũ trụ để hướng ống kính đột nhập mà "nhìn trộm" cả.

Ta xét thấy Chúa Jêsu khi mắng mỏ kẻ ác trong quá khứ. Thiên hạ ngỡ thế, nhưng mà Người cũng đã khéo mở cho họ một lối thoát rồi mà vẫn cứ u mê mà căm hận Người! Đó là lúc các vị thông giáo, tranh cãi, biện luận và xin Người một chỉ dấu về nước Thiên Đàng. Ta thấy Kinh Thánh chép lại lời đó như sau: "Loài rắn độc của các ngươi. Ta không cho bất kỳ điều gì cả, ngoài một dấu chỉ thì giờ".

Vậy: "Thì Giờ" mà Người nói (đã cho một cách nhưng không) đó, có nghĩa là Thời Gian! Là không gian chiều thứ tư!!

Chỉ có thời gian mới có thể trả lời tất cả.

Vậy đẳng thức E=mt là dùng để khai thác đối tượng đó (t=thời gian). Dĩ nhiên hằng số vũ trụ phải -49 ngày rồi vậy. Con đường vòng là 49 năm, còn trôi, còn vất vưởng khắp cõi ta bà trong đó nữa...

Thế nhưng quỹ thời gian chỉ còn có 6 năm nữa thôi! 49 ngày. Chính là một cánh cửa tắt rất hẹp, cho cả nhân loại chúng ta đang ở vào thời điểm hiện nay rồi vậy.

.


Thanked by 1 Member:

#19 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 11:10

46 - VŨ TRỤ TRONG MỘT VI TRẦN


Nếu ta xem xét đối tượng của một vi trần (m') trong cả vũ trụ. Thì đó chính là góc quan sát thuộc về quan điểm của Nhà Chúa và Thuyết Tương Đối.

Bằng như ta xem xét cả vũ trụ trong một vi trần. Ắt điều đó có nghĩa là vị trí và tư duy của Nhà Phật lẫn Thuyết Lượng Tử rồi vậy. Điều này cũng giống như hai mặt của một đồng xu thôi.

Thế cho nên Nhà Phật có mô tả đến dụ ngôn về một thế giới mà trong đó đầy rẫy những hạt châu. Và trong mỗi hạt châu đó, lại còn chứa cả một thế giới khác nữa! Thuyết Lượng Tử cũng mô tả giống như thế không sai! Điều đó chính là cả một thế giới hạ nguyên tử nằm trong một nguyên tử.

Kinh Dịch thì luôn luôn đứng giữa hai quan điểm đó với sự đối lập âm dương bao gồm Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ. Vì thế chúng ta cũng luôn là yếu tố hạt Nhân để dung hòa giữa Thiên, Địa trong hệ thống Tam Tài mà không thể vắng sự hiện diện cho được.

Chúng ta cũng nhớ trong loạt bài ký sự này. Tôi thường trình bày giới thiệu tổng thể lướt qua trước, để chúng ta có một khái niệm tổng thể. Sau đó rồi mới dần đi vào chi tiết và mổ xẻ đến sự việc cụ thể sau. Vậy nên bài viết này cũng mang tính giới thiệu tổng thể qua để các bạn nắm bắt trước như một nền móng, để chuẩn bị thiết kế những cơ cấu của mô hình, được xây dựng trên nền móng này.

Chúng ta cùng làm quen với những "dữ liệu" thi công để tạo nên công trình vũ trụ trong một vi trần ( m' ):

Trước hết, nếu muốn bàn về Thiền. Chúng ta phải biết được rằng: Bên Đạo Chúa cũng có phép Thiền! Thế nhưng bên giáo phái này biết phương pháp này rất cao siêu và khó lĩnh hội vô cùng. Với tư duy của người dân bình thường là tuyệt đối không thể lĩnh hội nổi. Từ đó sẽ xảy ra làm loạn hết chân lý của Đạo. Thế cho nên giáo dân là không được phổ biến mà biết tới cho được. Chỉ dành riêng cho các vị đã được đào tạo làm Cha tham thiền mà thôi. Bằng như vị Cha nào mà chưa nắm được phép thiền đó. Cũng nên tự nghiền ngẫm mà xét lại bản thân. Bởi vì điều này trong đạo Chúa được tiềm ẩn trong "7 phép bí tích". Cũng như "7 pháp liên hoa" của đạo Phật vậy. Bí tích được hiểu như là; Những bí mật của Chúa, được tích lũy và tiềm ẩn trong 7 phép (phương pháp) đó!!!

Bởi vì trước khi muốn đào tạo để được tuyển chọn vào vị trí đó. Ít nhất, họ phải đạt đủ 3 bằng cấp đã. Ví như thứ nhất là bằng đại học. Thứ hai là bằng ngoại ngữ. Thứ ba là bằng chuyên môn nào đó của riêng họ. Ta thấy đó là một con người với một tư duy đã đầy đủ tri kiến thức rồi. Rất khó có thể bị rơi vào sự mê tín mà lầm lạc sự việc cho được. Và khi các vị Cha cầu nguyện cũng chính là lúc họ tham thiền.

Về cách xử sự như thế, nên ta thấy Nhà của Chúa không rối loạn, mất trật tự và dễ rơi vào mê tín như bên Nhà của Phật. Do bên Nhà Phật là phát huy pháp Thiền ra cho cả bàn dân thiên hạ biết đến. Thậm chí kẻ chán đời, không bám được với cuộc sống. Thất tình, đổ nợ v.v... cũng tìm đến nương nhờ với cửa Chùa được. Dần rồi họ tiếp cận Kinh, thâm nhập thiền với một tư duy đầy khiếm khuyết như thế, khiến nên gây rối loạn hết cả đạo pháp của Nhà Phật đi. Đa số lại có nguyên nhân như thế cả. Đại đa số thứ dân thì lại không đủ tri thức. Đại loạn tất phải đến đối với Phật Pháp là tất yếu.

Đơn giản thôi. Tôi nói rồi; Ta xem Chúa như Cha, Phật như Mẹ. Hễ nhà nào còn Cha thì có trật tự. Mất Cha, còn Mẹ thì con cái dễ rơi vào cảnh rối loạn tôn ti ngay. Ai mến Cha hơn cũng được, ai thích Mẹ hơn cũng tốt. Tuy nhiên phận làm con thì thương yêu cả Cha lẫn Mẹ mới là chu toàn vậy. Ý thức qua như thế, chúng ta tiếp tục bàn thảo nhé:

Khi Bồ Đề Đạt Ma hướng Đạo sang Trung Quốc. Đạt Ma vốn có nhân thân là một Võ Sư trước khi là Thiền Sư rồi. Với phương pháp Thiền nói chung. Yêu cầu chính, cốt là phải giữ xương sống lưng cho thẳng đứng. Mục đích là phân khoảng cách, vị trí các huyệt mạch trên cơ thể thẳng hàng và đối xứng với nhau để khí vận hành đúng phân, độ hành vận hợp với chu trình.

Trong quá trình tham thiền, sẽ có tình huống mà thiền giả bị ngủ quên và rơi vào cảnh hôn trầm. Lúc đó, thì xương sống rất dễ bị cong gập lại (do ngủ gục trong lúc thiền). Đã có rất nhiều vị bị rơi vào hôn trầm, mà cứ ngỡ là mình nhập định đến độ đã quên hết tất cả mọi sự việc xung quanh!

Thường thì họ không đi đến đâu được cả, nên khi ngủ quên và thức dậy là xong. Bằng như khá hơn, hoặc tình cờ gặp phải lúc tụ khí thì khi giật mình tỉnh lại là rơi vào trạng thái hoảng loạn ngay thôi. Vì thế nên hôn trầm là rất nguy hiểm. Nhất định không được sai lầm cho được.

Để tránh tình huống ngủ gục trong lúc tham thiền sẽ làm cho xương sống bị gục xuống. Đạt Ma đã lập ra thế ngồi Kiết Già! Mục đích chính của thế ngồi này trong võ học là khóa xương sống đứng thẳng và không thể gục cong xuống được. Bảo đảm là trong lúc thiền mà có lỡ ngủ quên, thì xương sống vẫn thẳng, không thể cong gục lại được.

Thế rồi lại xảy ra sự việc là: Một số ít các "vị cao thủ", biết được nguyên do đó của thế kiết già. Trong khi tập ngồi kiết già là rất lâu mới quen. Thế nên họ ngồi bán già cũng được, miễn sao giữ thẳng lưng là đủ đáp ứng theo yêu cầu đòi hỏi của pháp thiền. Rồi lại dẫn đến đứng, rồi đứng một chân, thậm chí nằm lăn ra luôn!!! Lại loạn.

Hỏng hết cả rồi! Đạo nào mà lại thiếu trang nghiêm rồi ra loạn trật tự như thế cho được. Phàm, Đạo mà thiếu sự tôn nghiêm là hỏng. Ngắn gọn thế thôi. Vả lại sự thâm sâu của đạo pháp nói chung là ta không suy xét thấu tới được. Điều tưởng chừng như đơn giản nhất như chiếc áo khoác trên mình nữa. Chúng ta xem kỹ lại đi. Cả Chúa và Phật đâu có mặc áo! Chiếc... khoác trên người đó là một tấm vải đơn thuần mà thôi.

Về Chúa thì ta phải tìm ra cái lý đó khó hơn ở chỗ: Khi quân dữ thấy Chúa đã chết trên cây thánh giá rồi. Bèn xúm lại mà tranh giành đồ của Người. Bất chợt có ai đó la lên: "Cái áo" của người này không có đường chỉ may nào thì làm sao mà xẻ ra để chia cho được "!". Ta phải đủ để hiểu rằng; Không có đường chỉ nào thì điều đó có nghĩa là một tấm vải còn nguyên vẹn rồi vậy. Đó là một trong vô cùng những điều gọi là nhiệm mầu.

Phàm đã nợ là phải trả. Ngay cả cái nợ tầm thường nhất của con người là cơm, áo. Hễ còn nợ cơm là cơm còn đòi, hễ còn nợ áo là áo phải xiết. Thế cho nên ta mới thấy Phật đến khi Người vất luôn cả cái nợ cuối cùng là chén cơm (bình bát) xuống sông là Người đắc đạo! Bởi thế nên những cái áo mà mọi tín đồ của bất kỳ giáo phái nào cũng đều phải là vải thô. Mục đích chính của nó là không có sợi nilon để cản (cách điện, newtrino) trở nguồn năng lượng tương tác và lưu chuyển trên người. Ngay cả lưng quần như hiện nay là cũng đủ xiết ngang hệ thống Kinh Lạc rồi. lấy đâu để khí vận hành cho được nữa. Vậy nếu ta nằm, hệ thống Kinh Lạc là không thể nào vận hành cho được. Đó chính là những gì được gọi là sự vi diệu vô biên của đạo được.

Bởi chúng ta không thể nào biết được rằng: Tất cả mọi pháp thiền với mọi phương pháp tưởng là vận khí hành đạo xưa nay, đều khiếm khuyết cả! Bởi xét theo trục dọc thân thể, kể cả bao gồm trước sau luôn đó. Chỉ mới là hệ thống của Lạc thôi! Đó không phải là hệ thống của Kinh bao giờ cả!! Tôi có nói rồi; Chúng ta mới có Vĩ Tuyến, chưa có Kinh Tuyến thì lấy gì mà xác định vị trí cho được. Và càng không thể nào biết được là mình đang đi lạc ở đâu nữa cả!!! Hay thật.


Bằng như chúng ta cứ xem các phương pháp đó với mục đích là để nghỉ ngơi, hoặc thư giãn thì được. Thậm chí dùng để điều trị một số bệnh cũng được. Tôi không có ý kiến gì, cho dù ai đó có chổng ngược đầu. Ở đây chúng ta đang cùng thảo luận về Đạo. Vì thế, ta xác định được và yêu cầu thống nhất chung là phải giữ thẳng xương sống trong suốt quá trình tham thiền là được. Các bạn cứ tùy ý mà chọn cho mình một cách ngồi nào mà tự cảm thấy dễ chịu mà thoải mái nhất. Cái lý khó mà dễ, dễ mà khó vốn là như thế. Tạm như thế trước nhé.

Ta lại bàn đến cách thở. Thường thì ta vẫn cứ hay xem xét chi tiết đến những điều dư thừa. Và thường bỏ qua những chi tiết nhỏ quan trọng đến độ bất ngờ làm thay đổi toàn bộ cục diện như:

Xét cái nghĩa đơn thuần nhất của hai từ "Hô Hấp" thôi. Hấp, có nghĩa là hít vào bằng mũi! (để hấp thụ khí). Vậy Hô, phải được hiểu chính xác là thở ra bằng miệng!! Như ta lấy hơi để..., hô lên... Vậy thì làm sao mà ta có thể hô lên bằng mũi cho được!!! Thú vị thật!

Cái lý của hệ tuần hoàn và chu lưu của cái khí của đạo trong vũ trụ tự nhiên vốn là như thế cơ mà?! Thế sao chúng ta lại cứ phải ngậm miệng lại mà thở chỉ vào ra có mỗi bằng mũi trong lúc thiền như vậy?! Do ta cứ nghĩ (chấp vào) phải ngậm miệng để nối liền Nhâm - Đốc mà giữ khí. Đạo vốn là hễ cố giữ là mất, bỏ đi là được kia mà?! Vậy thì ta cứ hấp thụ khí trong sạch vào, đào thải cái khí cặn tích tụ trong người ra. Các vị cứ giữ lấy cả khí trong lẫn đục mà dẫn vào các huyệt vị khắp cơ thể làm gì!? Tôi thảo luận gợi ý như thế thôi, tùy các bạn tham khảo và quyết định chọn cho mình một định hướng. Tạm như thế nhé.

Vấn đề tính mệnh và gốc rễ của tiểu vũ trụ và đại vũ trụ thì chúng ta đã biết qua rồi. Hãy xác định và chọn cho mình một vị trí trong guồng máy của tạo hóa đó để cùng vận hành. Như lần đầu tiên thì nhất định là ta phải quay về đúng với bản thể gốc đã. Sau đó mới có thể tùy tiện mà ra vào bất cứ thời mùa nào trong năm cũng được.

Ta phải biết: Không gian vốn là chân không. Là nơi để Trường (khí) tụ xứ và tán xứ trong đó. Vì thế nên khi (cái) Trường tụ xứ vào trong phạm vi của không gian đó, thì ta gọi là "nhiễm trường". Khi Trường tán xứ đi thì ta gọi là chân không. Vậy khi ta nói lên câu "môi trường", thì điều đấy có nghĩa là không gian đó đã bị "nhiễm trường" mất đi rồi vậy.

Từ đây suy ra...: Các môi trường của thành phố hiện nay là đã bị ô nhiễm hết cả rồi! Toàn là khí thải của công nhiệp hết cả, lấy đâu để mà trong sạch cho được. Tổng các thành phần đó, tôi gọi là tạp khí, mang đầy ô nhiễm, cặn bã. Đạo vốn trong sạch, thậm chí tôi gọi là "Thánh Khiết". Kết luận; Ta không thể tìm thấy đạo một khi đang tham thiền tại môi trường của mọi thành phố trên bình diện địa cầu cho được.

Phật Thích Ca thường nói; Mười Phương, Tam Thế tất cả các Phật đều phải quán bằng tai. Tuyệt đối, không có lối mòn nào khác.

Ta xem xét tiếp câu này như sau:

Năm giác quan thông thường đó, Phật gọi là Ngũ Tặc. Do ngũ Tặc này làm tác động, gây loạn mà che mờ Ngũ Uẩn đi. Vậy Ngũ Uẩn chính là những chức năng tiềm ẩn phía sau của năm giác quan thông thường của chúng ta. Ta phải kiến, ngộ và liễu cái uẩn giác này như sau:

Phật đã chỉ định thẳng ra là quán bằng Tai. Vậy xét trên Kinh Dịch thì Tai thuộc Thủy. Ta Khởi Thủy tại chức năng của Thính Giác để xem xét là chính xác rồi vậy. Bởi gốc tại mùa đông, mệnh thủy, tính trầm lắng. Khí thuộc hàn, Vận hành trong Kinh Thái Dương, vào ngũ tạng định xứ tại Thận, huyệt mệnh môn, Dinh khí khởi thuận chiều. Tương ứng ra Lục Phủ trú quán ở Bàng Quang, huyệt Đan Điền, Vệ khí phát nghịch chiều. Thông dẫn ra khai khiếu ở Tai. (thủ pháp điểm huyệt người) Tạm như thế.

Ta đã nhìn thấu tướng tinh của nó rồi, có biến hóa thế nào cũng khó thoát ra khỏi sự quản thúc của ta cho được. Từ đó suy ra; Vậy là Phật đã ưu tiên cho những ai thuộc mệnh số an bài là Thủy để khởi động và có thể dễ nắm bắt nhất. (chúng ta chớ vội tiu nghỉu, vì mỗi mệnh là có một trọng trách của từng giai đoạn trong suốt cuộc hành trình). Vì thế, Mệnh Thủy được chúng ta thống nhất chỉ định lãnh ấn Tiên Phong nhé.

Chí ít thì khảo luận này cũng đã chỉ rõ cho chúng ta biết người mệnh Thủy khi tham thiền thì định tâm tại vị trí của Huyệt Đan Điền là sở trụ đắc địa của họ (thủ pháp định tâm). Tuy nhiên tất cả cũng đều phải quán bằng Tai chứ không hề có lối mòn nào khác hơn được nữa.

Bởi tại:

Trong cuộc sống hàng ngày. Ta đã quen nghe tất cả mọi hỗn tạp âm thanh của mọi tiếng động xung quanh tác động đến Tai. Điều này khiến gây nên việc che mất cái chức năng "Lắng" của Tai đi mất. Lắng, không phải là Nghe. Chỉ khi nào ta ở một nơi mà không gian xung quanh hoàn toàn không có tiếng động nữa. Thì lúc này tự nhiên Tai sẽ phát huy chức năng đó để Lắng.... nghe động tĩnh. Tại mọi phố thị, ta không có đâu một nơi yên ắng để Tai lắng tiếng động ra cho được cả.

Để đáp ứng được hai yếu tố Khí trong sạch và cái Lắng của Tai. Buộc chúng ta phải tìm nơi hoang vắng như... Núi rừng chẳng hạn. Đó chính là lý do tại sao các vị cứ phải tìm vào rừng hoang, đồng vắng để mà ngồi thiền.

Ta đang bàn đến Phật. Thế cho nên nếu ta ở một nơi hoang vắng trong rừng của mùa hè. Mọi âm thanh không tác động đến được. Lúc đấy chức năng của Tai sẽ phát huy khả năng để lắng được. Và lạ lùng thay! Âm thanh giữa rừng mùa hè chỉ duy nhất có tiếng ve sầu mà thôi. Tôi có giới thiệu rồi. Ve Sầu còn có tên khác nữa là Thiền! Bởi nó là Thiền nên tượng trời ký gửi ý trong đó là "Thoát Xác"!!

Thế nhưng khi ta đã quen với tiếng Ve đó rồi thì Tai lại dẫn ta tiếp tục lắng... đến tiếng côn trùng là... Dế!!! Đặc biệt hai loại âm thanh này lại có một cường độ sóng âm rất cao! Nó có cùng tầng số với tầng sóng âm ba của vũ trụ. Vì thế nó sẽ dẫn chúng ta bắt được tầng số của âm ba vũ trụ đó rất nhanh!

Đại khái nó có âm gần nhất mà nhân loại có thể mô tả như câu: Úm ma ni pát mê hùm!!! Nó có nhịp điệu trầm bổng, và rền vang như thế. Các vị Lạt Ma Tây Tạng hoặc Hindu thường dụng nó trong lúc tham thiền cốt là để dẫn thiền giả đồng nhất mà nhập vào cửa ngõ của âm thanh này được. Đó là việc làm của các Lạt Ma hòng để dìu dắt thiền giả còn đang trong vô minh. Mọi người không biết được, chỉ tin câu niệm chú như thế mà nhiếp trụ thôi. Chắc chắn sẽ liễu ngộ rất nhanh trong quá trình Tham Thiền. Rồi Thầy, Bà lại tán thêm đến đỗi xem như đó cũng là một câu thần chú mà trị bệnh nữa!!!


Khi du nhập sang đây, hóa tam sao thất bổn. Thành ra Án ma ni bát mê hồng! Rồi lại gặp phải những thiền sư mê lầm, tán ra ý nghĩa đó là; Ngọc báu trong hoa sen!! Rồi ngạo nghễ mà giảng bất kể thiên hạ khắp cõi ta bà mà giáo hóa chúng sanh!!! Để giải thoát !!, ? Vậy câu niệm lục tự di đà của có tác dụng dẫn ta nhập vào cõi đạo đó được. Tuy có hơi khó khăn là rất xa với ngữ âm của âm ba thực tại của vũ trụ.

Tuy cái nhịp điệu của vũ trụ vẫn còn đó. Thế như cái âm ba là có giảm mất giá trị nguyên thủy đi rồi vậy.

Quán vũ trụ bên ngoài đến độ bão hòa (có thể nghe được tiếng nụ hoa tách nở nhụy hoặc tiếng mây cuộn ở tận thinh không) rồi, Tai ta tự nhiên lại bắt đầu quán đến trong thân. Đến lúc này thì ta mới bắt đầu có thể liễu ngộ ra là tại sao Phật lại gọi là Ngũ Tặc. Và đồng thời cũng kiến ngộ Ngũ Tặc đó hoành hành ra sao. Bởi vì ta không thể nào định yên Ngũ Tặc đó cho được cả! Chỉ đến khi nào ta phát giác ra được chức năng Lắng của Tai mới có đủ khả năng để định yên được Ngũ Tặc đó. Vì thế nên Tai mới lãnh ấn tiên phong để dẹp giặc được. Các chức năng khác là bất khả quán..., xuyến.

Công việc của Tai là dẹp loạn, trả tất cả các Tặc đó về với gốc rễ định quán của chính nó. Sau rồi Tai cũng giải giáp và trầm lắng với chính bản tính của mình luôn thì; Tai được Tạo Hóa trả công ngay lập tức là ta nghe vẳng được tiếng Nhạc Trời, tấu khúc khải hoàn!

Tiếng nhạc trời đó, như báo hiệu cho thiền giả biết đã chính thức nhập định và bắt đầu đi vào cõi thiền. Ta có thể nghe âm ba của tiếng nhạc đó vang rền khắp vũ trụ. Tựa hồ như hằng muôn muôn, vạn vạn tiếng cầu kinh của khắp cõi Tam Giới đồng rền xướng một lượt vậy. Lạ một điều là không chỉ khi ta tham thiền. Ngay cả khi ta đã bước ra khỏi nẻo thiền rồi. Bên Tai vẫn cứ nghe tiếng nhạc đó du dương mãi. Nhất là khi đêm về, càng vang rền một cách rõ rệt. Ta lắng tai kỹ lại, vẫn nghe được một cách rõ ràng chứ không hề mơ hồ gì ở đây nữa cả.

Nếu tôi cứ nói mãi. Thì sẽ không cùng mà dứt ra cho được. Không có một trật tự nào ở đây cả. Các bạn sẽ dễ hoang mang. Vậy tôi tạm kết luận như sau:

Quy trình của 49 ngày đó, có những diễn biến theo một trật tự nhất định như sau (với điều kiện là ta đi đúng hướng):
Tuần thứ Nhất; Khí Trời đủ chu lưu và thanh lọc khắp cơ thể.
Tuần thứ Hai: Khí Đất cũng hoàn thành một quy luật như thế.
Tuần thứ Ba: Khí Người dung hòa giữa hai khí Trời và Đất mà vận hành khắp một lượt trong thân.
Tuần thứ Tư: Số 4 cũng là số thành. Cho nên ta nhất định sẽ nghe được Nhạc Trời.
Tuần thứ Năm: Tinh tích đủ và Tụ kết thành chất trong người. Lúc này ta sẽ nghe được mùi của Tinh hoa của trời đất đó thoát ra bên ngoài như mùi Trầm Hương vậy. Điều này cũng báo hiệu cho ta biết là trong thân đã trong sạch và hóa Thánh. Vì sự trong sạch đến độ Thánh Khiết mới phát trầm ra được. Như mọi sự thường nhật của chúng ta, nếu xông Trầm Hương là đã khử sạch mọi uế, tạp khí và thể hiện sự tôn nghiêm rồi.
Tuần Thứ Sáu: Thần xuất. Bởi mùi Hương Trầm của Tinh khí kết tụ từ anh linh trời đất, giống như "mồi nhử" thì Thần mới xuất ra được. Chưa có mồi của Tinh, Trầm anh linh đó. Nhất định Thần không thể xuất hiện cho được. Lưu ý: Mùi trầm này không phải chỉ lúc ngồi thiền mới phát. Mà cả khi ta xả thiền, mùi Trầm đó vẫn phát ra khắp cả nhà suốt ngày vậy.
Tuần thứ Bảy: Khi đã hội đầy đủ Tinh, Thần, Khí rồi hẵng nói đến chuyện vận khí mà mở Luân Xa cho được. Lúc này mở Luân Xa nào. Ắt đắc sở dụng ngay công năng đó, không sai được.

Luân Xa là rất khó mở: Đại đa số hiện nay cũng chỉ là tưởng tượng về nó mà thôi. Không hề có chuyện khai mở như hiện nay nghĩ như thế cho được. Ví dụ cho có may phúc mà tự nhiên mở được. Ta còn phải biết là: Cái khí mà ta đang nạp theo Luân Xa vào đấy. Nó là dạng khí nào trong nguyên, chính, tà, tạp..., khí?

Điều quan trọng nhất là: Trong thân của ta đã có dược liệu gì chưa (Tinh, Thần) để còn hòa dược liệu mà khai huyệt, đón rước đạo nữa. Hầu hết đều là những cái bình rỗng và cũng chỉ đón loạn khí mà thôi. Vô Phúc, rước phải Tà Khí ắt là hại thân, hại đời luôn rồi vậy. Có luân hồi chuyển kiếp, cũng khó mà trả dứt nghiệp đã trót gieo trong mê muội cho hết trong một kiếp được.

.




47 - CÔNG CỤ KHAI THÁC THỨ 2




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Diễn biến giai đoạn cứ phải tranh cãi mãi mà không thể diễn đạt rõ ràng sự việc gì cho được. Khiến nên sự việc cứ mãi trong trạng thái hồ nghi, rồi lại rơi vào bế tắc chung.

Nền khoa học vật lý vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ 20 cũng đã vấp phải rào cản rắc rối này. Đó chính là lúc mà Rutherford thâm nhập vào thế giới của nguyên tử mà ta quen gọi là thế giới Hạt.

Nhân loại chúng ta đã vô cùng ngỡ ngàng và cảm thấy kinh ngạc đối với thế giới ấy! Bởi đó là một thế giới động!! Hay đúng hơn là cả một vũ trụ động, mở ra trước tri thức ấu thơ của nhân loại chúng ta!!! Một thế giới đã được Tạo Hóa xây dựng và thiết kế trên nền tảng của cái gọi là cơ cấu động! Điều này ta có thể hình dung tạm như là một mạng lưới vậy. Một cái động toàn thể!!

Những điều này đã đang hiện diện tại ranh giới của không gian chiều thứ tư rồi vậy. Thế cho nên công cụ ngôn ngữ của nhân loại chúng ta đã tỏ ra bất lực, để hoàn thành sứ mệnh diễn đạt của mình.

Tư duy của các nhà bác học biết rất rõ điều này. Và để giải quyết vấn đề khó khăn này, nhà bác học Friedmann đã lập ra công cụ ngôn ngữ của biểu đồ. Hy vọng phương tiện này sẽ giúp nhân loại chúng ta khai thác sâu hơn vào không gian chiều thứ tư. Và biểu đồ đó có tên gọi là "Biểu đồ không thời gian" của Friedmann, vị bác học người Nga.

Chúng ta cùng tham khảo qua hai mẫu trình bày như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chúng ta hãy tập làm quen với hai biểu đồ ở trên. Bởi đây chính là công cụ ngôn ngữ thuở sơ khai (cái nguyên nhân của hình học) mà ta gọi là biểu đồ. Do ngôn ngữ đơn thuần của chúng ta đã bị giới hạn phía bên ngoài của không gian chiều thứ tư rồi. Thế cho nên mới phải dùng đến công cụ ngôn ngữ của biểu đồ này đễ diễn giải những sự việc về không gian chiều thứ tư đó. Không thể cứ cãi ngang mãi được, và đây chính là phương pháp giải quyết vấn đề của nền khoa học vật lý.

Do không gian chiều thứ tư là vô hình. Là chiều Thời gian. Thế cho nên người ta quy định chiều Tung (đứng), mũi tên chỉ lên phía trên của biểu đồ là chiều của Thời gian. Và chiều Hoành (ngang) được quy định là chiều Không gian. Khoảng cách từ A đến B, ta gọi là khoảng cách (x) trong không gian (hình 1).

Và trong hình 2 thì biểu đồ được trình bày như sau:

Ví dụ trong không gian, ta có sự xuất hiện của một vật (hạt). Vật này đang trong trạng thái đứng yên. Thế nhưng thời gian vẫn đang trôi qua... Vì thế ta biểu thị điều đó bằng một mũi tên hướng lên trên, theo chiều của thời gian.

Nếu ta muốn diễn đạt hay mô tả một vật vận động trong không gian, nếu sang bên trái thì ta sẽ vẽ mũi tên nghiêng sang trái. Nếu bên phải thì ta nghiêng mũi tên sang phải (giống như hai mũi tên ở giữa).

Bằng như hạt vận động nhanh hơn, thì ta chỉ việc vẽ mũi tên đó có độ nghiêng cao hơn mà thôi (hai vạch cuối cùng, hình 3).

Tuy nhiên; Ta không thể vẽ mũi tên này theo phương nằm ngang được. Bởi điều đó có nghĩa là; Không cần một khoảng thời gian nào, mà một vật có thể di chuyển từ A đến B cho được. Đó là điều vô lý. Vậy biểu đồ này là không có chiều ngang. Ta muốn trình bày thì phải tuân thủ theo quy tắc này, chứ không phải muốn vẽ ra sao thì vẽ cũng được. "Không vẽ ngang được" (giống như không cãi ngang được, cố cãi nữa là họ đang nói đến những điều mà họ không biết tới cho được). Vậy mũi tên theo chiều dọc (đứng) là thời gian, chiều ngang là không gian và mũi tên nằm bên trong đó, gọi là vạch vũ trụ.

Và dựa trên biểu đồ này là ta có thể diễn tả đến "thế giới Hạt" được rồi vậy. Ví như ta trình bày một biểu đồ có dạng sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quy tắc đọc biểu đồ là từ dưới lên trên, từ trái sang phải nhé. Thế cho nên ta xem xét thấy trong hình 1 là có hai hạt ở hai hướng, vận hành đến và va chạm với nhau. Tiếp đến là chúng vận hành theo chiều thời gian, rồi Một nhả ra và Một hấp thụ. Sau đó chúng lại rẽ sang hai hướng khác.

Lưu ý: Khi trình ở đây, có một khiếm khuyết (không quan trọng). Hạt photon, pion, eta là vô hình. Khi vẽ phải là một vạch đứt nối. Đưa lên đây thì ra vạch liền. Các nhà chuyên môn không vì thế mà vội tranh cãi điều lặt vặt này nhé.

Trong hình 2 là mô tả một electron và một photon. Do photon là vô hình nên phải diễn đạt có nét đứt nối như thế. Sau khi đã quen đọc rồi, mũi tên hướng lên là đọc xuôi theo chiều thời gian, và đọc ngược chiều thời gian là mũi tên hướng xuống như hình 3. Điều có cũng có nghĩa là hạt positron. Biểu đồ không - thời gian này, về sau đã được phát triển và gắn liền tại mỗi điểm va chạm một phát biểu ký hiệu toán học kèm theo. Và nó đã trở thành một trong những công cụ (lý thuyết trường lượng tử) quan trọng bậc nhất của nền khoa học hiện đại ngày nay.

Vậy là chúng ta đã biết cách đọc theo ngôn ngữ của đồ hình rồi vậy. Và bây giờ tôi diễn đạt sự tương tác của một electron với một photon (hình 1).

Và hai electron tương tác như sau (hạt electron, ký hiệu là e- và phản hạt là e+):

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong hình 1 mô tả cho ta thấy một electron va chạm với một photon và hấp thụ photon (hủy). Sau đó chuyển hướng khác và nhả ra (sinh) một photon, rồi hai hạt chuyển ra hai hướng khác nữa.

Trong hình 2 là electron va chạm với positron, một bên nhả ra một photon, một bên hấp thụ photon và rồi chuyển ra hai hướng. Điều này cũng được gọi là 2 hạt tương tác với nhau. Hấp thụ là hủy, nhả ra là sinh.

Và...; Trước sau gì thì khi đã quen, rồi thì hai chiều mũi tên chỉ thời gian và không gian cũng trở nên thừa. Và các nhà chuyên môn không nhất thiết cứ phải vẽ ra làm gì nữa. Miễn trong quá trình diễn giải, họ luôn tuân thủ theo nguyên tắc đó. Nên ta thấy những biểu đồ không thời gian đó, được diễn tả như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong hình 1, ta thấy biểu đồ mô tả sự va chạm của một proton và một anti-proton. Và đã tương tác với nhau một pion, cuối cùng trở thành hai proton rẽ sang hai hướng.

Thế nhưng hình 2 thì lại hóa thành 2 pion chứ không phải là hai proton như hình 1!

Và hình 3 là mô tả sự va chạm của proton và pion, ở đây lại xuất hiện tương tác với một neutron.

Tóm lại; Trong mọi tiến trình va chạm, ta không thể xác định được chính xác là nó phải xảy ra cho một kết quả như nhau được! Cả một mạng lưới Hadron đều tương tác, đan xen, chằng chịt với nhau trong một tổng thể không xác định được đó. Tôi chỉ có thể trình bày với các bạn sơ lược vài điều đơn giản như trên đây thôi. Mục đích là để các bạn hình dung ra thế giới tương tác đó phần nào. Để tránh được những câu hỏi tranh cãi đến những điều không biết, nên rất vô nghĩa xảy ra. Rồi giận lẫy trong lòng, dẫn đến ném đá lung tung cho hả giận!?

Bởi vì nếu tôi trình bày ra cả hệ thống của Hadron là chắc chắn các bạn sẽ rối loạn lên hết, dẫn đến tư duy không nắm bắt được gì là một sự thật. Thế giới này không khẳng định được một điều gì chính xác cả!! Cho nên ta mới nghe gọi là xác xuất. Ngay cả như biểu đồ sau đây là:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy trong biểu đồ của hình 1. Ngay cả một proton, tự thân nó cũng tự sinh ra một hạt pion rồi tự hấp thụ lại! Hoặc cũng có khi nó tự nhả ra một pion. Trong khi đó bản thân nó lại hóa ra neutron!!, Và sau đó tự hấp thụ lại pion và hóa thành proton, như hình 2!!! Đó cũng được gọi là hạt giả!

Ta thấy ngay cả ngôn ngữ “tương tác” cũng không chính xác nữa!? Bởi vì tương tác là để diễn tả sự trao đổi giữa 2 đối tượng với nhau. Đằng này tự thân nó cũng diễn ra thì làm sao gọi là tương tác cho được nữa!?

Và đó là tất cả mọi sự rắc rối, mà chúng ta không thể nào hiểu nổi đối với thế giới Hạt. Và đó cũng chính là cái tinh thần cốt tủy của Thuyết Lượng Tử, đã được đúc kết với hai từ “xác xuất”. Trong mọi tiến trình va chạm, ta không thể khẳng định được một cách chính xác bất kỳ một kết quả nào được cả!!! Nó có 70% như thế này, 20% thế kia và 10% khác đi nữa!

Chúng ta không thể nào xác định được đâu là mô hình chính xác, chứ chưa nói gì đến cơ bản nữa! Cả một hệ thống mạng lưới của các Hạt, đan xen chằng chịt và tương tác với nhau, không theo một trật tự nhất định nào hết cả!! Các nhà bác học cuối cùng rồi cũng sàng lọc và gom lại được những cơ cấu dữ liệu, thiết kế nên một hệ thống được gọi là Hadron.

Trong hệ thống Hadron này, tất cả các thành phần hạt cứ tương tác với nhau qua các quỹ đạo khả dĩ nào đó..., mà cho đến tận ngày hôm nay các nhà chuyên môn chưa có thể xác định được!? Tôi có thể giới thiệu sơ lược qua cấu trúc của hệ thống Hadron đó có mô hình như sau:

Nhân đây, tôi cũng giới thiệu sơ qua để các bạn biết hệ thống của Hadron gồm có các thành phần hạt như sau. Chúng ta cùng tham gia quan sát nhé:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy hệ thống Hadron này liệt kê gồm 13 hạt. Và nó có nhiều trật tự khác nhau trong đó. Ví như các hạt được gọi chung là lepton là do các hạt này chỉ tham gia trong tiến trình thuộc hệ tương tác yếu mà thôi. Các Hadron lại chia ra meson và baryon nữa. Các meson lại là tên gọi chung những hạt nào có đối hạt với chính nó. Và các baryon là có đối hạt riêng (anti).

Tất cả các hạt này đều va chạm, sinh ra và phân hủy cùng với nhau trong một mạng lưới tổng thể đó. Hiện nay ta cũng chưa biết được nó tương tác nhau cụ thể như thế nào cả. Tuy nhiên các nhà chuyên môn cũng đã chia ra được 4 loại tương tác cả thảy. Tôi trình bày theo thứ tự từ nhỏ đến lớn, để các bạn dễ nắm bắt được như:

1- Lực tương tác yếu là các hạt đang trong trạng thái tự do. Chưa hình thành bất kỳ sự liên kết nào cả. Chúng trôi lơ lững và va chạm vô trật tự với nhau. Và chúng tương tác với nhau là hạt boson. Ví như sự phân hủy bê ta chẳng hạn. Chúng không có “chất kết dính” lại với nhau, nên gọi là lực yếu.

2- Lực tương tác mạnh sẽ giữ hạt proton và neutron gắn chặt với nhau để hình thành nhân của nguyên tử. Hạt tương tác này gọi là gluon. Tôi đã có mô tả về nó ở một trong các bài trước cùng các bạn rồi. Ta cũng gọi gồm chung các hạt trong nhân là nucleon.

3- Lực tương tác điện từ là nó níu electron liên kết với nhân, không thoát ra được, để hình thành một nguyên tử đơn thuần. Nó cũng tương tác với các phân tử khác mà hình thành các nguyên tử phức tạp hơn. Và hạt tương tác này là photon.

4- Lực tương tác cưối cùng là tương tác trọng trường. Nó giữ mặt trời, mặt trăng, trái đất và các hành tinh không tách rời ra được. Hạt tương tác này được gọi là graviton.

Thế nhưng, cho mãi đến hôm nay. Nền khoa học của nhân loại chúng ta vẫn chưa có thể phát hiện ra sự hiện diện của hạt graviton đó!! Căn cứ vào 3 lực tương tác kia. Họ suy ra và nhận định như thế, đối với hạt graviton trong tương tác trọng trường!!!

Qua bài viết này, tôi chỉ giới thiệu lướt qua thôi. Để các bạn có một ý niệm cơ bản về Thuyết Lượng Tử là như thế nào. Ta chỉ mới đứng ngoài cửa ngỏ của lý thuyết này mà thôi. Chúng ta thấy nó đã phức tạp và rắc rối như thế nào rồi. Dần tới, tôi sẽ đưa các bạn du hành sâu vào thế giới này tham quan cái gọi là Ma Trận trong đó. Rồi còn thế giới Ma Trận, Vũ Trụ Ma Trận nữa. Để biết rằng xưa nay chúng ta cứ nói đến Ma Trận đơn giản quá. Bởi thế giới Ma Trận này, hiện nay các nhà chuyên môn bao gồm cả bác học vẫn chưa có thể biết tới cho được. Nếu ta tham quan thế giới ma trận này và thấy được nó biến ảo ra sao. Thế giới Thiền với những cảnh giới trong đó cũng phản ảnh giống như thế!

Khoa học là điều mà ta có tiền là có thể trang bị cho bất cứ ai cũng được. Nếu học, là sẽ đến được cái đích của khoa học được thôi. Thế nhưng chúng ta lại thấy không thể nào hiểu nổi được điều có thể hiểu trong một đời này. Vậy mà Đạo là điều không thể hiểu đối với muôn kiếp. Chúng ta lại cứ tỏ ra hiểu về đạo rất thâm sâu vậy!!! Kể cũng lạ thật!?

Muốn hiểu giá trị của đạo. Nhất định chúng ta phải đi qua cánh cổng của khoa học này mới có thể đến được. Ít nhất chúng ta cũng ý thức mà nhẹ lời hơn khi tranh cãi về Đạo. Riêng về khoa học thôi, hiện nay chúng ta cũng đang rất mạnh miệng khi nói về thuyết Lượng Tử và Tương Đối! Trong một vài bài nữa, ta sẽ biết được giá trị đích thực của hai học thuyết này là như thế nào.

Những bài sau, chúng ta dùng công cụ của ngôn ngữ biểu đồ này mà khai thác cùng với ngôn ngữ thông thường xem sao nhé. Từ đầu cho đến bây giờ. Chúng ta chỉ mới có dùng mỗi ngôn ngữ thông thường thôi. Nên dĩ nhiên đã có những tranh cãi vô nghĩa xảy ra rồi. Khi nào cảm thấy bế tắc nữa; Ta mới bắt đầu sử dụng đến công cụ của ngôn ngữ thứ 3 là Toán Học.

Sau đó ta mới bắt đầu ý thức để mà mà Ngộ ra chân giá trị của Đạo.

.


Thanked by 2 Members:

#20 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 11:20

48 - THÂM NHẬP THẾ GIỚI HẠT.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Như tôi đã từng nói: Đã đến lúc cộng đồng nhân loại chúng ta phải sang sông.
Bởi tôi cũng không ngại mà chỉ thẳng ra rằng: Đã có một số tư duy phát triển của phương tây, được xem là đỉnh cao hiện nay. Ví như họ cũng xem các nhà tỷ phú cũng thuộc là đẳng cấp ưu tú đối với đại đa số cộng đồng còn lại trong xã hội. Và họ đã suy theo quy luật của thuyết tiến hóa mà lập những kế hoạch cho ngày tận thế xảy ra!
Xét trong một giới hạn nào đó thì họ cũng không sai. Thế nhưng mô hình thực tại của vũ trụ là vô cùng. Sao họ có thể bỏ rơi cả cộng đồng ở lại cùng sự kiện của ngày tận thế cho được. Bởi họ không thể nào biết được rằng, với khả năng của nền khoa học hiện nay. Hoàn toàn lạc hướng tư duy mất rồi. Và lại càng không thể xác định được vị trí khả dĩ nào trong mô hình thực tại của không – thời gian cả!
Vì thế; Ai trong số họ, bao gồm cả các nhà bác học hiện nay. Đủ khả năng để chỉ ra rằng vị trí mà họ đang ra sức xây dựng đó; Không phải là nơi mà Tạo Hóa sẽ thanh tẩy trong ngày tận thế? Hay đó mới chính là vị trí mà quy luật của tự nhiên cần phải đào thải??
Tôi vẫn đang đứng về phía số đông của cộng đồng, và chúng ta đang cùng nhau tham khảo những thiết kế trên trang này. Vì thế, sẽ không có lý do gì mà chúng ta bỏ qua những bước ngoặc nền móng có tính quan trọng cho được.
Và yêu cầu đòi hỏi là chúng ta bắt buộc phải xem xét kỹ càng về công cụ khai thác không gian chiều thứ tư này là biểu đồ không – thời gian rồi vậy. Để chí ít thì chúng ta cũng biết được khả năng của công cụ này. Cho dù ta không sử dụng được, cũng bớt tạo ra thêm rắc rối do tranh cãi vô tội vạ phải có. Trong khi những điều tranh cãi đó, chỉ gây cản trở và khó khăn hơn cho các nhà phát minh khi muốn trình bày sự thấy của họ cùng cộng đồng. Và hệ lụy của nó là làm chậm lại đà phát triển của cộng đồng nhân loại chúng ta tới tương lai chung mà thôi. Và đó cũng chính là những thành phần tư duy trì trệ, sẽ bị bỏ rơi lại cùng với quy luật đào thải trong cuộc vận hành tới tương lai của mô hình tự nhiên.
Vậy chúng ta lại cùng tiếp tục tham khảo những trình bày tiếp đến nhé:
Khi các nhà chuyên môn bắt đầu sử dụng biểu đồ Không – Thời Gian để diễn đạt về miền ranh giới của chiều thời gian đó. Họ quen dần với cách đọc xuôi và ngược chiều thời gian của biểu đồ. Từ đó dẫn đến họ suy ra các Hạt vốn là có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trong không gian, chứ không phải xuất hiện tại một vị trí giới hạn như đã quy định theo nguyên tắc trong biểu đồ cho được. Và các nhà chuyên môn vận dụng cách đọc theo kênh dọc và kênh ngang trong biểu đồ này. Và ta bắt đầu thấy biểu đồ Không – Thời Gian xuất hiện mô hình như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chúng ta xem xét theo từ bên trái của các bạn nhé. Biểu đồ này mô tả một proton và một pion vận hành đầu tiên từ bên trái, và va chạm với nhau tại A. Nó tương tác với nhau một pion và chuyển hướng, vận hành với một vận tốc cực nhanh rồi nhà ra tai B một proton và pion khác, rồi chuyển sang hai hướng khác nữa. Biển đồ này đã cho ta xem xét trong một kênh ngang.
Và rồi biểu đồ sau đây là trình bày cho chúng ta thấy cách vận dụng và đọc và đọc biểu đồ không – thời gian trong cả kênh dọc và kênh ngang của các nhà chuyên môn.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy khi xem xét sự tương tác trong biểu đồ của hình 1 là kênh dọc, thì ta sẽ đọc theo chiều ngang, từ trái sang phải, từ dưới lên trên! Và hình 2 là kênh ngang, thì ta phải đọc dọc từ dưới lên trên, từ trái sang phải!!
Thật ra ta chỉ việc hình dung là xoay biểu đồ của hình 1 thành 90 độ, theo ngược chiều kim đồng hồ, là thành ra biểu đồ của hình 2 mà thôi.
Và căn cứ vào biểu đồ không – thời gian này mà các nhà chuyên môn có thể dùng công cụ ngôn ngữ này mà khai thác thế giới tương tác của các hạt trong cả hệ thống Hadron nói chung. Không phải ta muốn vẽ ra sao thì vẽ cho được cả. Rất nhiều các nhà giáo sư, tiến sĩ của Việt Nam hiện nay. Họ chỉ cố cãi ngang với sự biết (trong giới hạn) của họ về cái lý, mà không hề biết gì đến ngôn ngữ của biểu đồ không – thời gian này bao giờ cả!!! Mà nếu như ta chỉ ra điểm yếu đó của họ, là ngay lập tức họ cho cái công trình “nghiên cứu” của tác giả đó trở thành “ngâm cứu” ngay. Một thực trạng rất đáng phải lên án tại Việt Nam hiện nay. Tôi không tô đậm thêm nét câu “tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến thì cũng lấy làm thẹn lòng với ông cha lắm vậy.
Một ít uất khí chợt thổn thức, khiến gây lạc dòng đề tài của trang. Chúng ta vội quay trở lại và tiếp tục tham khảo nhé:
Và rồi sau đó, ta thấy Faynman phát triển biểu đồ này lên thành một tầm cao hơn nữa vào năm 1949. Là ông phát biểu thêm những ký hiệu toán học gắn liền theo tại mỗi vị trí va chạm của hạt, và nối dài thêm lên… Tôi chỉ giới thiệu qua biểu đồ đã được gọi tên thành “biểu đồ Faynman” để các bạn có thể nhận dạng như sau:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thế nhưng, không một ai sau Faynman đủ để biết được rằng: Biểu đồ Faynman đó đã dẫn nhân loại chúng ta đi lạc hướng tương lai mất rồi!? Thế cho nên tôi mới gọi Faynman là “kẻ cuối cùng của bộ tộc lượng tử” vậy! Và tất cả chúng ta hôm nay; Không thuộc phả hệ ấy, nên chúng ta không ai hiểu gì về Thuyết Lượng Tử cả!!!
Bởi vì biểu đồ của Faynman này cũng không thể khẳng định được một điều gì chính xác hết cả! Nó cũng chỉ là một xác xuất cố hữu của Thuyết Lượng Tử mà thôi!! Nhân loại chúng ta đang cần đến mô hình thực tại của một vũ trụ tương lai chính xác. Thế cho nên hôm nay. Các nhà bác học đã vẽ lên một mô hình của vũ trụ đầy hỗn loạn, hoàn toàn tăm tối (lỗ đen) cả tương lai của nhân loại chúng ta mất đi rồi.
Nếu như vũ trụ tương lai có mô hình tăm tối như một cái lỗ đen mà Hawking đang ra sức khai thác đấy. Ông lại còn đang kỳ vọng vào Lý Thuyết Dây nữa chứ!? Tôi thà chấp nhận tự sát ngay, chứ không có thể chấp nhận sống một phút, giây nào trong một vũ trụ có mô hình như thế. Bởi những sinh vật sống trong vũ trụ “đường ống” đó. Là một vũ trụ thiếu ánh sáng với môi trường đầy ô nhiễm, và có thể nhận lấy những trận lụt hồng thủy cuốn trôi, có thể xảy ra bất kỳ lúc nào!!! Một vũ trụ không mong muốn.
Tôi biết: Mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên. Không hề có mô hình đấy bao giờ cả. Vì tương lai của cả nhân loại chúng ta, bắt buộc chúng ta phải xem xét lại toàn bộ vấn đề này. Xét thời điểm khi mà Faynman phát kiến biểu đồ là là năm 1949. Vậy chúng ta cùng quay ngược trở về quá khứ trước đó nữa. Để xem xét các nhà bác học đã từng bị bỏ sót qua chi tiết quan trọng nào. Khiến nên con tàu khoa học vật lý của nhân loại chúng ta hôm nay. Đang lạc hướng trước biển cả của Kỷ Nguyên Mới, và đang phải đối đầu với chân trời sự cố của lỗ đen, cùng một ít thông tin của cái gọi là “entropy” đầy hỗn độn như thế?
Chúng ta cùng tiếp tục du hành ngược trở về giai đoạn của quá khứ nào mà có tính liên quan mật thiết với những biểu đồ này xem sao nhé:
Đó chính là thời điểm của năm 1943! Vào thời điểm của giai đoạn này thì…, tôi xem Heisenberg đã nghiễm nhiên trở thành Thuyền Trưởng của Con Tàu Lượng Tử! Bởi Niels Bohr đang lưu vong cùng Einstein, tận bên Châu Mỹ từ những năm của thập niên 1933 mất rồi. Ta xem xét thấy Hei senberg đã phát hiện ra những hạn chế từ biểu đồ không – thời gian của Friedmann. Đồng thời công cụ ngôn ngữ này, cũng không có thể mô tả được sự việc gì chính xác trong thế giới của sự tương tác cả! Và Heisenberg đã cùng với Chew đã đột phá sang một hướng khác. Với một biểu đồ có mô hình được thiết kế như sau:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta quan sát thấy vật bị quan sát này trong hình một, có dạng thiết kế mô hình như thế là bởi: Các nhà chuyên môn đã không thể nào hiểu được sự tương tác đã diễn ra như thế nào nữa. Và họ đã chấp nhận bỏ qua yếu tố này, không giải thích! Và họ đã khoanh một vòng tròn trống rỗng, đặt lên cái tâm của biểu đồ của không – thời gian. Không xem xét tới nữa. Nguyên tắc của nền khoa học là: “Được phép bỏ qua một vài yếu tố không xem xét, để đủ được gọi là khoa học”. Ví như, trong giai đoạn đó. Ta vấp phải một vài thành phần chi tiết không thể giải thích. Ta được phép bỏ lướt qua để còn vận dụng đáp ứng vào cho kịp đà phát triển mà phục vụ cộng đồng nhân loại. Bằng như ta dậm chân tại chổ để cố giải thích điều không thể giải thích đó. Thì sự phát triển của cộng đồng nhân loại chúng ta, cũng không thể nào đạt tới tầm hiện đại như ngày hôm nay cho được.
Thế cho nên ta mới thấy biểu đồ này có mô hình như thế (hình 1). Lúc này ta không quan tâm tới những gì “tương tác” phía bên trong cái hình tròn đó nữa rồi. Mà ta chỉ quan tâm tới dữ liệu của đầu vào và đầu ra mà thôi. Đó chính là giá trị của sự “phản ứng”. Thế cho nên ta mới thấy những ký hiệu A-B-C-D trên biểu đồ của hình 2. Về cách đọc biểu đồ thì vẫn theo như quy tắc cũ.
Ví dụ, biểu diễn: Khi xem xét chiều dọc, thì đọc theo chiều ngang ta có:
1- A+B à C+D. Trong kênh dọc.
2- A+C à B+D. Trong kênh ngang.
Và biểu đồ này có tên là “Ma trận Phân Tán” (của ngày đầu tiên, khi mới chào đời). Nguyên nghĩa là “Scattering Matrix”, ta cũng còn gọi là Ma Trận S. Và Heisenberg cùng vị kiến trúc sư trưởng Chew, đã lập nên trong năm 1943.
Như thế, từ đây suy ra: Vị Thuyền Trưởng của con tàu lượng tử là Heisenberg, đã chuyển hướng con tàu này một hướng khác, kể từ năm 1943 rồi. Vậy mà Thủy Thủ Faynman, vẫn cố chấp mà phát triển biểu đồ không – thời gian thành biểu đồ Faynmann mãi sau 10 năm nữa cho bằng được!!! Gẫm lại xem…; Tôi gọi Faynman là “kẻ cuối cùng của bộ tộc lượng tử”, cũng không ngoa tí nào cả.
Đề tài này rất đau đầu cho tất cả chúng ta. Vậy tôi chỉ viết ngắn gọn, sơ qua như thế này để các bạn cùng biết qua thôi. Ta sẽ xem xét khả năng của công cụ này ra sao, trong những bài tiếp theo vậy nhé.
Thử xem Ma Trận đó có giá trị như thế nào, và nó dẫn nhân loại chúng ta hiện nay sẽ đi đến đâu? Điều quan trọng là ta có xác định được thời điểm hiện nay ta đang ở vị trí nào trong Ma Trận S đó? Hay đang lạc mất trong hoảng loạn, và hoàn toàn không thể xác định được phương hướng nào nữa trong Ma Trận đó mất rồi!!!


Đoạn này tôi đọc cả tối vẫn chưa hiểu. Đưa lên đây để mọi người cùng thảo luận.


49 - HUYỆT CHÍ TỬ!



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Chúng ta thấy trong cuộc du hành… “ngược thời gian, trở về quá khứ…” đó. Chúng ta đang dừng lại tham quan nơi miền địa phương của thời gian trong thập niên 40 của thế kỷ 20 vừa qua.
Điều mà tôi muốn nhắc đến, chính là biểu đồ phản ứng của Heisenberg và Chew (Ma Trận S) mà chúng ta vừa nghị lãm qua. Vậy trong bài viết này, chúng ta tiếp thục khai thác xem nơi địa phương này có tiềm ẩn điều gì trong cái khoảng không của biểu đồ này. Đã từng bị Heisenberg bỏ qua hay không?
Theo như quan niệm của riêng tôi thì: Nền khoa học đã “ưu ái” mà bỏ qua cho Heisenbeg cùng vị kiến trúc sư trưởng ngày đấy là Chew. Vì tương lai của nhân loại chúng ta hôm nay, kể cả các thế hệ tương lai mai sau nữa. Chúng ta nhất định phải xem xét tất cả mọi ngóc ngách của sự kiện cũng như vấn đề này.
Vậy chúng ta cùng tham khảo nhé:
Khi các nhà bác học bắt đầu sử dụng công cụ mới này để khai thác thế giới hạt. Ta thấy họ đã diễn giải và trình bày ra những mô hình như sau:



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ta thấy lúc này là không xem xét đến tương tác nữa. Mà chỉ quan tâm đến phản ứng mà thôi. Trong hình 1, thì dữ liệu đầu vào là một proton và một anti-proton. Và đầu ra là một pion âm và một pion dương. Thế là đủ.
Trong hình 2 vẫn vậy: Dữ liệu đầu vào là một proton và một pion dương. Và kết quả đầu ra là một anti-proton và một pion âm. Ta có thể gọi tiến trình phản ứng này (tạm gọi) là “nhân quả thống kê” cũng được.
Và ta tiếp tục xem xét trong biểu đồ sau đây. Để hình dung phần nào đó về cách đọc biểu đồ phản ứng này nhé: Khi xem xét trong kênh ngang, thì ta đọc dọc, và khi xem xét trong kênh dọc, thì ta đọc ngang nhé.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Và rồi trong những tiến trình phức tạp hơn, tôi có thể liệt kê ra những biểu đồ cơ bản đó cùng các bạn tường lãm như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Những biểu đồ như trên là mô tả diễn đạt những tiến trình va chạm với các cấp độ phức tạp hơn dần lên. Và trong hình 4 là đỉnh của sự phức tạp rồi vậy. Như thế, chúng ta cùng quay trở lại, cùng tôi xem xét và phân tích tình hình chung, chi tiết hơn nhé.
Thế nhưng, có một vấn đề như thế này: Rõ ràng là công cụ của biểu đồ này là tối ưu nhất của Thuyết Lượng Tử rồi. Tuy nhiên ta vẫn không thể nào biết được những diễn biến gì thực sự đã xảy ra trong cái khoảng không đã được bỏ qua đó? Tính xác xuất ương bướng của học thuyết này vẫn gieo những nỗi âu lo cho các nhà bác học, khiến họ trằn trọc, mất ngủ hằng đêm. Thậm chí len lỏi sâu vào tận những giấc mộng của họ suốt hằng trăm năm qua. Những nỗi sợ hãi cùng ác mộng của tương lai, luôn hiện diện trong giấc ngủ của họ.
Kể từ ngày thâm nhập vào miền thế giới của Ma Trận này. Heisenberg đã phát hiện ra những lỗ hổng trầm trọng của con tàu lượng tử mà không cách gì vá víu cho được nữa…
Trong bối cảnh nguy nan như thế. Vị kiến trúc sư trưởng Chew, nhanh chóng rời tàu! Và Chew đã nhanh chóng mở hướng đột phá mới để thâm nhập vào thế giới của Tôn Giáo, tìm cứu cánh! Và ta thấy hướng đột phá này với học thuyết Dung Thông!! Geoffrey Chew đã táo bạo dung thông giữa khoa học và tôn giáo!!! Thế nhưng lúc đấy cơn thác lượng tử đang ở trên đỉnh cao trào của sự cuồng loạn. Với sự thành công vang dội của mô hình Điện động lượng tử (ECD) và Sắc động lượng tử (QCD), đã vùi dập Thuyết Dung Thông, và vùi học thuyết dung thông vào ngăn kéo niên giám một cách quên lãng.
Vị thuyền trưởng của con tàu lượng tử khi đấy. Không thể nào cảnh tỉnh được những tín đồ của Thuyết Lượng Tử, đang trở thành cuồng tín mất cả rồi. Đó là thời điểm của năm 1947, hai năm sau: 1949, kẻ nổi bật trong nhóm thủy thủ chính là Faynamn. Ông đã thiết kế “Biểu đồ Faynman”, và lại tiếp tục đưa con tàu lượng tử ra khơi, đưa tương lai nhân loại vào những cuộc phiêu lưu mới, đầy mạo hiểm…
Về Faynman; Tôi chỉ xem trọng ông với “nguyên lý tổng các quỹ đạo”, qua thí nghiệm hai khe trong quá khứ mà thôi. Còn về “Biểu đồ Faynman” thì tiếp tục hỏng mất đi rồi vậy. Cuối cùng rồi thì con tàu lượng tử phải đắm. Và vị Thuyền Trưởng Heisenberg đành chấp nhận im lặng và…, chết theo tàu. Cuối đời, Faynman cũng chợt sững sờ khi tỉnh ngộ. Ông chỉ ngập ngừng chữa lỗi: “Có lẽ…, hai học thuyết nơi đỉnh cao của nền khoa học hiện đại. Chưa cung cấp cho chúng ta được một cái nhìn toàn triệt”!!!
Thật kinh hoàng!
Tôi biết rất rõ; Tất cả những nhà thiết kế nên học Thuyết Lượng Tử. Thường quen bỏ dở dang công việc của mình một cách đầy khiếm khuyết, kể từ ngày học thuyết này vừa chào đời. Điển hình như Planck. Tuy nhiên chúng ta hôm nay không kết tội ông. Vì câu nói ngày đó: “Tôi không muốn thế hệ tương lai kết tội tôi, vì đây chỉ là giả định” (hằng số E=hv, một bức tường).
Đã thế, chúng ta cùng quay trở lại. Tiếp tục làm cho ra những giá trị gì còn bị bỏ qua trong biểu đồ làm nên Ma Trận Phận Tán mà nền khoa học kỹ thuật số hôm nay đang ứng dụng? Chắc chắn đã có nhiều lỗ hổng trầm trọng trong nền móng đó. Điều này được phản ảnh là hiện nay các Hacker, đang thả sức hoành hành khắp thế giới mạng mà không cách gì phong tỏa cho được.
Vì thế, hiện nay lẫn tương lai. Đòi hỏi chúng ta hôm nay, phải xem xét cái khoảng không của biểu đồ phản ứng, có còn tiềm ẩn điều gì trong đó hay không? Chúng ta tiếp tục nhé, bởi cái sa mạc này rất đáng để chúng ta phải “toát mồ hôi” cùng tư duy trong đó;


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Với biểu đồ như trên, chúng ta không có thể nhìn thấy bất cứ điều gì trong cái khoảng không của biểu đồ đó được nữa! Như tôi có nói nơi đây chính là miền ranh giới của không gian chiều thứ tư rồi. Thế cho nên ta phải huy động đến công cụ thích hợp là sự thấy để quán sát. Và chúng ta đã “cảm thấy” biểu đồ này có một điều gì đó thiếu sự đối xứng! Còn thiếu sự hài hòa để được gọi là đủ!! Xét đơn thuần về mô hình mẫu thiết kế của biểu đồ.
Vậy sau đây, tôi sẽ tạo sự hài hòa đó như sau:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Với công cụ cảm giác khai thác; Ta cảm thấy trong mô hình thiết kế của hình 1. Có một sự khiếm khuyết tiềm ẩn, mà ta rất khó gọi thành tên trong đó. Và trong hình 2. Tôi tạo thêm chiều ngang, bổ sung thêm cho mô hình. Để rồi cuối cùng là hình 3 với một mẫu biểu đồ rất hài hòa xuất hiện hoàn hảo.
Tất nhiên, chúng ta chưa thấy được điều gì cả, ngoài một sự đối xứng để đủ được gọi là đủ. Vậy tôi sẽ tìm trong vũ trụ tự nhiên, một mẫu mô hình có tính liên quan như:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bình luận: ý tưởng về phép quay spacetime là cái không tồn tại trong lý thuyết tích phân đường Feymann. Tuy nhiên, trong tử vi thì lại có ứng dụng rất lớn, đặc biệt làm nòng cốt trong tử vi bắc phái.
Các bạn nghĩ gì khi tôi quả quyết hai mẫu hình trên đây không phải là một!? Bởi chúng hoàn toàn có xuất xứ khác nhau!!! Để chứng minh điều đó. Tôi tiếp tục tạo một vài đường nét, và sự việc sẽ hóa thành như sau, chúng ta cùng thưởng lãm nhé:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên là Tạo và Hóa! Thế nhưng, đặc tính của thế nhân chúng ta là không chấp nhận một cách dễ dàng như thế bao giờ cả. Bởi điều trình bày như trên “có vẻ rất ngẫu nhiên”! Và diễn biến tiếp theo thì thường thường là mọi sự việc lại có nguy cơ tiếp tục rơi vào bế tắc chung.
Bắt buộc, tôi tiếp tục đưa công cụ thứ 3 vào khai thác; Toán học. Và ta tiếp tục tham khảo những mối liên hệ có tính liên quan đến đồ hình trên như sau:


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Khi chúng ta đưa công cụ thứ 3 vào khai thác thì…, như những gì mà chúng ta đang tường lãm vậy. Vì thế, ta xem xét như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Khi đã đưa hệ thống số vào khai thác thì: Ta xem xét thấy trong hình 1 là mô tả hệ tương tác riêng của hệ số âm (chẵn). Và hình 2 là hệ tương tác riêng của hệ số dương (lẻ). Vậy trong biểu đồ của hình 3 là diễn đạt rất rõ còn thiếu chiều tương tác của 7 – 5 – 3 trong đó. Cho nên ta xét thấy trong biểu đồ cũ của biểu đồ phản ứng của Heisenberg và Chew lập đã thiếu chiều ngang.
Xét ngày trước, khi lập biểu đồ không – thời gian. Thì nguyên tắc đó là không có chiều ngang. Chính lý do này mà Heisenberg và Chew không có thể vẽ chiều ngang cho được. Thế nhưng các nhà chuyên môn đã quên một điều rằng: Khi chuyển sang biểu đồ phản ứng, ta đã sử dụng luôn cả kênh dọc lẫn kênh ngang để đọc biểu đồ. Thế cho nên nhất định ta phải bổ sung thêm chiều ngang cho đủ để kiện toàn cho biểu đồ này.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Chân lý vốn chỉ là một mà thôi.
Và ta xét thấy: Trong hệ thống của Ma Phương đó. Nhìn tổng thể những thực tại hiện thân trong cái khoảng không vô hình chung của biểu đồ Heisenberg; chúng ta thấy:
Những đơn vị số độc lập nằm trong tổng thể với những vị trí nhất định trong hệ thống. Đó cũng là bản thể nguyên thủy của mô hình tự nhiên trong vũ trụ. Thực tại mô hình tự nhiên đó chúng ta cũng đã khảo sát và xem qua trong những bài viết trước. Chúng tương tác với nhau theo những mối liên hệ trật tự nhất định như:
- Những đơn vị mang hệ số chẵn, có mối liên hệ, trao đổi, hay tương tác (chính xác hơn là tương giao) cùng những thành phần cùng một hệ số chẵn – trong những “kênh” có một góc độ hướng xứ nhất định.
- Các đơn vị có hệ số lẻ, cũng có một quy luật liên kết, không lẫn lộn trong một “kênh” riêng, với những tọa độ địa phương của mình.
Nhìn một cách tổng thể chung hệ thống số trong nguyên thủy biểu đồ Ma Trận; chúng ta nhận thấy những cơ cấu số trong một cấu trúc Ma Trận, phát biểu về cái toàn thể bị ràng buộc trong mỗi thành phần của chính nó - và hoàn toàn độc lập với một vị trí riêng biệt. Điều này giải tỏa mọi mâu thuẫn gây tranh cãi giữa Niels Bohr và Albert Einstein về một quan điểm bảo vệ cho cái toàn thể của Cơ Học Lượng Tử, và cái vật thể hoàn toàn độc lập của Thuyết Tương Đối.
Cũng với tư duy và thế giới quan tổng thể trong thời điểm này, chúng ta quan sát chung:
Trong cái khoảng không của biểu đồ Ma Trận S, lúc này những thực tại hiện thân qua hệ thống số. Và ngôn ngữ số nói lên sự tương tác trong thế giới đó, theo một trật tự của mối liên hệ thứ nhất như:
1-3-7-9. Trong đó bao gồm hệ số 5 tại vị trí trung tâm giao dịch cơ bản, có trách nhiệm trao đổi cho hệ số 1-9 trong một kênh riêng; và hoán chuyển sang một kênh khác cho hệ số 3-7 cùng tương tác, thông qua mối liên hệ trật tự, theo một quy luật nhất định 3 thứ, bậc: 1-5-9 hoặc 3-5-7.
Với một cách hiểu riêng nào đó (tùy), chúng ta cảm nhận thực tại này bằng trực giác tổng thể mà ngôn ngữ hoàn toàn bị bỏ rơi phía bên ngoài nội tại này. Tôi sẽ tóm lược lại sau.
Những thực tại trên đây, nền vật lý của chúng ta đã từng và vẫn đang mãi miết truy tìm trong mô hình QCD. Và thực tại này cũng có cái tên giả định, như sự tiên đoán của ngôn ngữ vật lý hạ nguyên tử đã đặt = “up”. Đồng thời cũng theo tư duy của thế giới quan trong đó mà gọi là: “vị”, cũng theo khuynh hướng giả định, để hy vọng xây dựng trên đó một giả thuyết.
Vấn đề tiếp đến là sự tương tác được chỉ định theo trật tự của mối liên hệ thứ hai:
Hệ số của những đơn vị số còn lại trong hệ thống: 2-4-6-8.
Luận điểm nơi đây; không cần phải luận giải gì thêm, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy yếu tố cơ bản nhất trong toàn thể hệ thống – đơn vị độc lập trong tổng thể: Hệ số 5. Giá trị vẫn không đổi, hệ số 5 vẫn giữ trọng trách và duy trì những mối liên hệ theo quy luật tự nhiên. Nếu có phát biểu điều gì khác, tôi cũng chỉ có thể phát biểu rằng: Những diễn biến trong kênh này là sự tương tác của những thành phần mang hệ số chẵn như: 2-5-8. Và tất nhiên ở kênh còn lại là mối liên hệ theo một trật tự của mô hình: 4-5-6. Sự tương tác với trật tự liên hệ này mang “quốc tịch” = “down” trong thế giới hạ nguyên tử.
Nơi địa phương kỹ thuật tương tác số theo những trật tự quy định này, tôi không thể phát biểu hoặc “dán” vào đâu cho khớp với hệ số 5 ngoài từ “neutrino” được nữa. Đơn vị này giữ trọng trách và có quyền lực huyền bí, được ấn định duy trì, điều phối - chuyển và hóa mọi hệ thống tương tác theo tuần tự của quy luật mô hình tự nhiên trong vũ trụ. Tư duy thêm một tý nữa, chúng ta có thể phát hiện một thực tại tiềm ẩn ở phía sau đó nữa. Thậm chí rất gần, có thể có liên quan đến một quy luật của cái gọi là “nhân quả thống kê”. Vận động toàn thể là nền tảng của mọi đơn vị hiện tượng và hình thành nơi chân trời biến số của địa phương biên.
Vì thế nên tôi gọi: Cái biểu đồ phản ứng (Ma Trận S) của cơ học lượng tử xưa nay chỉ là một cái xác không hồn! Và hôm tôi đã đưa cái linh hồn là hệ thống số, tiềm ẩn trong cái khoảng không mà Heisenberg và Chew đã từng bỏ qua đó. Còn những dạng như Square Magic hiện nay ư? Tôi khẳng định với ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam thì gọi đó chẳng qua chỉ là: “Hồn Trương Ba, Da hàng Thịt” mà thôi.
Và dĩ nhiên, tôi vẫn gọi biểu đồ này là:…


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



…; Ma Trận Phân Tán. Là bản thể của Kinh Dịch. Một di bảo của dân tộc Việt Nam chứ không hề là của bất kỳ một dân tộc nào khác cho được.
Vậy bài viết sau; Chúng ta đã có đủ cơ sở cũng như khả năng khảo xét lại những mối liên quan từ Nhà Phật và Nhà Chúa, đối với Lịch sử Dân tộc Việt Nam rồi vậy.

Sửa bởi MikeDo: 08/04/2018 - 11:30


Thanked by 1 Member:

#21 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 11:37


50 - CĂN NGUYÊN PHÁT TRIỂN KINH PHẬT VÀ SỬ TIÊN

Sự phát triển của của nền khoa học dựa trên hai nền tảng để thiết kế mọi Lý Thuyết hay Định Luật là:

Khi ta có mô hình, thì dựa trên mô hình đó mà lập lý thuyết để mô tả. Hướng thứ hai thì ngược lại như: Nếu không có mô hình, thì ta lập giả thuyết. Rồi dựa trên giả thuyết đó mà thiết kế và xây dựng mô hình.

Chúng ta xét thấy giữa lịch sử của nòi giống Tiên Rồng và lịch sử của Nhà Phật vốn đã có cả mô hình lẫn lý thuyết. Tuy nhiên những mô hình cũng như lý thuyết đó rất tản lạc và bị vùi lấp cùng với mô hình của thời gian lẫn không gian! Vậy sau đây, tôi sẽ phác thảo lại bức tranh đó như sau. Chúng ta cùng nhau thưởng lãm nhé:

Lưu ý: Bởi Einstein từng ước mơ: “… Có lẽ ba trăm năm sau, chúng ta đã phải quay trở về với vấn đề gốc của sự chuyển động. Dò tìm những manh mối nào đã từng bị bỏ sót qua trước đây. Và bằng cách đó, chúng ta sẽ vẽ lại bức tranh khác của thế giới”. Đã thế, tưởng không có gì bất hợp lý, khi tôi phác thảo bức tranh đầu tiên này như sau (chỉ mới giới hạn trong miền không – thời gian của Sử Tiên và Kinh Phật):

Vào thời điểm đương thời tại thế của Phật Thích Ca. Người biết rất rõ về sự kiện của nạn lụt hồng thủy vừa xảy ra cách đó không lâu. Dĩ nhiên Người càng hiểu rõ và thấu suốt mọi sự việc hơn bất kỳ ai khác trên bình diện địa cầu khi đấy… Ví như ẩn dụ của Phật về hình tượng của một con Rùa mù trên một đoạn của dòng sông. Đang tìm bọng cây mục để xuôi ra biển cả…

Ta suy thấy dấu tích của Thần Quy trên sông Lạc, dẫn Ông Ích và Đại Vũ khai sông ra biển để trị nạn hồng thủy khi xưa. Đến thời điểm của Phật ra đời thì giai đoạn lịch sử đã lập lại quy luật phản ảnh trong trận lụt Sơn Tinh và Thủy Tinh. Và sự chuyển kiếp của con Rùa ngày trước, đang hóa thân vào Thần Kim Quy mà nhà nước Âu Lạc đang tôn thờ trong thời An Dương Vương.

Phật Thích Ca đã quán xét thiên tượng của vạn sự trong vũ trụ…, và Người biết rằng: Còn một yếu tố quan trọng nhất, để hình thành Đạo Pháp. Đang ở phương Đông - Nam, đối với nước Ấn Độ khi đấy. Thế cho nên ta mới thấy sự xuất hiện của hai đại đệ tử của Người tại Việt Nam! Người thứ nhất chính là Kiều Trần Như, đến nước Phù Nam!! (là miền nam việt nam ngày nay). Và người thứ hai không ai khác hơn là Đề Bà Đạt Đa, tới nước Âu Lạc!!! (thuộc miền bắc việt nam ngày nay).

Dĩ nhiên với khả năng của Phật thì sự việc hai nước này chia hai, từ sự kiện Lạc Long Quân và Âu Cơ tại Nghĩa Lĩnh, là khó có thể che mắt Người cho được. Thế cho nên ta mới thấy có sự hiện hiện của cả hai vị đại đệ tử này của Người trong thời điểm đấy, thấp thoáng trong một vài trang sử khuất của Việt Nam tại hai nước này.

Vật chứng còn vương dấu tích của Đề Bà Đạt Đa và Kiều Trần Như lại là ở một vài tỉnh miền bắc và miền nam hiện nay: Vẫn còn thờ tượng “Chim Thần Kinari và Garuda”! Bởi hai vị này trước khi về với Phật, tiền thân của họ là đạo Balamon và Kỳ Na giáo. Và loài chim này, Phật Thích Ca cũng từng gọi là Kim Sí Điểu (Ca Lâu La)!!

Mục đích chính của Phật ngày đó không phải truyền bá đạo sang đây. Mà là tìm Kinh Dịch của dân tộc Kinh Việt và Dương Việt, đang tản lạc do chiến tranh khi đấy gây ra. Bởi Kinh Dịch là yếu tố chính, quyết định để thành đạo và có tầm gây tác động ảnh hưởng lên toàn cục của vũ trụ. Phật Thích Ca biết rất rõ điều này, và Người muốn hợp nhất đạo làm một để đi đến sự chu toàn của Đạo. Dĩ nhiên hai vị đại đệ tử đó phải bày tỏ cũng như chứng minh chính pháp của Phật đối với hai nước này, và cả khu vực toàn vùng khi đấy là chính đáng rồi vậy.

Thế nhưng hai vị đại đệ tử ngày đấy, đã không tìm thấy Kinh Dịch tại hai nước này!? Nguyên do là họ không hề biết rằng: Chu Văn Vương đã trộm, cắp mất Kỳ Thư này từ thời Vua Hùng Vương thứ 6 trước đó rồi. Phật xét tượng thiên thư, quán thế địa lý mà biết được nguồn gốc Kỳ Thư này tại hai nước của dân tộc Việt khi đấy, Thế nhưng hiện vật là Kinh Dịch đã bị thất lạc mất từ bao giờ rồi?!

Từ đây ta có thể suy ra và hiểu được vì nguyên cớ gì, mà Đề Bà Đạt Đa sau khi trở về từ nước Âu Lạc, đã nổi loạn cùng Phật Thích Ca rồi vậy. Ta thấy là Đề Bà Đạt Đa vốn là anh em chú bác với phật, thuộc hàng vương tôn nên mới dám làm loạn cùng Phật. Còn Kiều Trần Như là không dám rồi.

Mọi chuyện lại rơi vào quên lãng… Đạo Phật bắt đầu suy thoái tại Ấn Độ trước sự xuất hiện của Chankara vào thế kỷ thứ 1 trước công nguyên. Và người ta lại quay trở về với đạo gốc của họ ở Ấn Độ là Hindu. Đúng với nhận định của Phật là sau 500 năm sau, mạt pháp vậy.

Đến thế kỷ thứ hai sau công nguyên. Long Cơ khởi xướng và lập ra Đại Thừa và Tiểu Thừa. Ta thấy Long Cơ truyền lại cho em của mình là Long Trí. Và Long Trí đã truyền sang Mông Cổ và Tây Tạng. Vậy ta xét thấy; Nguồn gốc cũng như tinh hoa của Đại Thừa đang được phát huy cao nhất là ở tại Tây Tạng. Và hiện nay là Đạt Lai Lạt Ma đang là kế thừa tinh hoa đại thừa của Phật Pháp chứ không phải bất kỳ một nơi nào nữa cả. Bởi các vị Lạt Ma là hiện nay có thể đắc quả truyền kiếp mà nhận kế thừa bảo pháp của Phật di truyền các đời nối tiếp. Ngoài ra tất cả các nơi khác trên bình diện địa cầu, không hề đắc quả vị này của pháp môn đại thừa cho được.

Ví như vị Lạt Ma của kiếp này phải bỏ xác để chuyển kiếp. Thì vị đó liền mang các pháp ấn. di bảo mà chôn, dấu tại một nơi nào khác mà không một ai được biết để gửi lại cho kiếp sau. Sau khi qua đời, liền sau đó nếu đầu thai tái sinh lại bất kỳ là ai khác ở kiếp lai sinh đó. Người này liền lên tiếng mình chính là Lạt Ma truyền đời kế tiếp, và người đó liền mô tả chính xác từng hiện vật đã chôn giấu, liền đi đến khai quật lên nhận lại, để chứng tỏ là hiện thân của kiếp trước vậy. Cho nên, nếu nói về Phật pháp đại thừa, ắt tinh hoa là ở tại Tây Tạng rồi vậy.

Ta xét thấy mãi đến thế kỷ thứ 5, thì Bồ Đề Đạt Ma lại quyết định đi tìm kỳ thư một lần nữa. Và dĩ nhiên Đạt Ma phải sang Trung Quốc thôi. Vì Đạt Ma biết ngày trước Đề Bà Đạt Đa và Kiều Trần Như đã từng sang nước Việt rồi mà không tìm thấy bên đó cho được.

Và Bồ Đề Đạt Ma đã gặp phải Đạo Lão và Đạo Khổng đang thời thịnh vận tại bên Trung Quốc. Hai mối đạo này đều châm rễ trong Kinh Dịch mà phát triển cùng nhóm bách gia khi đấy. Thế nên ta thấy Tạo Hóa đã khải định thiên tượng công cuộc tìm kỳ thư này vào cuộc đời của Đạt Ma trong giai đoạn đó như sau: Đạt Ma đã truyền cho vị tổ thứ nhất là Huệ Khả. Và vị tổ cuối cùng là Huệ Năng. Điều này có nghĩa là Phật pháp chỉ có “Khả - Năng” phát huy đến chu trình thứ 6 là hết! Bởi Huệ Năng cũng là vị tổ thứ 6, dứt!!!

Vậy ta lại phải khảo xét tại thời điểm cuối cùng này xem có những oan khốc nào đã xảy ra hay không? Bởi Đạo pháp của Phật chỉ có thể truyền đến đây là hết, và điều này cũng đã được phản ảnh thiên ý trong tượng trời như thế rồi. Chúng ta tiếp tục khảo xét nhé:

Nghe rằng: Khi ngũ tổ Hoằng Nhẫn truyền đời lục tổ thì ngũ tổ đã dự kiến truyền cho Thần Tú. Bởi Thần Tú là đồ đệ xuất sắc nhất khi đó. Bất ngờ lại xuất hiện Huệ Năng. Và cũng trộm biết được có sự việc là ngũ tổ Hoằng Nhẫn, đang đêm truyền bảo pháp cho Huệ Năng rồi dặn lục tổ chạy đi kẻo Thần Tú phát hiện!

Liền sau đó, khi Thần Tú hay tin Huệ Năng đã được truyền ngôi lục tổ và di ấn. Thần Tú bèn cấp tốc truy đuổi để cướp lại di ấn. Chúng ta không biết được sử sách mô tả cặn kẽ những chi tiết gì trong cuộc truy đuổi lúc đấy. Mà chỉ có thể nghe lại là trong lúc quýnh quáng mà chạy trốn Thần Tú lúc đấy. Lục Tổ Huệ Năng đã vô tình làm mất di ấn là bảo pháp truyền đời từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn! Thế cho nên pháp bảo chỉ truyền đến đời lục tổ là dứt. Vì không còn di bảo để tiếp tục truyền đời về sau nữa!! Thế cho nên ta thấy không hề có đời tổ thứ 7 kế thừa Bảo Pháp về sau.

Vậy trong chúng ta, đã có mấy ai quan tâm đến sự kiện này mà truy tìm chân lý thất lạc và bị chôn vùi cùng năm tháng qua hay không? Đa số trong các chúng phật tử hôm nay, khi nghe tôi nhắc đến sự kiện này đã nổi sân, si lên mà công kích rồi. Tuyệt đối không nghe chứ nói chi đến quan tâm cho được nữa. Họ chấp mê một cách tuyệt đối để tỏ ra là phật tử chính hiệu…, như Phật từng nói cùng A nan, trước lúc Người nhập niết bàn “?!”. Phật giáo đang khát khao có được những giáo đệ tỉnh thức chứ không cần mê lầm. Vì thế chúng ta cùng khảo xét một cách sáng suốt diễn biến tiếp theo để truy tìm chân lý như:

Chúng ta nhất định phải tìm xem ngày đó, lục tổ Huệ Năng đã đánh mất bảo vật gì của Phật, truyền đời sang Trung Quốc từ Đạt Ma sư tổ? Nếu thế, chúng ta hãy đứng vào hoàn cảnh (đồng nhất) từng nhân vật một để xem xét sự việc nhé.

Vậy chúng ta xét mình trên cương vị là Hoằng Nhẫn thì; Thần Tú là đồ đệ xuất chúng mà mình yêu thương nhất xưa nay. Thế nhưng tượng trời thì lại ứng vào Huệ Năng! Nếu ngũ tổ trao di bảo cho Huệ Năng thì hóa bất nhẫn trong lòng. Bằng như trao cho Thần Tú thành tàn nhẫn với lương tâm. Vậy thì hoằng nhẫn có nghĩa là; Ngày đó Hoằng Nhẫn đã trao cho Huệ Năng ngoài ngôi lục tổ, di bảo là cái Bình Bát!, như ta đã thấy phái Nam Tông với tiểu thừa ngày nay.

Còn về Thần Tú thì Hoằng Nhẫn đã trao cho cái Áo Cà Sa!! Cho nên thuộc về Bắc Tông là Đại Thừa. Điều này là sự thực, bởi tượng trời khiến nên; Chính vì Thần Tú có áo cà sa nên mới có thể (trải ra) dựng Chùa và có Tàng Kinh Các được, bởi Thần Tú là uyên bác về kinh kệ nói chung. Về phần Huệ Năng thì không có áo cà sa nên từ lý đấy mà không dựng Chùa được, chỉ ở Tịnh Xá mà thôi. Và vốn là vô sở trụ cho nên chỉ cần một Bình Bát đi khất thực, đến đâu, nghỉ tịnh xá đó, mai lại lên đường vậy.

Hoằng Nhẫn đã chia cho hai đồ đệ hai di bảo đó. Thế cho nên cả hai phái mới có thể tồn tại và phát triển mãi đến ngày nay cùng thời gian cho được. Nếu không thế, ắt một trong hai phái này không thể tồn tại cho được.

Thế nhưng sự việc rắc rối ở chỗ; Vậy thì ngày trước, Thần Tú rượt theo Huệ Năng để làm gì, là vì cớ gì?! Và Huệ Năng đã làm mất bảo vật nào trong cuộc truy đuổi đó mới được chứ!?

Vậy ta xét “áo cà sa” và “bình bát” là hai di bảo truyền đời của Phật rồi. Nếu thế thì vật di bảo thứ 3 cho đủ được gọi là “tam bảo” truyền đời nối nghiệp tổ đó là di vật gì? Tôi khẳng định di bảo đó chính là “cuốn Kinh” của chính Phật Thích Ca!! Một cuốn Kinh mà Phật đã viết bằng chính tay mình!!!

Ta cứ hình dung như sau; Trong những tháng ngày còn bôn ba đi tìm đạo. Phật Thích Ca chỉ có 3 vật trên người thôi. Đó chính là chiếc áo cà sa, bình bát và 1 cuốn “nhật ký” để ghi chép những gì phải “lưu ký” nữa! Hoằng Nhẫn trong ngày đó đã trao luôn “cuốn kinh” này cho Huệ Năng để làm di bảo truyền đời của vị tổ kế tiếp. Chính vì điều này, khiến nên Thần Tú mới truy đuổi Huệ Năng với mục đích để lấy kinh mà thôi. Chứ Thần Tú không có ý đòi lại ngôi lục tổ bao giờ cả.

Ta xét thấy; Bởi Huệ Năng đâu có biết chữ đâu! Vậy thì lấy cuốn Kinh đó mà làm gì cho được!! Và Thần Tú mới là người cần kinh, nên buộc phải truy đuổi…

Và ta lại thấy; Chính vì Huệ Năng không biết chữ. Thế cho nên trong cuộc trốn chạy đó; Ông đã quý cái bình bát hơn là cuốn kinh rồi vậy (tâm lý chung của những ai không biết chữ). Và điều tất phải đến là Huệ Năng đã làm lạc mất “cuốn kinh” đó đi rồi!!! một trong 3 bảo pháp của Phật truyền đời. Cũng chính vì thế khiến nên không có vị tổ đời thứ 7 cho được.

Cho nên khi mất đi. Lục tổ Huệ Năng đã nguyện biến thành chim Đại Bàng để bay đi tìm kinh bị thất lạc do mình gây ra. Chỉ một chi tiết này thôi, ta sẽ hiểu ngay tại sao…; Trong Tây Du Ký, thầy trò Tam Tạng khi vừa thỉnh Kinh ra thì gặp phải đại bàng (tượng của huệ năng) chụp bao kinh mà giũ ra rồi vậy. Và đại bàng thấy toàn là giấy trắng nên bay đi mất. Mấy ai trong chúng ta đọc và xem tác phẩm này mà hiểu ý trong đó là Huệ Năng đang đi tìm kinh thất lạc hay không? Chắc chắn là không đủ biết, để hiểu ý đó rồi vậy.

…Trong năm 1998, khi tôi đang trên đường bôn ba ngoài đảo vắng… Bất chợt nghe đài BBC tuyên bố qua chiếc radio: Năm 2000, nước Anh sẽ tổ chức bán đấu giá tại Luân Đôn 2 hiện vật. Một là đẳng thức bí mật của Einstein. Và hai là “Cuốn Kinh” của Phật Thích Ca được chép bằng chữ viết tay của Người! Cuốn Kinh này đã bị thất lạc và chưa một ai được biết đến!! Một người đã tìm thấy bị vùi sâu trong tuyết từ hang ngàn năm qua rồi!!! Trong buổi công bố thông tin đó, họ cũng đã trưng ra hai trang của cuốn kinh đó làm bằng chứng cho sự thật đấy!

Ngay lúc đó, tôi khẳng định những suy luận của tôi về bảo vật thất lạc này của Phật là hoàn toàn chính xác. Sau đó, tôi lại mải bôn ba nên không biết được thông tin gì về cuộc đấu giá trong năm 2000 tại Luân Đôn nữa. Tuy nhiên tôi biết; Bằng bất cứ giá nào, Hiệp hội Phật Giáo toàn cầu phải “Chuộc Kinh” cho bằng được. Tuyệt đối không có thể để cho thiên hạ mang di bảo thất lạc của giáo phái ra bán đấu giá, trước bàn dân thiên hạ cho được.

Kết luận bài viết này. Tôi chỉ lưu ý đến trọng tâm của bài viết này cùng các bạn là;

Mô hình tự nhiên của Tạo Hóa đã mặc định Phật giáo đã tiềm ẩn ý trong đời “Tổ Thứ 6” là bị thất lạc chân Kinh của Người rồi. Vậy có ai đã nhìn thấy sự mô phỏng từ Phật Thích Ca đó là phản ảnh từ sự kiện: Trong đời “Hùng Vương Thứ 6”. Dân Tộc Việt đã bị thất lạc mất Kinh Dịch rồi vậy!!!

Đó là một cáo chứng của Tạo Hóa trong thiên thư.

Vì thế cho nên chúng ta phải “Khảo Kinh”. Và cũng chỉ có dân tộc Kinh mới đủ khả năng này mà thôi. Vì Tạo Hóa đã mặc định điều đó cho dân tộc này sẵn rồi. Và tôi thuộc dân tộc này, cho nên chúng ta đang cùng khảo kinh trên trang này vậy. Và tiếp tục khảo Kinh Dịch, một di bảo của giống nòi. Để dùng những giá trị tìm ẩn trong đó mà thiết kế và xây dựng lại một mô hình vũ trụ tương lai cho nhân loại.

Phàm, hễ không phải là chủ nhân của Kinh Dịch; Ắt tuyệt đối không có thể biết cũng như hiểu được những giá trị gì tiềm ẩn trong đó cho được.

Đó là Đạo Lý.

Và thế nhân chúng ta cũng quen gọi là Chân Lý.



51 - SỬ TIÊN VÀ KINH THÁNH

Từ vùng địa phương của Nhà Chúa. Chúng ta còn thiếu vắng những lăng kính quan sát ở góc độ này! Vì thế, mô hình tổng thể của vũ trụ tự nhiên là bất toàn.

Ta nhớ ngày trước, khi Chúa Jêsu đứng trong thành Jêrusalem và Người từng phát biểu: “Ta đến đây là để kiện toàn…”.

Thế cho nên, nếu muốn kiện toàn bức tranh của vũ trụ tương lai. Ta nhất định phải tham khảo vùng địa phương này để được gọi là chu toàn nhé. Chúng ta lại tiếp tục cuộc du hành lướt qua tổng thể một lượt, để biết phần nào về nền tảng xây nên ngôi nhà của Chúa. Sau mới có thể đi sâu vào chi tiết của từng giai đoạn để khảo sát cho được;

Vậy thì chúng ta bắt đầu cuộc du hành với lịch sử của Kinh Thánh cũng như lịch sử của dân tộc Việt Nam với cùng một điểm xuất phát là 4.000 năm nhé. Vì theo như quan điểm của Đạo Thiên Chúa thì Kinh Thánh bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước trong đó. Và khởi đầu thì trong Kinh Thánh có ghi chép lại sự việc đầu tiên trong lịch sử đó là hai ông bà Adam và Eva. Hai ông bà lấy nhau và sinh ra hai người con là Cain và Aben, rồi hai người con phải chia rẽ nhau.

Ta xét thấy sự việc đó, có phần tương quan với lịch sử của người Việt là hai ông bà Lạc Long Quân và Âu Cơ. Sinh ra trăm con, rồi cũng phải chia rẽ! Khởi nguồn lịch sử của cả hai bên, đã có phảng phất một nét tương đồng như thế rồi! Bởi có cùng một xuất phát điểm thời gian trong một phạm vi quy ước là 4000 năm như nhau.

Tiếp đến…; Bên Kinh Thánh có xảy ra sự kiện nạn lụt No-ê thì lịch sử Việt lại liền phản ảnh nạn lụt của Sơn Tinh - Thủy Tinh!

Đến khi dân Do Thái bỏ Chúa, thờ thần bò, xây tháp Babel và bị phạt 1000 năm nô lệ. Ngay lập tức sử Việt cũng thể hiện việc An Dương Vương bỏ Hùng Vương, thờ thần kim quy, xây thành Cổ Loa và cũng bị phạt 1000 năm nô lệ!!

Đến lúc ông Thánh Moise cứu dân thoát cảnh lầm than trong một ngàn năm đó, rồi vượt qua biển đỏ mà di dân về vùng đất Canan. Lịch sử Việt Nam vẫn cứ mô phỏng một cách chính xác cùng các sự kiện với việc: Lý Công Uẩn cứu dân thoát kiếp nô lệ ngàn năm, rồi cũng vượt qua sông hồng mà dời đô về Thăng Long!!!

Chúng ta hẳn phải lấy làm ngạc nhiên vô cùng, trước những sự kiện mà lịch sử của Sử Tiên và Kinh Thánh đã diễn ra một cách rất kỳ lạ như thế!? Quy luật của vũ trụ tự nhiên lại có một bản thiết kế mà chúng ta không biết được là lịch sử nào là mô phỏng của lịch sử nào trong đó cho được nữa! Những nền tảng mà sử liệu cấu tạo lịch sử, xuất hiện một cách trật tự và lạ lùng như thế sao?! Nếu như ta nói là ngẫu nhiên. Thì sự ngẫu nhiên chỉ có thể xảy ra một lần, có cố chấp nữa thì cứ cho là hai lần đi vậy. Thế nhưng những gì lập lại lần thứ 3 trở đi, thì phải là hiển nhiên đi rồi. Không có thể gọi là ngẫu nhiên cho được nữa.

Mà nào phải chỉ có như thế là thôi đâu! Bởi vì nếu như Kinh Thánh diễn cảnh Đavit đánh khổng lồ Goliat, thì Sử Tiên cũng có kịch bản Trần Hưng Đạo đánh khổng lồ Thành Cát Tư Hãn!! Tập nối tiếp trong thời Đavit là Salomon xét xử vụ án chém đứa bé của hai bà mẹ tranh nhau ra làm hai. Sử Tiên cũng không chịu thua với việc Tô Hiến Thành trong thời Nhà Lý cũng đã từng xử một vụ án như cùng đúc một khuôn ra vậy!!!

Chúng ta ắt phải hỏi; Tại sao?..., Tại sao??..., Và tại sao???

Vẫn không có thể nào biết được là tại vì sao, lại có những hiện tượng trùng hợp tự nhiên như thế cho được nữa.

Mặc cho sự ngạc nhiên của các bạn cùng với những hiện tượng mà tôi đã trình bày ra đó. Tôi lại tiếp tục gây sốc với các bạn thêm hơn nữa trong cuộc du hành đầy thú vị này như:

Trong Kinh Thánh có nói rằng Chúa cũng không nỡ bẻ nhành lau, cho dù khi thân nó đã bị gãy, ngã trên giồng cát! Và Người cũng thu phục đủ 12 môn đồ mà thôi. Đinh Bộ Lĩnh của nước ta cũng đâu có chịu thua với việc dùng cờ lau tập trận, để sau đó thu phục 12 xứ quân (ta nên xem xét lại là Sứ Quân hay Xứ Quân, việc này phải nhờ đến các nhà ngôn ngữ học rồi vậy. Tôi cứ viết trước là xứ quân nhé…). Bởi trong một năm thì có 12 tháng, làm định xứ trong toàn vùng của không – thời gian của 360 ngày đó. Và mỗi tháng thì kiêm hai Tiết. Vậy khi Tiết Khí đến, thì ta mới có thể gọi là “Tiết Độ Sứ” cho được. Lại phải phân ra như: Nếu mỗi Tiết là chiếm một “độ định xứ là 15 ngày”. Thế nhưng khi thời điểm chuyển giao Tiết Khí, thì lúc đó phải gọi là “Tiết Độ Sứ” chứ không phải là “Tiết Độ Xứ” nữa. Bởi chuyển giao là phần việc của sứ giả.

Tôi lại lan man mà lạc đề mất rồi, chúng ta cùng quay trở lại nhé:

Các bạn còn nhớ trong các bài trước. Tôi có viết đến sự kiện Nguyễn Du bán cơ đồ của Chúa Nguyễn 300 năm? Và kẻ kiêm cả hai vai diễn ngư tiều đó (Nam Hải Điếu Đồ), rất mong chờ một giọt nước mắt khóc cho mình. Bởi giọt nước mắt này, Tố Như đòi phải có giá trị bằng giọt nước mắt của Chúa Jêsu, khi Người khóc cho Giuda bởi cái giá bán Chúa là 30 đồng vàng vậy (cũng là một ngư phủ kiêm tiều phu như danh xưng Điếu Đồ của Nguyễn Du)!!

Nếu một khi đã biết qua những sự kiện trùng hợp rất là sốc này. Chúng ta sẽ mãi hỏi vì sao lại có những trật tự lạ lùng như thế? Mà không một ai có thể trả lời cho được! Thế nhưng trong Kinh Thánh đã có sẵn câu giải đáp đó như sau: “ Cứ nhìn vào những trật tự lạ lùng trong vũ trụ, các ngươi liền biết là có Chúa”. Thế cho nên dù có những điều lạ lùng, trật tự đó xảy ra. Các người vẫn cứ phải trật tự trong lạ lùng đó. “!!!”.

Tôi lại phải bắt đầu với hai chữ “Lạ Thật!”; Bởi người dân Việt Nam của chúng ta, cao lắm thì chỉ mới biết đến Đạo của Chúa cách đây khoảng 500 năm mà thôi. Vậy thì những sự kiện đã diễn ra từ trước đó những 3.500, giữa hai lịch sử này là như thế nào mới được kia chứ?!

Chẳng lẽ các vị tổ tiên của hai lịch sử có quen biết mà cùng “thông công” với nhau, mãi từ trong quá khứ của cội nguồn lịch sử như thế? Bằng như các vị Tiên, Tổ không biết gì về nhau, mà lại có cùng một mô hình thiết kế để làm nên lịch sử như thế thì: Tôi phải kết luận đó là Đạo vậy. Thế cho nên mô hình thực tại tiềm ẩn của vũ trụ tự nhiên chính là Đạo Lý. Một Lý Thuyết Vũ Trụ với mô hình tự nhiên làm nền móng. Một Định Luật của Tạo Hóa thiết kế, để xây dựng nên vũ trụ tương lai của một nước Thiên Đường cho nhân loại, là có thật.

Như thế thì điều kiện bắt buộc là chúng ta phải quay trở về tận mãi trong quá khứ của cội nguồn. Tuy tìm cho bằng được dấu tích của mô hình “Vườn Địa Đàng”, mà ngày xưa Chúa đã từng xây dựng và giấu loài người chúng ta mất đi rồi! Thật hoang đường đối với mọi tư duy của đương đại hôm nay.

Thế nhưng vấn đề là; Tôi cũng đã từng đột nhập vào đúng nơi đó rồi các bạn ạ!!! Và hôm nay, tôi có thể đưa bất cứ ai trong chúng ta; Làm một cuộc du hành, tận mục sở thị và tham quan khu “Vườn Địa Đàng” đó bất kỳ lúc nào!!!

Quá sốc rồi…

Tôi nhất định phải tạm dừng cuộc du hành này lại ngay thôi. Nguy cơ các bạn đã có ý nghĩ thấp thoáng trong tư duy là…; Tôi đích thị là một kẻ điên loạn thực sự. Thế nhưng, tôi vẫn cứ có một câu rơi lại như thế này: Nếu bất kỳ Vị Giáo Hoàng hay Cha xứ nào của Đạo Chúa hiện nay. Nếu cần chứng minh những thực tại mà tôi đã viết trên trang này. Tôi sẽ đưa ngay vị đó vào tận trước cổng Vườn Địa Đàng mà Kinh Thánh đã từng mô tả về nó.

Các vị sẽ trả lời cùng tôi rằng; Đó, có đúng là “Vườn Địa Đàng” mà Kinh Thánh đã từng mô tả hay không? Sau đó hẵng nói đến những gì thắc mắc tiếp theo nữa… Bởi Chúa đã có từng nói với thế gian chúng ta rằng: Đến ngày Tận Thế, sẽ không còn có bất cứ sự thật nào được che giấu mãi nữa. Tất cả sẽ được phơi bày. Ngay cả những việc mật nhẹm nhất của Cha ta, kể từ ngày đầu Người tạo dựng vũ trụ cũng phải bị phơi bày.

Dân tộc Việt Nam với một thiểu số, đã từng đọc Kinh Thánh qua hằng 500 năm nay rồi. Thế nhưng đã có mấy ai tìm và hiểu được rằng: Trong quá khứ của thời điểm mà Chúa Jêsu đang giảng đạo đó. Chính xác hơn là các nhà thông thái đang tranh cãi cùng Người về tương lai của ngày sau. Và Chúa Jêsu đã có phán rằng:

Quả thật! Ta nói thật với các ngươi. Cha ta đã chọn một giống dân khác…! Nếu ta muốn biết rõ là Người nói đến giống dân nào thì các bạn (đạo Chúa) cứ đọc lại và so sánh cùng bài viết này nhé. Nếu ngày đó (2000 trước), Chúa Jêsu không ám chỉ đến dân tộc Việt Nam hôm nay, thì có còn là dân tộc nào được nữa? Bởi những giá trị tương quan của lịch sử giữa nước Việt và lịch sử Thánh Kinh như trên, tôi đã minh chứng cho câu nói của Người rồi vậy.

Tôi phải thú thật cùng các bạn rằng: Kinh Thánh chính là cuốn sách kỳ lạ nhất, mà tôi đã từng được đọc trong cuộc đời của mình. Cứ ngỡ đọc qua một lần là xong. Nhưng không, đọc lại là lại còn vô vàn những giá trị kỳ lạ khác xuất hiện! Cứ thế… Thậm chí ngay cả những gì trong cuốn Khải Huyền tưởng như đã được hiểu trọn vẹn. Nhưng lại không!? Bởi điều lạ kỳ vẫn cứ ứng hiện cho tới tận những giây cuối cùng…

Trong những tháng ngày mà tôi đi tìm chân lý đó. Những lúc bế tắc cùng đường. Tôi luôn tìm gặp lối thoát từ trong cuốn Kinh Thánh này!!! Mặc dù hành trang luôn oằn vai và trĩu nặng những Kinh Sách, đủ tổng các lịch sử.

Tôi chia sẻ cùng các bạn một ví dụ: Tạo Hóa rất công bình. Bởi bất cứ điều gì, cũng đều có cái giá của nó cả. Ví như công của một người lao động 1 tháng là bao nhiêu. Công của một người thợ cao hơn thế. Rồi của một kỷ sư, giám đốc v.v… Thậm chí của một tổng bí thư hay tổng thống cũng đều có một giá trị tương ứng cả. Chúng ta đều phải trả giá cho từng hạng mục mà Tạo Hóa đã đặt ra cho mỗi sự việc đó. Bất kỳ ai phấn đấu đến một trong những mục tiêu đó, đều cũng phải trả một cái giá tương đương.

Vậy cái giá để thành Thánh mà Tạo Hóa đã treo cho nhân loại của chúng ta chính là cái…, “Thánh Giá” của Chúa Jêsu!!! Muốn thành Thánh, nhất định thế nhân phải trả một cái giá tương quan mà loài người đã tạo ra đó. Và Trời đã treo cái giá đó suốt 2000 năm qua rồi mà không một ai biết đến cho nổi.

Điều này ví như con của Vua bị bệnh. Người bèn yết bảng để tìm lương ý giỏi về trị. Nếu như vị lương y nào thấy mình đủ khả năng trị được, thì vị đó liền xé bảng yết giá đó ngay vậy.

Và cũng như thế: Trời đã treo cái thiên tượng là hình ảnh của Chúa Jêsu phải chết trên cây Thánh Giá. Ai muốn tìm được đạo, nhất định phải trả đúng cái “giá thánh” mà Tạo Hóa đã treo lên đó. Và tôi đã từng đưa tay xé bảng yết giá đó của Trời rồi! Tôi có thể ghi điều đó ra đây cùng các bạn để làm bằng chứng cho sự việc này như sau:

“Cái giá Trời treo đời khó gỡ.
Vạn thuở qua rồi vẫn còn trơ!”.

Phải! Tôi đã nhìn thấy rất rõ, và cũng đã xé bảng yết giá đó, ở một thời điểm nhất định trong những tháng năm tìm về cội nguồn.

Tạo Hóa rất công bình. Cái giá của Đạo, hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng của tất cả nhân loại mọi đương thời của chúng ta.




Mọi người cố gắng đọc hiểu lý thuyết QCD trước khi đọc bài này.

52 - QUỸ ĐẠO TƯƠNG TÁC




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Như tôi đã từng trao đổi cùng các bạn là; Chỉ có khoa học mới có thể làm sáng tỏ tôn giáo cho được. Bằng như mọi hướng tiếp cận khác là không thể.

Vì bất kỳ hướng tiếp cận bằng quan điểm nào khác, đối với nhân loại chúng ta hiện nay, cũng chỉ càng làm rối loạn Đạo lên hết mà thôi. Và điều phải đến là cộng đồng nhân loại chúng ta lại đi vào ngỏ cụt. Gắng thêm nữa, lối mòn đó lại đưa những thế hệ tương lai tiếp nối đi vào sự mê tín. Có muốn bứt phá ra, lập tức sẽ rơi vào hỗn loạn tất cả.

Vì thế, từ ẩn dụ Con Đò sang sông của Phật! Ta hình dung ra con Tàu No-ê của Chúa!! Vậy chúng ta hãy trục vớt con Tàu Lượng Tử, đang đắm chìm giữa biển cả của Kỷ Nguyên mới ngay thôi!!!

Chúng ta cùng khảo sát nhé:

Qua bài viết với tựa đề “Huyệt Chí Tử”. Chúng ta đã điểm trúng huyệt đạo của Biểu đồ Ma Trận S. Đồng thời Biểu đồ đó cũng đã hội đủ cả 3 công cụ khai thác rồi. Vậy chúng ta tìm hiểu xem khả năng của 3 công cụ này ra sao nhé. Để chúng ta còn nhanh chóng du hành vào không gian chiều thứ tư, đang chờ chúng ta giải phẫu nữa. Vậy chúng xem xét lại công cụ đó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Như biểu đồ trên đây thì chúng ta đã nhận thấy đủ 3 công cụ như: 1, Ngôn ngữ thông thường là ký tự. 2, Ngôn ngữ hình học là (biểu đồ). 3, Ngôn ngữ toán học (số).

Và ta xét thấy cái Lý của Số, chỉ rõ hướng tương tác trong biểu đồ của các hệ số nhất định để bằng tổng là 15, trong hình 1.

Trong hình 2 thì ta đã có thể nhận ra sự tương tác đã diễn ra như thế nào trong biểu đồ không thời gian của Friedmann rồi vậy. Các bạn cứ xem xét theo bên trái của mình, tôi sẽ diễn giải như sau: Tiến trình thứ nhất, thì một electron và positron tiến tới và va chạm với nhau. Tiến trình thứ hai diễn ra là positron sẽ nhả ra một photon, và electron hấp thụ photon đấy. Và cuối cùng thì; Do positron từ bên phải đã nhả ra một nguồn năng lượng là photon, nên thiếu hụt năng lượng và đã biết thành electron, vận hành lên bên trái của biểu đồ. Còn electron bên trái, đã hấp thụ được thêm giá trị năng lượng của photon từ positron nhả ra. Nên đủ năng lượng mà biến thành positron và vận hành sang hướng bên phải, phía trên của biểu đồ. Kết luận; Do positron mang điện tích dương, nên theo lý của Dịch thì dương chủ động phải nhả ra photon. Còn electron vốn là Âm tính, nên thụ động mà hấp thụ. Đó chính là những gì đã từng tương tác qua lại với nhau trong thế giới hạt, mà nền khoa học của chúng ta chưa có thể biết tới cho được.

Thế cho nên trong hình 3: Ta dễ dàng đọc ra trong khoảng không của biểu đồ Ma Trận s (phản ứng) là một proton, va chạm với một anti-proton. Rồi sau đó thì anti-proton nhả ra một pion và biến thành pion âm (bên trái, ở trên) do đã thiếu hụt nguồn năng lượng vốn có ban đầu. Và proton hấp thụ được nguồn năng lượng cung cấp pion của đối tác anti-proton, nên hóa thành pion dương vận hành sang bên phải phía trên của biểu đồ.

Đó chính là những gì đã diễn ra một cách tiềm ẩn, ở phía bên trong khoảng không vô hình của biểu đồ phản ứng Ma Trận S. Nếu các nhà chuyên môn xem xét và quan sát thấy vẫn còn một bất cập nữa, xảy ra giữa sự tương tác của proton - anti-proton, hoặc proton-pion. Là do trong thời lượng tương tác diễn ra chớp nhoáng trong khoảng không gian trống rỗng đó, đã có xảy ra tình huống “phóng thích tự thân của một proton xuất hiện đột ngột” (hoặc phân rã bêta xuất hiện, cực hiếm), mà ra cả thôi nhé.

Vậy chúng ta làm rõ hơn nữa về quỹ đạo tương tác số, của thế giới hạt này qua các biểu đồ như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua mẫu biểu đồ của hình 1, ta nhận thấy đó là biểu đồ của Ma Trận số mang âm tính. Hệ thống của số chẵn. Thế cho nên quỹ đạo vận hành cho thấy từ số lớn nhất (8), vận hành nghịch chiều kim đồng hồ, về số nhỏ nhất (2). Và ta có được một quỹ đạo âm với nét biểu thị cho năng lượng đó, kèm theo bên (dạng tia sét).

Trong hình 2 là hệ số của Ma Trận mang dương tính. Hệ thống của số lẻ. Và ta cũng có được một quỹ đạo vận hành theo thuận chiều kim đồng hồ, từ nhỏ (1) lên đến số lớn (9). Từ đó ta cũng có được một biểu thị năng lượng mang tính dương.

Và trong hình 3. Là Ma Trận hợp nhất của cả hệ thống số chẵn (âm) và lẻ (dương) trong đó. Ta vẫn rút ra được hai mẫu biểu thị khác với hai mẫu 2 và 1 trước đó. Theo lý của Dịch thì do hình một là thuần âm, nên ta có một quỹ đạo nghịch hành. Cho nên quỹ đạo thuần dương là thuận hành. Và xét trong quỹ đạo trung hòa cuối cùng là: Bởi hợp nhất nên dương sẽ hành âm và âm thì sẽ hành dương vậy. Đó cũng chính là toàn lý của Dịch.

Ta có thể vận dụng như sau: Nếu ta quan sát thấy tia sét trong không gian (lúc mưa, bão). Nếu có dạng sét ngang và nghịch hành, là tia sét đó mang nguồn năng lượng của điện tích âm. Và nếu là tia sét có dạng thuận hành, là có mang nguồn năng lượng của điện tích dương. Bằng như tia sét đứng mà nghịch hành, thì trong nó đang còn tiềm ẩn một dòng năng lượng mang điện tích âm kèm theo, và ngược lại. Từ đây ta có thể suy ra mà biết được lý tính của mọi nguồn năng lượng trong không – thời gian khắp vũ trụ rồi vậy.

Đến đây, chúng ta sang trang lịch sử của những quỹ đạo năng lượng, hoặc quỹ đạo vận hành của thế giới hạt đầy rắc rối này được rồi nhé.

Lưu ý: Bởi chúng ta ta đang khai thác không gian chiều thứ tư. Là vô hình, nên thuộc sở trường của người Phương Đông. Thế cho nên; Theo tư tưởng của phương đông cũng như cái lý của Dịch thì: Nếu quy chiếu 3 công cụ ngôn ngữ khai thác đó sang tư tưởng của phương đông, thì chúng ta thường gọi là Lý – Tượng – Số.

Xét theo quy trình này thì cái Lý trật tự của mô hình tự nhiên ban đầu trong không gian là xuất hiện cái “Tượng” trước tiên. Kế đến thì hễ đã có Tượng là ắt có Số. Phàm có Số là phải có cái “Lý” tiếp theo để mô tả và diễn giải. Cho nên ta hay nói Tượng Số hoặc Lý Số. Vậy xét theo Tam Tài thì Lý thuộc Thiên, Tượng thuộc Địa, và Số thuộc Nhân là Trung Hòa. Vậy cái lý đầu tiên là ta phải lập mô hình trong không gian vô hình ban đầu như sau:

Tôi cũng dựa trên công cụ biểu đồ không thời gian của Friedmann, để mô tả không gian chiều thứ tư đó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chúng ta cùng tham khảo trong hình 1. Đó là biểu đồ không thời gian của Friedmann, mà các bạn cũng đã từng biết qua trên trang này. Và 2 nét bên trong, là tôi mô phỏng một cách trung thành tuyệt đối, theo quy định cũng như nguyên tắc của biểu đồ đó. Chiều đứng là chiều thời gian và chiều ngang là chiều không gian.

Đến hình 2 là: Thể hiện nét vẽ thiết kế theo chiều thời gian vận hành trước. Bởi nếu sự xuất hiện không gian ban đầu thì không gian tự nó là không, là bất động. Nên nhất định phải đứng yên. Trong khi đó, thì thời gian vẫn đang trôi qua…, Thế cho nên ta thấy xuất hiện tuần tự có 4 nét, xuất phát theo chiều thời gian trước tiên, vẽ từ dưới hướng lên. Bởi số 4 là số thành, đồng thời ta cũng đang sống trong không - thời gian 4 chiều. Nên mô hình được trình bày theo quy tắc đó (4 nét vẽ hướng lên).

Rồi tiếp đến hình thứ 3 thể hiện: Bởi không – thời gian vốn là đồng nhất. Thế cho nên ngay sau khi chiều thời gian vừa đủ nguyên lý thành, đủ 4 nét hướng lên. Thì chiều không gian lập tức đồng nhất treo trật tự đó. Cũng phản ảnh quy trình hình thành 4 nét vẽ trật tự như chiều thời gian.

Và rồi trong hình 4 thì: Cũng là nguyên tắc của số thành. Thế cho nên trong hình cuối cùng này, các bạn thấy tôi đã thiết kế xong mẫu không – thời gian 4 chiều đơn thuần ban đầu. Và đó cũng chính là mẫu biểu đồ của mô hình không – thời gian tiêu chuẩn của 4 chiều.

Thế nhưng, chúng ta cần đến một mô hình của không – thời gian 4 chiều đủ. Để chúng ta còn tiến hành khai thác đối tượng không gian chiều thứ tư trong đó nữa. Cho nên tôi lại trình bày mô hình khác, cũng theo quy tắc đó như sau: Và cách trình bày sau đây là tôi thiết kế theo mô hình của không – thời gian đủ của toàn vũ trụ. Trong đó có nguyên tắc của số thành là 4, bao gồm; 4 phương, và 4 quy trình vận hành như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Các bạn quan sát thấy các biểu đồ trên đây là diễn tả về hai tiến trình cấu tạo tự nhiên và hình thành mô hình của không – thời gian ban đầu. Trong hình 1, ta xem xét thấy chiều không gian mới hình thành chỉ 1/2 khoảng cách, đối với chu kỳ vận hành của chiều thời gian! Bởi lý do…;

Trong hình 2; Giữa thời điểm mà chiều thời gian đang vận hành trong chu kỳ của mình. Chiều không gian cũng hình thành theo với tính đồng nhất trong đó. Thế cho nên khi chu kỳ của thời gian vừa đến thời điểm hình thành. Lập tức trật tự tự nhiên phải đồng nhất trong chiều không gian với 4 nét xuất hiện đồng thời, phản ảnh sự mô phỏng ban đầu.

Và hình 3 là tôi muốn giới thiệu rõ hơn cùng các bạn về sự hình thành 4 góc độ của không – thời gian dần hiện ra trong hai tiến trình hình thành mô hình của không – thời gian 4 chiều ban đầu. (Lưu ý: Biểu đồ không thời gian của Friedmann Là 2 chiều).

Vậy qua 2 tiến trình hình thành ban đầu (hình 1 và 2), ta thấy mô hình có 4 góc không – thời gian cho cả 4 miền rõ rệt trong toàn vùng không – thời gian khi đó. Miền không – thời gian gốc, hình thành tại điểm gốc của không gian và thời gian tại A. Miền không gian nơi điểm ngọn (cuối) là B và miền thời gian nơi điểm ngọn là C, đều có một mô hình phản ảnh tương quan cùng nhau. Và miền của D là đối lập cùng miền không – thời gian gốc ban đầu tại A đã hiện tượng. Nên miền D đã được thể hiện có một mô phỏng đối với toàn vùng không – thời gian là như thế. Ta cũng nhận thấy mô hình cũng đã định hình “điểm Tâm” của không – thời gian từ sự giao nhau từ điểm giữa của không gian và thời gian trong biểu đồ này.

Và chúng ta lại theo dõi tiếp 2 tiến trình cuối để hình thành mô hình tự nhiên của không – thời gian 4 chiều như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quan sát trong hình 1, chúng ta nhận thấy; Tiến trình thứ 3 là chiều không gian tiếp tục lấp đầy theo trật tự của thời gian, do quy tắc đối lập âm dương nên phải hình thành như thế.

Thế cho nên hình 4, trong tiến trình thứ tư thì chiều thời gian sẽ hoàn tất mô hình để hình thành không – thời gian 4 chiều toàn vùng ban đầu.

Vì thế nên ta mới nhìn thấy là tại sao các mẫu hình mô tả về thiên văn, vũ trụ hoặc lỗ đen trong vũ trụ. Cứ phải có các ô kẻ vuông để trình bày liền theo đấy. Có một khiếm khuyết hiện nay đối với đại đa số các nhà chuyên môn thiết kế mô hình không - thời gian là: Khi trình bày về một mô hình của “không – thời gian cho sẵn”, để thiết kế. Các nhà chuyên môn lại không biết là mô hình của không – thời gian dự kiến đó. Với một giới hạn biên của không – thời gian nào, để được gọi là đủ!! Mà họ lại tùy ý một cách không xác định được!!! Bởi chúng ta vẫn đang lệ thuộc trong tính xác xuất của Thuyết Lượng Tử.

Và qua bài viết này: Các bạn vừa tham khảo và chứng kiến tôi trình bày một mô hình theo trật tự tự nhiên của không – thời gian 4 chiều đủ!

Vì dụ: Qua mô hình trình như trên. Ta có thể xác định được trong toàn vùng của không – thời gian 4 chiều đó. Miền không – thời gian nào, sẽ có các trạng thái tụ và tán trường trong mỗi miền của không – thời gian đó. Là bước dẫn cho ta đến được vùng của không gian chân không và thời gian chân như định xứ một cách tiềm ẩn trong vũ trụ hiện nay rồi vậy.

Chúng ta lại xếp lại một trang nữa cho bức phác thảo mô hình không – thời gian 4 chiều. Và tiếp tục trang mới trong bài viết tiếp sau nhé.



Thanked by 2 Members:

#22 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 19:41

Thực sự, tôi dù có background, nhưng đọc vẫn chưa hiểu cách tác giả đưa lạc thư vào trong biểu đồ Feymann. Có lẽ là ý tưởng đó chưa được thiết lập một cách hoàn bị. Tuy nhiên, điều không phủ nhận, đó là việc này gợi ý sự tồn t ại của một interaction model khác cho lý thuyết QCD. Dù vậy, tôi vẫn khuyên các bạn tạm thời coi những lý thuyết hoặc giả thuyết này như là một cách gợi mở từ cách nhìn của người đã mở ra tuệ giác quán chiếu về hình học lượng tử.



53 - Ma Trận Nguyên Nghĩa




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đến bài viết này thì các bạn cũng đã nắm được sơ lược qua mô hình của không – thời gian 4 chiều cũng như quỹ đạo vận hành của hệ thống số rồi.

Khác một điều là tất cả các điều này, đều rất khác xa với quan điểm xưa nay: Đây là những giá trị đã được kiện toàn, và hoàn toàn xác định được, chứ không phải là những giá trị xác xuất từ Cơ Học Lượng Tử nữa. Đặc biệt hơn, là nó đã được hợp nhất giữa quan điểm của Tôn Giáo và Khoa Học. Một sự việc chỉ có thể xuất hiện trước thời điểm được gọi là Tận Thế mà thôi!

Qua một vài lời quảng cáo cho “ra vẻ” như thế. Chúng ta cùng nhập cuộc mà du hành để cùng tham quan các bạn nhé:

Để khai thác không – thời gian có ẩn tàng Ma Trận đó. Chúng ta nhất định phải sử dụng đến công cụ đã được kiện toàn và hợp nhất là biểu đồ phản ứng của Heisenberg và Chew. Đó chính là địa phương của:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Các bạn cũng đã từng quan sát qua 2 vật bị quan sát trên đây rồi nhé! Đối tượng thứ nhất trong hình 1, chính là công cụ khai thác được liệt vào hàng quan trọng bậc nhất, của nền khoa học hiện đại ngày nay đấy!! Và biểu đồ không thời gian trong hình 2: Là biểu đồ mô hình của không - thời gian 4 chiều tiềm ẩn, mà chúng ta vừa thiết kế bằng công cụ biểu đồ không – thời gian 2 chiều của Friedmann!!!

Như chúng ta biết rồi: Không gian vũ trụ ban đầu vốn là vô hình, không hoặc chưa có gì. Và điều kiện đầu tiên là đòi hỏi chúng ta là phải mô phỏng theo mô hình tự nhiên đó, để thiết kế và đưa ra một mô hình của không gian ban đầu đó. Và tôi đã đáp ứng sự đòi hỏi theo yêu cầu đó là làm “hiện” cái “tượng” của mô hình không - thời gian 4 chiều như ở trên. Vậy hễ đã có Tượng, ắt phải có Số, liền theo đó như trật tự tự nhiên của mô hình vũ trụ. Chúng ta tiếp tục tham khảo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta xét thấy trong biểu đồ không – thời gian của Friedmann thì nơi tiếp giáp của chiều thời gian và không gian là tại điểm A trong hình 2. Vậy vị trí này chính là trục gốc (vị trí gốc) của không thời gian. Thế cho nên số 1 phải xuất hiện tại vị trí này, chứ không thể đặt một cách tùy tiện ở bất kỳ một vị trí nào khác, trong toàn vùng không – thời gian đó cho được. Là vị trí xuất phát khởi thủy của hệ thống số trong không – thời gian của mô hình vũ trụ tự nhiên ban đầu và vận hành. Vị trí khởi nguyên.

Vậy tôi trình bày cũng dựa trên nguyên lý và tuân thủ theo quy tắc nền tảng của nền khoa học vật lý như: Diễn giải hệ thống số, xuất hiện một cách trật tự và vận hành trong mô hình của không – thời gian ban đầu đó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong hình 1 là mô tả, biểu diễn cách đọc và trình bày Ma Trận S khi ta xem xét trong kênh dọc. Thế nên ta có A+B C+D. Và tôi mô phỏng theo đúng nguyên tắc này mà ứng dụng và trình bày trong không – thời gian 4 chiều của hình 2.

Theo trật tự tự nhiên thì hễ có Tượng là có Số. Và hễ có Số là có Lý! Vậy, cũng dựa trên trật tự đó, tôi căn cứ vào biểu đồ của hình 4 và lập Lý thuyết, để giải trình như sau:

Ta có thể quan sát thấy hệ thống số có xuất phát từ tọa độ gốc của không – thời gian ban đầu đó. Số vận hành một cách trật tự tự nhiên trong toàn vùng của không – thời gian đó. Chúng tương tác với toàn thể các số khác, trong toàn vùng của hệ thống không – thời gian đó. Sau khi tương tác với từng đơn vị số, qua tổng các quỹ đạo khả dĩ trong các miền không gian. Và cuối cùng thì hình thành nơi địa phương biên của không – thời gian là một đáp số với số tổng là 260!

Ta xét thấy, hệ thống số đó đã đan xen chằng chịt như một mạng lưới, liên thông toàn thể. Để rồi trong bất kỳ trục tọa độ nào trong không gian, bất kỳ vị trí nào của từng thời điểm trong chiều Thời gian. Cũng đều bảo toàn cùng một giá trị = 260!!

Mô hình diễn tả trên đây là phản ảnh sự tương tác của thế giới Hạt trong cả một hệ thống của Hadron. Mô hình phản ảnh cho ta thấy cả một cơ cấu động toàn thể trong đó. Cả hệ thống số phân tán như một Ma Trận mà chúng ta không có thể xác định được quỹ đạo nào, và vận hành ra sao trong xứ địa phương đó được nữa.

Thế nhưng, biểu đồ trên đây chẳng qua chỉ là tôi đang mô tả cùng các bạn những gì diễn ra trong góc quan sát của Kênh Dọc mà thôi! Nếu đã thế thì chúng ta lại cùng nhau chuyển vị trí quan sát sang Kênh Ngang xem sao nhé? Chúng ta tiếp tục cuộc du hành trong Kênh Ngang, để quan sát không – thời gian đó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sau khi xem xét trong Kênh Ngang. Tôi cũng đã hoán đổi theo quy tắc của Ma Trận S thì ta có: A+C B+D. Và tôi cũng đã mô phỏng một cách trung thành theo Ma Trận S mà mô tả lại như những gì các bạn thấy trong hình 2!

Vẫn có tổng đáp số bằng 260 cho tổng các hàng dọc, ngang, chéo đều như nhau!? Mặc dù ta xét thấy các số trong các cung, đã có sự chuyển đổi vị trí khác trong đó cho nhau. Thế nhưng giá trị cuối cùng cũng đều bảo toàn và trả lời với cùng một đáp số không sai!!! Như thế, nếu tính cả kênh dọc và ngang, chúng ta quan sát thấy vật bị quan sát đó đã phản ảnh có đến 2 Ma Trận khác nhau! Tuy nhiên cả hai mô hình đó cũng đều có một đáp số tổng các quỹ đạo là như nhau!!

Thế nhưng thế giới của Ma Trận S như những gì mà nền Cơ Học Lượng Tử hiện nay mô tả là vẫn chưa đủ!!! Tôi có thể nêu ra những điển hình cho câu phát biểu này của tôi như sau

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hai hình trên cho chúng ta thấy được là có tất cả 4 lần hoán đổi hệ thống ký tự, tương tác với nhau trong Ma Trận Phân Tán gốc. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta có 6 góc độ quan sát mô hình của Ma Trận trong đó. Từ đây suy ra, nếu vậy thì chúng ta phải có 6 mô hình Ma Trận S có giá trị khác và không khác trong đó! Ví như trong không gian 3 chiều hiện tại bằng vật lý. Trong chiều dọc thì ta có Trước và Sau. Đối với chiều ngang thì ta lại có Phải và Trái. Vậy chiều cao thì tất phải có Trên và Dưới rồi vậy. Điều này tựa như ta quan sát mô hình của một khối vuông vậy. (đủ 6 cõi).

Đã thế, tôi sẽ đưa các bạn tham quan qua một lượt, 6 Ma Trận này như những gì được trình bày sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Như thế, chúng ta có tất cả là 6 Ma trận có đáp số tổng các quỹ đạo đều là 260 như nhau! Mặc dù mỗi Ma Trận đều có các hệ thống số xuất hiện ở các vị trí khác cung nhau!!

Ta xem xét lại biểu đồ Ma Trận S của Heisenberg và Chew thì thấy biểu đồ này là biểu đồ thuộc Âm tính. Đồng thời hệ số 8 là lớn nhất trong tổng thể đó, nên trình bày cũng có 8 ô ngang dọc. Thế cho nên Ma Trận này còn được gọi tóm tắt là Ma Trận cấp 8x8. Và Ma Trận cấp 8x8 này cũng là mô hình của không – thời gian trong vũ trụ mà chúng ta đang tồn tại và phát triển. Và đây cũng là không – thời gian mà Thuyết lượng tử đang phải giới hạn trong phạm vi này.

Tuy nhiên còn những vấn đề tồn tại mà tôi bắt buộc phải nêu ra cùng các bạn là:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Với biểu đồ của Ma Trận S này thì nguyên tắc của nó là hoán đổi hết một lượt như chúng ta đã được biết qua. Vì thế ta thấy hoán đổi lần thứ nhất cho 4 góc. Ta có được tất cả là 6 Ma Trận. Hoán đổi bước thứ hai thì; 6x4=24, vậy trong lần thứ hai chúng ta có 24 Ma Trận! Lần thứ 3, chúng ta có; 24x4=96 Ma Trận!! Và lần thứ 4 cũng là nguyên tắc của số thành, ta có cả thảy bằng; 96x4=384 Ma Trận!!!

Đây cũng chính là tổng số 384 Hào của Quẻ Dịch!?

Vậy điều này cũng có nghĩa là ta có tất cả là 384 Ma Trận cấp 8 khác nhau, mà vẫn đều có một đáp số tổng bằng 260 như nhau!!! Quả là Ma Trận Phân Tán đúng với nguyên nghĩa với câu đó mà từ xưa đến giờ, chúng ta không có thể nào biết tới cho nổi!!! Và trên thực tế thì tôi có thể trình bày ra cùng các bạn tất cả 384 Ma Trận cấp 8x8 ấy ngay tức khắc.

Đúng là cả một thế giới Ma Trận còn tiềm ẩn trong cái khoảng không mà Heisenberg và Chew đã bỏ qua đó!!! Chúng ta tạm thời tính trong quy ước giới hạn đủ là 360 Ma Trận thôi. Nếu như thế thì chúng ta không có hy vọng gì để biết được rằng; Trong 360 Ma Trận đó, Ma Trận nào là mô hình thực tại của vũ trụ mà nhân loại chúng ta đang sống và vận hành đây???

Lý Thuyết Dây mới chỉ có 5 mô hình vũ trụ thôi, mà đã lúng túng hết cả rồi. Nhưng hôm nay tôi đưa ra tới những 360 mô hình thực tại vũ trụ đều khả dĩ như nhau! Vậy yêu cầu mà giai đoạn đang đòi hỏi chúng ta phải xác định được; Đâu mới là mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ tiềm ẩn trong đó?

Không Thể.

Tôi bắt buộc phải dừng cuộc du hành lại ngay dòng này thôi. Bởi chúng ta sẽ lạc trong thế giới Ma Trận này là có thật. Vậy bài sau, bắt buộc chúng ta phải quay trở lại…, từ những điều đơn giản nhất. Vì chúng ta không thể tiếp tục cuộc du hành theo hướng này nữa rồi vậy.

Rối loạn lên hết! Chắc chắn là chúng ta sẽ lạc mất trong thế giới của Ma Trận là có thật!!!





54 - Cửu Tinh




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




(Viết Theo Câu Hỏi Của Bạn Tuấn Nguyễn dưới bài 52).

Về thuật Độn Giáp, xưa nay vẫn mỗi sách một cách suy diễn. Chúng ta xét thấy vẫn chưa được thuyết phục một quan niệm chung về sự độn giáp này.

Vậy, trước khi tìm hiểu về hệ thống Cửu Tinh trong bài viết này. Chúng ta cùng tham khảo một quan điểm của riêng tôi như sau:

Do một Tuần Giáp là gồm 10 Thiên Can. Trong khi đồ hình Lạc Thư thì Cửu Cung chỉ có 9 cung. Vì thế nên khi phối hợp thì phải độn giáp đi cho hợp với 9 cung. Điều này cũng như hệ thống số có 10 là từ 0 – 9. Số 0 là khởi đầu và cũng là kết thúc trong hệ thống của 10 số đơn đó. Như có mà không, nên đại diện cho sự tiềm ẩn trong hệ thống đó. Hoặc như không gian có tất cả là 9 chiều, và chiều thứ 10 là chiều thời gian. Chiều thời gian này vốn tiềm ẩn và cùng đồng nhất trong tất cả 9 chiều của không gian vậy. Ở đây ta chưa bàn đến Địa Chi (12).

Thế cho nên ta mới thấy tất cả các học thuật xưa nay đều phải Dụng Ất. Tuy nhiên nếu xét theo nguyên tắc Dụng Ất thì…, Học thuật Thái Ất Thần Kinh là đứng đầu trong tất cả Tam thuật bao gồm Kỳ Môn và Lục Nhâm. Vậy dựa trên quan điểm của Thái Ất thần Kinh thì:

Thuở ban đầu Tạo Hóa gây hình vũ trụ thì: Sự xuất hiện đầu tiên là mặt Trời, rồi đến Mặt Trăng…, và tuần tự sinh thành đủ tất cả là 9 vì sao trong hệ mặt trời (nếu tính luôn trái đất là 10).

Lúc đó thì 7 vì sao kia có hiện tượng là đứng thành 1 hàng ngang, cùng với mặt trời và mặt trăng. Giai đoạn đó được gọi là giai đoạn của Thất Diệu Tề Nguyên. Và rồi từ khởi nguyên là có một số sao bắt đầu khởi động bởi lực hấp dẫn tác động từ mặt trời, và bắt đầu chuyển động, xuất phát mà xoay xung quanh mặt trời. Thời điểm đó được gọi là Thượng Cổ Giáp Tý. Nếu ta tính từ thời điểm đó cho đến tận hôm nay (2017), là đã được tương đương 10.155.934 năm rồi! Và tiếp đến giai đoạn xuất phát thứ hai là sau 10.141.310 năm. Lại thêm một số sao ở vòng ngoài, bắt đầu chuyển động theo. Và thời điểm này ta gọi là Trung Cổ Giáp Dần.

Và người xưa đã lấy bội số chung của các sao xoay xung quanh mặt trời là 3.600 mà trừ dần đi (chia) còn 360 làm quy ước chung (một vòng). Vậy ta chia mà số dư dưới số 360, thì được gọi là Vòng Kỷ Dư. Và số của Vòng Kỷ Dư này. Chính là nền móng để ta có thể thiết kế và xây dựng, mọi mô hình của bất kỳ thế cục nào trên đó.

Số thứ tự của Cửu Tinh, theo trật tự nhất định khi chưa chuyển (Phi Cung) là:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thế nên ta xét thấy Thần Thái Nhất trực phù ở cung giữa. Thần đứng phía sau là Nhiếp Đề sẽ phi ra Cửa Khai, là cửa mở của bát môn thuộc Cung Kiền. Thế nên ta mới thấy vị trí của Cửu Tinh là phải bố trí có quỹ đạo vận hành ngược chiều so với thứ tự (9,8,7,6,5,4,3,2,1). Và quy luật Phi Tinh vẫn theo chiều thuận như quy luật của Huyền Không (theo chiều mũi tên).

Tôi trình bày một thực hành cùng các bạn, để dễ theo dõi như sau:

Theo như cách tính thì năm nay 2017 thì chúng ta có được số của Vòng Kỷ Dư là; 344. Tiếp đến ta cộng thêm cho 3. Số 3 này là theo lý của Tam Tài, là tính sai số cho những tháng nhuận, nên gọi là số doanh sai là; 344+3=347. Ta lại lấy số 347 này chia cho 9 cung thì có đáp số là: Được 38, dư 5. Vậy có nghĩa là đã vận hành được 38 vòng, và hiện tại là đang vận hành ở vòng thứ 39, thuộc số 5 là tương ứng với Thần Thanh Long, theo trật tự của Cửu Tinh khi chưa chuyển.

Vậy năm nay thì Sao Thanh Long đang Trực phù cung giữa. sao đứng sau Thanh Long là Thiên Phù sẽ Phi ra cửa Khai. Nên ta có bảng Cửu Tinh đang vận hành của năm nay như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Khi ta “lập đồ bàn” như trên, “bố cục” xong, thì hệ thống của Cửu Tinh mới “lộ diện” được. Vậy thế cục này đã lộ diện thì ta mới có thể “nhận diện” được thế cục của Cửu Tinh. Và ta bây giờ có thể nói đến hai tiếng “cục diện”, để bàn về Thế Cuộc vận hành của Cửu Tinh trong năm nay để nhận định được rồi vậy.

Và vạn sự cũng đều có giá trị như thế cả. Thế nên ta mới vỡ ra được rằng: Xưa nay người ta cứ nói đến Thế Cục một cách đơn giản quá rồi.

Quy tắc vận hành của Cửu Cung là mỗi năm qua một cung. Một vòng là có 9 cung cho 9 sao Quý Thần. Năm nay đã là năm thứ 5 rồi. Vậy là còn 4 năm nữa sẽ vận hành hết một độ Mông Hạn Ảnh…

Tùy theo khả năng tri thức của mỗi cá nhân trong chúng ta tích lũy được. Chúng ta sẽ đọc được toàn bộ những chỗ không có chữ trong này vậy. Ví như ta tưởng tượng trong tâm trí mà bố những hệ thống của Ngũ hành, Bát môn, vòng trường sinh v.v… Thế cho nên tuy thế cục có bày ra trước mắt cả đấy. Nhưng giá trị vận dụng là có cao, có thấp khác nhau là thế.

Sở học của trời, không phải cứ mang giấu đi đâu cả. Vẫn cứ bày ra trước mắt chúng ta. Có tận tâm hướng dẫn, quyết chí học cũng không có thể lĩnh hội cho hết nổi, mà thi hành cho được. Sự học là truyền đạt hết, lĩnh hội còn là tùy căn cơ cũng như vốn tri thức từ mỗi cá nhân đã từng tích lũy trước đó rồi.

Cho nên các bạn có thể vận dụng lưỡng nghi, âm dương, Tam Tài, tứ tượng, ngũ hành v.v… Khí tiết, 24 sao, Bát môn, vòng trường sinh v.v… đều đắc sở dụng cả thảy.

Theo như các nguyên lý của Thuyết Lượng Tử thì gọi mô hình trên là các nguyên tắc bao gồm “đối xứng, đối xứng gương, đối ngẫu…”. Bảo đảm tổng các quỹ đạo vẫn bảo toàn là 15. Ta muốn xoay ra sao thì cứ xoay (Spin), đổi ra sao thì cũng cứ đổi (hoán đổi). Nhưng phải bảo toàn nguyên lý tổng các quỹ đạo đó. Chỉ bấy nhiêu đó thôi, cho dù ta có không biết gì đến các lĩnh vực của lịch sử khác liên quan. Bảo đảm không hề phạm phải sai lầm cho được.

Tôi có thể nêu ra một vài ví dụ cùng các bạn như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Như ví dụ trên đây thì ta thấy: Trên đồ bàn lập chung thì ta bố cục và tính luôn các cung quái, cửa, chi v.v… Ta gọi chung là Địa bàn. Tiếp đến bố cục Sao, Khí, Tiết v.v… ta gọi là Thiên Bàn. Và nếu tính năm, tháng, ngày, giờ sinh, các cung Mệnh, Thân v.v…, thì ta gọi là Nhân Bàn vậy.

Theo như biểu đồ trên đây thì ta đủ biết năm nay Sao Thanh Long đang trực phù tại cung giữa. Xét bốn phương, tám hướng các Thần ra sao thì đủ biết rõ. Kể cả Long Đàm, Hổ Huyệt, thời nào tụ tán ra sao. Ví như cục này thì cũng phải đủ để biết Thần đang độn tại Cung Dần, tụ khí (kết tinh) thuần dương, thuộc sao vĩ của bộ Long Đàm vậy. Thuộc hướng đông bắc, Cửa Sinh.

Tùy thế cuộc lớn nhỏ mà tính như 9 năm, 9 tháng, 9 ngày v.v… Đó chính là những giá trị tiềm ẩn của bộ Cửu Tinh Quý Thần đó vậy. Biết được quy luật này là đã đủ để gọi là “đắc sở dụng” rồi vậy.

Thiết nghĩ, bấy nhiêu cũng đã quá đủ để các bạn cùng tham luận.


.


Thanked by 2 Members:

#23 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 19:59



55 - Thảo Luận Về Ma Trận S




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Qua bài viết và trình bày “Ma Trận Nguyên Nghĩa” vừa rồi. Chúng ta mới thật sự thâm nhập vào thế giới này!

Thế nên từ xưa đến nay, chúng ta nói về thuật ngữ Ma Trận Phân Tán và biết về nó còn quá giới hạn. Giới hạn đơn thuần như những dạng ngôn ngữ phần mềm, ứng dụng từ Ma Trận Phân Tán có xuất xứ từ biểu đồ phản ứng của Heisenberg và Chew lập ra từ năm 1943.

Thế nên qua trang này. Chúng ta biết được cái khoảng không vô hình, được thiết kế nằm tại trung tâm của biểu đồ phản ứng mà Heisenberg và Chew đã từng bỏ qua trong quá khứ. Đó lại là cả một thế giới Ma trận còn tiềm ẩn phía sau đó nữa. Giá trị thể hiện ngay tức khắc là nó đã có khả năng chỉ rõ những cơ chế tương tác mà nền khoa học hiện đại không hề biết đến cho nổi suốt hàng trăm năm qua. Đó là một thực tế khó có thể phủ nhận cho được.

Ta có thể dễ dàng xét thấy những biểu đồ phản ứng của nền khoa học hiện đại cũng còn rất kém cỏi, và nông cạn vô cùng. Có một dấu chân mà nhân loại chúng ta cứ phải dẫm lên mãi mà vẫn không tránh được. Là cứ hễ mỗi lần nền khoa học vật lý của nhân loại vừa tìm thấy được một học thuyết hay định luật nào đấy. Ngay lập tức chúng ta làm như là không còn gì để tìm nữa rồi vậy!

Thật ra, đối với mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ. Thì nhân loại của chúng ta chỉ mới có thể dò dẫm được một vài bước chân chập chững đầu đời mà thôi. Tôi có thể minh chứng điều này như một số điển hình những biểu đồ so sánh sau đây:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vẫn chưa đủ…!

Quả thật; Nhân loại chúng ta vội vã quá!!!

Tuy nhiên những biểu đồ ở trên, cũng chỉ mới thể hiện được sự phản ứng ở phía bên ngoài cái khoảng không tại trung tâm mà thôi. Bởi vì ở bên trong vùng địa phương của khoảng không đó: Lại là cả một vũ trụ Ma Trận Phân Tán tiềm ẩn, mà bất kỳ một nhà chuyên môn nào rơi vào là cũng phải lạc mất phương hướng ngay! Ngay cả như bản thân tôi, khi lập Ma Trận đó (một cách quán tính), mà chợt phát hiện sai số, do vấp (phân tâm). Thay vì rà soát lại để tìm ra sai số đó, thà rằng tôi lập lại Ma Trận khác còn nhanh hơn thế! Và khi muốn thâm nhập vào Ma trận đó, tôi cũng phải xem xét tổng thể quy luật vận hành của Ma Trận đó trước. Rồi sau đó mới có thể thâm nhập vào được. Bằng không thì chính tôi cũng phải lạc mất trong Ma Trận đó thôi!! Bởi vì nó xứng danh với hai chữ Ma Trận.

Điều này cũng có nghĩa là: Ngày tận thế của các Hacker đã đến rồi vậy.

Bởi vì mãi từ ngàn xưa, trong văn hóa cũng như tư tưởng phương đông. Đã từng có ví Ma Trận cấp 12x12 là; “Chú chuột (mouse) dọn nhà” rồi kia!!! Thế cho nên những Ma Trận trong thế giới kỹ thuật số hiện nay. Chỉ cần vài cú nhắp chuột…; Các Hacker (họ rất giỏi về toán học) thỏa sức tung hoành khắp ngang dọc, mà không cần biết nhà chuyên môn nào là gì trong thế giới số đấy nữa cả.

Vì thế, nếu chúng ta cứ thiết lập phần mềm của Ma Trận lên cấp hàng tỷ như nền tảng kỹ thuật số hiện nay đang dụng. Các Hacker vẫn cứ thỏa chí rung đùi mà ngâm câu “Thương sung thử tước hý” mà thôi!!!

Như tôi đã từng nói rằng ngày trước nền khoa học vật lý đã ưu ái cho Heisenberg và Chew mà đã bỏ qua cái khoảng không trong Ma Trận S đó. Ngày hôm nay tôi đã đặc tả những giá trị còn tiềm ẩn phía bên trong cái khoảng khoảng không của biểu đồ phản ứng đó ra rồi. Chúng ta sững sờ trước những điều thực tại đó hết cả rồi. Bởi vì khi chúng ta khai thác, chúng ta ngỡ ngàng lên hết. Vì có cả hàng trăm Ma Trận như thế, còn tiềm ẩn trong địa phương đó nữa! Chúng ta không có hy vọng gì cho một mô hình cơ bản của tương lai nữa rồi. Ngày hôm nay, khi chúng ta đã đưa tất cả hàng trăm Ma Trận này ra trước ánh sáng của thực tại, còn chưa có thể nào xác định được. Thế thì trước đấy, với Ma Trận S thì làm sao các nhà chuyên môn có thể xác định cho được.

Chúng ta đều đã thấy cả rồi, tất cả đều rối loạn lên hết. Nguy cơ tư duy cũng như ý thức của chúng ta sẽ bị lạc trong thế giới của những Ma Trận đấy là có thật. Chúng ta nhất định phải quay trở lại từ ban đầu. Để xác định lại mô hình nào mới là mô hình của vũ trụ thực tại mà nhân loại chúng ta đang vận hành trong đấy? Để chúng ta còn nhanh chóng kiện toàn lại và thiết lập lại một mô hình cho tương lai của chúng ta, kể cả của các thế hệ tương lai nữa. Bởi vì với mô hình hiện nay là trong thời điểm của một tương lai gần. Đang chờ đợi nhân loại của chúng ta vận hành đến, và thực thi quy luật của tự nhiên mà đào thải chúng ta. Sao chúng ta có thể cứ kê gối cao đầu mà ngủ cho được. Cho dù chúng ta hôm nay có muốn buông xuôi tất cả cũng không được. Bởi vì tương lai của các thế hệ mai sau, không cho phép chúng ta hôm nay làm điều đấy.

Thế cho nên; Bắt buộc chúng ta phải quay trở lại. Truy tìm xem có còn những giá trị nào còn bị bỏ sót qua nữa hay không. Vì chúng ta không thể tiếp tục với hàng trăm Ma Trận như thế được nữa rồi. Chắc chắn là chúng ta sẽ rối loạn lên hết và lạc trong thế giới đó mất. Vậy, với quan điểm cũng như tư tưởng của dân tộc Việt Nam có ý thức là:

“Trăm năm tính cuộc vuông tròn, phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”. Và; Các bạn và tôi thuộc dân tộc đấy. Thế cho nên: Chúng ta phải quay trở lại. Bắt đầu xem xét lại quỹ đạo của mô hình nào, từ những điều đơn giản nhất như:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bởi nơi đây chính là địa phương khả dĩ nhất, để chúng ta xuất phát cuộc du hành vào không gian chiều thứ tư lại từ đầu…

Như chúng ta đã biết trong hình 1 là mô hình của Ma Trận âm tính. Trong hình 2 là Ma trận trung hòa và hình 3 là Ma Trận dương tính theo cái lý của Tam Tài. Thiết nghĩ tôi cũng phải giới thiệu qua để các bạn ghi nhớ về hai Ma Trận Âm – Dương vốn có đặc tính thuần âm hoặc thuần dương của riêng nó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vẫn lại có hàng trăm Ma Trận như thế nữa! Tuy nhiên chúng ta xác định ngay là; Chúng ta chỉ khai thác vào Ma Trận Trung Hòa mà thôi. Vì đó mới chính là mô hình đủ kiện toàn. Giá trị này chỉ rõ cho chúng ta biết. Nếu chỉ riêng một lĩnh vực của Khoa Học hoặc một Tôn Giáo, là không thể đủ cho mô hình của một vũ trụ tự nhiên cơ bản cho được. Xét riêng góc độ tôn giáo thôi. Nếu như một Chúa hay một Phật thì cũng rất thiếu sót cho mô hình của Tạo Hóa rồi vậy. Khi chúng ta đã hợp nhất rồi, vậy mà còn chưa có thể xác định được gì cả, huống hồ chi cứ phân chia mãi mà mong đắc đạo cho được!?

Kể cũng lạ cho thế nhân chúng ta xưa nay thật đấy!!!

Nhân đây, để kết thúc bài viết này. Tôi chân thành có vài lời như sau:

Các bạn phải thấy rằng tôi đang bảo vệ tư tưởng của Phật Thích Ca, chứ không phải bảo vệ quan điểm của thế nhân theo đạo của Phật. Vì thế tôi không xem quan điểm nơi tứ chúng phật tử là tư tưởng của Phật Thích Ca bao giờ cả. Vì Người có nói là; “Người ngoài đi trên cầu và người trong đạo phật phải đi trong tăm tối dưới cầu. Lại còn phải bị mắc vào bụi gai, rách hết cả pháp y mà không thoát ra cho được”! Bên Chúa cũng vậy, Người cũng nói rằng: “Đừng tưởng ngày sau ta sẽ xét xử các ngươi nhẹ hơn dân ngoại”!!

Vậy nếu muốn toàn diện, ta phải xét thấy rằng: Đa số quan điểm của phật chúng thì cho những kẻ tù tội là do nghiệp báo phải đền. Từ đó dửng dưng với họ, e sẽ gánh nghiệp thay. Còn Tín đồ thì biết Chúa dặn rằng: Phải thăm viếng và an ủi kẻ đang bị tù tội”. Vậy sở dĩ chân lý lạc đi là bởi bị ảnh hưởng một nhóm lợi ích, tận dụng vào đạo tác động khiến mọi người có thành kiến. Nhất là những kẻ tận dụng cho mục đích chính trị lại càng phải đáng lên án hơn nữa.

Xét thật sâu trong Cựu Ước thì sẽ thấy được Chúa nói rằng; Ai muốn xem xét bất cứ điều gì, thì trước hết phải đeo trước ngực của mình tấm bảng công bình và sự thật. Nếu công bình, ngươi được quyền xét cả Chúa của các ngươi nữa!!!

Ta lại xem xét trong bất kỳ giáo phái nào. Vẫn không hề tìm thấy vị Giáo Chủ nào lại cho phép Chúng Đồ được quyền xét chính mình như thế bao giờ cả. Đây chính là sự công bình tuyệt đối rồi vậy.

Thế cho nên ta mới thấy: Tiêu chí cao nhất bên Đạo Chúa là ưu tiên cho kẻ công bình. Không ưu tiên cho kẻ phản đối hay yêu thương Người. Vì phản đối là sẽ phạm sai lầm, mà yêu thương là phải ra thiên vị mất. Cũng chính vì thế nên ta thấy Tông đồ Phao lô mới đi khắp thế giới mà mong tìm cho ra một kẻ công bình vậy.

Ta cũng đã thấy: Không phải ngẫu nhiên mà Sử Tiên và Kinh Thánh đã song hành cùng nhau, mãi từ một trong những ngày đầu tiên. Khi Tạo Hóa tạo dựng vũ trụ rồi.


.56 - Mở Hướng Khác





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Với thế giới Ma Trận vừa qua, chúng ta thấy rằng không thể nào xác định được một mô hình vũ trụ thực tại cho được. Bởi vì cả một thế giới Ma Trận đầy hỗn loạn như thế, mô hình nào cũng đều khả dĩ như nhau. Mặc dù chúng ta đã sử dụng đến công cụ toán học rồi. Các bạn thấy rõ ràng là chúng ta không thể nào xác định cho được.

Thế nhưng ít nhất thì điều này cũng cho chúng ta nhận ra được một điều rằng: Đó cũng chính là lý do mà tại sao xưa nay chúng ta không một ai có thể đắc đạo cho được. Nơi đây là chúng ta đã thấy rất rõ mô hình thực tại rồi, vậy mà còn không thể nào xác định được. Huống hồ chi xưa nay chúng ta hoàn toàn chưa biết gì về những thực tại tiềm ẩn này cả, vậy mà chúng ta cứ muốn đi tìm sự giải thoát một cách vô lý như thế!

Thì thôi, chúng ta hãy khoan nói về Đạo. Mà hãy bàn đến thực tại trước mắt là tìm cho được một đường lối (mô hình) nào đó cho một tương tai chung của nhân loại chúng ta. Bởi vì mô hình cận tương lai là một hoàn cảnh mà quy luật của tự nhiên đang vận hành đến thời điểm hủy diệt rồi. Thế cho nên bằng bất kỳ giá nào, chúng ta hôm nay cũng phải xác định cho được một lối thoát chung cho tương lai gần.

Vì thế, nên chúng ta phải quay trở lại. Bắt đầu xem xét lại quỹ đạo của mô hình nào, từ những điều đơn giản nhất như: (Bởi đây là địa phương khả dĩ nhất rồi. Ta chưa vượt qua được thì cứ phải dậm chân tại chổ mà thôi. Bằng như cứ đi vòng vòng, rồi lại về đến tại vị trí này mà thôi).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chúng ta xem xét và so sánh 3 biểu đồ trên đây. Chúng ta cuối cùng cũng xác định được một quỹ đạo của số vận hành theo thứ tự chung nhất trong biểu đồ trung hòa thứ 3.

Đối với Thuyết Lượng Tử thì các cha đẻ của học thuyết này từng đã khẳng định rằng: “Thật ra chúng ta không còn điều gì để tìm nữa! Mà vấn đề cần tìm chỉ còn là những mối liên hệ hay một trật tự nào đó nữa mà thôi”. Đã như thế, chúng ta bắt buộc phải lục tung mọi ngóc ngách vạn sự. Kể cả trong mô hình của Không – thời gian, xem xét đến những mô hình nào có tính liên quan đến như:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đối với hình 1 thì chúng ta đã quen với mô hình này. Đó chính là một mô hình có sự đối xứng tuyệt đối. Thế nhưng để có thể nhìn ra được sự đối xứng đó thì chỉ có tầm nhìn của các nhà chuyên môn mà thôi. Còn đại đa số trong chúng ta thì không nhận ra cho được. Và đó cũng chính là biểu đồ với mô hình chuẩn. Trong hình thứ 2 thì đây chính là cái mà các nhà chuyên môn gọi với thuật ngữ “Đối Xứng”. Vậy thì hình 3 phản ảnh là sự “Đối Xứng Gương”, là mô hình mà chúng ta đã quen với tên gọi Ma Phương của Lạc Thư. Và hình 4 lại có tên là “Đối Ngẫu”.

Trong cuộc khai quật và khảo sát lại những giá trị như các mẫu hình trên. Ta rút ra được hai quỹ đạo vận hành có xuất hiện điều dị biệt, sau khi đã điên đảo hết một lượt để xem xét mọi ngóc ngách trong mô hình đó.

Tôi lưu ý chung: Ta cần phải hiểu dị ngữ “điên đảo”! Ví như ta dựng một cây bút hoặc thước kẻ, theo chiều đứng bình thường. Nếu ta xoay ngược đầu bút 180 độ thì được gọi là “đảo” (đảo ngược lại). Và khi ta xoay cây bút đó với khoảng nghiêng 45 độ, giao động tùy ý. Thì điều đó có nghĩa là “điên”. Ví như người cứ nghiêng qua, nghiêng lại một cách không được bình thường, thì ta hay gọi là “kẻ điên” vậy.

Tuy nhiên sự điên ở đây, ta phải chỉ được hiểu là cái “tính điên” chứ không phải là “chất điên” đâu nhé! Một lý tính của sự điên, nhất thiết cần phải có, để làm thay đổi toàn bộ cục diện hiện nay mà nền khoa học đang vọng khát. Vì thế các bạn có thể hình dung giống như sự xoay (Spin) trong thuật ngữ của các nhà chuyên môn vậy. Là lý tính của sự điên đảo chứ không phải là điên loạn đâu các bạn nhé. Tuy nhiên cũng chỉ một bước mong manh như sợi tóc nữa thôi, không khéo là chúng ta sẽ rơi vào sự điên loạn thực sự.

Thế nên, ta xét thấy trong biểu đồ của mô hình 4 với phép đối ngẫu, lại xuất hiện một quỹ đạo khác với các quỹ đạo đã được quan sát trước đó. Và tôi cũng phân tích chi tiết 2 quỹ đạo này, để các bạn hiểu sâu hơn về nó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Với hai biểu đồ trên, sở dĩ tôi dùng màu đỏ là để biểu hiện cho dương tính. Và màu xanh là biểu hiện cho âm tính. Ta nhận thấy hai quỹ đạo đó có xu hướng hướng tâm ở bước thứ 4, trong 3 bước của quỹ đạo riêng phần. Lực này thì nền khoa học vật lý dùng thuật ngữ “hấp dẫn”. Còn Dịch Lý học thì gọi với thuật ngữ là lực “âm dương”. Ta xét thấy tại thời điểm giao nhau đó, xảy ra 3 trạng thái: 1 triệt tiêu, 2 đồng nhất, 3 chuyển hóa (chuyển pha). Vậy mọi tiến trình va chạm, đều xuất hiện 1 trong 3 trạng thái như thế. Để dễ hình dung hơn, tôi gọi tiến trình va chạm thứ nhất: Triệt tiêu là “tương tác”. Tiến trình va chạm thứ hai với trạng thái đồng nhất là “tương tư”. Và tiến trình va chạm để chuyển hóa thứ ba là “tương giao".

Thế cho nên mô hình đó sẽ được biểu diễn và thể hiện như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thế nên ta thấy trong hình 2 được thể hiện phần âm là vô hình, thuộc không gian chiều thứ tư. Cho nên trong hình 3, là với một quỹ đạo riêng phần trong không gian 3 chiều. Các nhà chuyên môn mới sử dụng phương pháp đối xứng gương, để tìm ra ảnh gương của mô hình tiềm ẩn (vô hình) trong không gian chiều thứ tư đó. Và hình 4 là phương pháp Lật mô hình (cũng là đối xứng gương). Thì ta lại phát hiện ra phản ảnh đúng với quỹ đạo chuẩn ở hình thứ 5 cuối cùng vậy.

Trên đây là những phương pháp mà các nhà chuyên môn đã sử dụng ở phía bên trong các phòng thí nghiệm, đối với thế giới hạt, thuộc nền tảng của Cơ Học Lượng Tử. Thế nhưng nền khoa học đã phạm một sai lầm rất trầm trọng đối với mô hình của phép đối xứng gương. Hay tôi có thể dùng lời nhẹ hơn là có sơ sót khi sử dụng các công cụ đó đối với thế giới vô hình. Rồi mang ra thể hiện trong không gian 3 chiều hữu hình như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quan sát và xem xét kỹ càng thì ta phát hiện ra mô hình sóng tiềm ẩn trong mô hình tự nhiên của vũ trụ vốn không phải là quỹ đạo đó! Và bước sóng hiện nay là có khiếm khuyết nhất định so với mô hình bước sóng của vũ trụ tự nhiên như sau:

Một bước sóng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vì thế ta xét thấy mô hình sóng từ trước đến nay đang sử dụng, là không đủ nói lên sự kiện toàn cho được. Mà một bước sóng phải được đặt giá trị lại như mô hình trong hình thứ 2. Bởi giá trị thực tại của bước sóng tự nhiên của vũ trụ đó, đã được phát biểu câu trả lời trong hình ba rồi. Thế cho nên ta thực hiện đến 3 bước sóng, thì trong khi đó mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên chỉ mới vận hành có 2 bước mà thôi! Các nhà chuyên môn đủ hình dung ra những giá trị của tương lai rồi vậy.

Nơi thời điểm khảo xét lại toàn bộ những giá trị của quỹ đạo thực tại tự nhiên tiềm ẩn của vũ trụ này. Ta lại tiếp tục kiện toàn cho một giá trị nữa còn bỏ sót của Thuyế Lượng Tử. Điều tôi muốn nhắc đến cùng các bạn đó, chính là thí nghiệm 2 khe!

Qua thí nghiệm hai khe ngày đó. Faynman đã phát biểu như sau: Hạt electron đã đi qua khe thứ nhất đến màn tấm chắn phía sau. Rồi hạt electron này có thể đi đâu đó tận thiên hà Andromeda rồi mới quay lại và chui qua khe thứ hai đến màn hình!!! Ấy vậy mà trong ngày đó, tuyệt không một ai có ý kiến gì cả!? Và rồi cuối cùng Faynman kết luận một câu lấy làm sững sờ tất cả mọi tư duy đương thời khi đấy là: “tổng các quỹ đạo trong không gian”!!!.

Điều này có nghĩa là hạt electron đã đi qua tất cả các quỹ đạo khả dĩ nào đó trong không gian, trước khi kết thúc nơi vách chắn phía sau, mà ta không thể nào biết được. Và rồi Faynman cũng lại dùng giải pháp tổng các quỹ đạo để đối phó với sự kiện thí nghiệm hai khe ngày đó, và cũng vượt qua sự kiện đòi hỏi giải đáp này giống như các nhà sáng lập Thuyêt Lượng Tử trước đó đã từng làm. Vậy hôm nay tôi dựng lại mô hình của quỹ đạo electron đó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Cuối cùng thì chúng ta xác định được mô hình vận hành của vũ trụ tự nhiên có được hai quỹ đạo như hình 2 ở trên. Quỹ đạo hình tròn chính là biểu đồ trong mô hình của Thuyết Tương Đối, phản ảnh qua hằng số 360=0. (rút ra từ cách lý giải của Einstein qua giai thoại Người Mù Bẩm Sinh). Và quỹ đạo còn lại thuộc Thuyết Lượng Tử.

Tôi khẳng định, Vạn vật trong vũ trụ đều phải vận hành theo nguyên lý của hai quỹ đạo này. Từ những sự việc bé nhỏ nhất như các hạt, các quark trong thế giới nội tại nguyên tử lẫn hạ nguyên tử, cho đến điều to lớn như những hành tinh trong thiên hà của chúng ta. Thậm chí kể cả các vũ trụ khác, ngoài vũ trụ này nữa. Bởi đó chính là những định luật của Tạo Hóa. Một lý thuyết của tất cả (Theory of Everything). Trong những bài viết sắp đến. Tôi sẽ ứng dụng hai quỹ đạo này để lột tả tất cả những giá trị còn tồn đọng hàng trăm năm qua, trong hai học thuyết nơi đỉnh cao của nền khoa học hiện đại của nhân loại chúng ta.

Do đề tài này rắc rối, nhức đầu và cũng rất dễ gây nhàm chán cho đa số các bạn đọc nói chung. Nên tôi chỉ viết ngắn gọn thế thôi. Không khéo sẽ phân tâm mất.

Vậy bài sau tôi sẽ chuyển sang góc độ tôn giáo, tiếp tục quan sát những rối loạn tiềm ẩn trong đó nhé. Ta phải quan sát trên mọi góc độ vậy.


.57 - VÀNH MÓNG NGỰA… TIÊU SƯƠNG!

Nơi thời kỳ cuối, ai ai dưới gầm trời cũng đều thắc thỏm để nói về ngày tận thế!

Nỗi ám ảnh của ngày hủy diệt này, đã bao trùm lên tất cả mọi quan niệm của bất kỳ quan điểm nào mà loài người có. “Ám ảnh ngữ” tận thế, đã ngự trị xuyên xuốt từ những tư duy khoa học, tôn giáo, ngoài tôn giáo, vân vân và v.v… hơn nữa.

Nếu đã thế, thay vì mãi tránh né. Chúng ta nhất định đi thẳng vào nỗi ám ảnh khủng khiếp nhất đấy một lần xem sao? Chúng ta có nghe rằng; Nơi trang cuối trong tác phẩm “ngày tận thế” của Tạo Hóa có ghi… Phàm kẻ ác sẽ mang án lưu đày khổ sai nơi Ty xứ địa phương. Và người hiền ắt được chào đón vào định cư ở phía bên trong của vùng Thiên đường. Dĩ nhiên những hành trang mà loài người mang theo, kể từ ngày tạo dựng vũ trụ đến nay bao gồm cả nước mắt và khổ đau. Sẽ được rũ bỏ phía bên ngoài của cổng thiên đàng hết cả rồi.

Thế nhưng…, do chúng ta chưa dám xem ngày tận thế là điều hiển nhiên của một thực tại phải đến. Cho nên chúng ta vẫn chưa có thể hình dung ra nơi Thiên đường hay Địa phủ đó là ở đâu cả!

Thì thôi! Ta cứ tạm mượn trang này chỉ một vài phút để tư duy phát huy trí tưởng tượng như không gian chiều thứ 5 và thứ 6 vậy. Như thế có nghĩa là thiên đường cũng như địa ngục vốn có tính liên thông suốt cả Tam Giới! Vậy chúng ta quay về tìm dấu chỉ định hướng từ trong tôn giáo xem sao nhé. Và ta phát hiện thấy trong Kinh Phật chỉ ra rằng; “Cực Lạc tại thế”! Nhìn sang Nhà Chúa…; Chúng ta cũng chợt phát hiện Chúa bảo: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” vậy!!

Như thế, trong ngày tận thế cũng có 3 kịch bản như sau:

Thiên đàng thuộc về không gian chiều thứ 6 trở đi.
Địa ngục lại là không gian chiều thứ 5.
Vậy, Trần gian là những gì thuộc về phía bên kia không gian chiều thứ tư trở đi rồi vậy.

Điều này có nghĩa là sau cuộc đào thải đó. Vẫn còn có một số nhân loại chúng ta tồn tại trên mặt địa cầu này. Điều này ứng hợp với Kinh Thánh. Bởi xét cho cùng thì câu định ngữ “tận thế” có xuất xứ cội nguồn từ trong Kinh Thánh đầu tiên! Cho nên ta xét thấy điều ứng hợp đó là bị tận diệt hết khoảng 1/3 nhân loại!! Một con số nói lên những tai ương rất khủng khiếp!!!

Vậy điều này có nghĩa là 1 phần đến cõi Trời. 1 về với cõi Đất. Và 1 sẽ ở lại Cõi Trần . Những ai trong chúng ta hôm nay còn tồn tại sau cuộc đào thải của Tạo Hóa đó. Sẽ thiết lập một nước Thiên đàng tại trần gian rồi vậy. Xét cuộc này vốn là cuộc “Thiên – Nhân Hợp Phát”. Thế cho nên chúng ta đại diện cho Nhân Cơ để xét thế sự xem sao nhé. Bởi nếu thụ động mà chờ Tạo Hóa phán xét là coi như xong. Chúng ta có muốn mường tượng gì về ngày sắp đến, thì tôi sẽ chỉ ra một phản ảnh mà Tạo Hóa đã gửi “thông điệp” cho loài người chúng ta khoảng 100 năm trước rồi nhé. Bởi bức thông điệp của ngày tận thế đó, được mô tả một cách rất chính xác từng chi tiết. Do chúng ta chưa có thể giải mã được mà thôi.
Đó chính là Bức Thông Điệp mang tên: Titanic!!!
Ta nhớ sự kiện Titanic xảy ra vào năm 1912. Thế cho nên 100 năm sau, đúng vào thời điểm 2012… Cả thế giới như cảm nhận được “lực hấp dẫn” của sự kiện “Chìm Tàu” trên toàn miền địa cầu lúc đấy! Thế nhưng, việc của Tạo Hóa, con người không có thể biết trước cho được. Đó chính là hồi chuông cảnh báo thứ 2 về ngày cuối đang tới gần, sau hồi chuông thứ nhất ở năm 2000!

Con Tàu nhân loại của chúng ta hôm nay, cũng đang ở giữa đại dương của kỷ nguyên mới đấy. Hãy đọc thông điệp của Tạo Hóa để tìm giải đáp nhé. Là thông điệp, nên chính xác đến từng diễn biến sẽ có trong tương lai gần. Tôi gợi ý…; Chỉ có 1/3 trong số họ, được sống sót sau thảm họa!!!

Và nền tảng chính trong ngày tận thế là sự Phán Xét. Từ đây suy ra…, nếu không có oan khốc, thì không được gọi là phán xét. Mà hễ đã có phán xét; Tất phải có oan khốc từng đã bị vùi lấp. Vậy chúng ta hãy cùng xem xét xem sao nhé. Do ngày tận thế cũng như sự phán xét là có nguồn gốc từ Kinh Thánh mà ra cả thôi. Lại nữa, Kinh Tân Ước. Vị Tông đồ Phao lô đã nhọc công đi tìm cho bằng được một bóng dáng của kẻ công bình nào đó suốt cả cuộc đời của ông. Và cũng đã 2000 năm qua rồi, bóng dáng của kẻ công bình vẫn chưa có thể xuất hiện cho được. Kinh Cựu Ước cũng cho phép bất cứ ai cũng đều có quyền được phán xét. Nếu một khi đã đeo trước ngực bảng công bình và sự thật. Vì tương lai của nhân loại, các bạn cùng tôi hãy nhân danh Nhân Cơ, ngồi vào vị trí cầm cán cân. Bởi Chúa đang rất mong mỏi một kẻ đủ công bình, kể từ ngày Người tạo dựng vũ trụ cho đến tận ngày hôm nay rồi vậy.

Và Đạo Chúa được xem xét đến một oan án trong bài viết này với vị Tông đồ Giu đa; “Kẻ bán Chúa” !!!

Khảo Kinh…;

Suốt 2000 năm qua. Khắp cả thế nhân đã nguyền rủa tông đồ Giu Đa, một cách không thương tiếc. Bởi Giu Đa chính là một trong số 12 đồ đệ của Chúa Jêsu ngày trước, thuở mà Người còn tại thế. Xét thấy trong Kinh Tân Ước, có tất cả 4 vị đã được suy tôn thành Thánh, chép lại sự kiện ngày đó bao gồm: Mác-thiêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an.

Nghe rằng trong “buổi tiệc ly” bất hủ ngày đó. Chúa Jêsu đã rửa chân cho các đồ đệ của mình qua hết một lượt. Đến lượt Giu đa, Người đã lấy nước mắt của mình mà rửa chân cho người đồ đệ này! Sau đó, trong bữa tiệc thì có xảy ra việc Giu đa đã có ăn chung bánh trong chén của Chúa Jêsu. Rồi đến cuối buổi tiệc đó. Ta thấy Kinh Thánh có chép là: Chúa Jêsu đã quay sang nói với Giu đa rằng: “Ngươi hãy đi lo phần việc của Ngươi đi”. Và Giu đa liền đứng lên, rồi đi ra…

Một lúc sau, Giu đa quay trở lại và có dẫn theo một nhóm lính và họ đã bắt Chúa giải đi. Đến khi Giu đa thấy Chúa Jêsu đã bị kết án tử. Giu đa bèn chạy đến tìm các thấy cả tế lễ, trả lại tiền cho họ và đòi họ phải trả lại Thầy của mình. Các thầy cả tế lễ không nghe, Giu đa lăn khóc rất thảm thiết. Sau đó vị tông đồ này đã ném 30 đồng tiền vàng vào các thầy cả, rồi bỏ đi treo cổ tự vẫn. Ta nghe nói đó là số tiền mà Giu đa đã bán Chúa Jêsu cho các thầy cả trong ngày đó.

Ngay sau đấy, các thầy bèn họp nhau lại và nói rằng: 30 đồng tiền vàng này là tiền máu. Vậy ta dùng để mua đất làm nghĩa địa để chôn những kẻ tha phương cầu thực. Và cũng kể từ lúc đó, mảnh đất mà hôm nay chúng ta quen gọi là Nghĩa Địa mới ra đời. Đồng thời cũng kể từ thời điểm đấy. Mọi người đều xem Giu đa chính là “Kẻ bán Chúa” vậy.

Nghi án hàm oan này sở dĩ được tôi nêu ra bởi: Khi Chúa sống lại và chuẩn bị về trời. Ông Thánh Gio-an (là môn đồ mà Chúa Jêsu yêu thương nhất) đã cứ hỏi đi hỏi lại cùng Chúa Jêsu mãi câu: Thưa thầy. Nếu thế thì ai mới là kẻ đã phản bội Thầy? Vậy điều này có nghĩa là tông đồ Giu đa không hề phản Chúa như mọi người xưa nay cứ nghĩ như thế. Các tín đồ suốt 2000 năm qua, không một ai đủ công bình để dám nghĩ đến điều này sao?! Đạo Chúa quả là đã có sự phủ mờ chân lý nơi đây rồi vậy.

Thế cho nên nghi án này được củng cố thêm khi vị tông đồ Phao lô quả quyết trong ngày đó cùng Phê rô và các tông đồ khác rằng: Tôi biết trong nhóm anh em của các ông. Có một người đã lên trời cùng với Chúa trong ngày ấy rồi! Tôi chỉ không biết là Chúa đã ở trong người đó, hay người đó ở trong Chúa mà thôi!! Ta xét thấy; Nếu người mà Phao lô nói đến đó, không phải là Giu đa thì còn là ai cho được nữa? Bởi 11 vị còn lại, đều đầy đủ cả!!!

Thế cho nên ta mới thấy vị Thánh Phao lô mới đi tìm người ngoài trên khắp thế gian. Xem có ai đủ công bình để mời về mà xem xét nỗi oan khốc trong nội bộ này. Bởi người trong nội bộ ắt phải có thiên vị mà không xem xét được ( do nể quyền và luật pháp tỏa cương). Cho dù có là Cha, Mẹ hay con cái trong một nhà, cũng đều phải có sự thiên vị nhất định.

Thế nhưng hôm nay cũng đã là thời kỳ cuối rồi. Ta xem xét toàn bộ nghi án này như sau:

Rất khó khăn lắm, ta mới có thể xem xét thấy trong thời điểm chưa lâu, trước khi xảy ra sự kiện này. Chúa Jêsu cùng các môn đồ của Người đang trị bệnh và giảng về Nước Trời tại một khu làng nọ. Đến khi mọi người nghỉ ngơi và ăn uống tại một nhà dân trong vùng. Bất chợt có một người đàn bà lạ bước vào. Bà liền tiến lại gần Chúa và tưới hết cả một bình nước hoa lên người của Chúa. Vào thời điểm đó thì ta phải biết, nước hoa là một loại hàng hóa quý và rất đắt giá. Thấy thế, đột nhiên Giu đa chạy đến và lấy làm tiếc lắm và bảo rằng: “Phí quá Thầy ơi! Bình nước hoa này bán được những 30 đồng tiền vàng, mình có thể phân phát ra mà cứu giúp cho biết bao nhiêu người dân đang đói khổ khác!

Ta xét thấy câu nói này chỉ có thể xuất phát từ đáy lòng của những con người chí thiện và luôn quan tâm đến cộng đồng mà thôi. Ắt Giu đa không thể là một kẻ xấu hoặc tham tiền cho được. Chúa đã nói cùng Giu đa như thế này: Ngươi yên tâm đi, việc này là bà đã tắm để liệm xác ta đấy! Thế cho nên Chúa đã trả đúng 30 đồng tiền vàng cho Giu đa liền sau đó!!

Lại xét rằng: Trong buổi tiệc ly, Chúa đã có ghé tai nói riêng với Giu đa và bảo vị đồ đệ này hãy đi lo phần việc của mình. Điều này có nghĩa là hai người đã có kế hoạch cùng với nhau trước đó rồi vậy. Nếu không thì sao Giu đa hiểu được ý gì mà liền đi ra “lo việc” ngay!! Và cũng chính Chúa Jêsu đã sai Giu đa đi rồi vậy. Không hề có tự ý hay lén lút hoặc âm thầm gì ở đây cho được cả.

Lại còn sự việc sau khi Người chết đi và sống lại, liền đến thăm các đồ đệ . Chúa Jêsu trước khi về trời còn căn dặn mọi người lại rằng: “Các ngươi hãy đi khắp nơi mà giảng đạo”. Khi đi không mang theo tiền bạc hay lương thực gì cả. Đến đâu, thì các ngươi sẽ ăn ở đấy.

Trong tất cả thế nhân chúng ta, có ai đủ để “suy án” tiếp đến những sự việc như sau đây hay không?:

Như thế: Nếu các vị tông đồ này theo lời Chúa Jêsu mà đi khắp nơi để giàng đạo trong dân. Họ không phải là “người tha phương cầu thực” thì còn là ai nữa? Vậy Giu đa đã “lo làm phần việc” của ông là: Dùng 30 đồng tiền vàng đã bán Chúa đó, để mua đất mà làm nghĩa địa, để chôn xác những anh em của mình được toàn thây sau này rồi vậy?! Nếu không có nghĩa địa để chôn xác, thì các vị tha phương cầu thực này phải chịu bỏ xác nơi dọc đường mà phải chịu cảnh diều tha, quạ rỉa mất trên khắp dọc chốn giảng đạo cả rồi.

Bởi trước lúc đấy là chưa có nghĩa địa. Ta có thể nhận ra điều này là: Ngay cả Chúa Jêsu khi chết đi, cũng còn chưa có chỗ để chôn xác đấy thôi. May là có một người nhà giàu, cho Người liệm xác và quàng nhờ trong hang đá của ông ta. Vậy nếu không có 30 đồng tiền vàng này thì sao?

Điều này phải được chúng ta suy thấu cho bằng được sự mầu nhiệm của Người rằng: Ngay cả lúc phải chịu chết đi, Người cũng tận dụng cả cái xác của mình và giao cho Giu đa bán đi, để lo cho các đồ đệ của người còn có chỗ mà chôn thây về sau nữa. Và Giu đa là người đã được Chúa chọn để cùng thông công cùng Người trong kế hoạch này để lo hậu sự cho 11 anh em kia về sau đó nữa.

Thật bàng hoàng!!!

Thế cho nên ta mới thấy: Giu đa ngay sau đó liền phát hiện Thầy của mình sẽ bị xử tội chết. Ông đã vội vã chạy đi chuộc lại mà không được. Ông uất ức quá nên mới đi treo cổ mà chết trước Người đấy thôi. Và Chúa Jêsu biết trước nỗi oan đó mà Giu đa sẽ phải chịu mang cùng sự mê muội của thế nhân về sau này. Nên Người đã dùng nước mắt của mình, để khóc cho nỗi oan đó trong lúc Người rửa chân Giu đa trong buổi tiệc ly rồi vậy.

Dĩ nhiên Thánh Phao lô đã thấy được điều đó. Sở dĩ Phao lô có được khả năng này là bởi sự kiện bị sét đánh trước đó mà không chết! Chính tai nạn này mà ông có khả năng “nhìn thấu những sự việc ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư” rồi vậy. Điều này tương tự như trường hợp của bà Vanga hay bất kỳ kẻ bị tai nạn sét đánh nào khác hiện nay thôi. Họ đều có được khả năng đó là điều hiển nhiên.

Và dĩ nhiên: Chính Giu đa mới là vị tông đồ xuất sắc nhất trong tất cả 12 vị đồ đệ ngày đó mà Chúa đã chọn. Và ông Thánh Giu đa đã cùng về trời một lượt trong Chúa Jêsu trong ngày đó mà Thánh Phao lô đã được khải thị. Dĩ nhiên chính nỗi oan khốc này mà Thánh Phao lô đã bỏ cả cuộc đời sau đó của ông. Đi khắp mọi nơi trên bình diện địa cầu. Với một lòng kỳ vọng là tìm cho bằng được một kẻ công bình nào đó, về để xét xử cái dị án chất ngất oan khốc này.

Cũng theo quy luật tự nhiên trong mô hình của vũ trụ mà Tạo Hóa đã dựng. Dĩ nhiên hễ ai cùng từng rơi vào hoàn cảnh, thì mới có thể hiểu nỗi oan này mà xét cho thấu nỗi oan đó cho được.

Và trong trang này: Các bạn cũng đã từng chứng kiến biết bao nỗi oan của dân tộc Việt trong quá khứ rồi vậy. Nếu không phải dân tộc Việt hôm nay, thì trên bình diện địa cầu; Có còn dân tộc nào khác hơn nữa không?

Ngay cả Nguyễn Du cũng đã từng lên tiếng để khẳng định điều đó, qua sự mong chờ một giọt nước mắt “rửa oan” của 300 năm sau cho mình. Và đồng thời, đó cũng chính là hồn thiêng của dân tộc Việt đấy thôi!!!

Và nếu một khi nỗi oan được phán xét và giải oan. Tất nhiên Cổng Thiên Đường mới có thể rộng mở…

Đồng thời đó cũng chính là lý do: Tại sao suốt 2000 năm qua. Nước Trời mà Chúa Jêsu đã từng hứa trong ngày đó, vẫn chưa co thể đến cùng nhân loại của chúng ta.


58 - OAN KHIÊN LUÂN HỒI…

Tôi đã dự định không viết gì về Phật nữa. Bởi có quá nhiều quan điểm chấp mê không tỉnh trong các chúng phật tử hiện nay lên tiếng chống đối một cách không thể hiểu nổi! Họ bất chấp phải trái!!!

Gẫm lại lời Phật cùng A nan trước lúc Người nhập Niết Bàn là: Người trong đạo phải đi dưới hầm tối và để người ngoài đạo đi trên cầu… Thế nên tôi nhất định phải thiết kế một chiếc Cầu Ô Thước cho mọi người vậy. Dĩ nhiên nếu chúng phật tử nào có bước lên chiếc cầu ấy để đi đến ánh sáng của sự thật là rất tốt. Bằng như họ vẫn thực hiện đúng như lời của Phật ở dòng trên thì tôi cũng miễn tranh luận cùng họ.

Bởi những Phật tử hôm nay còn chưa có thể biết được rằng: Phật Thích Ca ngày đó đã phải chịu quá nhiều những điều oan khốc phủ lấp từ sự mê muội của thế nhân! Nay đã là thời kỳ phán xét cuối cùng rồi. Nếu vẫn ôm giấu chứng bệnh nan y không chịu giải phẫu ắt phải chịu sự đào thải của quy luật tự nhiên mà thôi vậy. Bởi phía bên kia cầu mới là cõi Cực Lạc. Đương nhiên, sang sông trên một cây cầu, sẽ vững vàng và an toàn hơn đối với một con đò ngang.

Và nhịp cầu Ô thước đó, có cấu trúc như sau:

Tất cả chúng ta hôm nay đều biết nguồn gốc của Phật Thích Ca xuất phát là từ người Ấn Độ. Thế nhưng những Phật tử người Việt Nam chúng ta, lại không chịu biết để hiểu rằng: Tại sao Ấn Độ Giáo lại là đạo Hindu chứ không phải đạo Phật!? Vẫn thói quen trôi lạc lênh đênh khắp nẻo ta bà mà quên mất cội nguồn đi rồi. Là cả Đạo Phật và Hindu đều có chung một gốc từ Bà La Môn từ thuở Sử Thi Ri-Veda. Tư tưởng vẫn chịu sự ảnh hưởng đa thần vốn là các Thần Vật chứ không phải Thần Nhân của quá khứ nguyên thủy đó.

Phàm, “Lá rụng về cội…”.

Thế cho nên các đại đồ đệ của Phật khi mất đi. Tượng Trời ẩn dụ sự hóa thân trở về các loài vật ở kiếp sau là đều có dụng Thiên Ý của đạo ngụ ở trong đó cả. Ví như tôi điển hình là sự hóa thân của vị đại đồ đệ Ca Diếp là Cá Chép!

Do bởi trước đó Ca Diếp đã từng có lấy bảo pháp của Phật mà giấu riêng. Lại sau này còn có hành vi sắp đặt Kinh Phật có chép sai sự thật trong đó nữa. Thế nên khi chết đi thì hóa thân kiếp sau làm con Cá Chép còn chờ Thời mà Vượt Vũ Môn để mong được Hóa Rồng nữa. Trời khiến những tội lỗi đã phạm phải của Ca Diếp ở kiếp trước đối với Phật pháp đó. Mà ngàn đời sau, thế nhân cứ phải phóng sinh Cá Chép là bởi nguyên cớ đấy mà ra cả. Với ngụ ý giải bớt tội mà Cá Chép phải mang nơi kiếp đọa này.

Người đời lại cứ luân hồi trong biển mê, lại tiếp tục mê hơn khi không biết sự thật này. Họ phóng sinh loạn xạ luôn tất cả các loài cá khác nữa!! Các loài cá không phải là Cá Chép, nào có tội tình gì trong việc này mà phải phóng sinh cho nó đâu. Từ đó khiến nên càng làm rối loạn sự thật hơn nữa. Chỉ riêng Cá Chép mới thật sự cần sự phóng sinh của thế nhân, để mong giải tội, thoát kiếp mà thôi. Thế nhưng từ sự thiếu hiểu biết của thế nhân, dẫn đến tất cả các loài cá cũng được mang ra mà trộn lẫn vào ý riêng của Tạo Hóa. Khiến nên rối loạn và lầm lạc mất hết cả lên, không biết đầu mối ở đâu để mà truy tìm lại sự thật được nữa.

Hãy tự hỏi lương tâm mình xem. Khi ta tận tay thả phóng sinh cho một con Cá Chép. Có bao giờ ta biết đó chính là sự ẩn ý của Tạo Hóa trong đạo là hiện thân của Ca Diếp chăng? Không hề.

Đã thế, mong gì ngộ đạo mà thấy nẻo duyên hòng gieo duyên cho được. Đã thế, lại còn ra chiều bệ vệ mà giảng đạo cho người khác cho được nữa chứ!! Lại đã thế…., còn ra vẻ cao đạo mà lên tiếng răn dạy người khác và khác nữa!!! Cứ thế mà cùng nhau luân hồi…, đi trong tăm tối.

Nếu chỉ xét riêng vị đại đồ đệ Ca Diếp mà đã thế. Thì sao ta có thể đủ hiểu biết để xem xét tiếp những oan khốc cũng như thiên tượng đã ẩn ý gì trong các sự hóa thân khác cho được nữa? Thế nên sự phán của Phật Thích Ca về việc đi dưới hầm tối là không thể sai cho được rồi. Sao thế nhân chúng ta không chịu nghe câu chỉ dạy đó của Phật, bao gồm cả trong lẫn ngoài đạo vậy?

Thì thôi, dù sao cũng đã đến thời kỳ cuối rồi. Tôi không ngại “búa rìu” của những dạng dư luận u mê. Ngược lại, rất cần dòng dư luận sáng suốt để cuốn trôi những tối tăm hỗn độn mà bày rõ sự thật. Bởi tôi tự biết mình thuộc hóa thân từ búa rìu (Việt) thứ thiệt của Chiến Thần Xi Vưu kia mà! Vì thế cho nên tôi tiếp tục sử dụng chiếc rìu của Chiến Thần Xi Vưu đó như sau:

Đạt Ma Sư Tổ, khi sang đây và phát hiện được Kinh Dịch. Liền hợp nhất mà chuyển hóa. Thế nên khi mất đi. Vị tổ này đã nguyện kiếp sau được hóa thân thành Rùa Vàng (Thần Kim Quy, là Lạc Thư). Hầu mong đưa mọi người sang sông thay cho cây sậy, vốn có nhiều hạn chế cho tư duy chung nơi kiếp trước của mình. Điều tiềm ẩn này ý là đạo chính ở trong bức đồ Lạc Thư của Kinh Dịch rồi vậy. Thế cho nên ta mới thấy có xảy ra sự kiện; Thầy trò Tam Tạng mới bị Thần Quy nhận cho chìm tất cả kinh phật khi trên đường trở về. Mặc dù lúc đó mọi người xem như đã đắc Kinh rồi. Lại còn sự cố mất trang cuối trên đá nữa!!! Tôi cam đoan, sự kiện mà trời khiến cho Kinh tạc trên đá đó. Hoàn toàn nằm phía bên trong của chân trời biến cố của lỗ đen đối với toàn thể nhân loại của chúng ta hôm nay mất cả rồi. Sao có thể tưởng tượng tới nổi cho được. Đó cũng chính là vùng mà Phật Thích ca gọi là Phi Tưởng Xứ địa phương.

Như kể đến sự hóa thân kiếp sau của vị tổ cuối cùng là Huệ Năng. Chính hình ảnh của Chim Đại Bàng là ý nói đến vị thế Chúa Tể của các loài chim rồi. Bởi Huệ Năng nghĩ kẻ ăn cắp Kinh đó, nhất định phải là một kẻ nào đó rất cao siêu về bản lĩnh mới có thể đoạt Kinh được. Thế cho nên ta mới thấy cái chí bay cao của Chim Bằng là: Vỗ cánh lên thẳng đến tận 9 tầng mây, sau đó mới xoải cánh mà thả xuôi về phương Nam mà thôi. Mục đích duy nhất là tìm cho bằng được; Kẻ nào dám cả gan mà ăn cắp Kinh đi mất.

Và kẻ mang chí cả xưa nay cũng thường ví von theo như: “ Loài én sẻ, thì làm sao mà biết được đến cái chí bay cao của Hồng Hộc, Chim Bằng” cho được.

Thế nhưng, sự kỳ vọng vào kiếp sau của Lục Tổ Huệ Năng xem ra cũng có nguy cơ hóa thành công “Cốc” mất luôn đi rồi vậy! Bởi phận là hậu sinh như Lục Tổ Huệ Năng, hoàn toàn không có thể nào biết cũng như ngờ tới được rằng: Hơn 1000 năm trở về trước. Một trong các đại đồ đệ của Phật Thích Ca. Có kẻ sau khi tạ thế, đã từng hóa thân thành con “chim sẻ” rồi vậy!!!

Ta lại phải biết đến nguồn thông tin trong không và thời gian cùng một giai đoạn đó như: Trong nhóm Bách gia chư tử ngày đó. Kẻ mà từng được mệnh danh là Đạo Chích này, đã từng tha chết cho Khổng Tử trong quá khứ đấy! Một bậc mà đã được thiên hạ suy tôn thành Thánh Nhân. Và đồng thời cũng từng là vị giáo chủ đã khai sinh ra Nhân Đạo. Một đạo lý vững vàng và mẫu mực cho nhân loại suốt 2.500 năm qua. Đó là lý do tại sao Đạo Lão và Đạo Chích xem thường quan điểm tư tưởng của Đạo Khổng.

Vậy đó cũng là điều mà Chim Đại Bàng hoàn toàn không có thể nào ngờ tới cho được cả. Đáng tiếc thay, người Trung Quốc lại không tái sinh một vị cỡ như Thôi Hiệu về sau này. Để các bạn cùng tôi trên trang này; Hôm nay lại được “thưởng lãm” sự ca tụng thêm một khúc thi ca của thiên hạ về một bài Vịnh, “Chim Bằng Lâu” như Hoàng Hạc Lâu được rồi. Kể ra, kho tàng văn hóa của người Trung Quốc có khiếm khuyết trong sự kiện này rồi đấy!

Tôi nói thế, bởi trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt vẫn sừng sững một Huệ Nhãn sánh tựa Sao Khuê như: “Tổ kiến hổng sụp toang đê vỡ” trong “Đại Cáo Bình Ngô”, làm bằng chứng tư tưởng lịch sử cho mai sau cùng con cháu. Hay gần hơn như có Đồ Chiểu với câu: “Giận là giận kẻ ăn cắp đồ bàn Phật”!!!

Ta lại thấy; Tượng trời lại khiến cho con vật được phóng sinh thứ hai sau Cá Chép trong tín ngưỡng Phật Giáo tại Việt Nam hàng năm, chính là Chim Sẻ!! Thiên hạ lại thi nhau phóng sinh đủ tất cả các loại chim khác thêm nữa!!! Lại tiếp tục chất đầy rối loạn khiến cho che mờ sự thật. Ta thấy khả năng của thế nhân chỉ giỏi phủ mờ và gây rối loạn chân lý chứ hiếm có thể khai sáng cho được! Ấy vậy mà mỗi khi có ai đó chuẩn bị phát quang đường lối, là ngay lập tức ném đá loạn xị lên tất cả!!!

i dà…! (Mượn cách nói của bạn Lãng Tổ dùng tạm nhé), !!!

Tuy nhiên ta vẫn thấy được rằng: Trong tất cả những sự rối loạn đầy hỗn tạp, oan khốc chồng chất suốt bao ngàn năm qua đó. Giữa đêm trường sâu thẳm, vẫn khuất mờ trong đêm đen mà mọi cái nhìn không có thể nhìn tới. Còn có một bóng chim lẻ loi trong cô độc, bởi thế nhân kỳ thị, xua đuổi. Vẫn hằng năm lủi thủi chờ đến thời điểm để mà đi… Đội đá xây cầu ô thước!!!

Thiết kế một câu cầu mãi hàng ngàn năm qua, trong lúc thế nhân đang vẫn mãi say-mê-ngủ! Nào ai có thể ngờ được rằng: Vị kiến trúc sư đó lại chính là sự hóa thân của A nan!!!

Ta xét thấy cội Phật ngày đó đã nảy mầm và sinh duy nhất một quả ngọt là A nan. Người mà đã từng đứng ra để bảo lãnh cho Nữ Giới đến với Phật Pháp. Người mà Phật đã không để cho đồng “giác ngộ” cùng các đại đồ đệ trong ngày trước. Người mà Phật đã cùng bàn luận về tương lai ngày sau của tứ chúng Phật tử, trước lúc Người nhập Niết Bàn…

A nan đã tự nguyện đi trong bóng tối. Đội đá đến trọc cả đầu vào đêm mùng 7 tháng 7 hằng năm để cho Ngưu lang và Chức nữ đi trên đấy. A nan nguyện thiết kế cây cầu ô thước đấy, để nối hai bờ trên sông Ngân Hà mà không cần phải mong ai biết đến cả. Đã 2.500 năm qua rồi. Hôm nay các bạn nhất định cần phải biết đến nỗi oan đó trên trang này. Điều này để tương xứng với sự giải oan so với tông đồ Giu đa bên Nhà Chúa. Cả hai vị đồ đệ phải chịu nhiều điều oan khốc nhất của cả hai bên!? Như thế cũng đủ để được gọi là đối xứng rồi vậy!!! Tuy nhiên nếu so sánh thì xem ra…, Cái oan của A nan có nhẹ ký hơn nỗi oan của Giu đa nhiều lắm lắm. Bởi nỗi oan của Giu đa là quá đắt.

Tôi đã gợi ý mở lối oan khốc trong Phật giáo phần nào rồi vậy. Các bạn hãy tự suy ra những giá trị còn tiềm ẩn trong đó dần nhé. Vì nếu có bất ngờ mà phát lộ được những điều oan khiên gì trong đó. Các bạn cũng đỡ phải sốc hơn, nếu tôi tiếp tục đưa cuộc du hành đi thẳng vào sự thật với một vận tốc quá nhanh.

Tôi cũng xin chép lại một bài tức cảnh nữa của tôi, khi từng đứng trên bến vắng, trước dòng sông trời trong quá khứ của miền không – thời gian đó:

Trăng hình khuyết như thuyền bát nhã
Thường chuyển lưu lai vãng ngân hà
Mặc tục khách sông trời bến vắng
Kẻ đưa đò quên giấc trong trăng.


59 - ÁN SỬ VIỆT!

Chúng ta đã xem xét qua một án oan khốc của Nhà Phật và một của Nhà Chúa. Thiết nghĩ; Trong bài viết này, các bạn cùng tôi cũng nên xem xét đến một án sử của “Nhà Mình” để đủ được gọi là công bình nhé. Đồng thời điều đó cũng đủ để gọi là tự xét mình, trước khi bước qua thời kỳ cuối, sắp phải đến trong nay mai. Tất nhiên chúng ta cũng tránh được câu nói của Chúa Jêsu là: “Các ngươi luôn nhìn thấy “cái dằm” ở trong mắt của người khác, nhưng lại không nhìn thấy được “cái xà” ở trong mắt của mình” rồi vậy.

Đã thế, điểm lại trong các bài viết đã qua trên trang này. Tôi có từng nhắc rằng:
Có những sử gia mà ngày hôm nay; Chúng ta nhất định phải xem xét lại tư cách cũng như hành vi… Bởi họ đã làm cho những sự thật lịch sử của dân tộc Việt bị che lấp! Khiến nên từ đó, biết bao thế hệ muôn đời sau bị lạc gốc cội nguồn…, mà không cách gì tìm về cho được nữa !!

Đó chính là sử gia Ngô Sĩ Liên!!!

Và cũng là tên của cơn địa chấn toàn miền dân tộc Việt hôm nay. Bão dư luận bắt đầu hình thành trên bình diện ý thức hệ người Việt chúng ta từ sự kiện này. Bởi Ngô Sĩ Liên chính là gốc đại thụ lịch sử của nước nhà. Đã sừng sững phủ bóng che rợp cội sử dân tộc Việt Nam suốt hơn 500 năm qua. Đồng thời, đó cũng chính là phương tiện cứu cánh duy nhất, để dân tộc Việt Nam tìm về nguồn cội của mình. Những nỗi niềm ưu tư, luôn đong đầy hoang mang suốt bấy lâu trong tâm khảm của mọi học giả lẫn sử gia về sau này. Bởi linh cảm của tiềm thức luôn mách bảo, cái gen của giống nòi Tiên Rồng này, vốn không thuộc phả hệ đấy cho được.

Tất cả họ, những tầng lớp trí trức truy lùng cứu cánh của dân tộc Việt cho mãi tận cuối đời vẫn còn thổn thức. Họ ôm luôn cả những nỗi ấm ức đó xuống mồ mà không tan cái uất khí của tổ tiên đi cho được. Những anh linh đó chung đúc khí thiêng dân tộc, để một thời điểm nào đó của thế hệ tương lai, sẽ cùng phù trợ mà soi sáng toàn diện sự thật cùng hậu thế ngàn sau.

Trải dọc thời gian suốt hơn 500 năm qua. Nếu có bao nhiêu thế hệ thiết kế quan điểm, học thuyết, tư tưởng, văn hóa của dân tộc Việt Nam cho các thế hệ tương lai chiêm ngưỡng. Thì cũng có bấy nhiêu công trình đều được xây dựng dựa trên nền móng đã được Ngô Sĩ Liên định sẵn với tên gọi: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư!

Thật bất hạnh thay! Bởi nền móng của cội sử đó, đã hoàn toàn bị “lai căn” hóa “ngô đồng” mất đi rồi. Từ đó khiến nên biết bao thế hệ tương lai của dân tộc Việt vốn đã bị lạc mất cội nguồn, lại càng không cách nào xác định tổ tiên giống nòi mà tìm về cho được nữa. Anh linh ngàn đời của tổ tiên vốn đã mang nhiều oan khốc, lại phải chịu chôn vùi thêm hơn nữa bởi từ chính giống nòi của mình.

Dù sao đi chăng nữa, thời điểm lịch sử của giai đoạn hôm nay cũng phải đi đến sự đào thải tất cả, dù muốn dù không. Tuy nhiên, tôi cũng không cam chịu buông xuôi cho đến thời điểm đó cho được. Bởi uy linh của giống nòi Tiên Rồng, tôi nhất thiết phải làm sáng tỏ sự thật trước thời điểm. Để không đến nỗi u muội mà cam chịu cho Tạo Hóa phải dàn xếp nơi thời kỳ cuối, mới có thể tỏ ngộ oan khiên giống nòi cho được.

Vậy các bạn cùng tôi lật tung nơi góc sử khuất tất khi đấy xem sao nhé. Kẻo mai này lại phải hổ thẹn với lương tâm, khi được chọn là dân tộc tiên phong nơi đột phá khẩu của kỷ nguyên mới. Tất cả hãy vì tương lai của các thế hệ mai sau, hôm nay các bạn cùng tôi mạo hiểm trong cuộc phiêu lưu vào dòng sử của giai đoạn này nhé (nếu ai cảm thấy ngại, cứ đứng ngoài và nhìn tôi khai phá nhé. Tất nhiên, các bạn có toàn quyền buông ra những lời bình công bằng cho các sự kiện nhìn thấy):

Trước tiên, chúng ta xem xét về tư cách của một sử gia mà Ngô Sĩ Liên đảm nhận chức trách của một sử thần của nước nhà. Bởi tuy sử thần là được chỉ định từ nhà Vua, thế nhưng tư cách của một sử gia, lại hoàn toàn là một chuyện khác hơn thế nữa.

Ta phải biết, trong thời điểm mà Lệ Đức Hầu làm loạn mà tiếm ngôi. Trong triều lúc đấy là mọi bá quan văn võ từ trên xuống dưới đều bất phục. Thế cho nên Lệ Đức Hầu chỉ có thể trụ vững trên ngai vàng trong thời gian khoảng 8 tháng mà thôi. Với khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ta phải tinh anh lắm mới có thể xét thấy Lệ Đức Hầu cũng đã có những biểu hiện thay đổi những lễ nghi, phong hóa của tổ tiên, dân tộc đi!

Thế nhưng tại sao trong trang sử khi đó, lại thiếu vắng sự kiện này đi cho được vậy?! Ta không bao giờ được phép bỏ sót qua những chi tiết mà gây nên tai họa khôn lường cho nước nhà cho được. Bởi vì chẳng hiểu do vô tình hay cố ý, sử sách lại bỏ qua mà không ghi rằng lúc đấy chính Ngô Sĩ Liên đang phò Lệ Đức Hầu tiếm quyền!!

Tôi có thể đưa ra một lời tố cáo của một nhân chứng đắt giá nhất trong giai đoạn lịch sử khi đấy cùng các bạn hôm nay là: Vua Lê Thánh Tôn!!!

Bởi Vua Lê Thánh Tôn đã từng gọi Ngô Sĩ Liên đến mà phán rằng:

“Ta mới coi chính sự, sửa mới đức độ, tuân theo điển cũ của thánh tổ thần tông, nên mới tế giao vào đầu mùa xuân. Các ngươi lại bảo tổ tông tế giao cũng không đáng theo!. Các ngươi bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang, thế là các ngươi theo đạo chết, mang lòng không vua. Vả lại, khi Lệ Đức Hầu cướp ngôi, Ngô Sĩ Liên chẳng vì hắn trổ tài phong hiến đó sao? Ưu đãi trọng lắm! Nhân Thọ không vì hắn trù hoạch nơi màn trướng đó ư? Ngôi chức cao lắm! Nay Lệ Đức Hầu mất nước về tay ta, các ngươi không biết vì ăn lộc mà chết theo hắn lại đi thờ ta. Nếu không nói ra, trong lòng các ngươi không tự hổ thẹn mà chết ư? Thực là bọn gian thần bán nước!”.

Tại sao biết bao nhiêu thế hệ sử gia về sau này, cũng lại không một ai đủ để nhìn thấy được cáo trạng này đối với Ngô Sĩ Liên rõ mồn một như vậy hay sao?! Ta cũng nên buộc phải ý thức được rằng; Nguyên cáo trong trang sử cũ của dân tộc Việt, cùng những thế hệ tương lai hôm nay, là Vua Lê Thánh Tôn đấy.

Như thế, xét ra Nhân Thọ còn “có tư cách” hơn Ngô Sĩ Liên. Bởi sau đó thì Nhân Thọ đã cảm thấy “thấm thía” câu dụ mắng của Vua Lê Thánh Tôn mà cáo quan về quê, ẩn mình trong khói sông mà làm ông câu thời gian cuối đời, không màng ai biết đến nữa. Điều này, ta vẫn thấy rơi rải rác đâu đó trong trang sử khuất làm bằng như:

Ký Thị Lang Khiên Nhân Thọ
“Phận an hành vũ lạc thanh bần,
Liêu dưỡng canh nhàn điếu tịch thân.
Cố cựu bất vong như kiến phỏng,
Nhất thoa yên vũ Khúc giang tân”.

Dịch nghĩa
Ta đã yên phận nơi nhà tranh, vui cảnh thanh bần
Để nuôi cái thân cày ruộng, câu cá cho được an nhàn lặng lẽ
Nếu những bạn cũ ai còn nhớ ta mà tới thăm hỏi
Thì hãy tìm người mặc áo tơi trong làn mưa khói trên bến sông Khúc.

Các bạn cũng đừng quên, chức “Bộ Lễ, Thị Lang” vốn là của Ngô Sĩ Liên dưới thời Lệ Đức Hầu! Điều này cũng có nghĩa là chính Ngô Sĩ Liên đã thay đổi Lễ Nghi của nước nhà, trong giai đoạn mà Lệ Đức Hầu chấp chính. Thế cho nên Vua Lê Thánh Tôn mới gọi đến và có lời dụ mắng như ta đã biết ở những dòng trên.

Ta xét thấy Vua Lê Thánh Tôn thấy kẻ như Ngô Sĩ Liên vẫn không tự cảm thấy xấu hổ trong lòng mà chết đi. Nên mới gọi lại nói thẳng ra như thế. Đã không vì chữ Trung với Vua Cũ mà chết theo, lại còn về với Vua mới là Lê Thánh Tôn. Thậm chí Vua nhắc đến việc Ngô Sĩ Liên đã ra sức thay đổi phong hiến. Ấy vậy mà Ngô Sĩ Liên vẫn cứ như không có chuyện gì xảy ra cả!!! Nếu xét tư cách của một con người đã ra “chây lì” như thế. Chúng ta thấy có đủ làm một sử gia để mà cầm bút định sử hay không? Chỉ xét riêng về tư cách đó thôi, Ngô Sĩ Liên sao đủ để có thể lạm bàn vào dòng sử thiêng của dân tộc Việt này cho được.

Những dòng trên, là tôi nói sơ qua về tư cách của sử gia Ngô Sĩ Liên. Và xét đến hành vì thì quả là cả một đại họa cho dân tộc Việt muôn đời sau rồi vậy.

Bởi ta thấy lời lẽ của Ngô Sĩ Liên khi biên sử là luôn công kích Nhà Trần trước đấy một cách rất thậm tệ! Lại lấy cái văn hóa, tư tưởng của người Trung Quốc làm nền tảng để xây dựng công trình Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Cốt tủy của tư tưởng đó lại chính là Đạo Khổng. Sao không một ai đủ để nhìn thấy Ngô Sĩ Liên ngay sau khi thay đổi phong hóa của dân tộc trong giai đoạn Lệ Đức Hầu chấp chính không thành. Bèn tiếp tục âm thầm thay đổi cả tư tưởng lẫn văn hóa của dân tộc, bằng những thủ đoạn ghép gốc cội nguồn dòng sử thiêng của giống nòi ra như thế!

Vậy Ngô Sĩ Liên là ai???

Một kẻ đã dám cả gan làm thay đổi tư tưởng lẫn văn hóa của dân tộc Việt suốt hơn 500 năm qua đi như vậy? Bởi chính cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư này đã chối bỏ giống nòi Tiên Rồng, và có âm mưu đồng hóa cội nguồn với giặc là Đế Minh như thế. Điều này đã khiến biết bao thế hệ nối tiếp sau đó, đã hoàn toàn mất phương hướng cội nguồn của Dân tộc đi mất.

Tôi có thể phát quang mọi gai góc mà Ngô Sĩ Liên đã âm mưu dùng thủ đoạn phủ lấp cội nguồn lịch sử dân tộc Việt như sau:

Nhà Trần, ngay sau khi dựng vững vàng cơ nghiệp của dân tộc Việt. Bèn lập tức giao cho sử gia Lê Văn Hưu, phục hồi lại lịch sử của dân tộc Việt đã bị Nhà Hán tiêu hủy suốt 1000 năm qua đó. Ta thấy vị sử gia đầu tiên đó đã thiết kế tòa kiến trúc lịch sử với tên gọi là: “Đại Việt Sử Ký”. Là niềm kiêu hãnh tư tưởng văn hóa của dân tộc, đang được phục hồi những giá trị bị thất lạc bởi Nhà Hán. Thế cho nên ta thấy cuốn Đại Việt Sử Ký đó chỉ xem xét từ giai đoạn của Triệu Đà mà thôi. Bởi giai đoạn đó chính là khởi điểm của mọi sự thất lạc cội nguồn tông tích cũng như non sông của dân tộc Việt mà Nhà Hán đã ra sức phi tang mọi dấu vết.

Xảy đến việc Nhà Minh lại xâm chiếm do lợi dụng sự sơ hở bởi cái gọi là Đại Ngu từ Hồ Quý Ly. Thế rồi tất cả sử sách vừa được Nhà Trần phục hồi đó. Ngay lập tức Nhà Minh phải thiêu hủy bằng mọi giá cho tuyệt nhẹm giềng mối về sau. Thủ đoạn của người Trung Quốc đối với người Việt thật thâm độc, dã man và tàn khốc không thể tả xiết cho được.

Thế nhưng ít tai để ý đến Vị sử gia Phan Phu Tiên liền đấy nữa. Tôi cam đoan cuốn Đại Việt Sử Ký Tục Biên của Phan Phu Tiên mới đích thực là sử Việt chính đáng nhất, và đồng thời cũng chính là cuốn sử đã ghi chép toàn bộ sự thật của dân tộc. Lý do gì mà cuốn Sử này đã lại bị thất lạc mất đi!? Bởi Phan Phu Tiên vốn tên thật là Phan Phù Tiên! Ý là người phò (phù) giống nòi Thần Tiên của dân tộc Việt. Và ông cũng đã thể hiện tâm ý ở sự lấy tên hiệu là “Tín Thần” trong trang sử thiêng.

Tại sao các học giả lẫn sử gia về sau này. Không một ai cảm thấy có điều khuất tất mà truy xét nghi vấn ở chỗ Nếu như giai đoạn đó, đã có Phan Phu Tiên rồi, hà cớ chi mà đến Ngô Sĩ Liên phải viết Sử để làm gì nữa? Và tại sao khi Phan Phu Tiên hoàn thành cuốn Đại Việt Sử Ký Tục Biên. Triều đình lại lưu hành nội các đến 4 năm sau mới cho ấn tống? Lại thấy khi ấn tống thì hoàn toàn có nội dung trùng khớp một cách rất phải để cho lớp hậu thế chúng ta hôm nay khoanh một dấu hỏi kếch sù rằng: Đó cũng là bản sao của Đại Việt Sử Ký của sử gia Lê Văn Hưu???

Sử gia Phan Phu Tiên đâu ngớ ngẩn đến nỗi phải chép lại nguyên bản của Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu như thế để làm của mình cho được?! Dĩ nhiên kể từ Vũ Quỳnh trở đi, tôi không bàn đến làm gì nữa. Bởi Vũ Quỳnh cũng không đủ khả năng để thoát ra khỏi tầm phủ bóng cội sử của Ngô Sĩ Liên cho được rồi.

Chúng ta cũng chớ nên quên rằng: Ngô Sĩ Liên cũng chính là người duy nhất, thường được cử đi đàm phán mọi tình hình giữa Đại Việt và Nhà Thanh mãi từ khi Lê Lợi còn đang dong ruổi trên lưng ngựa kia. Nhất định đầu mối dây liên hệ này, với thủ đoạn thâm hiểm ngàn đời của người Trung Quốc. Họ không có thể nào bỏ qua những tận dụng ràng buộc cho được.

Và đó cũng là điều mà tôi lưu ý trước cùng các bạn. Trước khi cùng tôi tham xét những hành vi của sử gia Ngô Sĩ Liên trong bài viết kế tiếp nhé. Nếu quả, đây là một sự thật thì…;

Than ôi! Oan khốc của dân tộc Việt, Tạo Hóa nỡ đong đầy đến thế sao???


.
60 - TRANG SỬ LẤP…
Mặc ngữ “vô vi” là thể loại văn dụng riêng cho những bậc Thần, Tiên nhập phàm, hòa tục một cách bất khả tri. Để mà rà soát cũng như sàng lọc độ đức của loài người chúng ta trong những cuộc thế hỗn tạp nơi thời điểm cuối của mỗi chu kỳ.

Ẩn ngữ “vi hành” thì để chỉ đến những bậc vua sáng suốt, dụng để cải trang, lẫn khuất âm thầm trong các chúng dân mà gạn đục khơi trong những điều thiên hạ phủ lấp, hầu định sự tiến thoái cơ đồ cho nước nhà.

Và Ám ngữ “hành vi” là để ám chỉ đến những kẻ bất minh, thường dùng để che mắt thiên hạ những việc làm trong đen tối, khuất tất khiến cho không ai phát giác hành tung ra được. Để điển hình những dạng người này, tôi cũng dụng một công cụ mà họ đã từng dụng trong quá khứ đó, là chép lại những lời người xưa như sau: “Học vấn càng cao mà thiếu đạo đức, thì hành vi lừa đảo càng tinh vi hơn mà thôi”.

Những điều tôi muốn nhắc đến để mở đầu trong bài viết tiếp theo này, chính là những hành vi của sử gia Ngô Sĩ Liên! Vì thế các bạn tham khảo những “di chỉ văn hóa” mà tôi sẽ khai quật trong cuộc “khảo cổ sử” này xem sao nhé. Bởi trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt chúng ta. Song song với những bảo vật bị thất lạc, oan khốc phủ lấp dưới bao lớp bụi của thời gian. Còn có những dạng văn hóa nhiễm độc và rất hiểm độc hơn, tiềm ẩn trong quá khứ của lịch sử đó nữa!

Chúng ta lại tiếp tục cuộc du hành ngược dòng thời gian trên phương tiện tư duy nhé:

Hiện nay tất cả chúng ta đều biết cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên là chính sử của nước nhà. Là nền tảng cội rễ phát triển cho tư tưởng, văn hóa, lịch sử của dân tộc Việt Nam suốt hơn nửa thiên niên kỷ qua. Ta thấy Ngô Sĩ Liên đã gộp chung cuốn Đại Việt Sử Ký của sử gia Lê Văn Hưu và cuốn Đại Việt Sử Ký Tục Biên của sử gia Phan Phu Tiên làm một và gọi là Bản Kỷ.

Như tôi đã có bàn luận qua cùng các bạn là cuốn Sử Ký Tục Biên của Phan Phu Tiên đã bị che dấu sự thật cả rồi (chưa hiểu vì cớ gì, đối với nội các triều đình lúc đấy!? Có thể liệt vào hạng bí sử, chỉ được phép mật truyền nội các mà thôi). Thế nên cuốn Đại Việt Sử Ký Tục Biên mà Ngô Sĩ Liên đã dụng đó. Hầu như cũng là nội dung chung mà ta đã được đọc trong Đại Việt Sử Ký của sử gia Lê Văn Hưu mà thôi. Và sự thật này đã bị Nhà Minh tiếp tục phi tang mọi dấu vết cũng như chứng cứ về sau đối với Người Việt chúng ta hôm nay.

Ta xét thấy chính Ngô Sĩ Liên đã đem phần Ngoại Kỷ thêm vào, và lấy tên là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như ngày nay chúng ta đã được biết vậy. Ta xét thấy chính cuốn Sử Ký này đã ghép gốc rễ cội nguồn giống nòi của Người Việt vào thành con cháu của Người Trung Quốc luôn rồi. Kể cả non sông vùng Ngũ Lĩnh cũng hóa thành của tổ tiên của người Hán luôn một thể!! Bởi theo Ngô Sĩ Liên thì vùng đất đó chẳng qua cũng chỉ là của Đế Minh đã chia và phong cho Lộc Tục mà thôi!!!

Những thế hệ con cháu, đã bị ngu hóa hết cả rồi sao? Xét mà kể ra thì cũng lấy làm đau đớn cho giống nòi lắm. Bởi 1000 năm đó thì quả là đã có bị Người Hán ra sức mà làm cho ngu dân đi hết cả. Đến khi Nhà Trần vừa kịp hồi phục thì ngay lập tức Đại Ngu tạo điều kiện sơ hở để cho dân đen lại tiếp sức mà dẫn Nhà Minh vào! Và lại 100 năm nữa, Người Hán lại ra sức… ( tôi ngại phải viết tiếp. Bởi e có những quan điểm sẽ cảm thấy tôi xúc phạm đến sĩ diện cá nhân họ, hơn là sĩ diện của dân tộc mà phản bác một cách không thể hiểu nổi cho được).

Vì thế tôi chỉ đưa các bạn xem xét đến giai đoạn đầu tiên như: Ngay sau khi Ngô Sĩ Liên ghép gốc dựng lên Kịch Bản với tên Đế Minh xong. Ta có thể nhìn thấy dọc theo lối mòn đã được Ngô Sĩ Liên định sẵn đó. Các đời Vua của Trung Quốc được mang ra làm gương để công kích Nhà Trần và răn đe các thế hệ về sau nữa! Mà nền tảng chính của tư tưởng mà Ngô Sĩ Liên sử dụng chính là Đạo Khổng. Ta thấy những tư duy đã bị ngu hóa thật sự, lập tức ca tụng và ra sức ngăn chặn mọi hướng tiếp cận của Người Việt nào trong tương lai. Một khi muốn thâm nhập vào khai thác chiều sâu nền móng của công trình Đại Việt Sử Ký Toàn Thư này mà Ngô Sĩ Liên đã dày công xây dựng.

Cái ý thức hệ giống nòi Thần Tiên của Người Việt. Sẽ cười mỉa vào cái kịch bản khôi hài của nhân vật “hư cấu” Đế Minh mà Ngô Sĩ Liên đã dựng lên như sau:

Tự nhiên giai đoạn này thì lịch sử Trung Quốc xuất hiện nhân vật có tên là Đế Minh! Được “lưu ý” là cháu 3 đời của Thần Nông!! Rồi nghiễm nhiên chiếm một chỗ trong cái gọi chung chung là lịch sử huyền thoại của Trung Quốc!!! Thế là Huyền Thoại đó được khai thác giống như nền khoa học ngày nay gọi là lập “giả thuyết” để mà dựa vào đó, xây dựng mô hình vậy. Thế cho nên ta mới thấy cái giả lập thuyết đó cứ lủng củng, lung lay và không đứng vững mãi từ ngày đó cho đến tận ngày hôm nay rồi. Ngay cả những sử gia cũng như học giả của Trung Quốc qua bao thời kỳ, vẫn chia ra hai phái mà không công nhận những giá trị của lịch sử đó.

Môt đàng thì cho rằng gốc của họ là từ Phục Hy, Thần Nông. Một nẻo thì lại bảo gốc của họ phải là từ Hoàng Đế, Chuyên Húc! Thế nhưng có một sự thật là cho dù là đàng nào đi chăng nữa; Nhân vật Đế Minh này rất khó để lắp ráp vào cho xuôi dòng sử vốn đã chi chít mảnh vá chằng và đụp của họ được nữa!!! Đó là quả bóng mà Ngô Sĩ Liên đã đá sang phần sân của các sử gia của Trung Quốc. Và Ngô Sĩ Liên chỉ việc cho kịch bản này diễn tiếp các nhân vật thủ vai Đế Nghi và Đế Lai ra đời trong trang sử Việt, để hình thành Đại Việt Sử Ký “Toàn Thư”.

Điều mà chúng ta nhất định phải nhìn cho ra là ở chỗ: Chính cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư này đã hướng và định quan điểm của người Việt chấp nhận mình thuộc giống nòi cũng như núi sông Ngũ Lĩnh cũng đều là của người Trung Quốc cả. Họ vẫn là tổ tiên của Người Việt!!! Song tôi đã khẳng định rồi: Người Trung Quốc có thể nhận giặc làm Cha của mình được. Thế nhưng Người Việt Nam là tuyệt đối không thể có chuyện như thế bao giờ cả.

Như tôi đã từng nói là do chúng ta bị lạc gốc cội nguồn. Thế cho nên Ngô Sĩ Liên mới có thể qua mắt mọi người bằng cách ghép tiếp Âu Cơ vào làm con của Đế Lai một cách rất thuận lợi và nhanh chóng. Rồi sau đó tác hợp cho cuộc nên duyên của Lạc Long và Âu Cơ mà không thể có kịch bản nào vụng về hơn thế. Ấy vậy mà chúng ta vẫn cứ cố tin vào sự kiện hư cấu đó mà cấu thành sự thật lịch sử của nước nhà!? Lại còn rất dễ dãi mà chấp nhận sự chia tay của hai ông bà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã được Ngô Sĩ Liên vẽ ra môt cách sơ sài như thế nữa chứ!? Tại sao xưa nay chúng ta cứ chấp nhận sự chia tay của hai ông bà một cách đơn giản như thế cho được vậy? Rồi sau đó ra sao cũng không biết tới nữa?! Thậm chí cũng chẳng màng quan tâm gì đến sự chia rẽ từ ngày đầu đó nữa.

Ta có thể nhận ra được một điều rất rõ ràng là: Ngô Sĩ Liên luôn luôn lập đi lập lại rất nhiều lần cái điệp khúc của những Khổng Tử, lẫn các vị vua thời cổ đại của Trung Quốc như một tấm khiên, hòng che đậy những “thủ đoạn tiểu nhân” của mình bại lộ.

Ta thấy Nhà Trần đã lập nên những kỳ tích oai hùng như thế. Những điều mà cả thế giới ngàn sau đều phải nhắc nhớ đến. Ngay cả trong Thiên Thư của trời đất cũng lưu truyền. Vậy mà tại sao Ngô Sĩ Liên đã miệt mài công kích như ngây dại ra làm vậy!? Những hành vi của Ngô Sĩ Liên đối với Nhà Trần, đã tố cáo đó là việc làm của một kẻ chỉ giỏi việc vạch lá tìm sâu một cách miệt mài mà thôi. Đó không phải là tư cách cũng như việc làm của một sử gia bao giờ cả.

Vấn đề được đặt ra và yêu cầu đòi hỏi phải giải đáp là: Tại sao Ngô Sĩ Liên lại đưa phần Ngoại Kỷ với những quan điểm cho là non sông cũng như cội nguồn của dân tộc Việt đều là của người Trung Quốc như thế?

Vậy sự thật thì Ngô Sĩ Liên là ai? Và Ngô Sĩ Liên muốn gì, qua cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư??? Thực chất thì ta thấy Ngô Sĩ Liên đã vay mượn nền tảng của Đại Việt Sử Ký từ vị sử gia Lê Văn Hưu và ký sinh trên đó mà thôi. Sau đó lại dựa trên lịch sử của Trung Quốc, gọt dũa phần ngoại kỷ để phù hợp và gộp chung lại mà gọi thành Toàn Thư! Phần Ngoại kỷ thì đã đồng hóa tổ tiên và núi sông cho giặc. Phần Bản kỷ thì ra sức soi mói và công kích Nhà Trần, cho ra vẻ mình mẫu mực mà làm gương rồi răn đe mai sau?!

Với câu hỏi đó, chúng ta chợt giật mình, khi phát giác nhân thân của Ngô Sĩ Liên rất mờ ám . Kể cả từ lúc xuất hiện cũng như khi mất đi trong trang sử của dân tộc này!? Chiếc áo khoác để che đậy nhân thân của Ngô Sĩ Liên chính là Nguyễn Nhữ Soạn. Một người em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Trãi. Thế nhưng ta cũng lại thấy Ngô Sĩ Liên cũng công kích luôn cả Trần Nguyên Đán, vốn là ông ngoại của Nguyễn Trãi. Và trong cuộc thảm án Lệ Chi Viên thì Nguyễn Nhữ Soạn là người duy nhất không phải chịu can án “!?”.

Ta lần ngược trở về quá khứ trước đó không bao lâu thì thấy: Trong thời gian Nguyễn Trãi bị Nhà Minh giam lỏng 10 năm ở thành Đông Quan để theo dõi. Khoảng độ 8 năm thì Nguyễn Nhữ Soạn đã bỏ đi theo nghĩa quân của Đinh Lễ và Lê Sát. Đinh Lễ lại là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu. Ta có thể thấy Đinh Lễ theo Lê Lợi chỉ sau khi Lê Lợi thoát ra khỏi hiểm nạn bị giặc Minh đánh tan tác và vây khốn ở núi Chí Linh mà thôi. Xảy khi này thì ta mới thấy có sự xuất hiện của Ngô Sĩ Liên đang làm thư ký cùng với Nguyễn Ngữ Soạn trong nghĩa quân của Đinh Lễ khi này rồi! Đến lúc Ngô Sĩ Liên mất khi nào, tại đâu cũng không ai biết đến nữa!!!

Ta xét thấy cái chết của Đinh Lễ cũng rất đáng phải lưu tâm xem xét cặn kẽ mới được. Ngay cả sự nổi loạn của Lê Sát sau này nữa. Tiếp đến là việc tiếm quyền của Lệ Đức Hầu với sự việc thay đổi phong hóa đi. Và cuối cùng là cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư mà ta đang bàn đến. Đó hẳn phải là một chuỗi dây chuyền, liên kết các sự kiện có trật tự chứ không hề là tôi cố ý dựng lên cho được bao giờ cả. Trên đây là tôi chỉ đưa ra những thông tin như thế thôi. Các bạn cùng tham luận xem sao nhé. Tôi tin rằng, khi các bạn truy xét lại các sự kiện mà tôi đã nêu ra đó. Các bạn sẽ phát giác đầy rẫy những dấu vết rất đáng quan ngại sâu sắc hơn nữa mà tôi không tiện nêu ra ở đây.

Ta xét thấy suốt từ đó cho đến hiện nay, có biết bao vị thức giả qua các thế hệ nối tiếp. Mỗi khi các vị này truy lùng về quá khứ cội nguồn của dân tộc Việt đó. Họ đều cảm thấy đau lòng và bất lực trước kịch bản của Đế Minh mà Ngô Sĩ Liên đã từng dựng lên trong quá khứ lịch sử đó. Và đó cũng chính là một tai hại rất trầm trọng cho cả văn hóa, tư tưởng và lịch sử của dân tộc Việt suốt bấy lâu nay. Di họa cho cả những thế hệ tương lai là nhất định không tránh khỏi rồi vậy.

Trong khi chờ thời gian trả lời tất cả sự thật này. Các bạn có thể xem xét lại lịch sử của nước nhà bằng sự công bình và sáng suốt nhất. Riêng quan điểm của cá nhân tôi; Ngô Sĩ Liên không đủ tư cách cũng như hành vi để tôi xem là một sử gia của dân tộc Việt cho được. Nếu một kẻ như Ngô Sĩ Liên đã từng mang cái gọi là Ngoại kỷ vào lịch sử Việt được. Vậy thì sao chúng ta không thể mang những thực tại lịch sử của giống nòi, mà tôi đã từng trình bày qua trên trang này làm Nguyên kỷ vào dòng sử thiêng được. Bởi những thực tại đó chính là những điều đã được Tạo Hóa chép trong Thiên Thư. Là mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ vốn là như thế.

Để kết thúc bài viết này: Tôi có nhắc chừng mãi rồi đấy. Là việc của con người còn đầy những oan khốc trước mắt như thế, mà chúng ta còn chưa có thể biết đến cho được. Lại có những bạn cứ nói ngông về việc của Trời một cách cứ xem như là quán suốt tất cả vậy!!!

Hiểu được việc của người mà không hiểu được việc của Trời là xưa nay từng đã có. Thế nhưng hiểu được việc của Trời mà không hiểu được việc của người là xưa nay chưa có bao giờ cả.

Điều này lại cũng là một thực tại mô hình cơ bản của vũ trụ tự nhiên vận hành vốn là như thế nữa...






61 - TIẾP CUỘC TRƯỜNG CHINH…




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Chúng ta lại phải chuyển vị trí sang một góc độ quan sát khác nữa rồi vậy! Bởi nếu không đáp ứng với điều kiện như thế. Chúng ta đã vi phạm nguyên tắc “Tổng các lịch sử” của nền khoa học hiện đại rồi. Dĩ nhiên một mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ toàn ảnh là không thể có đối với bất cứ ai.

Trong khi khoa học là công cụ tối ưu, nếu tôi không muốn nói là duy nhất có thể làm sáng tỏ tôn giáo. Mọi hướng tiếp cận khác đối với tôn giáo đều bất khả. Thế cho nên ta thấy rất rõ là; Mọi tư duy kém cỏi đó, chỉ có thể phủ chụp thêm bức màn tăm tối, đầy mê muội lên thân thể vốn sáng láng của đạo mà thôi. Vì thế, ta phải xác định một cách vững vàng rằng: Lĩnh vực Khoa học, chính là cứu cánh, là phương tiện duy nhất có thể đưa nhân loại chúng ta tiếp cận ánh sáng của tri thức một cách cơ bản. Và từ đó mới có thể đưa nhân loại chúng ta bước đến miền đất hứa trong một tương lai gần được. Thế nên chúng ta nhất định phải khai thác phương tiện cứu cánh này cho bằng được.

Vì thế sự tiến hóa đang mở cuộc du hành vào không gian chiều thứ tư, tìm cứu cánh. Mọi tư duy kém ưu tú nhất. Đành phải chấp nhận bị bỏ rơi lại phía sau cuộc du hành này rồi vậy. Đó là một thực tại tự nhiên. Tất nhiên các bạn nào cùng hiện diện trên cuộc du hành này, cũng có nghĩa là đang cùng khai thác phương tiện cứu cánh cho một tương lai chung, đang chờ đợi trong khát vọng mỏi mòn của nhân loại chúng ta. Không cường điệu.

Những trình bày trên trang này cho đến thời điểm này. Chúng ta đã phần nào nhận ra được rằng; Những Ma Trận tiềm ẩn trong khoảng không mà Heisenberg đã từng bỏ qua đối với biểu đồ phân tán đó. Đã chứng minh những giá trị mà chúng ta phải ngỡ ngàng tất cả.

Như thế thì những công cụ của Thuyết Lượng Tử là chưa có thể giải thích được điều gì chính xác hết cả! Tôi có thể đưa ra cùng các bạn một dẫn chứng điển hình như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Như biểu đồ trên đây là tôi đã huy động toàn bộ tinh hoa của Thuyết Lượng Tử để làm công cụ mà mô tả rồi. Bởi các bạn có thể nhận thấy bao gồm trong đó là biểu đồ không – thời gian, tương tác của Friedmann lẫn Faynman. Kể cả biểu đồ phản ứng của Heisenberg và Chew luôn rồi vậy. Tuy nhiên chúng ta vẫn thấy không có thể mô tả được một điều gì chính xác cả!

Bởi ta đọc được thông tin ban đầu từ trong hình 1 là…; Trong tiến trình đầu tiên thì có một proton và một pion tiến đến gần với nhau. Khi đến cái ranh giới của khoảng không của biểu đồ phản ứng. Tôi gọi vùng biên này là chân trời sự cố. Và khi vượt qua chân trời sự cố để rơi vào vùng biến cố địa phương ở phía trong khoảng không đó. Nền khoa học đã bỏ qua, nên chúng ta không có thể biết những diễn biến như thế nào đã xảy ra trong vùng địa phương khoảng không đó được cả. Bởi chúng ta không quan tâm đến tương tác nữa. Ví dù chúng ta có quan tâm đi chăng nữa, chúng ta cũng không khẳng định được điều gì chính xác cả! Vì những giá trị tương tác toàn ảnh đó, cũng chỉ là sự xác xuất mà thôi.

Tiếp đến là mũi tên biểu thị hướng lên trong một lượng thời gian nào đó mà chúng ta cũng không xác định được!! Ta thấy xuất hiện một neutron! Tiến trình lại rơi vào trong vùng biến cố địa phương thứ hai của biểu đồ. Chúng ta cũng không hoàn toàn mất hết thông tin vào thời điểm này. Để rồi trong tiến trình cuối cùng của biểu đồ là biểu thị hạt sigma đi về hướng bên trái, và hạt kaon đi sang hướng bên phải, ở phía trên của biểu đồ!!!

Ta xét thấy rằng: Trong toàn thể của các tiến trình diễn ra liên tiếp như thế. Thế nhưng cuối cùng thì chúng ta cũng không có thể mô tả được bất cứ một điều gì chính xác cả! Bởi tất cả những giá trị đó cũng chỉ mang tính xác xuất mà thôi!! Và đó cũng là đại diện cho một tiến trình giả định của thế giới hạt!!!

Đấy là chưa nói đến việc tôi tạo ra sự cố trong tiến trình đó nữa. Ví dụ, bây giờ tôi sẽ tạo ra một sự cố như trong hình 2: Tôi sẽ chọn thời điểm xuất hiện hạt neutron để tạo ra sự cố. Bởi chúng ta không thể biết cũng như xác định được trong thời điểm nhất định nào của một thời lượng đó cho được cả. Đó chính là điểm yếu chí tử của nền cơ học lượng tử của nhân loại chúng ta. Thế nên sự cố mà tôi tạo ra đó, chính là sự phân hủy bê ta (β).

Bởi vì sự phân hủy bê ta thì chúng ta cũng đã biết cả rồi.

Nó gồm có “N p + e- + v”. Như thế chúng ta biết nó tương tác với đối tác nào trong đó? Chúng ta không khẳng định được điều gì ở đây được cả. Đã thế, thì thành quả cuối cùng, chúng ta đâu có thể xác định được là sigma và kaon cho được nữa?! Nó chỉ có 30% giá trị là sigma và kaon thôi!, 70% là proton và pion!!, và lại còn có 10% khác đi nữa!!! Bởi vì tất cả những giá trị cũng như diễn biến đó xảy ra trong vùng biến cố địa phương cuối cùng của biểu đồ này, là hoàn toàn nằm ngoài sự hiểu biết của các nhà bác học suốt hơn 100 năm qua rồi.

Ta nhận thấy đối với sự diễn đạt sự “phân hủy bê ta” thôi. Tất cả công cụ ngôn ngữ của mọi biểu đồ này, cũng đã tỏ ra hoàn toàn bất lực hết cả rồi. Bởi vì nét biễu diễn mũi tên hướng lên theo chiều thời gian đó. Các nhà chuyên môn sẽ phải diễn tả như thế nào mới được chứ? Bởi vì với một thời lượng nào đó, mà thuyết lượng tử không xác định được. Một thời lượng nào đó mà theo nguyên tắc của biểu đồ đó là có thể trình bày đến… vô tận!!! Thật phi lý và không có thể chấp nhận như thế cho được. Lại còn phải phải xác định trong một thời điểm nào đó của suốt một thời lượng ấy nữa! Bởi vì sự phân hủy bê ta là xảy ra một cách “thình lình”!!! Vậy thì điều này có nghĩa là; Cái nét vẽ biểu diễn cái “thời lượng” đó, phải vẽ đến…, vô cùng rồi vậy???

Điều đó thật phi lý!? Và hoàn toàn không chấp nhận cho được.

Bởi vì không thể có chuyện vũ trụ mà nhân loại chúng ta đang sống, và đang vận hành đây. Rồi ở vào một thời điểm của một tương lai nào đó?? Một tương lai nào đó mà chúng ta không xác định được. Thình lình…, lại biến ra khác đi nữa hay sao???

Giai đoạn hiện tại đang đòi hỏi nhân loại chúng ta phải xác định chính xác thời điểm phân hủy bê ta đó cho bằng được, dù phải trả bằng bất kỳ giá nào. Bởi vì mô hình vận hành của vũ trụ, đã bỏ rơi sự phát triển của nhân loại chúng ta ở lại phía bên ngoài thực tại tự nhiên khá xa rồi. Và trong một thời điểm của một tương lai rất gần ở phía trước. Quy luật tự nhiên của vũ trụ, đang chờ sự phát triển của nhân loại chúng ta vận hành đến…, để thực thi trách nhiệm đào thải chúng ta.

Vì thế; Những thế hệ của nhân loại chúng ta hôm nay. Bằng bất kỳ giá nào cũng phải xác định cho bằng được thời điểm đó. Luận giải ở vào thời điểm này, làm cho chúng ta nhớ lại thí nghiệm “Con mèo của Schrodinger”. Trong những nhà sáng lập ra học thuyết Lượng Tử. Riêng tôi, tôi trân trọng duy nhất chỉ có Schrodinger! Bởi trong ngày đó, Schrodinger là người duy nhất bênh vực Einstein. Bởi ông biết Thuyết Lượng Tử đã có rất nhiều khiếm khuyết. Và thí nghiệm “con mèo của Schrodinge” đã phát biểu lên điều đó.

Và hôm nay, riêng tôi khẳng định trước lúc mở hộp rằng: Con mèo vẫn sống! Thực nghiệm lại lần 2, 3, 4 v.v… lần hơn nữa. Tôi biết con mèo vẫn cứ sống. Các nhà chuyên môn, thực nghiệm, không nhất thiết phải mở hộp ra làm gì!!

Thế nhưng! Tôi lại biết vào thời điểm nào mở ra; Con mèo sẽ chết!!!

Và đó cũng chính là một trong những giá trị của loạt bài viết sắp đến trên trang này. Ta có thể hình dung bởi vì sự phân hủy bê ta là xảy ra hoàn toàn thình lình. Khả năng của nền khoa học vật lý hiện nay là không thể nào xác định cho được thời điểm phân hủy đó. Điều này cũng tương tự như; Chúng ta không thể nào xác định được thời điểm của ngày hủy diệt vũ trụ trong một tương lai gần, mà ta quen gọi là ngày tận thế vậy.

Thế nên ngày tận thế xảy ra là rất “thình lình”, đối với mọi sự suy diễn của nhân loại chúng ta trong thời điểm đương đại này. Không khẳng định được điều gì cả. Bởi chúng ta không xác định được cái gọi là thời điểm nào trong cả “gói thời lượng” đó cả (một bó).

Như thế, các bạn cùng tôi thực hành một thử nghiệm bằng tưởng tượng như sau: Ta biết thời lượng đến ngày tận thế có tất cả là 6 năm nữa, nếu ta tính từ 2017. Vậy ta chia ra thành 6 “bó thời lượng” cho 6 năm. Vậy nếu xét theo Thuyết Lượng Tử thì thời điểm đó có thể ở trong bất kỳ gói thời lượng nào trong tổng thể đó. Bởi theo như tinh thần của học thuyết này, thì tất cả 6 gói đó đều là khả dĩ như nhau! Điều này có nghĩa là có thể ngay này mai là thời điểm tận thế có thể xảy ra, hoặc bài viết này chưa kịp đến với các bạn đọc được!! Hoặc là cái gói cuối cùng đôi khi cũng không xảy ra thời điểm của tận thế nữa!!! Thế nhưng điều may mắn cho học thuyết này là ở chổ: Nếu theo nguyên lý của tổng các quỹ đạo, là ngày tận thế phải xảy ra trong 6 năm đó là chính xác. Chúng ta không có thể chấp nhận điều vô lý như thế, cho tương lai của nhân loại chúng ta cho được.

Tất cả những điều ám ảnh sự kiện tận thế này, nhân loại chúng ta đã cảm nhận được là nó đang ở rất gần mà thôi. Nó hiện diện và hình thành từ những quan điểm nhỏ bé nhất của mỗi cá nhân trong chúng ta. Đến những bộ óc thực tế và hiện đại nhất của các nhà bác học hiện tại. Thế cho nên ta thấy các nhà khoa học đang nổ lực tìm hướng giải thoát trên Sao Hỏa. Và giới tỷ phú cũng đang cuống cuồng xây dựng nơi trú ẩn ngày tận thế cho tương lai gần, mang đầy bất trắc tại; New Zealand!!!

Thế nhưng, chỉ có những kẻ bất lực trong số đông cộng đồng nhân loại chúng ta. Những kẻ kém ưu tú nhất theo quan điểm của các tỷ phú như…, các bạn và tôi đây. Vẫn đang ngồi tán gẫu về ngày tận thế trên trang này mà thôi!!! Điều này không có nghĩa chúng ta là những kẻ điếc không sợ súng. Mà là chúng ta đang nổ lực giải quyết vấn đề là phải xác định cho bằng được thời điểm đấy. Chúng ta đang đối đầu với vấn nạn hóc búa này. Chỉ khi nào chúng ta xác định được thời điểm của ngày tận thế. Lúc đó hẵng nói đến biện pháp thiết kế phương tiện nào là cứu cánh cho được.

Chúng ta có thể nhận thấy tất cả các nhà sáng lập ra học thuyết lượng tử, đã luôn luôn bỏ dỡ dang những vấn đề mà mình phải có trách nhiệm giải quyết! Tính từ nhà sáng lập đầu tiên là Planck với bài toán nhiệt lượng qua phương pháp hoán đổi những mệnh giá đồng tiền như một trò cờ bạc cùng với mô hình tự nhiên của Tạo Hóa. Rồi sau đó là tiếp đến những Heisenberg, Faynman v.v… nữa. Ta thấy hễ cứ mỗi khi các nhà chuyên môn tìm ra được một học thuyết hay định luật nào đó. Họ lại lấy mô hình cờ bạc ra mà dựa vào đó để lý luận! Thậm chí ngay cả Hawking cũng như vậy nữa!!!

Thế nhưng ta thấy quan điểm của Einstein là tuyệt đối đả phá những quan điểm đấy. Chúa nào mà lại cứ đi chơi trò đổ xúc xắc với nhân loại chúng ta như thế cho được vậy?! Tạo Hóa không chơi trò cờ bạc. Và trong cuộc cờ bạc cùng với mô hình thực tại tự nhiên của Tạo Hóa đó. Các nhà bác học trong lĩnh vực khoa học vật lý của nhân loại chúng ta đã thua cháy túi. Điển hình như nhà máy LHC hiện nay, thua trắng tay.

Vấn đề thực tế là: Các nhà Lượng Tử đã bỏ dở dang tất cả những mô hình này cho thế hệ của chúng ta hôm nay, kể cả các thế hệ tương lai nữa. Khiến cho chúng ta đang phải đối đầu với tất cả sự rối loạn này. Không thể xác định được đâu là mô hình thực tại của tương lai cả. Và nhân loại chúng ta hôm nay đang có nguy cơ bị mô hình thực tại tự nhiên đó đào thải trong một thời điểm của tương lai có thể nhìn thấy. Thế cho nên chúng ta nhất định phải xác định cho bằng được mô hình nào. Để còn thiết lập một con đường tắt nhanh nhất, để nhân loại chúng ta có thể bám kịp nhịp vận hành mà quy luật phát triển của vũ trụ đã bỏ rơi chúng ta ở lại mất rồi.

Ngay khi các bạn thấy tôi tạo ra sự cố ở vào thời điểm phân hủy bêta cho cái nền tảng gốc của biểu đồ của Ma Trận S nói chung ở trên đó. Tất cả tòa kiến trúc của biểu đồ này đã hoàn toàn sụp đổ. Không còn một giá trị gì ở đây nữa cả. Bởi vì chúng ta thấy không thể biết được nó tương tác với đối tác nào trong đó. Đồng thời cũng không biết vào thời điểm nào trong cả một thời lượng đó, thì sự phân hủy bê ta sẽ xảy ra cả.

Tôi phát biểu với quan điểm của một học thuyết của kỷ nguyên mới này rằng: Học thuyết này, sẽ xác định được thời điểm đó. Thời điểm mà tôi gọi với khái niệm là: Điểm “Thời Gian Chết”! Và khái niệm; “Không gian chết”, “thời gian chết” ra đời!!

Thay vì Thuyết Tương Đối với khái niệm của “Không – thời gian cong”. Thì hôm nay học thuyết này cũng khai sinh khái niệm của cái gọi là “Không – thời gian chết”!!! Nơi mà thời gian phải quay về “điểm chết”! Chúng ta phải điểm đúng huyệt chí tử đấy của thời gian.

Bởi vì một khi thời gian quay trở về điểm chết thì: Lập tức sẽ “giải phóng năng lượng toàn phần”!!!



60 - TRANG SỬ LẤP…

Mặc ngữ “vô vi” là thể loại văn dụng riêng cho những bậc Thần, Tiên nhập phàm, hòa tục một cách bất khả tri. Để mà rà soát cũng như sàng lọc độ đức của loài người chúng ta trong những cuộc thế hỗn tạp nơi thời điểm cuối của mỗi chu kỳ.

Ẩn ngữ “vi hành” thì để chỉ đến những bậc vua sáng suốt, dụng để cải trang, lẫn khuất âm thầm trong các chúng dân mà gạn đục khơi trong những điều thiên hạ phủ lấp, hầu định sự tiến thoái cơ đồ cho nước nhà.

Và Ám ngữ “hành vi” là để ám chỉ đến những kẻ bất minh, thường dùng để che mắt thiên hạ những việc làm trong đen tối, khuất tất khiến cho không ai phát giác hành tung ra được. Để điển hình những dạng người này, tôi cũng dụng một công cụ mà họ đã từng dụng trong quá khứ đó, là chép lại những lời người xưa như sau: “Học vấn càng cao mà thiếu đạo đức, thì hành vi lừa đảo càng tinh vi hơn mà thôi”.

Những điều tôi muốn nhắc đến để mở đầu trong bài viết tiếp theo này, chính là những hành vi của sử gia Ngô Sĩ Liên! Vì thế các bạn tham khảo những “di chỉ văn hóa” mà tôi sẽ khai quật trong cuộc “khảo cổ sử” này xem sao nhé. Bởi trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt chúng ta. Song song với những bảo vật bị thất lạc, oan khốc phủ lấp dưới bao lớp bụi của thời gian. Còn có những dạng văn hóa nhiễm độc và rất hiểm độc hơn, tiềm ẩn trong quá khứ của lịch sử đó nữa!

Chúng ta lại tiếp tục cuộc du hành ngược dòng thời gian trên phương tiện tư duy nhé:

Hiện nay tất cả chúng ta đều biết cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên là chính sử của nước nhà. Là nền tảng cội rễ phát triển cho tư tưởng, văn hóa, lịch sử của dân tộc Việt Nam suốt hơn nửa thiên niên kỷ qua. Ta thấy Ngô Sĩ Liên đã gộp chung cuốn Đại Việt Sử Ký của sử gia Lê Văn Hưu và cuốn Đại Việt Sử Ký Tục Biên của sử gia Phan Phu Tiên làm một và gọi là Bản Kỷ.

Như tôi đã có bàn luận qua cùng các bạn là cuốn Sử Ký Tục Biên của Phan Phu Tiên đã bị che dấu sự thật cả rồi (chưa hiểu vì cớ gì, đối với nội các triều đình lúc đấy!? Có thể liệt vào hạng bí sử, chỉ được phép mật truyền nội các mà thôi). Thế nên cuốn Đại Việt Sử Ký Tục Biên mà Ngô Sĩ Liên đã dụng đó. Hầu như cũng là nội dung chung mà ta đã được đọc trong Đại Việt Sử Ký của sử gia Lê Văn Hưu mà thôi. Và sự thật này đã bị Nhà Minh tiếp tục phi tang mọi dấu vết cũng như chứng cứ về sau đối với Người Việt chúng ta hôm nay.

Ta xét thấy chính Ngô Sĩ Liên đã đem phần Ngoại Kỷ thêm vào, và lấy tên là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như ngày nay chúng ta đã được biết vậy. Ta xét thấy chính cuốn Sử Ký này đã ghép gốc rễ cội nguồn giống nòi của Người Việt vào thành con cháu của Người Trung Quốc luôn rồi. Kể cả non sông vùng Ngũ Lĩnh cũng hóa thành của tổ tiên của người Hán luôn một thể!! Bởi theo Ngô Sĩ Liên thì vùng đất đó chẳng qua cũng chỉ là của Đế Minh đã chia và phong cho Lộc Tục mà thôi!!!

Những thế hệ con cháu, đã bị ngu hóa hết cả rồi sao? Xét mà kể ra thì cũng lấy làm đau đớn cho giống nòi lắm. Bởi 1000 năm đó thì quả là đã có bị Người Hán ra sức mà làm cho ngu dân đi hết cả. Đến khi Nhà Trần vừa kịp hồi phục thì ngay lập tức Đại Ngu tạo điều kiện sơ hở để cho dân đen lại tiếp sức mà dẫn Nhà Minh vào! Và lại 100 năm nữa, Người Hán lại ra sức… ( tôi ngại phải viết tiếp. Bởi e có những quan điểm sẽ cảm thấy tôi xúc phạm đến sĩ diện cá nhân họ, hơn là sĩ diện của dân tộc mà phản bác một cách không thể hiểu nổi cho được).

Vì thế tôi chỉ đưa các bạn xem xét đến giai đoạn đầu tiên như: Ngay sau khi Ngô Sĩ Liên ghép gốc dựng lên Kịch Bản với tên Đế Minh xong. Ta có thể nhìn thấy dọc theo lối mòn đã được Ngô Sĩ Liên định sẵn đó. Các đời Vua của Trung Quốc được mang ra làm gương để công kích Nhà Trần và răn đe các thế hệ về sau nữa! Mà nền tảng chính của tư tưởng mà Ngô Sĩ Liên sử dụng chính là Đạo Khổng. Ta thấy những tư duy đã bị ngu hóa thật sự, lập tức ca tụng và ra sức ngăn chặn mọi hướng tiếp cận của Người Việt nào trong tương lai. Một khi muốn thâm nhập vào khai thác chiều sâu nền móng của công trình Đại Việt Sử Ký Toàn Thư này mà Ngô Sĩ Liên đã dày công xây dựng.

Cái ý thức hệ giống nòi Thần Tiên của Người Việt. Sẽ cười mỉa vào cái kịch bản khôi hài của nhân vật “hư cấu” Đế Minh mà Ngô Sĩ Liên đã dựng lên như sau:

Tự nhiên giai đoạn này thì lịch sử Trung Quốc xuất hiện nhân vật có tên là Đế Minh! Được “lưu ý” là cháu 3 đời của Thần Nông!! Rồi nghiễm nhiên chiếm một chỗ trong cái gọi chung chung là lịch sử huyền thoại của Trung Quốc!!! Thế là Huyền Thoại đó được khai thác giống như nền khoa học ngày nay gọi là lập “giả thuyết” để mà dựa vào đó, xây dựng mô hình vậy. Thế cho nên ta mới thấy cái giả lập thuyết đó cứ lủng củng, lung lay và không đứng vững mãi từ ngày đó cho đến tận ngày hôm nay rồi. Ngay cả những sử gia cũng như học giả của Trung Quốc qua bao thời kỳ, vẫn chia ra hai phái mà không công nhận những giá trị của lịch sử đó.

Môt đàng thì cho rằng gốc của họ là từ Phục Hy, Thần Nông. Một nẻo thì lại bảo gốc của họ phải là từ Hoàng Đế, Chuyên Húc! Thế nhưng có một sự thật là cho dù là đàng nào đi chăng nữa; Nhân vật Đế Minh này rất khó để lắp ráp vào cho xuôi dòng sử vốn đã chi chít mảnh vá chằng và đụp của họ được nữa!!! Đó là quả bóng mà Ngô Sĩ Liên đã đá sang phần sân của các sử gia của Trung Quốc. Và Ngô Sĩ Liên chỉ việc cho kịch bản này diễn tiếp các nhân vật thủ vai Đế Nghi và Đế Lai ra đời trong trang sử Việt, để hình thành Đại Việt Sử Ký “Toàn Thư”.

Điều mà chúng ta nhất định phải nhìn cho ra là ở chỗ: Chính cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư này đã hướng và định quan điểm của người Việt chấp nhận mình thuộc giống nòi cũng như núi sông Ngũ Lĩnh cũng đều là của người Trung Quốc cả. Họ vẫn là tổ tiên của Người Việt!!! Song tôi đã khẳng định rồi: Người Trung Quốc có thể nhận giặc làm Cha của mình được. Thế nhưng Người Việt Nam là tuyệt đối không thể có chuyện như thế bao giờ cả.

Như tôi đã từng nói là do chúng ta bị lạc gốc cội nguồn. Thế cho nên Ngô Sĩ Liên mới có thể qua mắt mọi người bằng cách ghép tiếp Âu Cơ vào làm con của Đế Lai một cách rất thuận lợi và nhanh chóng. Rồi sau đó tác hợp cho cuộc nên duyên của Lạc Long và Âu Cơ mà không thể có kịch bản nào vụng về hơn thế. Ấy vậy mà chúng ta vẫn cứ cố tin vào sự kiện hư cấu đó mà cấu thành sự thật lịch sử của nước nhà!? Lại còn rất dễ dãi mà chấp nhận sự chia tay của hai ông bà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã được Ngô Sĩ Liên vẽ ra môt cách sơ sài như thế nữa chứ!? Tại sao xưa nay chúng ta cứ chấp nhận sự chia tay của hai ông bà một cách đơn giản như thế cho được vậy? Rồi sau đó ra sao cũng không biết tới nữa?! Thậm chí cũng chẳng màng quan tâm gì đến sự chia rẽ từ ngày đầu đó nữa.

Ta có thể nhận ra được một điều rất rõ ràng là: Ngô Sĩ Liên luôn luôn lập đi lập lại rất nhiều lần cái điệp khúc của những Khổng Tử, lẫn các vị vua thời cổ đại của Trung Quốc như một tấm khiên, hòng che đậy những “thủ đoạn tiểu nhân” của mình bại lộ.

Ta thấy Nhà Trần đã lập nên những kỳ tích oai hùng như thế. Những điều mà cả thế giới ngàn sau đều phải nhắc nhớ đến. Ngay cả trong Thiên Thư của trời đất cũng lưu truyền. Vậy mà tại sao Ngô Sĩ Liên đã miệt mài công kích như ngây dại ra làm vậy!? Những hành vi của Ngô Sĩ Liên đối với Nhà Trần, đã tố cáo đó là việc làm của một kẻ chỉ giỏi việc vạch lá tìm sâu một cách miệt mài mà thôi. Đó không phải là tư cách cũng như việc làm của một sử gia bao giờ cả.

Vấn đề được đặt ra và yêu cầu đòi hỏi phải giải đáp là: Tại sao Ngô Sĩ Liên lại đưa phần Ngoại Kỷ với những quan điểm cho là non sông cũng như cội nguồn của dân tộc Việt đều là của người Trung Quốc như thế?

Vậy sự thật thì Ngô Sĩ Liên là ai? Và Ngô Sĩ Liên muốn gì, qua cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư??? Thực chất thì ta thấy Ngô Sĩ Liên đã vay mượn nền tảng của Đại Việt Sử Ký từ vị sử gia Lê Văn Hưu và ký sinh trên đó mà thôi. Sau đó lại dựa trên lịch sử của Trung Quốc, gọt dũa phần ngoại kỷ để phù hợp và gộp chung lại mà gọi thành Toàn Thư! Phần Ngoại kỷ thì đã đồng hóa tổ tiên và núi sông cho giặc. Phần Bản kỷ thì ra sức soi mói và công kích Nhà Trần, cho ra vẻ mình mẫu mực mà làm gương rồi răn đe mai sau?!

Với câu hỏi đó, chúng ta chợt giật mình, khi phát giác nhân thân của Ngô Sĩ Liên rất mờ ám . Kể cả từ lúc xuất hiện cũng như khi mất đi trong trang sử của dân tộc này!? Chiếc áo khoác để che đậy nhân thân của Ngô Sĩ Liên chính là Nguyễn Nhữ Soạn. Một người em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Trãi. Thế nhưng ta cũng lại thấy Ngô Sĩ Liên cũng công kích luôn cả Trần Nguyên Đán, vốn là ông ngoại của Nguyễn Trãi. Và trong cuộc thảm án Lệ Chi Viên thì Nguyễn Nhữ Soạn là người duy nhất không phải chịu can án “!?”.

Ta lần ngược trở về quá khứ trước đó không bao lâu thì thấy: Trong thời gian Nguyễn Trãi bị Nhà Minh giam lỏng 10 năm ở thành Đông Quan để theo dõi. Khoảng độ 8 năm thì Nguyễn Nhữ Soạn đã bỏ đi theo nghĩa quân của Đinh Lễ và Lê Sát. Đinh Lễ lại là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu. Ta có thể thấy Đinh Lễ theo Lê Lợi chỉ sau khi Lê Lợi thoát ra khỏi hiểm nạn bị giặc Minh đánh tan tác và vây khốn ở núi Chí Linh mà thôi. Xảy khi này thì ta mới thấy có sự xuất hiện của Ngô Sĩ Liên đang làm thư ký cùng với Nguyễn Ngữ Soạn trong nghĩa quân của Đinh Lễ khi này rồi! Đến lúc Ngô Sĩ Liên mất khi nào, tại đâu cũng không ai biết đến nữa!!!

Ta xét thấy cái chết của Đinh Lễ cũng rất đáng phải lưu tâm xem xét cặn kẽ mới được. Ngay cả sự nổi loạn của Lê Sát sau này nữa. Tiếp đến là việc tiếm quyền của Lệ Đức Hầu với sự việc thay đổi phong hóa đi. Và cuối cùng là cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư mà ta đang bàn đến. Đó hẳn phải là một chuỗi dây chuyền, liên kết các sự kiện có trật tự chứ không hề là tôi cố ý dựng lên cho được bao giờ cả. Trên đây là tôi chỉ đưa ra những thông tin như thế thôi. Các bạn cùng tham luận xem sao nhé. Tôi tin rằng, khi các bạn truy xét lại các sự kiện mà tôi đã nêu ra đó. Các bạn sẽ phát giác đầy rẫy những dấu vết rất đáng quan ngại sâu sắc hơn nữa mà tôi không tiện nêu ra ở đây.

Ta xét thấy suốt từ đó cho đến hiện nay, có biết bao vị thức giả qua các thế hệ nối tiếp. Mỗi khi các vị này truy lùng về quá khứ cội nguồn của dân tộc Việt đó. Họ đều cảm thấy đau lòng và bất lực trước kịch bản của Đế Minh mà Ngô Sĩ Liên đã từng dựng lên trong quá khứ lịch sử đó. Và đó cũng chính là một tai hại rất trầm trọng cho cả văn hóa, tư tưởng và lịch sử của dân tộc Việt suốt bấy lâu nay. Di họa cho cả những thế hệ tương lai là nhất định không tránh khỏi rồi vậy.

Trong khi chờ thời gian trả lời tất cả sự thật này. Các bạn có thể xem xét lại lịch sử của nước nhà bằng sự công bình và sáng suốt nhất. Riêng quan điểm của cá nhân tôi; Ngô Sĩ Liên không đủ tư cách cũng như hành vi để tôi xem là một sử gia của dân tộc Việt cho được. Nếu một kẻ như Ngô Sĩ Liên đã từng mang cái gọi là Ngoại kỷ vào lịch sử Việt được. Vậy thì sao chúng ta không thể mang những thực tại lịch sử của giống nòi, mà tôi đã từng trình bày qua trên trang này làm Nguyên kỷ vào dòng sử thiêng được. Bởi những thực tại đó chính là những điều đã được Tạo Hóa chép trong Thiên Thư. Là mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ vốn là như thế.

Để kết thúc bài viết này: Tôi có nhắc chừng mãi rồi đấy. Là việc của con người còn đầy những oan khốc trước mắt như thế, mà chúng ta còn chưa có thể biết đến cho được. Lại có những bạn cứ nói ngông về việc của Trời một cách cứ xem như là quán suốt tất cả vậy!!!

Hiểu được việc của người mà không hiểu được việc của Trời là xưa nay từng đã có. Thế nhưng hiểu được việc của Trời mà không hiểu được việc của người là xưa nay chưa có bao giờ cả.

Điều này lại cũng là một thực tại mô hình cơ bản của vũ trụ tự nhiên vận hành vốn là như thế nữa...


62 - BẢN THỂ VÀ BẢN CHẤT




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Cho đến thời điểm này. Chúng ta dễ dàng nhận thấy tất cả đã đi vào bế tắc và hoàn toàn rối loạn hết. Đã nhìn thấy Thuyết Lượng Tử còn đầy rẫy những thiếu sót rất trầm trọng. Nếu xét cả hai học thuyết nơi đỉnh cao của nền khoa học hiện đại thì: Thuyết Tương Đối là có thiếu sót nhất định rồi. Tuy nhiên Thuyết Lượng Tử thì bao gồm cả thiếu sót lẫn sai sót. Và đây cũng chính là câu trả lời cho câu hỏi: Vì sao hai học thuyết này không thể kết hợp được với nhau trong suốt hàng trăm năm qua.

Thế nên ở đây chúng ta phải xác định lại tất cả các giá trị thực tại bản thể của sự việc cho bằng được. Qua đó, chúng ta làm sáng tỏ thêm một vấn đề cuối cùng mà Thuyết Lượng Tử còn bỏ dỡ dang! Ví như một trong các bài trước, chúng ta đã làm rõ về quan điểm của nền khoa học là đang tìm vật chất cơ bản của vũ trụ. Điều này có nghĩa là chúng ta chưa xác định được cái gọi là vật thể cơ bản nữa. Cũng chính vì “chưa có thể”, cho nên nền khoa học của chúng ta cũng “không có thể” xác định hay lý giải được điều gì, gọi là cụ thể trong mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ tự nhiên cả!

Như chúng ta được biết qua rồi. Bởi vì trong mô hình của vũ trụ thự nhiên thì “cái chất” chỉ là cái xác (bản chất). Còn “cái thể” lại thuộc về linh hồn (thể tính). Nền khoa học vật lý đã bỏ rơi điều này mãi từ thế kỷ thứ 17 bởi Descartes mất đi rồi. Ví như:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy qua biểu đồ của Ma Trận âm tính trong hình 1. Phương tiện công cụ khai thác này, đã đưa chúng ta thưởng lãm qua thế giới của Ma Trận đó hết một lượt rồi. Miền địa phương đó với hàng trăm Ma Trận khả dĩ như nhau, đồng thời cũng khiến cho tư duy chúng ta có thể thất lạc trong thế giới đó là như nhau.

Điều này dẫn đến việc chúng ta ý thức phải lui trở lại và xác định lại quỹ đạo nào mới thực sự là một quỹ đạo thực tại đang tiềm ẩn trong thế giới Ma trận này. Và cuối cùng chúng ta cũng có được một nhìn nhận rằng:

Trong thế giới đó, ta thấy rất rõ là nói lên một cơ cấu động toàn thể của các hệ thống tương tác số ràng buộc và liên kết rất cơ bản với nhau. Cái mà ta nghe các nhà chuyên môn gọi là vũ trụ động. Là nền tảng tư duy của cơ học lượng tử hiện nay. Trong trang này thì các bạn cũng đã biết Thuyết Lượng Tử có phản ảnh là một mô hình thực tại tiềm ẩn trong tư tưởng của Nhà Phật. Và chúng ta cũng đang dùng Tôn Giáo để kiện toàn cho Khoa Học là một trong những mục tiêu chính trên trang này. Thế nên chúng ta cùng liên hệ đến quan điểm của Nhà Phật và phát biểu như sau:

Với tư tưởng bản thể của Nhà Phật thì đó chính là sự chân như! Là một sự bất động, sự tĩnh tại tuyệt đối. Cái khái niệm vũ trụ động mà nền cơ học lượng tử của nhân loại chúng ta đang hãnh diện và tự hào đó. Phật cho đó chỉ là cái động loạn mà thôi! Một huyễn cảnh địa phương!!

Đó chính là cái động mà Phật gọi là Ngũ Tặc! Bất kỳ một kẻ sơ cơ nào trong Nhà Phật cũng đều nghe nói đến cái sự động của Ngũ Tặc này cả. Chính cái động của Ngũ Tặc này, khiến nên che mờ cái được gọi là Ngũ uẩn thực tại tiềm ẩn ở phía sau của mô hình vũ trụ đó nữa. Thế cho nên thực tại bản thể của Thuyết Lượng Tử chính là Tĩnh chứ không phải là Động bao giờ cả!!! Thế gian đã hoàn toàn lầm lạc cái căn cơ nguồn cội bản tánh đó mất đi rồi vậy. Vì thế cái động của thế giới lượng tử hiện nay chỉ là cái động loạn. Một giá trị ảo như thế giới ảo, đang lẫn lộn giữa những giá trị thực hư hiện nay của nó vậy.

Thế nên ta nhất thiết phải trả nó trở về với đúng bản chất, nguyên nhân cội rễ ban đầu của nó là Tĩnh. Là nguyên lý của sự Tĩnh tại. Với quan điểm của Nhà Phật thì 5 giác quan thông thường bằng trực giác của chúng ta. Chỉ là cái động loạn trong không gian 3 chiều. Sự động đó, khiến nên đã che giấu cái chức năng của ngũ uẩn, trong không gian chiều thứ tư mất đi. Vậy vũ trụ động của thuyết lượng tử, thực chất chỉ là cái cực tĩnh của thế giới nguyên tử, dẫn đến sinh ra cái động của thế giới hạ nguyên tử mà thôi.

Nên ta xác định lại cái bản chất của thuyết lượng tử là thuộc Tĩnh. Và cái bản thể của Thuyết Tương Đối thuộc Động. Vì thế ta trả về cái cội rễ ban đầu của nó là sự nguyên thủy! Thế nhưng ta xét thấy chỉ riêng từ Thủy thôi. Điều này cũng đã nói lên sự động trong đó rồi! Ta phải xét đến cái nguyên nhân trước đó nữa. Ví như:

Với thuyết tương đối vốn là sự động ban đầu. Thế nên tôi gọi điều đó với tên gọi là; Chân Nguyên Bản Thể ban đầu vậy. Và ta sẽ thấy được cái chân nguyên bản thể của thuyết tương đối vốn trú quán, trong vùng không gian chân không. Từ đó ta mới có thể nhận định ra được cái Lý Nguyên Bản Chất của thuyết lượng tử, định xứ trong miền thời gian chân như. Chúng ta nhất định phải trả hai học thuyết này về đúng với cội rễ của nó, không thể để cho tiếp tục trôi lạc một cách vô định như trước nay được nữa.

Ta hãy trả về với điểm khởi đầu của sự khởi đầu đó. Trên tất cả các điều đó nữa. Tôi gọi là sự uyên nguyên của Chúa. Thế nên cái uyên nguyên của Chúa mới bắt đầu bắt tay Tạo dựng vũ trụ ban đầu. Khi đó thì Người sẽ tạo cái không gian chân không đầu tiên. Và dẫn đến trật tự tiếp theo là Người sẽ Dựng lên cái Thời gian chân như là ngôi thứ hai (có tính liên thông và đồng nhất trong đó). Vì chúng ta không biết đến những trật tự nguyên lý này nên loạn lạc hết. Từ đó dẫn đến không có thể xác định được bất cứ điều gì chính xác cả. Và đó cũng chính là tình trạng mà nền khoa học vật lý hiện đại của nhân loại chúng ta đang rơi vào.

Ở vào thời điểm của luận giải này. Chúng ta chợt phát giác ra cái “sự động” đó lại vốn là thuộc tính của Nhà Chúa, là bản thể thực tại của Thuyết Tương Đối kia! Cả một sự lầm lẫn đầy tai hại đến trầm trọng cho Thuyết Lượng Tử cũng như tất cả các nhà bác học xưa nay nói chung rồi vậy.

Cho nên ta nhất định phải trả tất cả những gì trở về với thực tại vốn là bản thể của nó mới được. Thế nên giá trị mô hình của thực tại tiềm ẩn tự nhiên của vũ trụ cơ bản và trật tự là: Thuyết Lượng Tử thuộc Tĩnh. Thuyết Tương Đối thuộc Động. Nó thể hiện và phản ảnh đồng bộ trong tổng thể mô hình của vũ trụ toàn ảnh như: Một động một tĩnh, một Chúa một Phật. Một Dương một Âm, một trước một sau, một Nam một Nữ. Để nói lên sự cân bằng và duy trì một vũ trụ phát triển và trường tồn không khác được. Thế cho nên các bạn có thể thấy quan điểm của cá nhân tôi thì: Chúa đại diện cho Cha, Phật đại diện cho Mẹ rồi vậy. Và phải phối hợp lại mới sinh thành ra tất cả thế nhân là con cái của cả hai vị. Đó là tượng trời đã mặc định như thế.

Thế nên ta xem xét lại hai biểu đồ mà tôi đưa ra ở trên là Ma trận dương và âm tính, đại diện cho hai điều kiện tiêu biểu đó là tuyệt đối. Chúng ta không có thể bấu víu vào đâu để mà tìm cứu cánh cho sự chối bỏ như loài người đã quen chối bỏ chúa vậy! Một thực tại nguyên lý của vũ trụ vĩnh hằng. Vậy chúng ta tiếp tục xem xét cái quỹ đạo thực tại cơ bản trong biểu đồ đó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Như 4 mẫu mô hình biểu đồ mà tôi đưa ra ở trên. Các bạn quan sát thấy trong hình 1 là phát biểu lên 1 quỹ đạo chung nhất của hệ thống số theo trật tự tự nhiên đó (so sánh biểu đồ Ma Trận S). Để rồi hình 2 là ta rút ra được một biểu đồ với một quỹ đạo cơ bản nhất của hệ thống tương tác số. Và trong hình 3 thì các bạn chỉ việc rút 2 quỹ đạo đó lại gần và ghép chúng lại với nhau. Tiếp đến là sử dụng theo phép đối xứng gương trong thực nghiệm quan sát này. Cuối cùng là hình 4 thì đó lại là phương pháp đối ngẫu, ta xoay mô hình đó với góc 45 độ. Như thế, qua 4 bước so sánh và thực nghiệm như trên. Ta chợt phát hiện ra một mô hình mà trong quá khứ, các nhà bác học đã từng vấp phải trở ngại này trong sự va chạm của thế giới hạt trong các phòng thí nghiệm:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Không môt ai trong chúng ta xưa nay có thể ngờ được rằng: Đây cũng chính là biểu đồ mô tả về một tiến trình va chạm của các hạt phía bên trong các phòng thí nghiệm với các nhà chuyên môn cả!

Các bạn quan sát thấy, qua thực nghiệm vừa rồi. Tôi đã đưa các bạn tham khảo những phương pháp cơ bản của các nhà chuyên môn từ thuyết lượng tử. Phối hợp với đồ hình mà các bạn rất dễ nắm bắt và quen trong những biểu đồ của Kinh Dịch nói chung. Chúng ta biết được một biểu đồ mà các nhà chuyên môn phía bên trong các phòng thí nghiệm từng mô tả sự va chạm của thế giới tương tác trong quá khứ. Và cũng chính biểu đồ này, từ sự mô tả bằng công cụ biểu đồ không – thời gian của Friedmann tại thời điểm Thuyết Lượng Tử trưởng thành.

Vì thế xét trong hình 1 là chỉ có tính so sánh. Vậy thì hình 2 ta thấy biểu đồ này mô tả sự va chạm của 3 hạt bao gồm electron, photon và positron.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trước tiên, tôi cũng lưu ý các bạn ngoài chuyên môn, phía bên ngoài các phòng thí nghiệm của chúng ta hôm nay cùng biết rằng: Các nhà chuyên môn, ở phía bên trong các phòng thí nghiệm của quá khứ đó. Từng đã bị mô hình của biểu đồ tiến trình va chạm trong một cuộc thực nghiệm như trên đây làm tình làm tội và “ra bã” hết cả rồi.

Bởi vì ta đọc thấy biểu đồ này mô tả ban đầu, theo chiều mũi tên là một electron vận hành từ bên trái, từ dưới lên, rồi nhả ra một photon tại điểm B. Sau đó thì sinh ra một positron và vận hành lui theo chiều thời gian! Tiếp đến thì lại hấp thụ một photron tại điểm A và sinh ra một electron, vận hành theo hướng trên, bên phải của biểu đồ!!

Ở đây, các nhà chuyên môn đã vấp phải một sự khó khăn cho ngôn ngữ một cách nhất định! Bởi vì tiến trình va chạm này lại mô tả cho thấy electron nhả ra photon tại B, trước khi nó hấp thụ tại A!! Và sự khó khăn nữa là ở đây thì ta phải hiểu như thế nào về sự đi ngược chiều thời gian như sự thể hiện của hạt positron mới được chứ?! Bởi thời gian vốn chỉ là tuyến tính mà thôi.

Chính vì vấp phải những khó khăn từ biểu đồ va chạm này. Khiến nên Heisenberg và Chew đã đi đến quyết định chuyển hướng sang thiết kế biểu đồ phản ứng của Ma Trận S trong quá khứ đó. Như ta biết thời điểm này là năm 1943. Vậy thì vào năm 1949 mà Faynman tiếp tục phát triển biểu đồ tương tác của Fiedmann thành biểu đồ Faynman như ta đã biết. Như thế thì đây quả là một sự phiêu lưu một cách đầy mạo hiễm, đối với tương lai của nhân loại chúng ta rồi vậy. Thế nên các bạn thấy tôi phát biểu Faynman là kẻ cuối cùng của bộ tộc lượng tử, cũng là không quá ngông cuồng.

Đã vậy. Hôm nay chúng ta cùng xem xét lại biểu đồ va chạm đầy khó khăn này xem sao nhé. Tôi đặt trường hợp như sau: Ta vẫn cứ đọc biểu đồ đó theo chiều ngược lại, giống như các nhà chuyên môn quen đọc, thì sẽ thấy như sau:

Từ phía trên, bên phải là một positron vận hành ngược theo chiều thời gian. Và ta thấy positron sẽ hấp thụ một photon tại A. Sau đó sinh ra một electron, chuyển hướng sang bên phải, vận hành theo chiều thời gian. Rồi electron sẽ nhả ra tại B một photon và chuyển hướng sang trái, vận hành xuống phía dưới của biểu đồ đó.

Từ đây suy ra: Điều này có nghĩa là từ trong không – thời gian của tương lai. Hạt positron đã hấp thụ tại A một photon trước rồi. Thế cho nên trong thời điểm hiện tại là ta thấy nhả ra một photon tại B. Và tiếp đến là vận hành đi về không - thời gian của quá khứ sau đó nữa…! Điều này hoàn toàn hợp lý.

Vậy, qua sự suy luận đó, ta sẽ rút ra được một kết luận như sau:

Như thế thì; Điều này cũng có nghĩa là chúng ta có một mô hình của một tương lai khả dĩ, xác định được!!! Từ đây chúng ta nhận định tương lai thuộc Dương, Hiện tại là trung hòa. Vậy quá khứ đích thị là âm rồi vậy. Thế nên chúng ta ứng dụng Ma Trận dương tính, để tìm một mô hình thực tại của một tương lai khả dĩ xác định được xem sao nhé. Các bạn cùng tôi du hành vào thế giới của Ma Trận dương. Một mô hình mà tôi vừa khai thác từ trong khoảng không của biểu đồ của Heisenberg và Chew đã từng bỏ qua đó. Chúng ta cùng tham gia quan sát về công cụ đó phải được bố trí như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Xét theo nguyên lý âm dương thì; Nếu biểu đồ Ma Trận âm tính có sự bố trí các ký tự A,B,C,D theo quy tắc từ trái sang phải, từ dưới lên trên (so theo hướng của ta). Thì trong biểu đồ của Ma Trận dương tính nhất định phải bố trí ngược lại (đối lập) là: Các ký tự A,B,C,D phải có trật tự từ trên xuống dưới, và từ phải sang trái như hai biểu đồ so sánh mà tôi đã trình bày và giới thiệu như ở trên.

Vậy qua đó, ta cũng nhận thấy và đồng thời cũng phải kiện toàn cho sự thiếu sót nữa của Thuyết Lượng Tử là Nguyên Lý Bất Định. Một nguyên lý nền tảng của Thuyết Lượng Tử đã được thiết lập bởi Heisenberg!

Ta lại phải kiện toàn cho Nguyên Lý Bất Định của Heisenberg trong bài kế tiếp mới có thể đi tiếp được. Quả là cả một thế giới đầy rối loạn và hỗn tạp. Thế nhưng nếu chúng ta dừng lại. Điều đó có nghĩa là chúng ta đã chấp nhận bị đào thải trong ngày tận thế rồi vậy.

Cho dù ta chấp nhận sự bất lực và buông xuôi. Thế nhưng tương lai của các thế hệ mai sau; Không cho phép chúng ta hôm nay làm điều đó.



63 - KIỆN TOÀN NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Nguyên Lý Bất Định của Heisenberg chính là nguyên lý nền tảng tối quan trọng của thuyết lượng tử, nếu tôi không muốn nói là bậc nhất.

Chính nguyên lý này từng lấn áp lại Einstein, sau khi ông khuynh đảo được Bohr trên diễn đàn Copenhagen ngày trước về tính xác xuất của Thuyết lượng tử. Điển hình như câu hỏi của một kẻ thắc mắc nào đó, mà Heisenberg đã trả lời về sự chuyển động (trạng thái) của electron như sau: “Nó chuyển động mà không phải chuyển động, và nó đứng yên cũng không phải là đứng yên”!!!

Một câu nói bất nhất điển hình tính lượng tử!

Chỉ chực có thế. Tư duy đám đông của quá khứ đó, lập tức phủ lấp những chân giá trị thực tại của thuyết tương đối mà ngày đó Einstein đang cố bảo vệ trong đơn độc. Giáo phái lượng tử với số lượng tín đồ cuồng tín ngày một gia tăng. Khiến nên dẫn đến phủ lấp tất cả mọi chân lý thực tại tiềm ẩn và chìm đắm tận đáy của biển mê ý thức, cùng với biết bao tư duy luân hồi.

Tối thiểu, chúng ta phải ý thức được rằng sự luân hồi đồng nghĩa với sự thoái hóa. Là một khái niệm đối lập với khái niệm tiến hóa. Thường được phản ảnh và tồn tại trong mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ với số nhiều, thiếu vắng trật tự. Ta có thể nhận ra được rằng: Thuyết tương đối chỉ mỗi một mình Einstein lập nên, thế nhưng thuyết lượng tử chí ít là một tập thể cũng khoảng 6 người khai sáng lúc ban đầu rồi. Và thuyết tương đối nói về cái tổng thể vĩ mô của vũ trụ. Thuyết lượng tử phát biểu từ những mô hình vi mô trong thế giới hạ nguyên tử. Và các bạn cũng đã thấy rất rõ ràng là thuyết tương đối thuộc chuyển động và thuyết lượng tử thuộc yên tĩnh.

Như thế thì Einstein với học thuyết tương đối là bảo vệ cho nền tảng là sự chuyển động của vận tốc trong không gian chân không. Như vận tốc ánh sáng c chẳng hạn. Cho nên thuyết lượng tử phải giữ vững lập trường quan điểm của mình với nền móng là sự tĩnh lặng của thời gian trong không gian chân như. Cầm bằng thời điểm trong thời lượng t làm ví dụ.

Từ đây, ta mới chợt phát giác ra một thực tại tiềm ẩn rất khéo léo một cách bất nhất trong nguyên lý bất định ở chổ: Trên diễn đàn tranh cãi Copenhagen ngày đó. Nếu như Einstein bảo vệ quan điểm của mình là sự động, thì Bohr cũng phải giữ vững lập trường của mình là sự tĩnh để mà công kích lẫn nhau. Thế nhưng cái nguyên lý bất định của Heisenberg lại có vẻ bất nhất ở chỗ: Vừa chuyển động lại vừa đứng yên!!!

Bởi vì ta xét thấy; Với nguyên lý bất định, nếu tiến hành đo vận tốc, thì điều này có nghĩa là đo lường “sự chuyển động” của hạt rồi vậy. Hễ khi ta thao tác việc kiểm tra vị trí cũng đồng một nghĩa với “sự đứng yên” không khác! Thật phi lý không thể chấp nhận cho được. Bởi sự chuyển động vốn thuộc là bản thể của thuyết tương đối. Còn thuyết lượng tử thì bản chất lại là sự đứng yên kia mà!! Sao Heisenberg lại có thể phát biểu nguyên lý bất định một cách nước đôi như thế cho được?! Trong khi Einstein chưa kịp nhìn ra những tiềm ẩn kín đáo phía sau đó thì ngay lập tức những tư duy của đám đông đã phủ lấp toàn diện thực tại chân lý đó mất đi rồi. Ta thấy trong cơn đắm thuyền, thì nguyên lý bất định chính là chiếc phao cứu sinh kịp thời cho những tín đồ chết đuối của giáo phái lượng tử khi đấy. Và ta thấy Einstein trong ngày đó quả là một: Mãnh hổ nan địch quần hồ rồi vậy…

Ta đã nhìn thấy trong nguyên lý bất định của Heisenberg có một chi tiết tiềm ẩn đầy bất ngờ mà nó làm thay đổi toàn bộ cục diện, dẫn đến sai lạc nguyên nhân từ trong quá khứ đó. Bởi điểm yếu của Einstein chính lại là không quan tâm đến những vấn đề của chi tiết! Tôi có thể dẫn ra một điển hình quan điểm này của ông như sau:

Khi có một ai đó, tìm thấy một điều gì đó. Họ thường tìm đến hỏi ý kiến của ông. Einstein sau khi xem qua liền phát biểu rằng: “Tôi muốn biết Chúa đã tạo ra thế giới như thế nào. Tôi không quan tâm đến những phần tử này hay kia, những quang phổ này hay kia. Tôi chỉ muốn biết ý tưởng của Chúa, tất cả còn lại chỉ là chi tiết”. Thế nên “lổ kiến hỗng sụp toan đê vỡ” mất rồi vậy.

Vấn đề đáng trách là sau này, khi Heisenberg phát hiện ra cái lổ hỗng trầm trọng đấy. Thế nhưng ông không đủ dũng khí để lên tiếng nhận cũng như chỉ thẳng ra những sai lầm đấy. Vì ta thấy sau này Heisenberg đã bị ảnh hưởng và chao đảo bởi giá trị của một thành phần độc lập với những giá trị toàn thể, liên kết chặt chẻ như một mạng lưới trong mô hình của vũ trụ đó. Ông không thể chối bỏ điều thực tại đó cho được. Ví như trong mô hình của hệ thống số từ 1 đến 9 trong khoảng không của biểu đồ Ma trận S. Nếu ta muốn hiểu tổng thể của giá trị hệ thống số đó. Ta bắt buộc phải hiểu giá trị của từng mỗi số độc lập duy nhất trong đó. Cũng có giá trị như thế như: Nếu ta muốn hiểu bất kỳ một giá trị số độc lập nào trong đó. Ta bắt buộc phải hiểu đồng bộ tất cả các giá trị của toàn thể hệ thống đó mới được. Lại một nguyên tắc hóc búa nữa cho câu hỏi mà thuyết lượng tử gây đau đầu cho các nhà bác học suốt trăm năm được dứt căn.

Đó là những chuyện đã từng diễn ra trong quá khứ. Thế nhưng hôm nay, chúng ta nhất định phải kiện toàn lổ hỗng này cho con tàu lượng tử thôi vậy. Bởi ta xét thấy nguyên lý bất định này có tính “phản gián” hai mang, tiềm ẩn trong đó. Tuy nhiên nếu quán xét trên bình diện mô hình tự nhiên của vũ trụ đồng bộ theo một trật tự nhất định thì: Nguyên lý Lưỡng tính sóng hạt của photon mà thuyết tương đối phát biểu sẽ là một sự đối xứng, nâng đỡ cho tính nhị nguyên của nguyên lý bất định từ thuyết lượng tử này.

Vậy tôi kiện toàn cho nguyên Nguyên lý Bất Định của Heisenberg đủ chu toàn là: Nguyên Lý Định và Bất Định vậy. Và các bạn cùng tôi tham khảo xem cái công cụ vừa được kiện toàn của thuyết lượng tử với tên Nguyên lý Định - Bất Định này xem sao. Khả năng ứng dụng và khai thác của nó ra sao nhé. Chúng ta lại chuẩn bị tiếp tục cuộc du hành vào không gian chiều thứ tư đang thách thức và đợi chờ phía trước…:

Dĩ nhiên chúng ta lại đứng trước cánh cổng dẫn vào miền địa phương của Ma Trận Phân Tán thôi. Vì đây chính là địa phương khả dĩ nhất và bắt buộc chúng ta phải vượt qua. Bởi phía bên trong đó chính là vùng không gian chiều thứ tư mà đối tượng thời gian đang định xứ và tiềm ẩn trong đó. Chúng ta đã trang bị đầy đủ công cụ khai thác rồi. Dấn bước vào thế giới của Ma Trận thôi vậy (lại lau mồ hôi trán nữa rồi…):

Sau khi chúng ta dội ngược trở ra từ thế giới của hàng trăm Ma Trận S đầy rối loạn vừa qua trên trang này. Chúng ta đã kiện toàn công cụ khai thác cũng như đã xác định được quỹ đạo cơ bản, vận hành trong thế giới của hàng trăm Ma Trận đó. Điều này đã cung cấp cho chúng ta thông tin rằng…, có một mô hình tương lai khả dĩ xác định được. Thông tin này, các bạn đã được biết qua biểu đồ va chạm của 3 Hạt electron-photon-positron vừa qua rồi. Từ đó suy ra…, Ma Trận dương tính mới chính là địa phương mà chúng ta cần đột nhập tiếp đến để khai thác.

Vậy tôi cũng tuân theo quy tắc cũ mà trình bày tiếp cùng các bạn như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chúng ta lại theo nguyên tắc cũ, duy chỉ có công cụ khai thác là thay đổi biểu đồ Ma Trận từ âm tính sang dương tính mà thôi. Và những gì thu được từ sự khai thác này có những giá trị như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong hình 1 là mô tả, biểu diễn cách đọc và trình bày Ma Trận S khi ta xem xét trong kênh dọc. Thế nên ta có A+B C+D. Và tôi mô phỏng theo đúng nguyên tắc này mà ứng dụng và trình bày trong không – thời gian 4 chiều của hình 2.

Ta có thể quan sát thấy hệ thống số không có xuất phát từ tọa độ gốc của không – thời gian ban đầu như biểu đồ của Ma trận âm tính trước đây!? Thế nhưng các thành phần số trong cả hệ thống. Sau khi xuất phát ở một vị trí của không – thời gian khác. Chúng tương tác với toàn thể hệ thống số, qua tổng các quỹ đạo khả dĩ trong các miền không – thời gian. Và cuối cùng thì hình thành nơi địa phương biên của không – thời gian vẫn chính xác là một đáp số với số tổng là 260, như giá trị của mô hình Ma Trận cũ!!!

Mô hình diễn tả trên đây là phản ảnh cho chúng ta biết được mô hình của tương lai cũng chính là sự lập lại những gì từ trong quá khứ mà thôi. Duy đó là một mô hình tương lai với những diễn biến của trật tự có khác, bao gồm không khác trong đó!

Thế nhưng, biểu đồ trên đây chẳng qua chỉ là tôi đang mô tả cùng các bạn những gì diễn ra trong góc quan sát của Kênh Dọc mà thôi! Nếu đã thế thì chúng ta lại cùng nhau chuyển vị trí quan sát sang Kênh Ngang xem sao nhé? Chúng ta tiếp tục cuộc du hành trong Kênh Ngang, để quan sát không – thời gian đó như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sau khi xem xét trong Kênh Ngang. Tôi cũng đã hoán đổi theo quy tắc của Ma Trận S thì ta có: A+C B+D. Và tôi cũng đã mô phỏng một cách trung thành theo Ma Trận S mà mô tả lại như những gì các bạn thấy trong hình 2!

Và tôi lại chép lại nguyên văn là…; Vẫn có tổng đáp số bằng 260 cho tổng các hàng dọc, ngang, chéo đều như nhau!? Mặc dù ta xét thấy các số trong các cung, đã có sự chuyển đổi vị trí khác trong đó cho nhau. Thế nhưng giá trị cuối cùng cũng đều bảo toàn và trả lời với cùng một đáp số không sai!!! Như thế, nếu tính cả kênh dọc và ngang, chúng ta quan sát thấy vật bị quan sát đó đã phản ảnh có đến 2 Ma Trận khác nhau! Tuy nhiên cả hai mô hình đó cũng đều có một đáp số tổng các quỹ đạo là như nhau!!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vẫn thế, chúng ta vẫn có tất cả là 6 Ma trận, có đáp số tổng các quỹ đạo đều là 260 như nhau! Từ đây bất chợt làm chúng ta giật mình vì…; Lại có hàng trăm Ma Trận nữa xuất hiện trong mô hình này!!

Đến đây, chúng ta lại tiếp tục ngỡ ngàng hết cả. Bởi vì chúng ta cứ ngỡ rằng vừa vượt qua được thế giới của Ma Trận vừa qua. Ngay lập tức chúng ta lại rơi vào thế giới của Ma Trận khác. Lại cũng có hàng trăm mô hình thực tại tự nhiên của Ma Trận khác mà không khác như thế nữa! Cấp độ phức tạp càng gia tăng giá trị rối loạn tư duy có trật tự lên một tầm cao hơn nữa!!

Chúng ta cứ ngỡ rằng sẽ bắt gặp mô hình của một tương lai khả dĩ xác định được. Thế nhưng thực tại tiềm ẩn trong mô hình không – thời gian của vũ trụ đó. Lại là một sự thật thể hiện sự chối bỏ đối với tư duy phát triển hiện nay của nhân loại chúng ta. Chúng ta lại phải dội ngược trở ra khỏi vùng thế giới của Ma Trận này thôi vậy. Bởi vì ý thức không cho phép chúng ta tiếp tục du hành trong thế giới đó cho được nữa. Chắc chắn chúng ta sẽ lạc mất trong hàng ngàn mô hình thực tại đó ngay thôi. Kiểm điểm lại những nguyên tắc của Thuyết Lượng tử thì còn có: Đòi hỏi người quan sát và vật bị quan sát phải đồng nhất trong đó làm một! Xét theo quan niệm đơn thuần của tư duy phương tây thì điều này là yêu cầu người quan sát phải thâm nhập vào mọi tiến trình thực nhiệm. Thế nhưng chúng ta đã hai lần thâm nhập vào thế giới của Ma Trận Phân Tán đúng nghĩa rồi. Với những gì đang có, chúng ta không thể nào xác định được đâu là một thực tại của mô hình cơ bản của vũ trụ trong hàng ngàn Ma Trận như thế cho được.

Chúng ta bắt buộc phải thoát trở ra, và một lần nữa; Rà soát lại tổng thể nền khoa học vật lý xem có còn một mô hình khiếm khuyết nào ở đây nữa hay không? Bởi như các bạn đã chứng kiến đó. Chúng ta đã hiểu quá rõ về ngôi nhà lượng tử đến từng chân tơ kẽ tóc rồi. Những trình bày vừa qua đã nói lên sự thật đó mà chúng ta không có thể chối bỏ cho được. Bởi đó chính là Toán Học.

Từ nỗi ưu tư này, dẫn chúng ta đến với đối tượng cuối cùng mà nhất định phải được xem xét cụ thể chính là Hình học. Là ngôn ngữ mô hình. Qua đó, chúng ta mới xác định lại mô hình của không – thời gian một cách chi tiết nhất được. Để chúng ta quyết định cuộc du hành cuối cùng vào đúng thời điểm cũng như đúng không gian thực tại nhất để khảo sát.

Bởi cái mô hình của không – thời gian mà chúng ta đang khai thác đó. Đã chắc gì là một mô hình không - thời gian cơ bản trong giai đoạn học thuyết tương đối và lượng tử hiện diện? Ngay cả cái tên của hai học thuyết này, cũng đã tố cáo với chúng ta thực tại đó. Cũng chỉ là sự “tương đối” và “lượng tử” mà thôi!!!

Lại một cuộc du hành khác, đang chờ đợi chúng ta thâm nhập vào mô hình của không – thời gian đó trong bài viết sau…



64 - RÀ SOÁT LẠI KHÔNG – THỜI GIAN TOÀN VÙNG




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Qua bài viết vừa rồi. Chúng ta thấy vừa thoát qua được thế giới Ma Trận này, chúng ta lại lập tức rơi vào thế giới Ma Trận khác ngay. Lại có đến hàng trăm mô hình của vũ trụ tương lai xác định được! Và đó cũng chính là yếu tố rắc rối, đong đầy sự phức tạp của thế giới Ma Trận đúng nghĩa. Bởi xưa nay chúng ta chỉ mới nghe đến thuật ngữ Ma Trận một cách rất đơn thuần, bất khả hình dung những giá trị tiềm ẩn trong nó.

Thế cho nên trong bài viết này, chúng ta lại phải xác định lại mọi giá trị đối với những quỹ đạo vận hành của mô hình tự nhiên trong vũ trụ như sau: Thường thì chúng ta cũng nghe các nhà chuyên môn nói đến thuật ngữ “bước nhảy lượng tử”! Điều này có nghĩa là các hạt đang vận hành trong một quỹ đạo đơn thuần vốn có của nó. Thế nhưng khi được gia tốc, hoặc khi đã tương tác qua một tiến trình va chạm. Hạt sẽ nhảy lên một quỹ đạo vận hành cao hơn và đầy tính phức tạp hơn nữa!! Điều này thì chúng ta có thể hình dung như những gì tôi trình bày như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua hai mô hình quỹ đạo với hai biểu đồ trình bày ở trên đây. Chúng ta xét thấy trong hình 1 là mô hình của Ma Trận cấp 3x3, với một quỹ đạo vận hành đơn giản nhất trong thế giới của Ma trận. Thế nhưng ta so sánh với hình 2 thì: Đó lại thể hiện là một một quỹ đạo có tính phức tạp hơn trong mô hình của Ma Trận cấp 5x5. Điều này cho các bạn một hình dung và mường tượng đến cái gọi là bước nhảy lượng tử rồi vậy. Là khi hạt nhảy lên một mô hình của không gian khác. Thì lúc đó nó sẽ vận hành với một quỹ đạo khác và phức tạp hơn là thế. Cứ thế, tùy theo từng cấp độ của không gian cho sẵn, tùy theo yêu cầu thực nghiệm. Các hành trạng vận hành của hạt, càng có sự biến hóa các quỹ đạo theo các bước nhảy lượng tử là phức tạp trầm trọng hơn cho sự nắm bắt của tư duy chung từ chúng ta. Và mô hình đó cũng trả lời cho chúng ta về một hình ảnh của một mạng lưới đan xen thành một “không gian mạng”, như ta từng nghe qua trong thế giới kỹ thuật số hiện nay.

Xưa nay; Nền khoa học của nhân loại chúng ta không thể nào biết được hạt electron có quỹ đạo vận hành như thế nào cả. Điều này đã được mô tả rất rõ và cũng đã được Faynman kết luận là “Tổng các quỹ đạo” qua thí nghiệm hai khe rồi vậy. Và hôm nay, tôi cũng chỉ ra chính xác quỹ đạo mà hạt electron phải vận hành xung quanh hạt nhân để hình thành một nguyên tử như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quỹ đạo electron vận hành (xung quanh) trong một nguyên tử cơ bản (mặt cắt). (Mô hình không gian Calabi-Yau của Lý Thuyết Dây là sai, do tác động topo.)
Với biểu đồ ở trên là tôi mô tả quỹ đạo của electron vận hành xung quanh nhân để hình thành một nguyên tử đơn thuần (electron-proton-neutron). Thế nhưng với mô hình trên là tôi chỉ mới mô tả chu kỳ vận hành thứ nhất, của electron, trong một không gian cơ bản đối với nguyên tử mà thôi. Nó phải vận hành đủ 3 chu kỳ như thế mới đủ. (tôi chỉ trình bày một chu kỳ thôi, nếu trình bày đủ thì e rằng hình ảnh tác động sẽ gây rối hết cho tư duy, dẫn đến khó nắm bắt được). Chính vì vận tốc 900km/s trong một không gian nguyên tử là một vận tốc quá lớn. Thế nên ta cứ ngỡ nó vận hành “xung quanh” nhân với ý nghĩ đơn thuần. May thay! Các nhà chuyên môn biết được đó chỉ là dạng “ngôn ngữ giả định” cho đối tượng electron “quay xung quanh” nhân mà thôi. Vì thế ta mới có một không gian cho sẵn với 8 vị trí có thể hình thành nên một hạt tìm thấy trong tổng không gian cho sẵn đó. Ví dụ:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thế nên ta có 8 giá trị không gian chi tiết, có thể tìm thấy xác xuất năng lượng hình thành cho một hạt đủ xuất hiện tại một trong tổng thể không gian đó. Do không gian ở giữa có tính triệt tiêu và chuyển hóa năng lượng. Giống như tâm của đồ hình bát quái trong cửu cung vậy. Đó là giá trị tiềm ẩn mà chúng ta quen gọi là “phép độn...”!

Và sau đây chúng ta mô phỏng theo quỹ đạo vận hành cao hơn mà chúng ta vừa tham khảo qua ở trên. Đó cũng là mô hình tổng thể của Ma Trận giữa Ma Trận âm, Dương và Ma Trận tổng thể (trung hòa) để tìm đến một mô hình quy luật vận hành của một vũ trụ cơ bản. Chúng ta tiếp tục tham khảo mô hình vũ trụ ban đầu hình thành cơ bản và chi tiết nhất như sau:

Dĩ nhiên chúng ta cũng tuân thủ theo nguyên tắc của mô hình không – thời gian của Friedmann để trình bày là:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta thấy trong không - thời gian ban đầu để hình thành vũ trụ, bắt đầu xuất hiện “một điểm” tại vị trí gốc của biểu đồ không – thời gian đó. Đây cũng chính là mô hình chuẩn là “Chất Điểm” của nền khoa học vật lý nhân loại chúng ta. Vì thế, tôi “chấm một điểm”, xuất hiện tại vị trí gốc của vũ trụ hình thành ban đầu từ khoảng không hư vô này. Nơi đây, tôi bắt buộc phải làm rõ thêm một vấn đề mà lòng tôi không muốn, tôi chỉ rất muốn bỏ qua. Thế nhưng, do tính liên quan để cho một học thuyết mới ra đời với mô hình thiết kế cho một vũ trụ tương lai, không còn tồn đọng bất cứ một điều gì ở đây nữa. Thế nên tôi phải làm điều mà tôi không muốn. Vậy điều tôi muốn nói đến đó, chính là mô hình “Chất Điểm”, so với mô hình “Quãng Tính” của Lý Thuyết Dây.

Ta xét thấy với tư duy của các nhà thiết kế nên Lý Thuyết Dây mãi từ năm 1964. Họ suy diễn với tính chất của “Một Điểm” như thế. Các nhà thiết kế, họ hoàn toàn không có lấy một “diện tích” tối thiểu nào để tưởng tượng mà dựa vào nền tảng đấy phát huy…, để mô phỏng, mà vẽ mô hình thiết lập cho được! Không hề có! Thế cho nên tư duy họ phải rơi vào thế bế tắc. Cho nên họ nghĩ rằng; … Phải có một “quảng tính”! Tối thiểu cũng phải có một quãng tính, thì các nhà thiết kế mới có thể dựa trên đấy để mà thiết lập mô hình cho được. Cho nên, từ đó Lý Thuyết Dây mới có thể ra đời, dựa trên mô hình của quãng tính đó. (~).

Và rồi ta thấy họ lập luận dựa trên mô hình quãng tính đó như sau (ở đây tôi không bàn đến tính chất xuất hiện của Dây kín và Dây hở. Mà chỉ giới hạn ở tư duy và quan điểm ban đầu của các nhà thiết kế nên Lý Thuyết Dây mà thôi):

Để đáp ứng cho câu hỏi: Điều gì, hay những thành phần nào, đã cấu tạo nên một Dây?. Và các nhà thiết kế của Lý Thuyết Dây lập luận rằng: Ví dụ như “một dòng chữ”. Vốn được hình thành từ các câu. Một câu lại được cấu tạo từ các chữ. Mỗi chữ lại là kết cấu bởi các ký tự a, b, c, v.v… Và mỗi ký tự là tự nó, vốn là như thế. Nếu ai đó hỏi mỗi “Ký Tự” a, b được cấu tạo từ gì, sẽ là hoàn toàn vô nghĩa! Nên tự một Dây nó là như vậy. Vì thế, nếu ai hỏi một Dây được cấu tạo từ những thành phần nào cũng có giá trị…, vô nghĩa như thế!!! Và mọi người kết luận: Nếu ai đó, chứng minh được điều gì cấu tạo nên Dây. Ngay lập tức điều đó sẽ hạ bệ Lý Thuyết Dây.

Và bây giờ chúng ta quay trở về với mô hình chuẩn là Chất Điểm ở trên. Đấy! Tôi trình bày vũ trụ ban đầu với mô hình của một chất điểm xuất hiện như ở trên. Ví dụ: Ta cứ để im đấy, không làm gì nữa cả. Dù chúng ta có ý thức hoặc vô ý thức. Dù chúng ta có triển khai hay không triển khai. Thế nhưng nguyên tắc của thời gian là…; Thời gian vẫn đang trôi qua… Cho nên ta xét thấy chiều thời gian đang vận hành và được diễn đạt như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta xét thấy qua những biểu đồ trình bày trên đây. Trong hình 1 là xuất hiện một điểm tại vị trí gốc của không – thời gian ban đầu. Đến hình 2 là thể hiện sự mô phỏng tính chất của thời gian đang trôi qua. Theo nguyên tắc thời gian vẫn trôi qua, nên trong chiều thời gian, xuất hiện mô tả, một nét vẽ hướng lên theo như biểu đồ của không – thời gian (hình 3). Để rồi trong hình 4 là hình thành một nét vẽ hoàn chỉnh, để mô tả sự vận hành của thời gian đang vận động trong mô hình của không - thời gian ban đầu đó. Như thế , ta xét thấy trong mô hình của chất điểm. Tự nó, thì trong chiều thời gian, tự nó cũng đã có quãng tính rồi. Ta không nhất thiết phải suy diễn thêm ra như hình ảnh của một dây làm gì nữa. Tất nhiên lúc này vũ trụ ban đầu là một chiều. Cũng từ đây ta suy ra: Cái nét vẽ đầu tiên và nhỏ nhất là một chấm rồi. Điều này cũng có giá trị như một điểm của mô hình chuẩn là chất điểm vậy. Và nguyên tắc của số 4 là số thành, vậy ta chấm thêm 4 chấm nữa liền theo. Như thế 4 chấm là hình thành một nét vẽ ban đầu rồi. Nếu ta so sánh với hình ảnh mô hình của Một Dây. Thì đó lại là một nét vẽ hoàn chỉnh rồi vậy. Điều này cho ta biết rằng, đó chính là cơ cấu hình thành của nhiều chấm, để hình thành nên một nét vẽ.

Từ đây, chúng ta rút ra được một kết luận: Hình ảnh của Một Dây. Chính là cơ cấu hình thành của nhiều chấm để tạo nên nét vẽ của sợi dây đó. Điều đó cũng có nghĩa là mô hình quãng tính của Dây, chính là cơ cấu hình thành của nhiều chất điểm để tạo nên Dây. Vì thế ta thấy trong hình 4 là diễn đạt theo chiều thời gian. Cứ thế, thời gian vẫn cứ trôi qua, cho nên nét vẽ biểu thị theo chiều này cứ thế mà hình thành. Ta thấy ngay lập tức mô hình quãng tính của Lý Thuyết Dây không hiện hữu. Lý Thuyết Dây đã thất bại ngay từ cái ý tưởng thành lập ban đầu về mô hình của Dây phải có quãng tính rồi vậy. Tư duy của các nhà thiết kế nên Lý Thuyết Dây. Họ không hình dung nổi về tính chất của Chất Điểm vận hành trong mô hình tự nhiên của vũ trụ, theo nguyên tắc của mô hình không - thời gian của Friedmann đã lập ra. Vì ta chỉ cần xác định được sự xuất hiện của một điểm đấy trong mô hình không – thời gian của vũ trụ ban đầu đấy thôi. Thời gian tự nó đã thể hiện có mô hình đấy rồi, vì nó vẫn đang vận hành một cách tiềm ẩn trong không gian ban đầu đó.

Như chúng ta đã biết là không gian và thời gian vốn đồng nhất trong đó. Thế cho nên ở về phía chiều của không gian, bắt buộc nó phải hình thành như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qua tiến trình như trên, chúng ta đã có mô hình của vũ trụ hình thành tự nhiên ban đầu theo trật tự với không thời gian 2 chiều. Cho nên, Lý Thuyết Dây không đủ điều kiện để được gọi là “Ứng Cử Viên Sáng Giá Nhất” trong nền khoa học vật lý đương đại, như nhân loại chúng ta hiện nay đang suy tôn như thế.

Nguy cơ Lý Thuyết Dây sụp đổ, hệ lụy sẽ kéo theo rất nhiều học thuyết khác có tính liên quan phải sụp đổ, là một sự thật. Sau đây các bạn tiếp tục tham khảo sự trình bày của tôi để thấy điều đấy. Chúng ta lại tiếp tục quan sát vật bị quan sát là mô hình vũ trụ ban đầu đó vừa hình thành như sau:

Ta xem xét thấy trong chiều không gian trên biểu đồ của mô hình thì; Không gian vốn tự nó là như thế. Là bất động và yên tĩnh. Còn xét về chiều thời gian thì; Xưa nay, với kinh nghiệm ngàn đời thì chúng ta đều biết rằng thời gian là có tính “chu kỳ”, không gian thì không có tính chu kỳ. Vậy chu kỳ cũng có nghĩa là sự “lập lại”. Vì thế cho nên trong chiều thời gian. Khi nó vận hành đến thời điểm của chu kỳ thì phải lập lại. Cho nên ta lại thấy biểu đồ đó tất nhiên phải được mô phỏng theo mô hình của vũ trụ tự nhiên mà diễn đạt theo một trình tự như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Xét theo tiến trình hình thành trong hình 1. Ta thấy chiều thời gian có sự vận động và hình thành trước (ta đang bàn ở sự thành chứ không phải sự sinh). Thế cho nên khởi thủy là chiều thời gian phải vận hành trước. Khi sự vận hành đó đến thời điểm của chu kỳ lập lại. Cho nên ta thấy chiều mũi tên thứ hai hình thành và tiếp tục mô phỏng trung thành theo sự vận hành trước đó. Xét trong cả một tiến trình của số thành là 4 đó. Dù muốn, dù không; Ta nhận thấy không gian đang được “nới rộng” thêm ra một cách tự nhiên trong mô hình vũ trụ vận hành ban đầu đó. Ta xét tiếp trong hình 2 và 3. Đây là thời điểm kết thúc chu kỳ vận hành của thời gian. Thế cho nên trong góc độ của không gian ngay lập tức phải đồng nhất liền theo mà hình thành cùng một quy trình như thế. Và cuối cùng là hình 4 với sự hình thành mô hình của không – thời gian của vũ trụ bán sơ khai cơ bản.

Ta quan sát không – thời gian trong hình thứ tư này thì thấy nó đã hình thành 4 khoảng không gian và thời gian riêng biệt trong đó! Điều này có nghĩa là mô hình của vũ trụ ban đầu đã tiềm ẩn mô hình của không – thời gian 4 chiều rồi vậy. Ta xét thấy tại vị trí A là một mô hình của không – thời gian 2 chiều hoàn thiện đủ. Thậm chí mãi hiện nay các nhà chuyên môn trong lĩnh vực khoa học vật lý vẫn thường dùng như thế để mô tả không khác được.

Một ví dụ điển hình:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tại vùng B thì mô hình thể hiện trong chiều không gian này đã hình thành mô hình của bán không gian sơ khai rồi. Tương đương giá trị như thế tại vùng thời gian bán sơ khai nơi điểm C. Và cuối cùng là vùng của vị trí D là nơi chưa hình thành. Nó vẫn thể hiện đối lập với điểm gốc của không – thời gian đủ tại A. Nó đại diện cho không gian chiều thứ tư là vô hình trong toàn vùng của không – thời gian 4 chiều đó. Muốn nhận diện ra thế giới vô hình đó ra sao. Ta sử dụng phép đối xứng, đối xứng gương, đối ngẫu v.v… là ra thôi vậy. Và đó cũng là giá trị của các phương pháp “đối xứng chung” mà nền khoa học đang dụng.

Ta tạm thời quay lại quan sát sâu hơn nữa trong tiến trình của mô hình thứ 2 và 3. Bởi nơi đây đã tiềm ẩn một giá trị phải bị lướt qua trong diễn giải là tất yếu. Do ngôn ngữ đơn thuần cũng như ngôn ngữ biểu đồ không cho phép chúng ta thực hiện khai thác và diễn đạt cùng lúc được. Đó là thời điểm mà thời gian đang lập lại. Điều này có nghĩa là chiều không gian đang được nới rộng dần ra… một cách tiềm ẩn trong đó. Cho đến khi chu kỳ thời gian trong tiến trình thứ tư vận hành vừa xong thì cùng lúc, chiều không gian đồng nhất cho toàn vùng.

Vậy điều này nói lên một thực tại sự thật của mô hình vũ trụ hình thành ban đầu là không hề có vụ nổ Bigbang xảy ra ở đây! Lại một hệ lụy từ Lý Thuyết Dây, kéo theo Thuyết Bigbang phải sụp đổ theo. Một cách rất rõ ràng là ta xét thấy không hề có vụ nổ đó!! Thuyết Big Bang hoàn toàn chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng đơn thuần mà thôi!!!

Nếu thế: Điều này có nghĩa là suốt 100 năm qua. Nhân loại chúng ta đã xây dựng mô hình của vũ trụ trên nền tảng của một giả thuyết. Hay đúng hơn chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng đơn thuần không hơn, không kém thôi ư?!

Thật kinh hoàng!!!

Bởi hôm nay ta biết rất rõ là: Trí tưởng tượng của nhân loại chúng ta trong giai đoạn phát triển đó là còn rất ngây thơ, đối với mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ. Chí ít, thì trên trang này. Chúng ta cũng đã phần nào đó thấy được điều thực tại tiềm ẩn này của Tạo Hóa phô bày rồi.

Như thế; Yêu cầu được đặt ra là đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại những giá trị mà Lý Thuyết Dây cũng như Thuyết Big Bang đã và đang; Dẫn nhân loại chúng ta phiêu lưu đầy mạo hiễm suốt nữa cuối của thế kỷ vừa qua. Bởi Thuyết Big Bang hoàn toàn không hề biết được cái gọi là “tiền Big Bang” là điều gì cả!!! Những sản phẩm từ học thuyết này chỉ cung cấp cho sự hiểu biết về vũ trụ là hậu Big Bang mà thôi. (Tôi sẽ làm rõ vấn đề của thuyết Big Bang trong một bài viết khác cùng các bạn. Đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng thô và luôn lung lay, chao đảo cùng thời gian suốt từ bấy đến nay).

Lại một quan điểm tư duy lạc mất cội nguồn nữa, từ trong nguyên nhân của vấn đề! Thế cho nên cái ước mơ có tên gọi là “nhân quả thống kê” của các nhà chuyên môn. Mãi mãi…, cũng vẫn chỉ là mơ ước mà thôi!!

Cận cảnh hôm nay. Nhất định chúng ta phải thức tỉnh và phải giác ngộ ra được thực tại tiềm ẩn như thế đối với nền khoa học. Có như thế, chúng ta mới nỗ lực tìm cứu cánh cho tương lai chung được. Các nhà khoa học không thể cứu độ cộng đồng nhân loại chúng ta được rồi. Chỉ có kẻ u mê trong các học thuyết mang nặng tính giáo điều, mới mong chờ sự giải thoát bằng sự huyễn tưởng mà thôi.

Thế cho nên: Các nhà bác học hiện nay. Đang vẽ bức tranh tương lai toàn cảnh của nhân loại chúng ta bằng những gam màu đen kịt, và hoàn toàn tăm tối hết đi cả rồi…



Thanked by 2 Members:

#24 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 20:18


65 - TẢN MẠN VỀ PHÁP HOA HỘI

Tản mạn đôi dòng cùng thắc mắc của bạn Dũng Nguyễn Văn:

Do ý gợi mở của bạn nên tôi mới bàn đến hai bài thi Pháp Hoa và Thiên Hoa Hội cùng các bạn để giải khuây. Vì thế nên ta xem như là giải trí thôi nhé. Bởi chẳng ai lại đi tán của chính mình ra cả!!! Ta cứ xem như là nhắc lại chuyện và những ý mà tôi đã gửi trong đó bài thi đó, vậy thôi…

… Khi tôi bước qua cổng “thiên trường”, nằm ở phía bên trong địa phương của không gian chiều thứ tư. Thú thật, tôi bất giác thảng thốt đến sững sờ! Tuy hơn mười mấy năm trước, tôi đã ý thức được kỳ thi thứ hai là gian nan gấp bội phần kỳ thi đầu là Long Hoa Hội. Thế nhưng sự thật thì lại hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng của thế nhân chúng ta xưa nay, bao gồm cả tôi. Bởi như tôi thường nói là không hề có kinh hay sử sách nào từng nói đến bao giờ cả! Vì yêu cầu mà Tạo Hóa đặt ra cho cuộc thi này là phải tìm cho ra sự sai lạc của hệ thống sao Nhị Thập Bát Tú!! Và đòi hỏi thí sinh phải giải cho được đề thi hóc búa đó, đồng thời phải bố trí lại hệ thống Nhị Thập Bát Tú đúng với trật tự của Tạo Hóa đã định đặt trong mô hình tự nhiên của vũ trụ toàn ảnh!!! Và đây cũng là một trong các lý do mà tôi có lời khuyên với những ai đang dụng Dịch nên cẩn thận lại là thế.

Quả thật, như các bạn thấy đấy! Những sự việc quái dị như thế này chỉ có ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư mà thôi. Vì mô hình thực tại vũ trụ 3 chiều mà nhân loại chúng ta đang sống. Không hề nghe bất kỳ ai nói đến những chuyện đại loại như thế này bao giờ cả, cho dù đó có là chuyện hoang đường nhất đi chăng nữa. Không hề. Thế giới này kỳ dị một cách rất lạ thường. Ta cứ ngỡ rằng đã quen với nó, nhưng không! Bởi cứ mỗi bao lần hiện cảnh xuất hiện, ta lại phải sững sờ đến kinh ngạc lên bấy nhiêu hết cả thảy!!

Giới thiệu qua cùng các bạn như thế, chúng ta vào đề thôi nhé. Vậy tôi xin chép lại bài thi Pháp Hoa Hội để các bạn cùng nhớ lại dưới đây, tôi giới thiệu nội dung đoạn đầu như sau:

(Kỳ II: Nhị Nguyên…)

Bước vào thiên trường cửa nhị nguyên.
Trời đất khai hội Pháp Hoa Liên…
Quả thật thuở xưa từng nghĩ đến
Nẻo cao nguyện vọng, lấp đầy truân chuyên
Đa đề căn sâu in dị mộc
Quái thạch lãnh thiên dọn bàn thiền
Long gáy kỳ thư hồn hỗn độn
Hưng đạo sách nào bình giặc Nguyên?...

Bốn câu mô tả đầu tiên cũng là nội dung mà tôi vừa nhắc qua ở trên cùng các bạn. Và ý nghĩa tiếp đến của 4 câu cuối là: Xưa, những kẻ tri thức vương giả, học đòi thoát tục mà mô phỏng thiên tượng trong thú chơi được suy tôn nơi đỉnh cao là: Quái thạch, Dị mộc và Kỳ thư! Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự mô phỏng của người đời theo đòi mà thôi. Cùng lắm thì thế nhân chúng ta cũng chỉ với tới nơi đỉnh của nghệ thuật bao gồm trong đó là giới hạn cho sự hiểu biết chung chung được liệt kê như: Quái thạch, cao thì được xem là các loại đá quý có kiểu dáng kỳ lạ, thấp như thú chơi non bộ chẳng hạn. Dị mộc là thú chơi cây hoa, kiểng có hình thù khác thường, cùng lắm thì cho là những dạng mộc hóa thạch vậy. Và Kỳ thư được xem Kinh Dịch là hàng đầu cùng với các loại sách Sấm Thư hiếm có.

Thế nhưng đối với thực tại Thiên tượng thì quả là có khác xa lắm, như nghĩa đen của câu ví “một trời một vực” rồi vậy! Bởi Quái Thạch phải đáp ứng tiêu chí của cái gọi là 72 động trong 36 đảo mà Trời đã mặc định thiên cơ trong đó. Thế nhân nói chung không thể nhìn thấy ảnh tượng đó phản ảnh qua những cái thạch động mà Chúa sinh ký và tử quy nơi đó. Là cái mà Lão Tử gọi với tên Huyền Tẫn! Là cái hốc đá mà Mohammed tìm đến trong sa mạc v.v…

Kỳ thư thì Kinh Dịch chỉ bao gồm trong hệ thống Kinh Điển nói chung mà thôi. Đỉnh cao của nó chính là Thiên Thư. Mà Thiên Thư lại vốn là bất khả diễn rồi vậy. Và cuối cùng là Dị mộc, thì…; lại là nơi mà Phật đắc, diệt đạo quả khi xưa. Ở đây tôi chỉ bàn giới hạn ở cây bồ đề thôi, không bàn đến cây sa la. Trong các bài trước, tôi cũng đã có nói qua hai loại cây giống nhau như hai anh em sinh đôi rồi đấy. Đó chính là cây bồ đề và cây đa! Cây bồ đề của Phật đạo và cây Đa của Tiên đạo, ẩn đầy thiên tượng mà tạo hóa mặc định trong đó!! Lại chép lại trong trong binh pháp của Khương Tử Nha với cuốn bình đạo là: “Đức xuống tới kẻ gánh củi, người hiền theo về. Đức xuống tới côn trùng, thánh nhân theo về. Vậy Đức xuống tới cỏ cây; Ắt đạo sẽ theo về là bởi ý này rồi vậy. Tôi thường nói đến việc “khảo kinh” tìm đạo. Thế nhưng chỉ mới khảo cầm thú, có nhiều bạn “si đạo”, chưa hiểu ý đã vấp phải đầy phản đối không nên có rồi. Sao bàn đến khảo cỏ cây, thậm chí cả sỏi đá cho được nữa. (lại nghe nói…, trang cuối lại dính trên đá mới chết người đi được).

Từ đây ta mới có thể bắt đầu lờ mờ nhận ra thấy ý của câu “đa đề căn sâu in dị mộc”. 1, ý thứ nhất là cây đa cây đề, thì có bộ rễ (căn) được ẩn ý rất thâm sâu và hình thù kỳ dị nhất trong tất cả các loại cây! Một sức sống rất mãnh liệt, tiềm ẩn trong cội rễ tự nhiên đó. (tôi cũng đã từng có lưu ý qua là dân tộc Việt xưa, vốn thờ cây và đá, dĩ nhiên kể cả kỳ thư đã thất lạc được tạc trên lưng rùa cõng).
2, Ý tiếp theo là mô tả khi thí sinh bước vào trường trời, liền nhận được nhiều đề thi có căn rất sâu và cũng đã nhận “dấu mộc” của Tạo Hóa, đóng dấu một cách kỳ dị ngay trước cổng thiên trường rồi!! Thế nên thí sinh phải sắp xếp, dọn bàn thiền (bàn thạch), để ôn bài chuẩn bị ứng thí thôi. Và ta thấy mô tả thí sinh đó đã lục kỳ thư đọc bung hết cả gáy sách ra cả rồi mà vẫn cứ tăm tối hỗn độn, chưa có thể tìm ra được đáp án ở đâu hết cả. Còn có tiềm ẩn ý trong đó nữa là Thí sinh của trường trời…; Thường ngồi nơi long mạch thuộc “gáy của rồng” để đọc thiên thư mà ôn bài ứng thí… Hội Pháp Hoa nơi thiên trường này!!!

Thế nhưng đạo là vùng địa phương phi tưởng xứ, là nơi chốn bất khả tưởng tượng đến đối với tư duy thế nhân của chúng ta mãi từ ngày tạo dựng vũ trụ cho đến nay rồi! Thật ra đạo vốn là cái không. Cuộc thi này sở dĩ tôi nói mục đích của đề thi này ra cùng các bạn là do sau khi đã giải và vượt qua được nó. Chứ mới ban đầu bước vào cuộc là cũng chẳng nhận được ý gì ở đây hết cả!, mà chỉ là hư không mà thôi!! Ta phải lục kỳ thư nát hết cả lên, mới phát hiện ra được là đề thi có ý như thế!! Nó hành hạ trong tư tưởng, ý nghĩ không có bất kỳ một giây nào buông tha đầu óc của ta ra cả. Lạ lắm, kể cả trong giấc ngủ. Tuy là mệt mỏi, rã rời hết. Có nhắm mắt lại tưởng như đã ngủ, kỳ thực. Trong tiềm thức vẫn cứ khảo đảo các câu hỏi, hành hạ một cách rất miệt mài. Thế nên tôi mới gọi cuộc thi Pháp Hoa trong kỳ hai này là Giặc Nguyên (trung nguyên cuộc) như các bạn đã xem thấy đấy. Do đã biết rất rõ là thế nhân lạc đạo hết cả rồi, nên nếu muốn “hưng đạo” lại thì phải lục kỳ thư. Mà lục nát hết cả rồi (long gáy), vẫn chưa tìm ra sách lược để hóa giải nào cả!!

Đồng thời ý trong câu cuối này chuyển ý bằng cách độn điển tích Trần Hưng Đạo đại phá Quân Nguyên khi xưa để bình giặc nguyên hôm nay vào câu cuối để mở lối vậy. Riêng việc lấy điển tích vào thơ thôi. Xét thấy xưa nay chỉ có lấy điển tích Tàu vào thơ thôi. Chưa thấy ai mang điển tích của dân tộc Việt vào thơ bao giờ. Bằng như nếu có, là cực hiếm rồi vậy.

Thế cho nên các bạn mới thấy tựa của bài liền sau đấy là Cửu Long Giang Dậy Sóng Bạch Đằng là vì ý này rồi. Ta nhất thiết lại phải đủ lĩnh hội được Bảo Giang Môn mà Trạng Trình gửi gắm sấm ý cho mai sau. Chính là dòng Cửu Long Giang, chứ không hề là bất kỳ một dòng sông nào khác trên toàn miền non sông Việt Nam hôm nay cả. Điều thiên cơ này thì Bồ đề đạt ma cũng đã từng có ý nhắc đến như câu: “Rắn hóa Rồng nhưng không đổi vảy” vậy! Cái thiên tượng của Tạo Hóa đó thể hiện ở rắn thần 7 đầu che mưa cội bồ đề khi xưa Phật Thích Ca ngồi. Thì hôm nay đã hóa thành rồng thần 9 đầu nơi dòng Cửu Long này mà che cội đa của dân tộc Việt rồi vậy.

Bởi Hưng Đạo là gắn liền với trận Bạch Đằng khi bình Giặc Nguyên. Đó chính là kho tàng văn hóa của dân tộc Việt làm di chúc cho thế hệ con cháu mai sau. Dĩ nhiên tôi được thừa hưởng di chúc ấy từ giống nòi này (tất nhiên là có anh linh, hồn thiêng của núi sông phù trợ). Thế là tôi mang cái vốn lịch sử, văn hóa đó ra áp dụng cuộc bình giặc nguyên này mà làm sách lược để hưng đạo lại thôi vậy. Và đó cũng chính là thượng sách được dụng để giải kỳ thi Pháp Hoa Hội ngày ấy. Ta cùng ôn lại đoạn tiếp nối nhé:

CỬU LONG GIANG DẬY SÓNG BẠCH ĐẰNG
(Nối Nhị Vận...)

Vườn không nhà trống, phục dạ trống
Vô tự sách trời hạn khải mông…
Truy dấu rồng tranh mồi lữ điếu
Nã kỳ lân đoạt bẫy đồ nam
Quyền tinh mã tước vị thổ trĩ
Ngựa tiêu sương tuần mông hạn ảnh…
Độn hư tinh sau lưng huyền vũ
Trú dạ kê mão đợi…huyền vi…

Thế nên các bạn thấy hai câu đầu của bài kế tiếp là tôi triển khai mô phỏng theo chiến lược Nhà Trần như: “Vườn không nhà trống…”! Ý của câu này có nghĩa là không được mang theo bất kỳ thứ gì để xung trận cả!! Bởi “phục dạ trống” có nghĩa là nhịn ăn rồi vậy!!! Vì muốn bắt được giặc trời này, ta không được mang theo bất kỳ một công cụ hay phương tiện nào phòng thân cả, nói gì đến khí giới. Để mật phục được nẻo mà Tạo Hóa đi về một cách vô thường đó, nhất định phải tuyệt lương thực của chính ta nữa, mới may ra có thể không bỏ lỡ thời khắc cho được!

Và câu “vô tự sách trời hạn khải mông…”. Là thiên thư khải định; Kỳ hạn trong 49 ngày nhịn ăn đó, phải thâm nhập vào thế giới đó bằng cách tham thiền. Nhất định phải giải cho bằng được đề thi có tính mông lung, đong đầy những sự việc hư hư, thực thực này. Tất nhiên, ta phải tinh thông về hệ thống của 28 sao này mới được.

Vậy nên mới phải có sự việc là tranh mồi của ông câu họ Lữ (Lã Vọng) để dò theo dấu rồng. Đã thế tất nhiên cũng đâu nể mặt kẻ tiều Trần Đoàn với biệt danh Đồ Nam vào cuối đời cho được. Bởi nếu muốn tróc nã Kỳ Lân (Kinh Lân, là Khổng Tử) tìm manh mối Kinh Dịch, thì phải nắm lưng từ Trần Đoàn rồi vậy. Từ đó ta mới biết lý do nào mà Hi Di tránh bói dịch mà lại lập ra Tử Vi và Khảm dư. Khi dò xét được những uẩn khúc gì phía sau những sự thật đó. Ta mới có thể bày trận, mô phỏng bãi cọc Bạch Đằng khi xưa trong 4 câu cuối để phục “giặc Nguyên”… nơi cuối nguồn Cửu Long Giang hôm nay được. Khảo luận nơi này cho các bạn thấy được là: Việc làm mà Trung Quốc đắp thủy điện nơi đầu nguồn sông Mê Kông đó. Với chủ đích chính giấu phía trong đó là chặn long mạch, và tuyệt lương vùng đồng bằng cửu long chỉ là trò hề đối với cơ trời mà thôi.

Như tôi có từng nói qua cùng các bạn rằng: Ngựa Tiêu Sương lại chính là chiếc chìa khóa duy nhất có thể giải được Pháp Hoa Hội! Do ngày trước, tôi bắt được Tiêu Sương rồi bỏ về mất. Khiến không ai có thể giải được Pháp Hoa Hội cũng từ nguyên do lạ lùng này mà trời khiến ra như thế. Hễ không thuần được nó thì không qua cho được kỳ 1 rồi. Do vì không có nó làm chìa khóa “giải mã” khóa trời, thì cách gì để vượt qua kỳ 2 này cho nổi.

Do đó các bạn thấy ý đầu tiên là phải phục hồi lại địa vị vốn là của Tiêu Sương Mã khi xưa (quyền tinh mã…, tước vị thổ trĩ). Đó chính là nơi Nam Thiên Môn. Làm quái gì có chỗ cho Chu Tước đối với cửa trời đó bao giờ? Bởi khi xưa Tiêu Sương Mã đã thành ngựa hoang đi mất vào chốn thiên nhai. Thế nên Chu Tước mới có thể tiếm quyền mà trị vì nơi này. Khiến cũng không đủ khả năng để tri lý thiên mệnh cho được. Vị trí gốc của Chu Tước trước đấy, vốn tại sao Vị mà chim Trĩ đang đứng ở theo về phương tây của chòm sao Bạch Hổ. Thuộc chư hầu của sao Mão. Nơi đó mới thuộc về hệ của chu tước. Ta có thể xét thấy cùng tộc loại phả hệ đó như; Bao gồm loài lông vũ, có cánh là… Trĩ, Gà, Quạ… Thế nên Tước phải trả về cội nguồn đấy thôi. Còn vùng trời này lại thuộc bộ móng guốc đưới quyền Tiêu sương như: Ngựa, Lộc, Hoẵng, Dê… chẳng hạn.
Ẩn ý của câu này còn có nghĩa là tước quyền của chu tước lại mà phục hồi cho Tiêu Sương nữa.

Nay thì Tiêu Sương Mã đã được phục chức tại Ngọ Môn rồi. Thế cho nên ta mới nhìn thấy được là; “Ngựa tiêu sương tuần mông hạn ảnh…”! Có nghĩa là lúc này thì Tiêu Sương mới có thể đường đường chính chính mà đi tuần quanh vòng trời… để xem xét các nẻo đóng mở huyền vi của khóa tạo cho kịp thời khắc được. Ta lại có thể thấy sự việc sau đó là bày thế trận phục giặc nguyên như phép độn hư tinh sau lưng huyền vũ vậy. Cắt đặt xong xuôi đâu đấy rồi, lại phải tìm nơi để ẩn nấp, dấu mình đi (trú dạ)…, chờ thời khắc huyền vi, thiên cơ tỏ lộ mà rơi vào bã mồi, bẫy rập giăng sẵn, chờ giặc nguyên vậy…

Lại còn có một sự thật làm kinh hãi đối với mọi quan điểm tư duy xưa nay hơn nữa là: Khi ta tham thiền vượt qua giới hạn của sự đồng nhất cùng tạo hóa rồi thì: Ta phải đủ đức tính công bình thì mới có thể đủ để tranh luận cùng các đấng tối cao về chân lý và sự thật cho được. Bởi vì các đấng yêu cầu nhất định phải tìm cho bằng được; Bởi lý gì mà khiến nên đạo phải bị che khuất như thế. Bắt buộc phải đưa quan điểm ra để mà tranh luận cùng các đấng đó. Cái sự gặp được các đấng để lạy cầu cứu vớt, van xin sự thương xót đã khó có ai đến được. Tưởng tượng sao cho nổi đến việc tranh cãi cùng các đấng đó nữa. Mà một khi đã tranh cãi cùng Tạo Hóa, tuyệt không có chuyện cãi ngang, cãi cố như thế nhân xưa nay bao giờ cả. Cãi không được, các vị vật cho ra bã chứ không có chuyện bỏ ngang hoặc buông xuôi dở chừng bao giờ đâu. Lỡ một câu là chết ngay, không có chuyện qua mặt một mảy may gì ở trước mặt Tạo Hóa hết. Cho dù chỉ mới là mống ý tận ở trong hồn linh cốt tủy vừa khởi ý niệm.
Rồi còn biết bao những thử thách của các đấng mang tính thách đố chứ không hề còn là sự dìu dắt hay nâng đỡ gì ở đây nữa rồi. Và…, bất khả thuyết nữa…

Nó thể hiện như bài thi này là tôi đang tạm lướt sơ qua cùng các bạn những gì có thể như ở trên đây mà thôi. Các bạn phải tự tìm đến còn biết bao giá trị ẩn tàng rất huyền vi trong đó nữa. Điển hình dẫn chứng thêm một ẩn ý cuối nữa. Để khép lại bài viết này như:

Hội này cũng lại là Hội Ngọ nữa. Một độ mông hạn ảnh, lại có 9 năm cả thảy. Vậy Tiêu Sương phải cất vó đi tuần từ Ngọ Môn Quan. Điều này có nghĩa là năm 2014 là cuộc của Tuần Giáp Ngọ! Tính 9 năm nữa là vừa tới 2023!! Như thế thì Tiêu Sương Mã đang tuần đến nay 2018 là đầu năm thứ 4 rồi. Còn 5 năm nữa mà thôi. Ta Trú Dạ…Kê, mà đợi huyền vi xem sao nhé… Nên nhớ theo như tôi tả thì một nước đại là 3 năm! Vậy từ Giáp Ngọ Tuần đến 2017 này là vị trí của Dậu, đã qua một nước Mã và đang nghỉ tại Dịch Trạm. Ta mới trú dạ Kê, cũng là vị trí của sao Mão Nhật Kê trong bộ Bạch Hổ trên đồ hình. Thế mà vẫn chưa một ai có thể hay biết gì đến, lại còn cứ nói ngông về thiên cơ. Trời vẫn đang còn tăm tối quá, đang còn chờ gà gáy sáng để tỏ lộ thiên cơ dần ra thôi vậy.

Thế nên ta mới giật mình thấy cái “Vành Móng Ngựa” của Tiêu Sương Mã đang xét sử tất cả mọi án oan khốc từ ngàn xưa nay rồi đấy. Lại còn những kẻ mù bẩm sinh, thỉnh thoảng tạt vào ném đá thẳng tay nữa chứ!!!
Quả là…; Biển Mê.


66 - THIÊN HOA HỘI!

Tưởng, trước khi nhắc lại kỳ thi Thiên Hoa Hội. Tôi cũng lưu ý thêm cùng các bạn là: Thật ra trong kỳ Pháp Hoa Hội thì trước đó là phải nhịn ăn 49 ngày để bày binh bố trận rồi. Thế nhưng sau đó ta mới có thể phát hiện được ra những giá trị của sách lược cũ là không khả thi!? Những học thuật từ Kinh Dịch, Kỳ Môn, Bát quái v.v… nói chung. Chỉ có thể dụng được đối với thế nhân mà thôi (nhất là hệ thống Nhị Thập Bát Tú). Tất nhiên những sai sót trong đó cũng không ai biết, vì không thể lĩnh hội tới cho nổi. Cho nên khi ta áp dụng vào cõi Trời là không có giá trị gì hết cả!

Sau 49 ngày đó, buộc tôi phải dội ngược trở ra. Tôi chỉ có khoảng thời gian 1 tháng để dưỡng sức và kiểm tra lại toàn bộ học thuật cũng như bố trí lại (kiểm điểm binh mã). Rồi còn tiếp tục thâm nhập 49 ngày lần thứ hai vào thế giới đó mà thi thố nữa. Vị chi, 3 kỳ thì tôi nhất thiết phải thực hiện 6 lần nhịn 49 ngày như thế cả thảy (đủ lục cõi). Chỉ tính riêng hai kỳ cuối liên tiếp này thôi. Tôi phải thực hiện 4 lần như thế mới đủ. Bởi một lần là hết 2 tháng rồi. Nghỉ 1 tháng để hồi sức mà tiếp tục lâm trận ứng thí. Như thế, cứ mỗi lần là xong một Mùa. Trung bình, 1 năm là 4 mùa có 360 ngày. Tôi vì tìm lẽ công lý mà quyết tìm cho ra những uẩn khúc của Đạo, đã phải nhịn ăn hết 200 ngày để dự thi trong thiên trường rồi vậy (thực tế là nhịn tương đương 240 ngày đấy). Quỷ Thần ngày đó cũng phải kinh hãi, duy chỉ có con người là xem thường trong sự u minh và đố kỵ chung mà thôi. Thế nên mới có câu Pháp Luân Thường Chuyển. Điều này có nghĩa là phải luân chuyển Pháp đó trong cả 4 Mùa của một Năm. Sao có chỗ cho cái gọi là .... .... .... lạm danh Pháp nhà Phật mà gây rối giữa chợ đời như thế cho được.

Các bạn cứ tạm biết qua như thế nhé. Chúng ta tiếp tục vào đề thôi:

Trong một lần, tôi đang ngao du ngoạn cảnh thiên trường trong trạng thái tham thiền nhập định… Tôi vẫn không hiểu Tạo Hóa lá lay làm sao, khiến tôi lạc vào hội hoa đăng mà trời đất đã giăng sẵn lúc nào không hay biết!? Do đó bài thi mới có câu mở đầu là…; “Lạc giữa muôn trùng Hội Hoa Đăng!”. Các bạn cũng thấy rằng kỳ 1 thì giải bằng 1 bài thi cho thượng nguyên. Kỳ 2 thì phải 2 bài là trung nguyên. Tất nhiên kỳ 3 này cũng phải đến 3 bài mới giải nổi được cuộc thế của hạ nguyên cuối cùng này.

Ta phải biết Trời đất mở Hội Hoa Đăng này, vốn ý là cho Thần Tiên khắp lục cõi dự lãm và “bình Hoa xem danh Hoa nào là Hoa Hậu!”. Ban đầu, ý Tạo Hóa chỉ đơn thuần có thế thôi. Cứ tưởng bở cho những gã quen tính lãng du, ngạo mạn như tôi chen chân mà học đòi dự lãm theo tục thói lúc nhàn rỗi. Nào ai ngờ được đó lại chính là cái bẫy rập của Thợ Tạo giăng ra như thế!

Cho nên kẻ mù bẩm sinh như tôi mới đua đòi mà “múa rìu trước mắt Thợ Tạo” như sau:

THIÊN HOA HỘI !
(KỳIII ; Tam nguyên)

Lạc giữa muôn trùng Hội Hoa Đăng
Mỗi mùa một vẻ hàm phong hằng
Mai lan cúc lựu phong ngôi hậu
Cầm kỳ thi họa đủ gió trăng.

Ở đây tôi không bàn những ý mà các bạn đã biết như Mai hòa tiếng Cầm của mùa Xuân mà khởi nhịp. Lan thì bày Kỳ thế của Mùa Đông cùng chung cuộc. Cúc vận ý Thơ cho thi sĩ thả hồn vào Thu cõi. Và sắc Lựu với nét Họa của trời Hạ, là gam màu điểm tô cho bức tranh của tạo hóa. Tùy theo đặc tính của bốn mùa trong đó mà hòa nhịp theo xuất xử cho đúng thời dụng. Mà tôi chỉ bàn đến cái ý tiềm ẩn của Hoa Hậu trong đó như sau: Như đã nói một năm có tất cả 6 khí, 24 tiết và 72 hậu trong đó. Chia ra một tiết có 3 hậu. Vậy một hậu là 5 ngày.

Thường thường thì vào đúng ngày thứ nhất trong một Hậu của 5 ngày đó vừa đến. Nếu Hoa nào nở đúng lúc mà khí, tiết và hậu đó chuyển giao đến thì được gọi là Hoa Hậu. Bởi vì Hoa này khai hoa nở nhụy chỉ chọn đúng vào thời điểm đó mà thôi. Nên mới gọi là Hoa chủ của Hậu đó, đồng thời cũng được bầu chọn là Chúa của muôn Hoa khác. Bằng như Hoa nào nở vào ngày thứ 2 và thứ 3 thì gọi là Á Hậu. Kỳ dư mà nở vào những ngày cuối của Hậu đó thì chỉ là Hoa tạp mà thôi. Tuy có sắc, hương nhưng vốn chỉ là hữu danh mà không có thực. Và đó cũng là lý do tại sao người đời cứ gọi là Hoa Hậu mà ít tai hiểu thấu đến nguyên lý này. Các nhà tổ chức thi Hoa Hậu lưu ý nguyên lý này mà xem xét Hoa Hậu nhé. Chớ có mà bình chọn Hoa Hậu lung tung mà không biết nguyên lý nền tảng nào của tự nhiên để mà dựa vào xem xét tiêu chí để bình Hậu đấy. Bởi muôn hoa là đều có hương sắc như nhau cả, nào biết phân hơn kém ở nét phô bày ra bên ngoài cho được. Nhất định phải dựa vào mô hình tiềm ẩn tự nhiên mà tạo hóa đã chỉ định giá trị của Hoa Hậu mới được. Không khéo chỉ được nước diễu hề cho thiên hạ bên cạnh ngọn lửa có tên scandal mà thôi.

Trên nền móng của tư duy, lại còn bày đặt thiết kế rắc rối như thế này để đủ được gọi là nghệ thuật nữa: Sở dĩ Hoa Mai được liệt vào hàng cao quý nhất để đại diện cho đầu năm mới là bởi đạt được 5 tiêu chí như:

1. Thân vốn mảnh mai, nhưng không cuốn theo chiều gió.
2. Không gặp thời không trổ hoa.
3. Nếu đã trổ, rũ bỏ tất cả lá cũ trên thân không giữ lại gì.
4. Một khi trổ thì phát tiết hết một lượt, không lác đác trước sau.
5. U hương!

Đó là 5 đặc tính có thể được liệt vào hạng dị mộc mà không một loài Hoa nào có được để xét tiêu chí đề cử. Bởi 5 điều kiện đó tượng trưng cho thấp thì kẻ sĩ, quân tử. Cao là hàng Thánh nhân khác thân phàm, Thần Tiên thoát tục cốt khi:

1. Thân tuy là cổ thụ nhưng cành lá lại rất mảnh mai. Phàm, thời thế khi gặp trái gió trở trời gây bão tố. Ắt thân cổ thụ phải gãy đổ, phận mảnh mai phải ngã rạp. Khi không gặp Thời, thân Mai không vì thế mà gãy đổ hay phải chịu cuốn theo thời thế mà xu hướng ra cuối lòn.
2. Mà hễ đã không gặp thời, chấp nhận thân phận chìm đắm, khẳng khiu trong giá lạnh. Nhất định không chịu trổ tinh hoa ra bên ngoài để mà khoe sắc cùng thế nhân làm gì cả.
3. Bằng như một khi đắc thời thì rũ bỏ tất cả mọi vặt vãnh oán thù cũ trong tâm mà không màng lưu giữ lại hay nhắc đến làm gì.
4. Đồng thời một khi đã trổ tinh hoa với đời. Tất phải phát tiết toàn bộ tinh hoa ra hết cả một lượt mà lưu danh sử sách muôn đời. Không hề có chuyện lác đác cái trước, cái sau như thói thường của muôn loài bao giờ.
5. Và đặc tính cuối cùng đó chính là “U Hương”!!! Chà chà…, chỉ xét mỗi đặc tính này cũng đã đủ hết bút mực rồi đây. Vì Hoa Mai vốn không có mùi hương như các loài hoa khác. Thế nhưng đặc tính hương của Hoa Mai lại vốn là một loại hương tiềm ẩn rất kín đáo, rất khó mà nắm bắt cho được!

Ví dụ: Khi ta ngồi trầm tư một mình trong đêm, chờ thời khắc giao thừa bên cạnh nhánh Mai. Bất giác, ta bắt gặp hồ như có mùi hương rất lạ quanh quất đâu đây!? Ý hương quyện nét thanh cao với hương trầm như có, như không…, thoảng qua rất khẽ!? Ý thức cho ta biết chắc đó chính là hương của Hoa Mai chứ không hề là mùi hương của bất kỳ một loài Hoa nào khác được. Thế nhưng khi ta kề mũi lại gần cánh hoa mà tìm cũng không thấy mùi hương ấy ở đâu cả!! Có cố công dò tìm đến mấy cũng không cách gì bắt gặp cho được nữa. Chán, rồi quên đi… Bất chợt, một lúc nào đó…, mùi hương Hoa Mai lại dường như phảng phất một cách rất đặc trưng và phiêu diêu lạ thường!!! Thế nên mới gọi đặc tính riêng loài hương đó của hoa mai là U Hương.
Và đặc tính này đã được sánh với những bậc Thần Thiên thoát tục rồi vậy. Không phải ngẫu nhiên mà Hoa Mai được chọn làm Danh Hoa đứng đầu cho năm mới bao giờ cả. Đó cũng là những gì mà Nguyễn Du tức khí thoát ra như: “Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa” vậy. Kẻ ngông cỡ như Thánh Quát cũng đành phải thốt lên: “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”!!!

Để các bạn không cho tôi là kẻ chỉ được nước tán quá lên như thế thôi. Tôi lại phải đơn cử một điển hình nữa. Cũng từ trong bài thi Thiên Hoa Hội này là: Hoa Sen của Nhà Phật! Chúng ta lại tiếp tục tán từa tựa như Hoa Mai tiếp nhé. Lưu ý, chớ có nghĩ là photocoppy từ bản sao của Hoa Mai. Mà là đặc tính riêng, đồng thời cũng là 5 tiêu chí làm nguyên lý của nghệ thuật nơi đỉnh cao của tư tưởng mà ra cả.

Vậy sở dĩ Hoa Sen được liệt vào hàng cao quý để tượng trưng cho Nhà Phật là cũng sở đắc được 5 tiêu chí mà không có bất kỳ một loài hoa nào đạt tới được như:

1. Gần bùn mà không nhiễm mùi bùn.
2. Tuy có chung một gốc, nhưng Hoa và lá tách riêng từ dưới mặt đất.
3. Ong bướm không bu đậu.
4. Tính nhân quả đồng thời.
5. Người đời không dùng để trang điểm.

Đó là lý do tại sao Hoa Sen lại được chọn và biệt riêng cho nhà Phật. Ví dụ:
1. Tiêu chí thứ nhất thì chúng ta đã quen nghe là gần bùn mà không hôi tanh. Điều này được tượng trưng cho những bậc theo đạo pháp nhà Phật. Cho dù cùng sống chung với thế nhân hàng ngày mà vẫn không nhiễm những thói vui tục lụy mà gây nên lạc đạo đi được. Tuy tưởng như hòa cùng dòng đời ngàu đục vậy, thế nhưng đạo hạnh tuyệt nhiên vẫn trong biếc như mắt Phật (dù có uẩn nét u uất).
2. Tuy rằng Chùa nào cũng đọc tụng chung một tạng Kinh Phật. Cũng đồng thờ Phật, cùng một giáo pháp như nhau cả. Thế nhưng tư tưởng, quan điểm lẫn hành vi, đạo hạnh của Trụ Trì lẫn Phật tử lại hoàn toàn có khác biệt với Chùa khác, phật tử khác!
3. Xét tiêu chí thứ 3 này là nói lên sự nhân quả đồng thời. Với ý này thì các bạn đã hiểu, tôi không bàn đến. Chỉ bàn nghĩa đen tưởng chừng rất đơn giản của nó mà không ai màng biết đến là; Các loài Hoa quả khác. Khi trổ hoa, tàn đi rồi mới có thể kết quả được. Lại phải chờ cho quả lớn lên mới hình thành Hạt (nhân) ở bên trong. Thế nhưng ta xét thấy Hoa Sen vừa mới nở Hoa là lập tức có Hạt ngay trong nhụy hoa đó đồng thời ngay rồi! Và trời cũng khiến nên gọi đó là “Gương”!!! Thế nhưng người đời cứ gọi một cách vô thức chung về cái gương soi tính nhân quả đồng thời của hoa sen đấy mà không lĩnh hội nổi được.
4. Về Hoa Sen thì lạ một điều là ong bướm không bu đậu để hút nhụy hoa bao giờ cả! Ẩn ý này thì có nghĩa là nơi đất Phật dựng Chùa. Nam Nữ, trai gái không dám bén mảng đến để nghêu ngao câu ca…, “ong bướm vờn bên hoa…” bao giờ.
5. Cuối cùng là người đời không dùng để trang điểm... “!?”.

Thế nhưng…; Xã hội hôm nay. Các bạn tìm xem những ẩn ý trong Hoa Sen của Nhà Phật có còn không? Hay đã lụy nhiễm đầy thói tục mà thất lạc hết đi cả rồi!? Ta cứ việc dò nơi không chữ theo Sen Ý, mà Nhà Phật đã tiềm ẩn để ám chỉ Phật tính thực sự trong đó xem. Hiện nay ý đạo có còn hiện diện quanh đời nữa hay không. Hay đã mạt pháp từ bao giờ rồi mà thế nhân còn chưa có thể biết đến cho nổi. Ví như hiện nay Chùa mà thế nhân ào ào kéo đến, tất phải kéo theo ong bướm bu đậu rồi. Lời ong, tiếng ve ắt lẫn lộn mà nổi lên. Từ đó tất sẽ sinh ra thi nhau trang điểm mà cạnh tranh, trang hoàng chùa hoành tráng lên cả thôi. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến mọi phát sinh phải có rồi vậy. Bởi trong Chùa đã có nhiều vật quý vời lòng tham, gọi kẻ trộm đến. Bất hạnh thay cho kẻ lãng du, tha phương tìm đạo nào vãng lai đến sân chùa khi đấy. Các chúng phật tử ắt không khỏi rời ánh mắt nghi ngờ, dò xét bủa vây kẻ bất hạnh lạc bước vào đất Phật…

Đạo, Thật khó! Bởi một khi thế tục chen chân khắp nẻo đi về, thì đó không phải là đất Phật nữa rồi. Thôi, ta cứ tìm trong Hoa Sen mà gẫm về đạo lý hôm nay cũng đã đủ để biết đạo có còn trong ý sen hay không.

Chúng ta lại tiếp đến 4 câu cuối để kết thúc bài viết này nhé:

Sắc hương hư ảo, phục hoa thuốc
Một mai góp người buổi không chăn
Hướng dương hoa quỳnh kiền thược dược
Phân ly khôn sầu khảm hoa ngâu
(Hạ nguyên nhất vận thi)

Bất chợt lúc đó trong tôi bỗng thoáng động lòng trắc ẩn rằng: Thay vì bình Hoa như thế, chẳng qua chỉ được hương sắc thoảng qua cho đời chiêm ngưỡng trong nhất thời không thôi. Chẳng bằng ta cứ bình Hoa nào ngoài hương sắc, còn có giá trị tiềm ẩn vị thuốc trong đó nữa. Ngộ khi mai này còn đỡ đần được những kẻ sa cơ, đói lạnh trong tật bệnh có hơn không? Thế nên hai câu cuối kết thúc với sự xuất hiện của 4 Danh Hoa khác vào ngôi Hậu như Hướng Dương, Hoa Quỳnh, Thược Dược và Hoa Ngâu!

Ta xét thấy Hướng Dương đích thị là Mùa Hạ bởi cái lý dương tính kiêm cả dược tính đó. Vậy cái nghĩa đối lập đại diện cho Mùa Đông, ắt phải là Hoa Quỳnh mang âm tính đi rồi còn gì. Tuy hai danh hoa này còn đang so kè nhau về dược tính âm dương thì bất chợt phải kiềng nể đối với sự hiện diện của Hoa Thược Dược nữa! Bởi Thược Dược còn có nghĩa là đang sở hữu “chìa khóa thuốc” trong đó kia kìa!! Trong bối cảnh so kè phân chia ngôi vị Hoa Hậu như thế cùng nhau thì… Hoa Ngâu âm thầm khóc cho sự chia rẽ, phân ly đó mà ít tai ngó ngàng đến đạo lý đang còn đong đầy oan khúc nữa. Bởi duy chỉ riêng có Hoa Ngâu là rất nặng lòng cùng nước mắt chia ly của chàng Ngưu và nàng Chức, mỗi khi Thu về âm thầm trong đêm tháng 7!!!

Tuy nhiên trong bài thi đầu tiên này. Đã có bạn đọc nhìn ra được tôi đã có gửi gắm Dịch Lý trong này với các quẻ như: Quẻ Hàm, Phong, Hằng trong câu thứ 2. Bởi ý nghĩa “Mỗi mùa một vẻ hàm phong hằng” có nghĩa đơn thuần là mỗi danh Hoa, ngoài đại diện cho mỗi mùa. Còn có ẩn chứa (hàm) đầy tình gió trăng (phong và hằng), ấp ủ bên trong nét e thẹn của độ dậy thì đó nữa. Những giá trị đạo lý của trời đất này còn cất giữ (hàm), che giấu (niêm phong) thường hiện hữu (thường hằng) suốt ngàn xưa qua mãi mãi mà không mất đi được.

Lại tiếp đến bốn câu cuối với các quẻ như: Phục, Kiền, Khôn, Ly, Khảm. Với toàn ý thì Kinh Dịch khởi ở Thượng Kinh với hai quẻ Kiền Khôn, và kết thúc với hai quẻ Khảm Ly vậy. Thế nên bài thi đầu cũng kết thúc theo cùng với nguyên lý đấy nơi câu cuối.

Đó cũng chỉ là sơ ý trong rất nhiều ẩn ý còn tiềm ẩn thâm sâu trong bài thi Thiên Hoa Hội này nữa các bạn ạ! Tôi nói rồi đấy. Kỳ 1 vốn đã khó như thế để Thuần Tiêu Sương. Kỳ 2 lại càng khó hơn thế gấp nhiều lần. Vậy kỳ 3 càng không thể hình dung diễn biến sự việc cho được rồi. Tóm lại; Trời đã chấp nhận tôi đã vượt qua đủ cả 3 đợt sóng thử thách trong lãnh thiên đó. Không hề có sự lầm lẫn gì ở đây đối với Tạo Hóa bao giờ cả.

Việc đấy; Có Trời biết, Đất biết, Quỷ-Thần biết. Dĩ nhiên tôi cũng biết là như thế. Thế nhưng, từ ngày đấy cho đến nay. Thế nhân vẫn cứ không chịu như thế cơ!!!

Dù tôi có nên khóc hay nên cười. Vẫn cứ ra nước mắt thật đấy các bạn ạ!!!

.

67 - THIÊN HOA HỘI TIẾP Ý
Các bạn theo dõi thấy trong nữa đoạn đầu của bài thi Thiên Hoa Hội đó thì 4 danh hoa Mai, lan, Cúc, Lựu đã chiếm ngôi Hậu đại diện cho 4 Mùa trong đó rồi. Thế nhưng trong đoạn cuối thì tất cả đều nhường khoe hương sắc trước cái gọi là Nhân Đạo, khi đề cao dược tính tiềm ẩn trong dáng hoa.

Thế nhưng trong lúc mọi loài đang kiềng nể cái “chìa khóa thuốc” mà hoa thược dược đang sở hữu thì lại rất lấy làm lạ lùng chung trước hoa Ngâu! Bởi nét đẹp của hoa ngâu vốn lại là cái đẹp lẵng lặng, trầm mặc, sầu bi đến não nùng!! Vì nét đẹp dị thường đó chỉ thể hiện bằng cách thi nhau “rụng tơi tả” theo mưa tháng 7 Trước sân Chùa mà thôi!!! Một điều mà muôn hoa rất ám ảnh khi một mai phải rơi rụng thân hoa vì mưa gió… !!! Điều oái oăm này khiến nên trời cũng phải mượn danh của hoa để đi vào ngôi đền của thi ca với hiệu Mưa Ngâu mà lay động bao con tim phải thổn thức. Thậm chí ngay cả cán chổi trên tay của Tảo Địa Tăng, cũng phải ngập ngừng…, một khi lướt đến gần những cách ngâu rơi.
Lại chính điều này đã dẫn những tấm lòng của nhân đạo đi thẳng vào thiên đạo.

Thế nên; Khi tư duy của muôn loài đang trầm tư bên sân Chùa, chợt…; “Hốt ngộ dược vương hoa sen trắng”! Vô sắc Phật phong tiệm trong đầm”. Vì trước sân Đình, Chùa. Nơi mà hoa ngâu thường chọn làm nơi định xứ địa phương đó. Vốn lại là lãnh địa của Hoa Sen. Tượng pháp của nhà Phật còn có tên là Dược Vương… Bồ Tát nữa kia!!! Xá gì chỉ là chìa khóa thuốc mà đã gây ngơ ngác cho sự đua đòi của muôn hoa quen thói tục. Một loài hoa mà Phật đã sắc phong để ẩn ý đạo trong đó. Cái ẩn tàng sâu xa hơn của ý đạo là buộc ta phải nhìn thấu sắc tinh khiết của loài sen trắng rất hiếm nữa. Một “bạch tượng vương”… bồ tát!!!

Thế nhân chúng ta không một ai đủ để lĩnh hội cho nổi ẩn ngữ tuyệt đỉnh của Pháp Ngôn nhà Phật với: Người quan sát là ẩn ý chỉ vị trí của Quán Thế Âm! Và vật bị quan sát lại chính là là “Địa Tạng Vương”!! Kẻ tục đòi nào nếu muốn tìm đạo. Nhất định phải liễu ngộ pháp Ngôn ẩn tàng này. May ra đủ phúc, đức để mượn cái phương ngôn, tiện ngữ này của nhà phật mà đứng vào vị trí đấy, trầm tư mặc tưởng đối với thực tại đạo.

Khốn thay! Thực tế là hễ khi nghe nhắc đến một trong hai danh hiệu này thôi. Tất cả thế nhân đã cuối đầu, dập lạy hơn tế sao ngay tức khắc. Lấy đâu dám suy sâu hơn nữa cho được. Kiếp nào mới có thể mong đến việc cùng đồng nhất trong hai điều kiện đó để còn quan sát đạo mà biết thực tại cho được đây? Ta nhất thiết phải hội đủ hai điều kiện như thế đã. Hẵng nói đến chuyện quan sát vạn vật bị quan sát trong thế giới Phật Pháp để đủ bắt đầu tập nói đến hai tiếng “Khảo Kinh”.

Ấy vậy mà…, Hoa Sen trắng chỉ; “… Tiệm trong Đầm” vắng mà thôi. Dĩ nhiên khi hốt ngộ điều này, muôn loài hoa phải im bặt ngay tức thì mọi ý nghĩ nào mộng tưởng đến ngôi Hậu trong kỳ mở Hội Thiên Hoa này. Cái nghĩa tưởng chừng của “ngàn hoa” (thiên hoa) trên tiêu đề, trong sát na đã hóa thành “hoa trời” từ khi nào rồi vậy?! ( khoe “Sắc hóa Không” sắc).

Nếu xem xét dưới lăng kính quan sát của nền khoa học thì; Hễ cứ mỗi khi xuất hiện một Hạt. Ngay lập tức không - thời gian đó phải xuất hiện một “ sự khó chịu” được gọi là “Anti” liền theo để so sánh nữa! Thế nên các bạn thấy phải xuất hiện…; “Phúc âm, Hoa Huệ ngoài đồng vắng. Nhiệm mầu Chúa hằng ví Sao Sâm” như trình bày dưới đây:

Hốt ngộ dược vương hoa sen trắng!
Vô sắc Phật phong tiệm trong đầm
Phúc âm hoa huệ ngoài đồng vắng…
Mầu nhiệm Chúa hằng ví sao sâm.

Trên đây là 4 câu đầu trong bài thi thứ hai của kỳ thi Thiên Hoa Hội mà các bạn cũng đã từng biết qua rồi. Nếu như sắc trắng trong khiết của loài sen ở đất Phật được pháp hóa thành Vô Sắc! Thì màu trắng tinh khôi của cành Hoa Huệ nơi Vườn Chúa phải được phép tạo ra là Nhiệm Mầu vậy!!! Một cặp đối lập gây kinh ngạc đến sững sờ trong bức tranh trừu tượng của tạo hóa mà loài người không thể thưởng lãm tới nổi. Những điều này chỉ có triển lãm trong “hội hoa đăng” của trời đất mà thôi. Lại một lần nữa, tôi ý thức rằng; Kẻ mà còn vương đầy bụi trần trên gót tục như tôi đây. Được lạc vào hội hoa đăng này, quả là đại phúc ngàn đời mà tổ tiên giống nòi Việt tích lũy sẵn, may được thừa hưởng dư khí mà thôi. Thế nhưng sự việc ở đây mà tạo hóa đang đặt ra và đòi hỏi là phải bình cho được; Loài Hoa hoa nào mới là Hoa Hậu. Trời đất nào phải mở hội này ra chỉ để “cưỡi ngựa xem hoa” đơn giản như thế cho được?!

Ý thức thực tại lay tỉnh kẻ đang say mộng tưởng về hội hoa đăng trong tôi. Thôi chết! Thiên la địa võng đã bủa vây hết cả rồi. Tạo Hóa đã giăng bẫy rập khắp lối thiền quán mà giam chân kẻ tưởng bở trong thiên trận mất rồi vậy. Vì mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn, bất chợt hiển lộ tất cả trước mắt của tôi rồi. Bởi trước đã lầm tưởng rằng mình đi lạc vào hội hoa đăng. Đâu có thể ngờ là thiên hoa hội tụ, cốt là để trời đất bình hoa vào “Cuộc Hậu” bao giờ. Tưởng đơn giản rằng chỉ xét trong 1 hậu để chọn Hoa thôi. Cao tay hơn nữa thì 1 Tiết lại có 3 Hậu đề cử tranh hương sắc. Vậy một tháng có 2 Tiết, vị chi là 6 Hậu có Hoa Chủ. 3 tháng vào một Mùa là 18 Hoa Hậu tranh tài. Ngôi Hậu của xứ đó kiêm 18 chư hầu rồi. Vậy 1 năm trọn thì có đại diện 4 ngôi Hoa Hậu cho tất cả 72 hậu của một năm. Hoa Mai là Chúa Xuân mất rồi. Thế nhưng đấy chỉ là việc của người đời thôi. Còn việc của Trời nữa, mà trời ở đây có nghĩa là đạo rồi vậy. Và Hoa Sen xuất hiện, nhưng sự việc rắc rối xảy ra là còn có Hoa Huệ nữa! Sự việc không ngừng diễn biến phúc tạp đến độ; Đạo của tạo hóa buộc phải bình ngôi Hậu tuyệt đối, bởi ngôi Hậu chỉ có 1 mà thôi. Thế nhưng ở đây là đạo, là Chúa và Phật!!! Chết đuối cho quan điểm trung hòa của tôi đi rồi vậy, lại thêm kéo chìm đắm cả tư tưởng xuống vực sâu vô tận của ý thức luôn một thể.

Bởi vì sao lại có chuyện phải phân cao thấp giữa đạo như thế cho được!? Thế nhưng mục đích của cuộc thi Thiên Hoa Hội vốn là như thế. Có trở lui cũng không được, tiến cũng không xong nữa rồi. Suy không thấu ý của tạo hóa cho được trong lúc đấy. Trong khi quan điểm của tôi đến lúc này vẫn dung hòa giữa Chúa Jêsu và Phật Thích Ca. Hai vị vẫn là đấng sinh thành của nhân loại đấy thôi. Bởi tôi thấy rất rõ Chúa là ba ngôi, là vô cùng, là luân lý, là hòa hợp là v.v… Phật lại tam bảo, lại vô biên, lại luân hồi lại đồng nhất và những v.v… hơn nữa. Có ai đã khác gì nhau đâu. Cả hai cũng đều dùng một pháp 49 ngày đâu khác. Nếu hoa huệ nhà Chúa có 7 phép bí tích thì hoa sen của Nhà Phật cũng thể hiện 7 pháp liên hoa kia rồi! Thế nhưng hội Thiên Hoa này đòi hỏi phải phân cho bằng được giữa Hoa Sen trắng với Hoa Huệ trắng, hoa nào đắc ngôi Hoa Hậu mới được!!! Vậy ai mới là người có khả năng làm việc đấy cho được?! Không thể rồi vậy. Ta xem tiếp đoạn cuối của bài thi này như sau:

Bảy phép thất diệu ai phân đặng?
Đồng nhân tùy tụng kẻ công bình
Bĩ thái thanh minh nguyên trinh thắng
Trắng dạ bạc đầu bình tống, chiêm…

Cuối cùng là thống nhất phải tìm cho bằng được kẻ nào đủ tính công bình để xét xử vậy thôi. Với tiêu chí Hoa nào đủ những đức tính cao nhất trong Kinh Dịch như Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh sẽ thắng và đắc ngôi Hậu vậy. Thế là các bạn biết trời bắt đầu khảo đảo, hành hạ tư tưởng, vật cho ra bã… Thế nên ta xét thấy trong câu cuối khép lại với hình bóng của một kẻ thức trắng đêm, suy gẫm đến bạc cả đầu. Lục tung tất cả tinh hoa dịch lý nơi đỉnh cao nhất là thời Tống để Bình xét và Chiêm đoán mà phân cao thấp… Câu này còn ẩn ý là lại lấy điển tích thời Nhà Lý “bình Tống phạt Chiêm” để chuyển ý sang đề bài thi cuối.

Bởi vì nếu để tìm ra cho được một vị quan án đủ đức công bình tiêu biểu xưa nay để xét những cuộc chia rẽ đầy oan khốc thì có: Lịch sử của Dân tộc Do Thái trong Kinh Thánh với Salomon từng xử vụ án chia đứa bé ra làm hai cho hai bà mẹ. Ấy! Lịch sử của Dân tộc Việt Nam cũng đâu chịu nhường con cái của Chúa với Tô Hiến Thành vẫn đã từng tiếp nhận vụ án như đúc từ một khuôn của thợ tạo ra như thế đâu!? Thế cho nên các bạn lại phải theo dõi tiếp những diễn biến ẩn ý gì trong bài thi thứ 3 rồi vậy.

Trở lại xét toàn bài thứ hai này thì các bạn vẫn thấy tiềm ẩn cũng đầy quẻ Dịch trong đó như; Quẻ Phong, Tiệm, Đoài (đầm) trong câu thứ hai. Tiếp đến đối lập bên Chúa với quẻ Hằng, Chấn (Sâm). Ở đây thay vì tôi chuyển vần là Sấm thì sẽ hợp với vần Đầm ở trên kể cả lý lẫn ý và quẻ Thuần Đoài và Thuần Chấn gói trong đó. Thế nhưng tôi đã dụng câu Sâm để gần với Sao Sâm, Thương để nói lên ý chia ly, đuổi tìm nhau không bao giờ gặp. Điều đó sẽ gợi nhớ đến sự chia của ngưu lang chức nữ hay Chiến Thần Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ thuở xưa vậy. Tuy nhiên cả hai Sao Sâm và Thương lại vốn chỉ có một mà thôi. Đó là ý riêng của chữ Sâm.

Đến khi thống nhất kiện cáo thì các quẻ kiện tụng và quan án công bình xuất hiện theo như: Quẻ Đồng nhân, Tùy, Tụng… Phải làm cho minh bạch với các quẻ Bĩ, Thái… và nguyên, trinh (hanh, lợi)… Còn có ẩn ý đến sự trinh nguyên của loài hoa trắng tinh khôi nữa.

Các bạn cũng biết Lý Thường Kiệt chỉ một đêm nghĩ kế phá giặc Tống mà sáng ra đã bạc trắng xóa cả mái đầu rồi đấy. Thú thật. Tôi đã từng rơi vào hoàn cảnh cũng như tình huống “nhất dạ bạch phát sầu” này rồi. Từ đó nên mới có thể cảm được nổi sầu thiên cổ đó cho được. Đó chính là trong kỳ thi Long Hoa Hội của mười mấy năm về trước. Khi dứt cuộc, tôi xuống núi… Bất chợt người dân chài dưới ven chân đảo trên biển, đều nhìn tôi rất kinh ngạc và thốt lên: Chắc ở trên động, Ma nhát dữ lắm hay sao mà bạc hết cả đầu nhanh vậy!? Tôi cứ ngỡ mọi người đùa vui thôi. Thế nhưng gặp ai họ cũng đều nói như thế cả!! Không khỏi ngạc nhiên, tôi mượn cái gương soi lên mái tóc xem thử. Lúc đó tôi mới ngỡ ngàng hết cả! Không ngờ quả thật là trong 49 ngày vừa qua trên động thiên thai. Không biết những lúc động não để trầm tư mặc tưởng về nẽo đạo trong thời điểm nào đó, mà tóc tôi đã nở trắng như… “hoa râm” hết cả rồi…?!

Thế nên tôi chợt thích thú trong ngỡ ngàng! Vì vẫn xem đó là những sợi tóc bạc rất hãnh diện!! Bởi nó không hóa bạc bởi từ những thói thường mà thế nhân vẫn bạc. Khi về với đời thường sau đó, bạn bè vẫn thường ngạc nhiên, hỏi đến. Tôi vẫn trả lời như đùa như thật rằng: Đâu chỉ người xưa mới có cái sầu bạch phát. Bạn bè, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Và trong đêm giao thừa đầu tiên, sau những tháng ngày bôn ba nơi đầu sóng ngọn gió và trải nghiệm Thiên cõi đó cùng Tiêu Sương. Tôi lại ngồi một mình, chờ đón thời khắc giao thừa bên nhánh mai và đón chờ luôn cả mùi U Hương đó… Tức sự:

HOA RÂM…!!!
Nhọc vắt mồ hôi ươm thân khô
Rồi để xuân về trổ hoa râm!
Mầm sống chưa nảy sao hoa nở?!
Cũng lạc phong trần mùi cố hương
Rối ngôi khôn lược, lối rẽ trái (!?)
Gốc người, hoa râm chen đen bạc
Xót thấy xuân về tay lần cội
Chiết sợi hoa rồi… ta ngắm ta…


68 - GỢI Ý CUỐI VỀ THIÊN HOA HỘI.

VẠN HẠNH THỜI LÝ CÒN TÔ HIẾN
TANG HẢI THƯƠNG ĐIỀN CUỘC XẺ ĐÔI

Hoa đèn hoa râm đêm khách lữ (trổ)
Sông nước sao cười ngạo gió trăng!?
Trở dạ biển chào muôn hoa sóng
Trên ngọn ba đào nở tinh hoa
Hoa lau phất ngọn mười hai xứ
Sấm theo trống đồng trổ hoa văn
Ký vị theo dòng tế hoa thị
Lục cõi hoa mừng Hội Hoa Đăng!!!
( Hạ nguyên tam vận thi)

---

Lời câu đầu tiên trong bài thi này, gợi ý cho ta nhớ lại một câu ca của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như; “ … Người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm…”!

Thường khi mà một lữ khách lãng du đã chong đèn suy tư trắng đêm, lặng lẽ, trầm tư với chiếc bóng của chính mình trên vách nơi viễn xứ như thế. Ắt kẻ đó đã cảm thấy mỏi gối, chồn bước phiêu lãng và muốn quay trở về cố hương rồi vậy. Nhớ lại ngày trước, ở những vùng quê hẻo lánh, người ta thường thiết kế một loại đèn dầu để chong đêm. Cây đèn này chứa một lượng dầu đủ để chong 1 đêm đến sáng là hết. Khi cạn khô dầu, trên ngọn bấc sẽ có những muội đèn vón cục lại, tỏa ra xung quanh bấc giống như những cánh hoa vậy. Và người ta gọi đó chính là Hoa đèn. Các bạn lưu ý; Chớ có lầm lẫn với loại Hoa Đăng chốn hội hè hoặc nơi cổng cao tường kín nhé! Mà Hoa đèn ở đây thường nở cùng kẻ nghèo khó nơi heo hút xa xôi và mỗi khi bình minh về với họ thôi!! Mặc dù hoa đèn nào cũng chỉ nở về đêm, thế nhưng riêng loại hoa đèn này kiêm luôn cả sự tăm tối, hỗn độn và tinh hoa của nó là sự suy tư trong cô độc!!!

Vậy với câu đầu tiên mở ra như; “Hoa đèn Hoa râm đêm khách lữ trổ”. Điều này này mô tả một lữ khách không biết đi đâu, làm gì mà suốt đêm trường, ngồi suy tư bên ngọn đèn dầu cô độc đến nỗi cả hoa đèn lẫn hoa râm như thi nhau trổ hoa như thế!?

Trên đây là tựa bài thi cuối trong kỳ thi Thiên Hoa Hội. Nếu như trong Hội Pháp Hoa chuyển ý từ điển tích Nhà Trần phá giặc Nguyên thì trong kỳ này lại là Thế cuộc của Nhà Lý. Bởi Nhà Lý là giai đoạn giải thoát cảnh nô lệ lầm than suốt 1000 năm của dân tộc Việt. Trong giai đoạn này lại có vị quan án Tô Hiến Thành từng xử việc “xẻ đôi” trong trang sử khi đấy.

Thế nên tôi mượn cái gương này trong cội nguồn văn hóa của dân tộc mà xét xử cuộc có vẻ như là chia đôi giữa Chúa và Phật trong Hội Thiên Hoa này vậy. Bởi câu “Tang hải vi thương điền” là ám chỉ đến một cuộc chia ly giữa biển đông và nương dâu. Tiềm ẩn ý sâu xa hơn nữa trong đó chính là sự chia ly của nòi giống Rồng (biển rộng) và Tiên (nương dâu). Dĩ nhiên các bạn cũng thấy có mắc xích cùng sự chia ly của Ngưu lang và Chức nữ trong này. Tổng các ý đó, vận thành bài thi cuối. Các bạn cũng không bao giờ được phép quên là: Trong bóng tối của đêm trường nô lệ khi xưa của dân tộc Việt đó. Nam – Bắc Hán cũng đã âm thầm, lén lút chia cắt non sông của dân tộc Việt mà đi đêm cùng nhau đấy.

Trước hết, ta kiểm soát lại tổng thể toàn cuộc này như sau: Ban đầu là các loài Hoa đời thường, đến cuối bài một thì xuất hiện Hoa Ngâu để dẫn vào đất Phật. Thế nên ta thấy bài thứ hai là Hoa đạo, Vậy trong bài thứ nhất là xét Hoa trong Địa Đạo, Bài hai thì là Thiên Đạo và bài cuối này lại là hoa của Nhân Đạo rồi. Bởi vì ta thấy các loài Hoa như Hoa đèn, Hoa râm, Hoa Sao (tinh hoa), Hoa Văn, Hoa Thị… là những loài hoa của tư tưởng, phát tiết tinh hoa từ tư duy tụ xứ đến từ hư không cả! Và rồi đến câu tiếp theo như;

“Sông nước sao cười ngạo gió trăng!?”.

Bởi xưa nay, thiên hạ chỉ quen thói cợt nhã tình Gió và Trăng mà thôi (thói trăng hoa). Ít ai thưởng thức được đến nét đẹp lặng hồn của ánh trăng, soi trên mặt nước mùa thu trong đêm thanh cho được. Nếu như Trăng của 4 Mùa thì hằng nga, tiên tử chỉ xuống tắm và lắng mình trên mặt nước hồ thu mà thôi. Đó chính là thời điểm mà Nàng Thơ định xứ, khiến bao thi sĩ ngẫn ngơ mất hồn hết đi cả! Thế nên Thi đi liền với Thu là do ý từ sự kiện này. Đây cũng là ý diễn tả lúc lữ khách bơi xuồng lặng lẽ trên sông trăng, giữa đêm thanh vắng. Mỗi khi mái chèo nhẹ khua thì ánh trăng trên mặt nước tan ra. Đồng thời muôn áng sao nhấp nháy ngã nghiêng trên dòng sông như cười ngạo cho tình trăng nước đó vậy!? Thiên hạ quen cười ngạo tình trăng gió, dẫn đến “cười lạm” cả vào tình của trăng nước hồ thu luôn đi rồi vậy!

Thế nhưng tiềm ẩn ý trong câu thứ hai này còn có nghĩa là: “Sông nước” còn có nghĩa là “giang hồ”! Đã thế thì “cười ngạo”…, chắc chắn phải là “tiếu ngạo” rồi vậy!! Điều này có nghĩa là tôi muốn nhắc đến tác phẩm “Tiếu Ngạo Giang Hồ” của nhà văn Kim Dung rồi!? Với tác phẩm đó, Kim Dung đã cười ngạo vào mặt tất cả những ai là kẻ (Thiền Sư) đã từng tham thiền xưa nay hết cả rồi vậy. Bởi vì trong mắt của Kim Dung đối với mọi thiền sư hay thiền giả nào bao gồm. Thì những vị đã từng chứng đắc đó, chỉ là trò hề hết cả thảy! Kim Dung đã mượn tác phẩm này để nói lên chính kiến của ông và thực tại đó.

Ta có thể thấy nội dung nói lên tất cả giang hồ kẻ sĩ, từ tiểu nhân đến quân tử. Không loại trừ kẻ trí, đến người ngu trong khắp cả thiên hạ, đều thi nhau tham thiền luyện tuyệt kỹ để xưng bá chủ. Họ không ngần ngại từ bất kỳ một thủ đoạn đê hèn nào nhất để đoạt cho bằng được ước vọng đó. Thậm chí sẵn sàng phụ tình sư đồ, cha con, chồng vợ để chiếm đoạt cho bằng được tuyệt kỹ kỳ thư. Không nằm ngoài sự ám chỉ đến tổ tiên người Trung Quốc ăn cắp Kinh Dịch của Người Việt trong lịch sử. Các thế lực, triều đại tranh giành với nhau mà âm thầm, lén lút ra sức khai thác. Thế nhưng cuối cùng thì tuyệt kỹ cao nhất đó chính là “Quỳ Hoa Bảo Điển”, chỉ dẫn thiên hạ trở thành “lại cái” hết cả mà thôi!!! Quan điểm của Kim Dung ở đây cho ta thấy ông không hiểu nổi được tại sao đỉnh cao tuyệt kỹ lại là Hoa như thế!? Trong khi Hoa chỉ thể hiện là của phận nữ nhi kia mà?! Sao xưa nay tất cả thiên hạ cứ tranh nhau cho bằng được như thế!!! Mà đã có ai đến được cảnh giới này bao giờ đâu??? Thế là Kim Dung tha hồ mà cười ngạo tất cả giang hồ xưa nay thôi vậy. Bởi Kim Dung vướng sự thấy vào cõi Tu Di nên hiện cảnh là lai cái khi nhập định tham thiền đến giới hạn này. Mà quả thật. Thế nhân cũng chưa ai tham thiền đến cảnh giới này thật!!!

Ta xét thấy khả năng tham thiền của Kim Dung đã đạt đến một trong những cảnh giới cao nhất xưa nay rồi vậy. Thế nên Kim Dung đã thấu hết toàn bộ những gì mà xưa nay lịch sử của họ từng theo đuổi đối với Kinh Dịch từng trộm cướp của “Lạc Chủ”. Kim Dung hoàn toàn có tư cách để làm nên tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ cả thảy như thế. Vì các bạn cũng hiểu được Hoa Quỳ mà Kim Dung nhắc đến đó, chính là loài Hoa Hướng Dương trong bài thi của Thiên Hoa Hội này rồi vậy. Kim Dung đã xem đấy chính là tuyệt đỉnh của bí kíp công phu đi rồi. Các bạn có thể xem lại tác phẩm này và dựa trên nền tảng những ý mà tôi đã gợi nêu ở đây. Chắc chắn các bạn sẽ thấy toàn bộ ẩn ý của Kim Dung. Chính điều này đã làm nên một tên tuổi Kim Dung, lẫy lừng khắp thế giới xưa nay vậy.

Thế nhưng trong bài thi về Thiên Hoa Hội này. Tôi xem cái cảnh giới mà Kim Dung đã từng thâm nhập vào cõi thiền đó; Chỉ đáng là cái biết của kẻ chỉ đi trong lạch, sông mà thôi. Đó chưa phải là cái thấy biết ở ngoài nơi biển cả bao giờ. Sao lại dám cả gan mà cười ngạo như thế? Bởi câu “cười ngạo gió trăng” ở đây có nghĩa là: Tình gió trăng cũng có nghĩa là Trăng Hoa. Và Hoa Quỳ trong “Quỳ Hoa Bảo Điển” đó cũng chính là Hoa Hướng Dương mà tôi đã mô tả trong cuộc thi Thiên Hoa Hội này vậy.
Tiếp đến với…;

“Sông nước sao cười ngạo gió trăng?
Trở dạ biển chào muôn hoa sóng.
Trên ngọn ba đào nở tinh Hoa”.

Kim Dung đã không hiểu thấu nổi điển tích Hà Thần và Hải Thần trong chính văn hóa của dân tộc ông nữa kia mà!!! Cái sự biết của thiên hạ, cao mấy cũng cứ mãi là một ngư ông làm khách đào nguyên trong lạch sông mà thôi, sao vội đã cười ngạo ra như thế rồi? Hãy làm ngư phủ của biển cả một lần xem sao? Lấy đấy mới có thể biết trời cao, biển rộng như thế nào cho được. Bằng không thì cứ tự cho mình là đệ nhất cả thiên hạ mà không chịu ai hết cả. Phàm một khi ra biển cả, ta mới có thể biết đến Hoa sóng cho được. Bởi vì Hoa sóng chỉ nở trên đỉnh của ngọn ba đào (đỉnh ngọn sóng), ở giữa đại dương mà thôi. Luận điểm nơi đây gợi nhắc cho ta thấy được điều gì đối với những hành giả trên bước đường tìm đạo xưa nay? Họ chỉ mong sang sông thôi. Ta thấy sang sông đã rất khó, hầu như không thể qua cho nổi được. Quan điểm chung thì lại xem biển là mê, phải lập tức quay đầu mới là bờ!!!

Đặc biệt, Câu thơ này mô tả là “Trở dạ biển…” Có nghĩa là giữa biển cả lúc không giờ! Trở dạ về sáng… đồng thời câu “trở dạ” cũng có nghĩa là mới có thể sinh nở ra được một cánh Hoa Sóng khủng khiếp nhất! Đó mới là thời điểm mà Hoa Sóng giữa đại dương phát huy tất cả tinh hoa của nó để khai hoa nở nhụy được. Mà ngọn ba đào xuất hiện giữa đêm đen ngoài biển cả đó lại chính là giữa đêm gió mưa, bão tố đang thét gào!!! Các bạn thử hình dung xem. Ta ra biển, gặp bão tố giữa đại dương mới có thể “chiêm ngưỡng” và cảm nhận được những đóa hoa sóng trên đỉnh những con sóng dữ đó, có uy lực khiếp đảm đến mức nào được.

Mà chưa đâu!? Câu thơ này là mô tả Hoa sóng nở giữa bão tố lúc nữa đêm giữa biển cả mịt mùng kìa!!! Đó chính là “rốn biển”, là nơi mà tôi từng nhắc đến. Chúng ta phải thâm nhập vào hoàn cảnh đó, hít thở trực diện cái không khí đó, để nếm trãi mùi vị thực sự của cuộc sống đó. Sau mới có thể cảm nhận mà đồng cảm thông được như thế nào giữa sự vĩ đại của tạo hóa và kiếp nhỏ nhoi mong manh của con người được.

Cuộc sống đó, hoàn toàn nằm ngoài sự hình dung của thế nhân chúng ta quanh rẻo bờ trong sông lạch này. Các bạn cứ tưởng tượng nhé; Một ngư phủ mưu sinh, câu mực (lại một màu đen mưu-sinh-tồn, tiềm ẩn khác nữa) trên một chiếc thúng mong manh, đơn độc, lẽ loi trong đêm đen giữa đại dương. Bất chợt mưa bão đến… phải dầm mưa chống chọi với bão đêm một mình. Phải tát nước cật lực sáng đêm như thế, nếu không kịp sẽ chìm thúng. Sóng dập, mưa phủ, gió giật… Sức kiệt, nằm vật lã ra giữa đêm mưa bão của đại dương mịt mùng như thế để vội lấy sức. Có đôi khi ngủ thiếp đi vì đuối sức, mặc mưa gió quay cuồng, thét gào như thế. Kiếp mưu sinh nhỏ nhoi, mong manh tựa bọt sóng trên đầu muôn ngọn sóng giữa đại dương tăm tối. Thật không bút mực nào tả cho xiết được cả.

Để rồi khi lên đỉnh động Thiên Thai hàng đêm, khi vừa bước ra từ nẻo Thiền. Tôi thường ngồi lặng trên đỉnh núi hàng giờ để dõi theo bóng đèn của kẻ câu mực giữa biển đêm dưới kia mà thắc thỏm cho thân thận làm kiếp con người của họ. Trời đêm, tất cả tinh hoa sương khí của núi, rừng, trời, biển hòa quyện làm một. Xóa nhòa tất cả mọi ranh giới của không gian lẫn thời gian đi. Ta không thể nhận ra và phân định được đâu là ranh giới giữa biển và trời được nữa. Vào thời điểm đó; Cứ mỗi khi bức màn đêm của Hóa Công vừa giăng lên… Trên sân khấu của Hóa Công đó. Những ánh đèn của người ngư phủ câu mực thúng đã hòa lẫn vào với ánh sao trên trời làm một rồi vậy. Ta không thể nào biết được đâu là sao trời và đâu là đèn ngư phủ nữa rồi! Thế nên câu “Trên ngọn ba đào nở tinh hoa” là mô tả đến hoàn cảnh này. Tinh hoa lúc này chính là Hoa sao đã đồng nhất ánh sáng giữa sao trời và ánh sáng đèn của ngư phủ chen nhau nở rộ rồi vậy. Thường hằng, mỗi đêm… từ bao ngàn năm qua. Tạo Hóa vẫn diễn mãi, biết bao tấn tuồng như thế giữa Biển - Trời - Người. Đã có được mấy ai xưa nay. Bước qua cổng đạo với chiếc vé Tham thiền để làm khán giả, ngồi xem diễn “kịch trời” trong thiên lãnh một lần trong đời như thế không?!

Tôi lại lan man mất rồi! Chúng ta hãy quay trở lại với…;

Bốn câu cuối thì tôi lấy điển tích Đinh Bộ Lĩnh để nói lên ý nghĩa của Hoa Lau phất cờ, đón và thu phục hết cả 12 sứ giả của đất trời tụ về đến. Những Sấm ngôn cũng tạo thành Hoa văn mà chạm vào Trống đồng của dân tộc Việt, đại diện cho dòng cha mà lưu lại. Cái cội rễ, cội nguồn dân tộc Việt từ cung Cấn Quỷ, Dịch chuyển sang Chấn với sấm ngữ mặc định trên trống đồng (trống sấm), và từ Đông Di chuyển đến quẻ Sơn Lôi Di tại cung Tốn như Địa Chí hiện nay!!! Đó được gọi là Di Chỉ của giống nòi Giao Chỉ mà Tạo Hóa đã ghi trong Thiên thư.

Thế nên dấu Hoa thị của tạo hóa (đại diện dòng mẹ) cũng thống nhất gạch đầu dòng mà ghi dấu kết thúc cuộc thi. Đồng thời Ký Vị đầu dòng Tế… cũng là tên của hai quẻ cuối cùng trong Kinh Dịch là Ký Tế và Vị Tế. Ta xét thấy trong bài cuối này cũng có các quẻ như: Lý, Lữ, Chấn (sấm), Ký tế, Vị tế cả thảy.

Trên đây là tôi chỉ gợi ý sơ qua một lượt như thế về cả hai bài thi Pháp Hoa và Thiên Hoa hội cùng các bạn thôi. Còn tình hình cùng những diễn biến gì đã xảy ra trong cả hai kỳ thi này thì tôi chưa kể ra cùng các bạn trên trang này được. Tôi chỉ có thể nhắc lại một câu của phật thích Ca rằng: Ta chưa nói sự thật gì về đạo hết cả! Bằng như ta nói ra sự thật về đạo. Tất cả mười phương tam thế các chư Phật, đều giật mình kinh hãi, mà té khỏi tòa sen ngay!!!

Đó chính là sự thật của Đạo. Phật còn như thế. Thế nhân chúng ta thì sẽ ra sao khi nghe tôi nói đến sự thật của đạo đây? Bởi vì tôi biết được sự thật đó không sai. Và hoàn toàn chính xác một cách tuyệt đối như lời Phật đã nói như thế về đạo!!!

Ta thử suy trở về quá khứ từ ngày tạo dựng vũ trụ xem sao… Nghe rằng khi tạo ra loài người. Chúa trời đã không mở mắt cho họ. Người cứ để như thế mà sống yên vui nơi vườn địa đàng. Bỗng nhiên hai ông bà cãi lời và lén mở được mắt ra! Sao ta không đặt câu hỏi; Thế ngày đấy, họ đã thấy những gì?!

Tôi biết chắc rằng trong ngày đầu tiên được mở sáng mắt ra đó. Họ đã thấy đạo! Và hai ông bà đã không dám nhìn thẳng vào sự thật nơi đỉnh cao của đạo đó, lại nhắm mắt lại. Quay lưng!!! Vì thế nên Chúa Trời đã đuổi loài người ra khỏi vườn địa đàng!!! Bởi tại bản tính của loài người chỉ mong đạo sẽ là sự cực lạc không thôi. Họ không chịu nhớ đến hai chữ khổ hạnh nữa. Thế nên khi đã thấy những sự khổ đau ê chề của đạo là họ không dám nhìn trực diện vào đấy. Cứ muốn khai thiên nhãn, khi khai được rồi thì lại nhắm mắt lại mà không dám gánh vác lấy trách nhiệm lên vai. Nếu như ai đó khai thiên nhãn mà chỉ thấy có sự an lạc thì đó chưa phải là sự thật của đạo bao giờ cả! Bởi Tạo Hóa vốn là toàn năng. Chính vì thế nên Tạo Hóa ngoài sự sung sướng còn phải kiêm luôn cả nỗi khổ đau vĩ đại nữa. Có như thế mới được gọi là toàn năng, và đó cũng chính là bản tính của Tạo Hóa. Thế nên kẻ đi đầu khai phá trên con đường đạo. Ắt phải gánh những cái gánh nặng mà hầu như sức của con người là không thể kham cho nổi được rồi vậy.

Thế nhân lại không chịu khổ đau! Vậy chỉ nên biết đủ về đạo thôi. Chớ nên bước sâu hơn vào thật đạo của Tạo Hóa cao cả muôn đời nhé. Không thể kham nổi gánh đạo bao giờ đâu các bạn ạ. Phàm, những vị nào vẫn còn đang ra vẻ giảng giải để tranh đạo về mình là đúng. Kẻ đó chưa biết gì về đạo cả.

.

69 - XÁC ĐỊNH GỐC CỦA NGUYÊN NHÂN




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Qua những gì trình bày vừa rồi trong bài “Rà Soát Lại Không – Thời Gian Toàn Vùng”. Chúng ta đã nhìn thấy rất rõ nền móng mà hai học Thuyết Big Bang và Lý Thuyết Dây xây dựng đó chỉ là giả thuyết mà thôi!

Đây là một giả thuyết không đứng vững! Do đã lắp ráp một cách lỏng lẻo những thành phần tư duy, quan điểm đầy khiếm khuyết vội vã trong cơn đắm thuyền. Chúng ta có thể nhận thấy được mãi từ những năm 28, 29 đến nay. Mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ đã biết bao lần phản ảnh Thuyết Big Bang là không đứng vững! Chính sự bế tắc của tư duy đã phát biểu Thuyết Big Bang chỉ là một giả thuyết rất đơn thuần mà thôi. Thế nhưng lại xuất hiện một, vài nhân vật cứ…; “Gợi ý” !!! Những gợi ý có tính hoang mang rất mơ hồ, trong bối cảnh của những kẻ đang chết đuối. Dĩ nhiên đang trong cơn đắm thuyền thì những điều gợi ý đấy sẽ là cứu cánh cho tư duy chung. Thế là mọi người vội chộp lấy chiếc phao đó làm cứu cánh mà lướt qua giai đoạn. Mọi người không biết rằng: Hoàn cảnh lúc đấy là nhân loại chúng ta đang cần một con tàu chứ không phải là chiếc phao cứu sinh.

Tôi có thể diễn giải một cách đơn giản cùng các bạn về quá trình sự hình thành quan điểm của Thuyết Big Bang như sau: Mọi sự buộc chúng ta xem xét tại thời điểm từ nhà thiên văn Hubble! Bởi thời điểm năm 1927 chỉ là một “gợi ý” của Lemaitre mà thôi. Nơi đây, ta xét thấy các nhà khoa học lại có biểu hiện bỏ qua những sự việc không lý giải nữa! Đó chính là giai đoạn của cái gọi là “Vũ Trụ Lạm Phát”?

Tôi đã đưa ra cùng các bạn thấy giữa tôn giáo và khoa học. Với trang này thì Lòng tin và Luật pháp là hai nguyên tắc nền tảng vận hành trong mô hình thực tại tự nhiên của vũ trụ đồng bộ. Từ đây suy ra…; Nếu trong quá trình phát triển của Tôn Giáo, con người không suy thấu thực tại của mô hình tiềm ẩn đó của Tạo Hóa. Thì lúc đó, nhân loại dựa trên nền tảng của Lòng Tin này mà tiếp tục vận hành và phát triển… đến tương lai. Nếu thế thì nền khoa học của nhân loại nhất định phải dựa trên quy tắc của Luật Pháp để mà vận hành và phát triển rồi vậy. Thế nên ta thấy Luật Pháp đối với nền khoa học ở đây chính là những phương trình, định luật hay lý thuyết nào đó mà nhân loại đã thiết lập được, dựa trên kinh nghiệm phát triển trong quá khứ tích lũy. Và đến khi tư duy của nhân loại suy không thấu… Các nhà khoa học ; Những con người tiên phong của nhân loại lại luôn luôn bỏ qua!!! Đây nhất định là những lỗi khiếm khuyết không thể chấp nhận cho được. Bởi nền khoa học vốn đã không có Lòng Tin đối với những đấng Tạo Hóa bao giờ cả! Trong khi Luật Pháp là luôn có kẻ hở và phàm làm con người tất phải phạm pháp. Không một ai thoát được. Ngay cả những kẻ hành pháp lại càng có nguy cơ phạm pháp cao hơn nữa!

Và nền khoa học của nhân loại chúng ta đã vi phạm quy luật đó của vũ trụ với đề xuất “Vũ Trụ Lạm Phát” trong giai đoạn khai sinh vụ nổ Big Bang. Một khái niệm của vụ nổ đã được gợi ý trong sự tưởng tượng! Như thế, cái gọi là vũ trụ lạm phát, chỉ phản ảnh rằng nhân loại chúng ta đã rơi vào cơn khủng hoảng tư duy trầm trọng đong đầy sự bế tắc chung rồi vậy. Ta thấy trong cơn chết đuối tư duy chung của các nhà bác học. Họ nhanh chóng bỏ phiếu, thống nhất lướt qua giai đoạn bế tắc quan điểm phát triển này một cách vội vã! Và hôm nay khi xem xét lại toàn bộ vấn đề mà hiện tại lẫn tương lai của nhân loại chúng ta đòi hỏi phải làm sáng tỏ. Ta không khỏi giật mình kinh hoàng khi nhận thấy các nhà khoa học đã bỏ qua giai đoạn lạm phát của vũ trụ với khoảng thời gian lên đến khoảng 10^-10!!!

Điều này thì ta biết rất rõ là từ giây 0 (10^-43), sau vụ nổ của Big Bang cho đến 10^-33 thì tư duy của các nhà khoa học mới có đất để diễn! Ta cứ nghe họ nói rằng những sự kiện Tiền Big Bang là bất khả. Khả năng của nhân loại chúng ta chỉ có thể biết đến những gì thuộc về Hậu Big Bang mà thôi! Thế nhưng khoảng không – thời gian mà tôi vừa nêu ra ở trên đây. Hậu Big Bang mở đầu với mô hình của vũ trụ lạm phát là cái gì mới được chứ?! Nó đã phản ảnh là một con số zero kếch sù mà ai cũng muốn tránh va chạm phải!? Bởi điều đó sẽ tố cáo sự bất lực của nhân loại chúng ta trước mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên mà Tạo Hóa đã kiến tạo. Lòng tin thì các nhà khoa học không có. Họ rất thiếu vắng và nghèo nàn giá trị của nguồn vốn liếng này, đối với những dự án đầu tư cho mô hình khai thác nguồn năng lượng thực tại tự nhiên tiềm ẩn của Tạo Hóa. Trong khi mô hình của Luật Pháp thì đã phản ảnh là hoàn toàn mất trật tự và rối loạn một cách thực sự trầm trọng trong bối cảnh hiện nay mất rồi. Tất nhiên luật pháp của Tạo Hóa là thực thi trách nhiệm đào thải. Và ngày đào thải đó đang hiển hiện và ngày một đến gần hơn…

Và hôm nay, tôi nhất định phải khai tử quan điểm của Thuyết Big Bang ra khỏi tư duy của nhân loại chúng ta trong mô hình tạo dựng một tương lai trong kỷ nguyên mới. Vậy chúng ta lại phải quay trở lại với biểu đồ không – thời gian, để mô tả và thiết kế, mô phỏng lại mô hình vũ trụ ban đầu hình thành cơ bản như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tổng các biểu đồ trên đây là tôi mô tả mô hình của không – thời gian vũ trụ hình thành tự nhiên từ ban đầu theo một tiến trình trật tự nhất định, bao gồm 4 giai đoạn. Trong hình 1 thì các bạn cũng đã quen với mô hình này qua các bài viết trước rồi. Vậy trong hình 2 thì ta thấy: Quy luật tự nhiên thì trong quy trình thứ nhất thì chiều thời gian (chiều tung) vận hành trước 4 bước khởi thủy ban đầu. Tiến trình tiếp sau đó là chiều không gian (chiều hoành) phải đồng nhất (hình 1). Thế nên hình 2 thì đến lượt chiều không gian (Hoành) phải khởi động trước, để đối xứng với quá trình thứ nhất trong hình. Tất nhiên ta không phải quá thắc mắc hay khó hiểu khi hình 3 có những mô tả được diễn đạt như thế. Và hình 4 là kết thúc chu kỳ hình thành mô hình không – thời gian ban đầu hoàn thiện. Điều này cũng có nghĩa là mô hình của vũ trụ tự nhiên ban đầu hình thành, không hề có bóng dáng của Vụ Nổ nào xảy ra ở đây hết cả. Mô hình của không gian hình thành vũ trũ ban đầu đó. Tự nó, đã được nới rộng theo một trật tự tự nhiên như thế.

Nói theo cách nói của Nhà Phật thì vụ nổ Big Bang chỉ là “Ma cảnh”. Đó chỉ là một huyễn cảnh phi thực tại của miền địa phương tư duy nhân loại chúng ta mà thôi.

Ta thấy rằng câu phát biểu của Lemaitre trong quá khứ đó. Tố cáo mọi người không xác định được vị trí gốc của không – thời gian mà chất điểm nhất định phải xuất hiện trong toàn vùng. Và điều này vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay đại loại như: Hạt có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trong không – thời gian toàn vùng!!! Rõ ràng là lạc gốc nguyên nhân dẫn đến không xác định được vị trí. Từ đó dẫn đến mất phương hướng trên bình diện tổng các mô hình mà nền khoa học của nhân loại chúng ta đang vận hành hỗn loạn, mất trật tự và đong đầy sự bất trắc hôm nay. Chúng ta đều biết được rằng; Ngôn ngữ Việt Nam là giàu có vô cùng những giá trị tiềm ẩn ý nghĩa trong đó. Thế nên tôi cũng vay mượn một ít vốn liếng đó, tài trợ cho quan điểm chung của cộng đồng khai thác lợi nhuận tư duy như sau:

Với quan điểm của phương đông nói chung và người Việt Nam nói riêng thì; Con người là một Tiểu Vũ Trụ, có mọi giá trị tương quan đồng bộ như mô hình của Đại Vũ Trụ tự nhiên toàn ảnh. Thế nên khái niệm Vụ Nổ khai sinh đại Vũ Trụ của Thuyết Big Bang đó có nghĩa tương quan như là: Khi khai sinh ra một Tiểu Vũ Trụ tương lai. Người Việt từ ngàn xưa nay hay dùng khái niệm là “Bể Bầu”!!! Là một khái niệm ám chỉ cho một mô hình của Tiểu Vũ Trụ mới…, ra đời!

Vậy! khái niệm “Bể Bầu” có tiềm ẩn ảnh tượng của “Vụ Nổ” để khai sinh ra một mô hình của vũ trụ tương lai. Điều này không có nghĩa là phải nổ như khái niệm mơ hồ của vụ nổ Big Bang bao giờ cả. Thế nên “Vụ Nổ Lớn” để sinh ra vụ trụ đó. Hoàn toàn chỉ là một khái niệm chưa đứng vững trong tư duy trừu tượng chung của nhân loại chúng ta suốt bấy lâu nay mà thôi. Và để kiện toàn cho quan điểm chung. Chúng ta nhất thiết phải gọi đúng với bản tính vốn có của vũ trụ là: “Sự sống của vũ trụ” chứ không phải là khái niệm “Vũ trụ giản nở” cho được. Chính điều này đã phản ảnh và tố cáo quan điểm thế giới quan cơ giới của Descartes là sự sai lầm một cách rất trầm trọng của nhân loại chúng ta cho nền khoa học suốt bấy lâu. Vũ trụ sống và lớn lên trong không – thời gian chứ không phải là giản nở bao giờ cả.

Chúng ta phải trả tính linh về cho tất cả vạn vật trong vũ trụ mà Tạo Hóa khi xưa đã tạo dựng trong đó. Là giá trị của cái Tính, cái Thể của vạn vật thể (là linh hồn). Thay vì những giá trị vô tính như Chất, như Vật (cái xác) mà nền khoa học đã khai tử một cách đầy sai lầm trong quá khứ trôi lạc cội nguồn. Để mô hình tương lai trong kỷ nguyên mới được thiết kế đồng nhất làm một giữa Tạo Hóa và Con Người cùng vận hành phát triển trường tồn.

Trước khi tôi mô tả và trình bày sự phát triển mô hình của vũ trụ tự nhiên vận hành trong không – thời gian ban đầu đó có những thực tại ra sao. Các bạn nhất thiết phải lược thao, kiểm điểm lại những quy tắc nền móng đã từng biết qua trên trang này như:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ta xem xét trong biểu đồ của hình 1 là mô tả Ma Trận dương tính với hệ số chẵn là 2,4,6,8. Vốn là đại diện cho thế giới Hạt. Hay nói một cách khác là thế giới của Thuyết Lượng Tử. Và biểu đồ thứ 3 là phản ảnh thế giới của Thuyết Tương Đối với các số cấu thành Ma Trận dương tính bao gồm 1,3,7,9. Thế nên biểu đồ của hình 2 là mô tả mô hình của không – thời gian 4 chiều mà cả hai hệ thống Ma Trận vận hành mô tả mô hình thực tại vũ trụ tiềm ẩn trong đó.

Nếu thế thì ta xét chi tiết hơn sẽ thấy được rằng trong khoảng không – thời gian cho sẵn đó thì; Mẫu biểu đồ này chính là Ma Trận cấp 8x8! Từ đây cho ta nhận định được đó chính là mô hình vũ trụ giới hạn trong phạm vi không – thời gian của Thuyết Lượng Tử mà thôi! Vì nó cho ta một so sánh tương quan với Ma Trận dương của Thuyết Tương Đối đã trình bày. Vậy nếu ta xét dựa trên ngôn ngữ của hệ thống số thì nhất thiết ta phải có mô hình của không – thời gian vận hành trong Ma Trận cấp 9x9! Đó chính là vùng trời của Thuyết Tương Đối. Dĩ nhiên điều này nói lên thực tại vượt qua phạm vi giới hạn của Thuyết Lượng Tử mất rồi. Bắt buộc quan điểm của các nhà bác học hôm nay phải chấp nhận sự thật quá khó chịu này đối với tư duy chung hiện nay. Bởi vì trước thời điểm xảy ra tận thế của đại vũ trụ thì sự tận thế đó đã diễn ra đối với phía bên trong tiểu vũ trụ của các nhà bác học rồi. Ở đây cũng thể hiện quy luật tiến hóa đối với những tư duy ưu tú nhất, được phán xét và diễn ra sự đào thải hoặc thích nghi đầu tiên trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên mới. Nhân loại chúng ta đang chờ đợi những tư duy ưu tú nhất, để đưa con tàu khoa học vào đúng quỹ đạo của tương lai đang chờ đón…

Thế nên các bạn cùng tôi nhất thiết phải xem xét đến mô hình của cái gọi là “phạm vi biên” của vũ trụ trong bài viết tiếp theo. Bởi trong bài viết này, chúng ta đã nghe nói đến phạm vi của vũ trụ giới hạn đương đại mà Thuyết Lượng Tử đang ngự trị suốt bấy lâu nay. Chúng ta đòi hỏi phải làm sáng tỏ cho cái gọi là giãn biên cho mô hình vũ trụ hiện tại. Ít nhất, chúng ta đã phần nào mường tượng được trong giới hạn của mô hình Ma Trận cấp 8x8 vừa qua. Một khoảng không – thời gian vũ trụ cho sẵn mà thế giới lượng tử đã từng phát triển và vận hành trong giới hạn.


Thanked by 1 Member:

#25 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 20:39

70 - BIÊN CỦA VŨ TRỤ!



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Theo như ý thức thực tại chung thì mô hình vũ trụ là vô hạn. Sự phát triển của nhân loại chúng ta vẫn đang bị giới hạn trong mô hình vũ trụ hữu hạn của thế giới Lượng Tử là một cận cảnh thực tại đương thời bất khả diễn.
Ta xét thấy cái giá trị hữu hạn của Hằng số Planck đã giam cầm tất cả tư duy của các nhà bác học trong phạm vi của giới hạn đó. Thế nên Thuyết Big Bang chỉ được sinh ra và phát triển từ giới hạn của phạm vi ước chừng 10^-33 mà thôi! Thế nhưng ta thấy sự sai lầm quan điểm hữu hạn đầy tai hại từ Thuyết Big Bang đó đã tác động, khiến cho Einstein hoang mang mà chối bỏ sự sống của một hằng số vũ trụ đang được hoài thai… Rất đáng trách. Bởi vì các bạn thấy hôm nay, hằng số đó cũng đã được tái sinh với giá trị 360=0 tại địa phương này rồi vậy.
Tôi có thể đạo diễn một kịch bản về mô hình tổng thể của thế giới lượng tử, để các bạn xem tuồng một cách dễ dàng như sau:
Thứ 1; Ông tổ khai sáng là Planck. Và 6 diễn viên nòng cốt ban đầu bao gồm; Bohr, Heisenberg, Schorodinger, Dirac, Pauli, Boglie. Thế nên ta thấy có một mô hình phản ảnh khi xưa Chúa tạo dựng vũ trụ ở đây! Vì 6 nhân vật đó đại diện cho 6 ngày đầu tiên tạo dựng thế giới lượng tử. Đã thế thì Planck là đại diện cho ngày thứ 7 rồi!! Là ngày của Chúa. Điều này có nghĩa là Planck là Chủ của cả 6 ngày còn lại. Đồng thời cũng là Chúa của thế giới lượng tử này đi rồi các bạn nhé!!!
Ta xét thấy trong chương đầu tiên của ngày “Sáng Thế Ký” của Thế giới Lượng Tử này. Planck đã giam tất cả tín đồ của học thuyết này trong bốn bức tường luật pháp mà ông đã tạo ra mất hết cả rồi!!! Bức tường đó có phạm vi giới hạn lên đến 10^-43, dĩ nhiên nó phải mang tên ông là hợp lệ…
Các tín đồ của học thuyết này tín ngưỡng và chấp pháp một cách trung thành và thậm chí ta thấy có một vài nhân vật có biểu hiện cuồng tín cùng giáo phái lượng tử trong quá khứ rồi! Và Thuyết Big Bang cũng hoàn toàn nằm trong sự gông cùm tư duy chung đó như sau:
Trong suốt thập niên 1920 khi Thuyết lượng tử ra đời. Ta đã thấy có rất nhiều biểu hiện “phản ứng tư duy” khiến chao đảo, lung lay gốc rễ của học thuyết này mà chính cả 7 vị tổ lượng tử đó cũng cảm thấy rất hoang mang thật sâu trong ý thức hệ của họ rồi! Cội rễ đó chính là những giá trị của xác xuất, giả định, hữu hạn v.v… Nó không thể thỏa mãn với yêu cầu của mô hình thực tại tự nhiên vô hạn của vũ trụ đòi hỏi được.
Và ta thấy giải pháp gợi ý của Pauli là một cứu cánh trong thời điểm đó với tên “Nguyên Lý Loại Trừ”. Rõ ràng ta xét thấy đây chỉ là một giải pháp vượt qua giai đoạn của thời điểm đó mà thôi. Vì nó chỉ được thiết kế để đáp ứng cho những thành phần Hạt có giá trị của Spin ½ mà thôi.
Vấn đề này lại thuộc chuyên môn nữa, vậy tôi ví dụ một cơ bản đơn giản để các bạn cùng nắm được như sau: Vì chúng ta là đại cộng đồng ngoài chuyên môn, nên vấp phải những khó khăn nhất định khi tôi diễn giải. Do chúng ta không hình dung được, thì những gì đang trình bày, cũng bằng không mà thôi. Chúng ta quay trở lại, dài dòng một tí như sau:
Khi Hubble quan sát thiên văn, vũ trụ…. Đến một ngày, ông phát hiện các thiên thể ngày một rời nhau xa hơn (vũ trụ đang giãn nở)! Như thế, từ đây ông suy ra thời gian của hôm qua, của năm trước, của quá khứ v.v… Các thiên thể này nhất định đang ở gần nhau hơn… Cứ thế… mà suy trở về thời điểm nào đó của miền địa phương quá khứ miên viễn…
Thời điểm xảy ra sự kiện là một giá trị tới hạn. Đó chính là sự kiện mà các bạn nghe gọi là “mật độ tới hạn”. Theo quan điểm của vật lý (thế giới quan cơ giới) thì khi mật độ vật chất vượt qua mật độ tới hạn này thì sẽ phát nổ! Thế là Vụ Nổ Lớn với tên gọi Thuyết Big Bang ra đời!!!
Thuyết này lại có 3 kịch bản cho mô hình của vũ trụ phải giãn nở như sau:
1.Khi vũ trụ giãn nở… mãi mãi, đến vô hạn theo mô hình của vũ trụ tự nhiên.
2.Vũ trụ giãn nở đến một giới hạn nào đó không xác định được (lượng tử, xác xuất). Rồi sau đó lại co lại…, đến một giới hạn nào đó nữa, lại nở ra… Cứ thế, đến mãi mãi…
3.Vũ trụ giãn nở đến một thời điểm giới hạn nào đó rồi co lại… Đến thời điểm của cái gọi là “mật độ tới hạn”. Khi vượt qua mật độ tới hạn là Vụ nổ lớn xảy ra! Cứ thế, mô hình vũ trụ được sinh ra mãi mãi. Và các nhà chuyên môn cũng thiết kế và trình bày cả 3 mô hình đó với những biểu đồ như sau:



Và hiện nay nhân loại chúng ta đang theo đuổi kịch bản thứ 3, đang ra sức khai thác một cách miệt mài những tài nguyên trong thế giới đó. Thế nên từ đây suy ra…, suy sập là thời điểm vượt qua mật độ tới hạn đó. Vậy không gian của vũ trụ quá khứ ban đầu đó thì các thiên thể là gần nhau đến mật độ của các vật thể đã tới hạn. Lúc này thì các phản ứng hạt xảy ra là có thật. Vậy để tránh những sự va chạm của các hạt trong một mật độ không gian quá chật chội như thế; Nguyên Lý Loại Trừ của Pauli có đất dụng võ.
Thế nhưng ta xét thấy nó chỉ dành riêng cho những thành phần “ưu tú” có giá trị tiêu chuẩn của spin là ½ mà thôi. Đại cộng đồng của thế giới hạt là không thể!! Lại một giới hạn nữa trong những sự giới hạn của Thuyết lượng tử. Thế rồi Thuyết Big Bang cũng vấp phải khó khăn nơi giai đoạn ban đầu này đối với mô hình của vũ trụ phải nổ. Trong lúc lúng túng đó. Lại xuất hiện một nhân vật “gợi ý” nữa! Tôi không muốn nhắc tên ra cùng các bạn cũng không được rồi. Bởi gợi ý này được mang tên ông!! Đó chính là “giới hạn Chandrasekhar”, một nhà khoa học gốc Ấn. Lại một chiếc phao cứu sinh kịp lúc.
Ta xét tổng thể thì sẽ thấy: Cái giới hạn của bức tường Planck đã không một ai vượt qua nổi. Rồi các nguyên lý bao gồm của thuyết lượng tử càng giới hạn hơn vị giáo chủ của mình nữa. Vì ta xét thấy (giới hạn) trong chừng mực nhánh di truyền của Thuyết Big Bang thôi. Là Thuyết này phát triển dựa trên giới hạn của bức tường Planck (10^-33 đối với 10^-43). Được hấp thụ kết tinh từ Thuyết Tương Đối (lực hấp dẫn). Rồi “giới hạn Chandrasekhar” lại ra đời với ý tưởng giới hạn, gợi ý dựa trên sự giới hạn của Nguyên lý loại trừ từ Pauli nữa!!! Trong khi trên trang này đã chỉ ra những thiếu sót đầy khiếm khuyết của cái giá trị hữu hạn 10^-43 đi rồi. Cái cội rễ đã bị cắt đi rồi, nguồn sống đâu còn cung cấp năng lượng sống cho những hệ lụy phát sinh tồn tại được nữa. Tòa kiến trúc khoa học vật lý đã sụp đổ đến nỗi không còn viên gạch nào trên viên gạch nào nữa rồi. Nền khoa học đã đến ngày tận thế rồi vậy. Tất nhiên trong ngày phán xét, có những thành phần nào sẽ bước vào thiên đàng và những thành phần nào phải vào hỏa ngục. Số lượng bị đào thải vào hỏa ngục là rất đông lắm.
Qua những gì dài dòng vừa rồi. Các bạn đã đủ hình dung để chúng ta tiếp tục thảo luận đến mô hình của một vũ trụ cơ bản với những giới hạn biên như sau:





Qua tiến trình phát triển theo trật tự tự nhiên của mô hình không – thời gian thực tại tiềm ẩn, được tôi mô tả như ở trên. Chúng ta dễ dàng nhận thấy: Trong hình 1, là mô hình của biểu đồ không – thời gian giới hạn trong cấp 8. Điều này được mô tả bằng công cụ ngôn ngữ của Hình và Số một cách rất chi tiết, rõ ràng và cụ thể. Ta thấy nó phản ảnh là thế giới của Thuyết lượng tử mà nhân loại chúng ta đang sống và bị giới hạn trong phạm vi bao gồm sự phát triển tư duy, ngôn ngữ trong không – thời gian 4 chiều đó hiện nay. Đó chính là cái biên của vũ trụ lượng tử với mô hình cơ bản của không – thời gian 4 chiều bị giới hạn trong Ma Trận cấp 8x8. Ta thấy mô hình không gian cho sẵn của thuyết lượng tử, không thể kiểm soát được bất cứ thông tin cũng như sự kiện gì diễn ở phía bên ngoài của phạm vi biên đó được.
Thế nên trong hình 2 là biểu đồ diễn tả mô hình vũ trụ phát triển theo trật tự tự nhiên là nới rộng biên lên cấp 9! Đó chính là vùng trời của thuyết tương đối ngự trị. Hoàn toàn nằm ngoài sự hiểu biết của Thuyết lượng tử. Cho nên ta thấy trật tự tự nhiên đó, nhất định phải xuất hiện theo chiều của thời gian mà hình thành sự kiện giãn biên… lên cấp 9.
Tất nhiên thời gian vận hành đến thời điểm của chu kỳ, thì lập tức chiều không gian phải đồng nhất cùng thời gian như sự diễn tả của hình 3 vậy. Để rồi hình 4 là mô tả một biểu đồ của mô hình không - thời gian cơ bản thuộc lĩnh vực thuyết tương đối kiểm soát.
Như thế: Trong thời điểm của luận giải này: Chúng ta thấy cứ mỗi một biểu đồ của mô hình không – thời gian phải cơ bản và đủ phù hợp với thời điểm mà không gian của vũ trụ đó đang vận hành và phát triển. Ta nhìn lại và không khỏi giật mình thảng thốt khi phát hiện: Tất cả các biểu đồ của không thời gian từ trước đến nay của các nhà chuyên môn. Họ đã thiết kế một cách tùy tiện và hoàn toàn không xác định được sự cơ bản của một không gian cho sẵn phù hợp, để thiết kế mọi mô hình cũng như lý thuyết trong đó!
Từ đó phát sinh những giá trị rối loạn, mất trật tự và hoàn toàn mất phương hướng mà không xác định được đâu là cái gốc của nguyên nhân nữa. Lúc này ta mới ngớ người ra rằng: Xưa nay sự hiểu biết của Thuyết Lượng tử là không thể nào vươn đến vùng trời của thuyết tương đối cho được. Vì những giá trị đó hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Thế nên sau khi lục soát không ra sự kiện nào nữa. Các nhà Lượng tử thường rất lớn tiếng phát biểu về những điều mà mình chưa bao giờ biết đến được.
Các bạn chợt nhận thấy trong thời điểm của những luận giải này, có một thực tại mà tôi rất khó có thể phát biểu thành lời cùng các bạn như sau:
Tất cả các nhà khoa học của chúng ta, những giá trị của bằng cấp, học hàm, học vị mà nhân loại chúng ta đã thu nạp được từ những tích lũy bằng trực giác đơn thuần qua kinh nghiệm từ sách sử. Những giá trị đó hoàn toàn nằm trong sự giới hạn phạm vi biên của vũ trụ mà chúng ta đang sống và phát triển. Chúng ta không có được những thông tin gì ở phía bên ngoài của vùng biên đó cả! Nền cơ học lượng tử đã khống chế tất cả trong phạm vi hữu hạn của mình mà chưa có một ai thoát ra nổi cho được. Dĩ nhiên theo hệ đào tạo đó đã trở thành như một tín ngưỡng bằng cấp! Những thế hệ tín đồ tiếp nối với những thứ bậc của bằng cấp, học vị thấp hơn, lại càng phải tuân thủ những giáo điều mang đầy khiếm khuyết đó hơn nữa!! Những quan điểm tri thức luân hồi. Điều này có nghĩa là các thế hệ tiếp nối được đào tạo đi đến tương lai trước mắt bằng cách…, bước giật lùi!!
Tất nhiên đã có một vài vị xuất sắc, đã và đang đứng trước cái phạm vi biên của vũ trụ đó. Bằng sự thấy của cảm giác. Họ đã cảm nhận được có một thực tại của cái biên của vũ trụ đang tồn tại! Thế nhưng những giá trị của trực giác là không đủ để phát biểu lên những thực tại tiềm ẩn này của vũ trụ được. Và họ đang cố gắng để phát biểu những tại tiềm ẩn phía bên ngoài phạm vi của mô hình không – thời gian 4 chiều hiện tại này một cách bất lực.
Vấn đề được đặt ra ở đây là chúng ta phải thiết kế cho bằng được những công cụ khai thác trước đã. Sau hẵng nói đến những sự việc gì đang tồn tại một cách tiềm ẩn phía bên ngoài đường biên của vụ trụ không – thời gian 4 chiều này cho được.
Vậy trong bài viết tiếp theo; Các bạn cùng tôi khảo sát mô hình của vũ trụ ở phía bên ngoài phạm vi của nền cơ học lượng tử ra sao nhé! Đó chính là vùng trời của Thuyết Tương Đối. Là mô hình của không – thời gian cho sẵn cơ bản. Một mô hình mà chúng ta vừa thiết kế giãn biên không – thời gian với Ma Trận cấp 9x9, so với cấp 8x8.
Một giới hạn biên của vũ trụ rất rõ ràng. Nhân loại chúng ta lại chưa đủ ý thức để sẵn sàng vượt biên!!!
Phàm, muốn vượt biên sang kỷ nguyên mới. Nhân loại chúng ta cần phải thiết kế một Con Tàu năng lượng. Đủ để vượt qua những lượn sóng “vô ba” giữa lãnh hải của Tạo Hóa!!!.
Cộng đồng nhân loại chúng ta hôm nay, hãy chuẩn bị tinh thần để cùng nhau; “Vượt Vũ Môn”…

.71 - MÔ HÌNH VŨ TRỤ CUỐI! (Ma Trận Cấp 9x9)




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đến bài viết này thì các bạn đã biết được một mô hình của vũ trụ cơ bản thực tại cuối cùng rồi. Đó chính là Mô hình của không – thời gian cho sẵn ở cấp 9x9 mà chúng ta đã tham khảo thiết kế trong bài viết vừa qua.
Với mô hình này, chúng ta đã có được những gợi ý toàn diện như là câu: Cửu cửu càn khôn dĩ định. Hoặc hàng loạt ngôn từ ẩn dụ nữa là Cửu Thiên Huyền Nữ, ngôi Cửu Trùng, Cửu Cung, 9 Tầng Mây, vân vân và v.v… Đồng thời đó cũng là số của Lão Dương, hệ số cuối cùng trong hệ thống số đơn. Sở dĩ ta thấy tại sao các đời Vua Hùng có 18 là bởi: Số của Lão Dương là 9. Vốn là dương nên phải hành âm thành ra Tham Thiên x Lưỡng Địa; (9 x 2 = 18) là dứt đời, ẩn ý cho Dịch Liên Sơn. Bằng như Số của Lão Âm là 6. Vẫn tính như thế, nên âm thì hành dương là Lưỡng Địa x Tham Thiên: (6 x 3 = 18).
Đó là cái lý do tại sao các Vua Hùng chỉ có 18 đời là dứt. Ta phải phát biểu chính xác lại là: 18 đời Vua Hùng là diễn đạt mô hình trật tự cơ bản của vũ trụ tự nhiên vận hành tiềm ẩn một cách tuyệt đối như thế. Số Trời vốn là như thế. Không hơn, không kém được.
Từ đây, ta có thể suy ra một cách rất dễ dàng cho những quan điểm còn mơ hồ chung về mô hình vũ trụ hiện nay của nền cơ học lượng tử là bất khả diễn đạt một cách rõ ràng cho được. Điển hình như là hành tinh thứ 9 trong hệ mặt trời vậy. Bởi nó vượt qua tầm kiểm soát của Thuyết Lượng Tử. Hoặc đây chính là vùng trời của Thuyết Tương Đối, thuộc lĩnh vực vũ trụ chứ không phải của thế giới Hạ Nguyên Tử được. Trong thế giới vi mô đó, các nhà khoa học đã kiểm soát toàn bộ những thực tại nhỏ bé đến vô hình hết cả rồi. Dĩ nhiên lĩnh vực vô hình lại thuộc về những gì ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư. Thuộc tâm lý, với những công cụ của cảm giác chứ không phải là trực giác mang nặng tính chất của vật lý nữa rồi.
Như thế nơi mô hình của lĩnh vực vũ trụ lại là vùng trời của Thuyết Tương Đối. Nó hoàn toàn nằm ngoài khả năng có thể với tới của Thuyết Lượng Tử hiện nay. Những thực thể vĩ đại trong những mô hình của vũ trụ vĩ đại hơn nữa. Những thực thể thực tại này lại đang nằm quá xa xôi đối với cái thấy của trực giác hiện nay. Cho dù nhân loại chúng ta có được sự hỗ trợ của mọi thiết bị vật chất hữu hình đến mức độ nào. Ví như hành tinh x (thứ 9) là một ẩn dụ về khoảng cách diệu vợi đó, tồn tại trong không gian vũ trụ vô hạn. Tôi có thể đưa ra so sánh điển hình làm minh chứng cho những nhận định này của tôi cùng các bạn như sau:





Qua bài viết vừa rồi, với hai biểu đồ mô hình của Không – thời gian cho sẵn ở trên với cấp 8x8 và 9x9. Chúng ta ý thức một cách rất rõ về cái phạm vi biên, giới hạn của vũ trụ là có thật. Đồng thời chúng ta cũng không thể tranh hay chối cãi về giá trị giữa hai học thuyết tương đối và lượng tử cao hay thấp được nữa. Bởi thực tại này đã phát biểu giá trị tuyệt đối đó rồi vậy. Vì thế, mọi cuộc thảo luận, diễn đàn tranh cãi nói chung. Không đủ khả năng để đưa ra ánh sáng sự thật tiềm ẩn trong đó cho được. Bởi nó đã thiếu vắng hai công cụ ngôn ngữ khác nữa là Hình học và Toán học để khai thác toàn diện vấn đề được đặt ra.
Cũng kể từ thời điểm này, những nhà chuyên môn có thể chọn cho mình một giá trị của biểu đồ không thời gian cho sẵn cơ bản nhất, để thiết kế mọi mô hình phù hợp dự kiến ngay từ nền móng phác thảo ban đầu.
Và lúc này chúng ta mới thấy được giá trị đã được kiện toàn cho “Nguyên Lý Định - Bất Định” của Heisenberg phát huy khả năng ứng dụng như sau:
Theo như mô hình vũ trụ thực tại tiềm ẩn vận hành tự nhiên cơ bản trong thế giới của thuyết lượng tử thì chúng ta “nhất định” phải có xuất phát điểm tại vị trí gốc của không thời gian mà các bạn đã biết. Thế nhưng đối với mô hình không – thời gian của thuyết tương đối, thì điều đó có nghĩa là phải bất định, một cách tuyệt đối tuân thủ theo nguyên lý này. Vậy để xác định được vị trí xuất phát điểm đó, chúng ta lại phải xác định lại bằng một suy nghiệm được tưởng tượng như sau:
Chúng ta suy nghiệm trung thành theo như Thuyết tương đối khi ta ngồi trên vận tốc ánh sáng và quan sát vạn vật trong vũ trụ thì; Với một vận tốc của ánh sáng khi đó (300.000km/s). Tất cả vạn vật trong vũ trụ của chúng ta đang sống, nói chung sẽ bị nhòe đi hết. Nếu so sáng ở cấp độ của thế giới lựng tử, thậm chí sẽ trở thành tĩnh lặng một cách vô hình. Nói cách khác là không hiện hữu được nữa, bởi tự nó đã hoàn toàn mất hết giá trị xem xét. Thế nhưng không gian ở đây là một không gian của vũ trụ bao la khác nữa!
Để ý thức một thực tại trật tự này, tôi lưu ý các bạn mô hình của vũ trụ mà nhân loại chúng ta đang sống là một mô hình không – thời gian toàn ảnh! Trong đó có 3 mô hình không gian, liên kết như sau:
1. Là mô hình không – thời gian của thế giới hạ nguyên tử, thuộc âm tính!
2. Là mô hình không – thời gian mà nhân loại chúng ta đang tồn tại bình thường. đó là mô hình của không – thời gian trung hòa!!
3. Là mô hình không – thời gian của vũ trụ mang lý dương tính của thuyết tương đối với các thiên hà xa xôi trong vũ trụ!!!
Chúng ta có thể mường tượng những giá trị thực tại tiềm ẩn đó, được mô phỏng theo hệ thống của Tam Tài vậy. Thế nên ta mới quan sát thấy chúng có những biểu hiện vận hành khác nhau là bởi thế! Nhưng nó cũng liên thông với nhau trong mô hình toàn thể mà chúng ta khó có thể nhận ra cho được!! Ta chỉ có thể nhận ra những giá trị này, một khi đã thâm nhập và đồng nhất vào từng mô hình chi tiết của mô hình không – thời gian cụ thể đó mà thôi!!! Bởi chúng ta không xác định được, nên những giá trị đó cho đến hôm nay cũng chỉ là những giá trị của xác xuất và giả định đong đầy sự giới hạn. Sự bế tắc, rối loạn do mất trật tự nhận thức và rồi…, dẫn đến khủng hoảng tư duy chung là tất định.
Ví dụ:
1- Khi ta cưỡi trên vận tốc ánh sáng trong vũ trụ mênh mông…, sâu thẳm giữa các thiên hà mờ xa.
2- Khi ta ta đang lênh đênh giữa đại dương bao la… và mất hải bàn, hoàn toàn lạc phương hướng giữa đên trường tối tăm.
3- Khi nhân loại đang vận hành trong thời điểm lạc hậu của quá khứ, chưa có ánh sáng của nền khoa học văn minh soi đường.
Trong tất cả 3 hoàn cảnh rơi vào và được nêu ra như thế. Nhân loại chúng ta đều xác định phương hướng từ vị trí của “Sao Bắc Cực” trong vũ trụ làm định hướng duy nhất! Đó chính là vị trí thuộc về lĩnh vực thiên văn, vũ trụ. Là vùng trời thuộc về Thuyết Tương Đối. Thế nên:
Nếu là mô hình của không thời - gian thuộc về thuyết tương đối. Ta xác định vị trí điểm xuất phát của vũ trụ vận hành ban đầu chính là vị trí giữa tâm của mô hình không – thời gian đó. Điều này là phát biểu lên nguyên lý định và bất định đối với vị trí gốc của không – thời gian theo như mô hình không – thời gian mà thuyết lượng tử vận hành cũng như quan sát vạn vật. Vậy ta rút ra được một kết luận rằng: Ở góc độ của thế giới Lượng tử, ta xác định vị trí chất điểm xuất phát và vận hành của vũ trụ, tại gốc của không – thời gian để quan sát vạn vật (chất). Đối với vũ trụ của thuyết tương đối, thì vị trí điểm xuất phát đó phải được định vị tại giữa trung tâm mô hình của không – thời gian mà quan sát vạn vật (thể).
Thế nên trong mô hình của Ma Trận cấp 9x9 sẽ được xác định vị trí xuất phát điểm của hệ thống số vận hành. Được diễn đạt trật tự tự nhiên của vũ trụ cơ bản như sau:





Thế cho nên sau khi xác định được vị trí chất điểm phải xuất hiện đối với mô hình của không – thời gian một cách cơ bản và hoàn toàn chính xác như thế. Mô hình của vũ trụ ban đầu có trật tự vận hành để hình thành như sau:





Cuối cùng chúng ta lại có được Ma Trận Cấp 9 x 9 với tổng các quỹ đạo có đáp số là 369!
Chúng ta lại suy thấy trong mô hình của Ma Trận cấp 9x9 này cũng có hàng trăm Ma Trận khác, có cùng tổng đáp số như thế nữa rồi! Chúng ta lại có nguy cơ tiếp tục rơi vào thế bế tắc toàn diện đối với cả một vũ trụ Ma Trận có hệ thống cơ bản như thế mất. Bởi vì Ma Trận Cấp 9 là hệ thống cơ bản và đồng thời cũng là hệ số cao nhất của thế giới số rồi vậy. Như thế, xét riêng trong mô hình cơ bản này thôi; Ta lại có hàng trăm mô hình thực tại cơ bản khác hơn nữa, đang còn tiềm ẩn trong đó!! Dưa theo nguyên lý tổng các quỹ đạo thì điều này có nghĩa là tổng các hệ thống số từ 0-9. Chúng ta có đến 3.600 Ma Trận với tên gọi là rất cơ bản trong đó!!! Bởi vì ta không có thể phát biểu là Ma Trận nào mới là cơ bản hơn Ma Trận nào cho được. Vì tất cả đều là Toán Học!!!
Sự phức tạp đã được gia tốc lên đến cực điểm của ý thức hệ! Nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng ý thức là có thật!!!
Luận điểm nơi chân trời sự kiện này. Chỉ rõ cho chúng ta thấy được rằng: Đối với hệ số 0, trong hệ thống số. Các nhà chuyên môn không có thể suy diễn đó là giai đoạn của cái là “Khởi Số Lạm Phát” của hệ thống số hình thành ban đầu cho được. Điều này tương tự như cái gọi là thời kỳ “Vũ Trụ Lạm Phát” trong quan điểm của Thuyết Bigbang vậy. Không hề có khái niệm mơ hồ này cho được. Mà ta phải suy diễn được rằng: Đó chính là giai đoạn khởi đầu và kết thúc của mỗi chu trình diễn biến theo một thực tại trật tự tự nhiên trong mô hình của vũ trụ cơ bản vận hành. Ta có thể diễn đạt ở sự kết hợp “nhân quả thống kê” như là Ma Trận cấp 10 chẳng hạn. Điều này tôi sẽ bàn đến sau.
Ở đây chúng ta tiếp tục xem xét giá trị liên quan của kết quả hệ số 369 từ Ma Trận cuối cấp này như sau:
Đây chính là đáp số toàn số cơ bản trong mô hình của vũ trụ mà nhân loại chúng ta đang vận hành giới hạn sự phát triển trong phạm vi biên hiện tại của không – thời gian 4 chiều như ví dụ sau:





Qua biểu đồ mà tôi diễn đạt ở trên. Ta thấy đó là tiến trình mà ánh sáng phát triển vận hành trong không gian tự nhiên theo một tiến trình trật tự cơ bản. Các bạn có thể hình dung rằng ánh sáng xuất phát tại vị trí giữa trung tâm phía bên dưới của đồ hình. Trong giây đầu tiên thì nó vận hành đến ô thứ 3 có nghĩa là 300.000km/s. Thế nên biểu đồ của nón ánh sáng thể hiện ở cột mốc của thời gian đó. Vậy trong giây thứ 2 tiếp theo thì ta thấy vị trí của ô thứ 6, tương đương bằng 600.000km trong giây thứ 2. Và tất nhiên giây thứ 3 sẽ có giá trị là 900.000km rồi vậy.
Quan sát tổng thể thì ta nhận thấy: Trong mô hình của vũ trụ cơ bản này. Mô hình của vận tốc ánh sáng cũng đã vận hành đến toàn ảnh của không – thời gian giới hạn trong phạm vi phát triển đó là hết.
Qua thực nghiệm trên, từ đó ta rút ra được một kết luận vững vàng rằng:
Hệ số 369 cũng là hệ số toàn vùng không – thời gian (4 chiều) trong vũ trụ thực tại mà nhân loại chúng ta đang sống và phát triển giới hạn trong đó. Các bạn có thể thấy hệ số toàn ảnh này phản ảnh trong thế giới của Kinh Dịch như sau:
3 – 6 – 9 là hệ số của 3 Thế Cục trong Kỳ Môn Độn Giáp hoặc 3 Cục Diện trong Thái Ất Thần Kinh vậy! Đồng thời văn hóa cũng như lịch sử của dân Tộc Việt cũng đã tiềm ẩn giá trị sở hữu tuyệt đối này của giống nòi qua: Non Sông như: Tam Giang (3), Lục Đầu (6) và Cửu Long (9) vậy. Thế nên dòng Cửu Long Giang hôm nay chính là Dòng Bảo Giang mà cha ông Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng gửi Sấm Truyền đời cho thế hệ cũng như thời cuộc hôm nay vậy.
Chớ có để lỡ mất Thời Vận của dân tộc Việt hôm nay đấy các bạn ạ. Bằng như trôi qua; Nhất định lịch sử ngàn năm sau. Ắt phải “bêu danh sử sách” cho những kẻ nhu nhược, ương hèn của thế hệ hôm nay là một sự thật.


72 - CỬU TINH THIÊN TÔN VÀ CỬU TINH VĂN XƯƠNG



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Qua bài viết của Ma Trận cấp 9x9, chúng ta có cơ sở để chuyển góc quan sát sang mô hình của Cửu Tinh là rất hợp thời điểm. Thế nên các bạn cũng biết được rằng; Trước đó, chúng ta đã quan sát bài Cửu Tinh Quý Thần là rất sớm vội. Vì điều đó nói lên chúng ta đã quan sát trước thời điểm mà điều kiện chưa hội đủ. Vì thế những quan sát đó rất thiếu những giá trị thông tin cần phải có.
Đến bài này, yếu tố của thông tin làm dữ liệu khai thác vẫn chưa hội đủ! Ví như chúng ta chưa biết cũng như cách xác định vị trí điểm thứ 3 phải xuất hiện ở đâu trong vũ trụ làm vị trí cơ bản để một quan sát viên cần phải đứng vào để quan sát cả. Quan trong nhất lại là mô hình không – thời gian phải biết được đủ 10 chiều nữa! Vì thế bài viết này cũng có tính đáp ứng thị hiếu chung của các bạn là thích đề tài này mà thôi. Ta cứ tạm biết trước như thế làm dữ liệu dự trữ, sau này xem xét lại nhé. Bởi e đề tài khoa học gây sự nhàm chán quan điểm chung hiện nay.
Tuy nhiên ít nhất chúng ta cũng đã có được nền tảng ý thức là mô hình cửu cung cũng chính là mô hình của không – thời gian cơ bản và đơn thuần nhất trong lĩnh vực khoa học vật lý rồi (có 3 ô vuông thay vì 4). Vì thế ta được phép xem cung giữa là cung tiềm ẩn của chiều thời gian mà quan điểm phương đông, ta quen gọi là cung độn vậy. Bởi vì theo như quan điểm của học thuật này nói chung thì chỉ xem 8 cung là Bát Quái hoặc là Bát Môn mà thôi. Chính vì lẽ đó cho nên ta thấy khuyết mất 2 điều kiện nữa mới đủ 10 cho hợp với quy luật điều hành cả vũ trụ tiềm ẩn. Bởi xưa nay xem đó là lĩnh vực của Quỷ, Thần. Thế nên cách dụng Bát Quái hoặc Bát Môn xưa nay vẫn chưa có thể hiểu biết đến hành tung của Quỷ, Thần cho được. Lấy đâu để còn có thể “xuất quỷ nhập thần” mà xét thấu Dịch Lý hầu Dụng Dịch nữa.
Đó là việc hoàn toàn nằm ngoài khả năng của loài người chúng ta. Vậy chúng ta chỉ nên tham khảo để biết về hệ thống của Cửu Tinh này như sau:
Ta vẫn thống nhất lấy số của vòng kỷ dư của năm 2017 là 334 như bài Cửu Tinh (quý thần) trước đó để dễ dẫn nhập theo lệ chung nhé. Vậy sau đây là hệ thống của bộ Cửu Tinh Thiên Tôn ở trạng thái ban đầu khi chưa chuyển vận;





Các bạn quan sát thấy mô hình Cửu Cung như trên là phản ảnh mô hình không – thời gian mà nền khoa học gọi là phương pháp Đối Ngẫu trong thế giới lượng tử! Dĩ nhiên trong trang Ký Sự Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư này. Đã cung cấp cho các bạn sự thấy biết mô hình đó chính là mô tả sự tương tác của thế giới hạt không sai lạc cho được. Vì thế, mọi tư duy lẫn quan điểm suy diễn, hay Tán Dịch xưa nay là rất khiếm khuyết và hoàn toàn sai lạc do thiếu nền tảng tri thức của khoa học này.
Những nền tảng thông tin này. Chỉ cung cấp cho các bạn sự logic chung chung thế thôi. Chỉ có những nhà chuyên môn trong lĩnh vực thực nghiệm những va chạm (phóng xạ) trong thế giới hạt với những biểu đồ được ghi lại mới có thể xác thực và chứng minh được những thực tại này mà thôi. Vì thế; mọi sự tán, luận xưa nay trong lĩnh vực Kinh Dịch nói chung chỉ mang tính phỏng đoán mơ hồ chung mà thôi nhé. Những vị nào càng mang nặng cái Danh, khiến thiên hạ càng phải “Chấp Danh” đó mà tin vào sự sai lầm lớn hơn nữa cho Dịch Học nói chung (danh của Khổng Tử chẳng hạn). Đó cũng chính là sự sai lầm điển hình đầy tai hại của tôn giáo (tâm lý), một khi thiếu vắng nền tảng của khoa học (vật lý). Thế nên ta mới thấy tại sao Thái Ất Thần Kinh thì mô hình của hệ thống số lại có bố trí khác với mô hình số của Lạc Thư xưa nay là bởi nguyên cớ này. Một nền tảng mô hình mà ngay cả các nhà bác học lừng lẫy nhất của nền khoa học hiện đại trên thế giới cũng đành chịu thúc thủ suốt 100 năm qua. Thế nên ta có thể hình dung và quan sát sự vận hành này đồng bộ cho tất cả những ai đang ở trong lẫn ngoài chuyên môn như sau: Một nguyên tử cơ bản có 3 Hạt phản ảnh cho Tam Tài. Vậy thì Hạt electron chính là sự vận hành của Lý Thiên, thuộc thượng nguyên cuộc, là thời gian. Hạt phroton thuộc về Lý Địa, là trung nguyên cuộc, thế vận hành trong không gian. Và cuối cùng là neutron với hạ nguyên cuộc. Là lý Nhân, chiếm vị trí trọng tâm để dung hòa quy luật quỹ đạo chung nhất. Vậy từ đây ta suy ra: Thượng nguyên với 3 thế thượng trung hạ. Trung nguyên thành ra 6, và hạ nguyên là 9. Tổng số 369 là toàn số vận hành của Ma trận cấp 9x9 trong mô hình toàn ảnh của vũ trụ được xem xét trong hệ thống Cửu Tinh này vậy.
Chúng ta tiếp tục tham khảo:
Do một chu trình vận hành có tiềm ẩn ý trong chữ “Tuần” (văn u mặc)! Thế nên một Tuần ở đây không có nghĩa là 7 ngày, mà phải được hiểu là một Tuần Giáp của Thiên Can bao gồm 10 ngày. Và Giáp phải độn đi, bởi cửu cung chỉ có 9. Điều này cũng như trong hệ mặt trời phải có đủ 9 hành tinh vận hành vậy. Và hiện nay ta vẫn chưa có khả năng để nhận ra hành tinh thứ 9 này (hành tinh x) trong hệ mặt trời. Thế nên ta mới thấy là Cửu Tinh có 9 sao vận hành trong 10 năm cả thảy. Vì thế nên phép tính cửu tinh thiên tôn sẽ chỉ rõ; Điều này tố cáo rõ rằng là sự phát triển của nền khoa học hiện nay đang giới hạn trong mô hình của Ma Trận cấp 8x8 mà thôi. Hành tinh thứ 9 (Nibiru) đang còn là một giá trị xác xuất, và hoàn toàn không xác định được.
Phép tính được thể hiện như sau:
Bước 1;
Ta lấy vòng kỷ dư của năm 2017 là 334 chia cho 90, do một sao vận hành là 10 năm. Vậy 10 x 9 = 90. Thế nên ta lấy số 334:90= được 3, dư 64. Lại tiếp tục lấy số dư là 64 chia tiếp cho 10 năm của vòng chu kỳ 1 tuần sao thì sẽ được; 64:10= được 6, dư 4.
Có nghĩa là hệ thống Cửu Tinh Thiên Tôn đã vận hành hết 6 vòng rồi (1 vòng = 10 năm). Dư 4 năm có nghĩa là đã vào sao thứ 7 theo trật tự của bảng liệt kê ở trên. Hiện nay đang vận hành ở vòng thứ 7 được 4 năm. Vậy là sao Thiên Trụ trực phù đã được 4 năm.
Bước 2:
Ta xét thấy năm 2017 là Đinh Dậu, theo thứ tự thì ứng với Thiên Trụ Lục Đinh.
Lưu Ý: Năm nay (2017) thì phép tính Cửu Tinh Thiên Tôn này có sự trùng hợp ở đây! E rằng sau này các bạn sẽ lại vướng phải sai lạc khi tính cho các năm khác như: Số thứ tự của sao chưa chuyển là tương ứng với số cung trong Cửu Cung. Còn sao Trực Phù thì lại căn cứ vào số năm của Lục Tuần Giáp. Thế nên các bạn so sánh với cách bố trí của hệ Cửu Tinh Văn Xương là được. Bởi nó cùng một quy luật và phương pháp tính như nhau.
Bước thứ 3:
Sao Trực Phù Thiên Trụ đứng khởi đầu suốt Tuần giáp ngọ này là 10 năm. Nay đã vào cung Khôn được 4 năm rồi. Còn 6 năm nữa là vào cung Khảm. Và ta bố trí vào đồ bàn của Cửu Cung Lạc Thư như sau:





Như thế: Với đồ hình trên đây, chúng ta đã có được rất nhiều thông tin tiềm ẩn trong đó với cục diện của thế cuộc trong Tuần Giáp Ngọ này rồi vậy.
Tôi gợi ý cách đọc thông tin như sau:
Hội này là Hội Ngọ của Đất Trời. Bảng Cửu Tinh trên đây cũng đang bố trí sao theo Tuần của Giáp Ngọ là 9 năm, độn giáp mất 1 rồi. Sao Thiên Trụ đang trực phù tại cung Khôn đã 4 năm. Vậy sẽ khớp với chuyện Tiêu Sương Mã đã tuần một nước đại trong độ mông hạn ảnh rồi. Còn 6 năm nữa là sẽ vào cung Khảm, đúng năm 2023….
Ta tạm xét đến thế cuộc trong chiều tương lai… Bằng như quan sát ở thì hiện tại ta thấy; Sao Thiên Trụ vốn là Trụ cột của trời. Có nghĩa là trụ cột của nước nhà, ví dụ có ra đời cũng đang bị rơi hãm vào cửa Tử và nhập mô tại cung Khôn. Sáu năm nữa mới có thể đến được cung Khảm khởi thủy của Thiên Nhậm. Ý nghĩa của Thiên Nhậm, ngoài nghĩa đơn thuần còn có nghĩa là gánh vác nữa. Nếu ta không tác động cho sớm hơn thì vận trời vẫn cứ đến đó mới có thể lộ diện mà không một ai có thể cản trở hay che đậy được. Cuộc này là Thiên Nhân Hợp Phát. Vì thế con người có thể tác động vào mà gây ảnh hưởng đến toàn cục hy vọng sớm tránh tai ách. Bằng như dửng dưng, tai trời, ách nước phải gánh chuốc lấy hạn cho dân tộc là rất đắt.
Bằng như quán chiếu trở về thông tin của quá khứ thì: Ta sẽ xét thấy Mã Viện thời Hán (ngôn tượng Mã viện là Ngọ) Trấn Trụ đồng là vận theo ý sao Thiên Trụ tại vị trí này. Bởi đó chính là cung Khôn, cửa Tử, Với quẻ Địa Trạch Lâm của Tượng Lâm. Thuộc khu vực Tổ Rồng của Ngũ Lĩnh. Do núi Hồng Lĩnh có đầy đủ tên của các ngọn có tên đủ như bộ Cửu Tinh này như: Thiên Bồng, Thiên Nhuế, Thiên Trụ v.v… Đó chính là pháp Dụng Cửu, Dụng Lục trong Dịch rồi vậy. Hiện nay, chúng ta không ai có thể biết đến Hào thứ 7 của Kinh Dịch nổi. Nói gì đến phép Dụng Cửu hay Dụng Lục mà nói ngông trong Bói Dịch cho được. Thế cho nên ta mới thấy Hào thứ 7 của Dụng Cửu có câu: “Quần Long Vô Thủ”. Cốt là văn Vương nói đến bầy rồng mất đầu để ám chỉ đến dân Việt lạc mất tổ tiên cũng như Kinh Dịch rồi vậy. Bách Việt hay Trăm trứng của người Việt đó. Thật sự chỉ là một bầy rồng bị mất đầu mà thôi.
Vậy thì đến thời điểm của luận giải này. Các nhà bói Dịch nói chung xưa nay, đã đủ ý thức được điều này chưa vậy? Chúng ta chỉ nên mang sở học bói dịch hoặc tri kiến dịch học lên trang này để trao đổi, mài dũa cùng nhau chứ chớ có nên công kích hay ra vẻ cao thủ về Dịch mà phải ngượng cùng bạn đọc chung đấy nhé. Chúng ta hãy bình đẳng và chân thành trong tham luận, ắt không phải ngại ngùng gì cho dù có thất thố các bạn nhé.
Chúng ta lại tiếp tục tham khảo với hệ thống của Cửu Tinh Văn Xương bố trí cùng môt quy luật chung như sau:





Riêng vòng sao Văn Xương thì phải 30 năm mới chuyển một cung. Do xử 10 năm Lý Thiên, 10 năm lý địa và 10 năm lý nhân theo thượng trung và hạ nguyên. Vì thế nên có tất cả là 9 sao x cho 30 thì được 270.
Bước 1, thì ta lấy số của vòng kỷ dư là 334 chia cho 270 thì có; Được 1, dư 64. Lại lấy 64 chia cho 30 thì được 2, dư 4.
Bước 2, Ta so sánh theo trật tự bảng cửu tinh thì thấy ứng số 2 là Huyền Phượng. Thế nhưng dư 4 có nghĩa là đã vào cung 3 của Minh Duy hết 4 năm rồi. Lại xét năm Đinh Dậu 2017 ứng với chữ Đinh là cung số thứ 5. Thế nên ta lấy sao Trực Phù là Minh Duy xếp vào cung 5 làm trực Phù. Từ đó tính mà bố trí theo thứ tự các sao vận hành đi tiếp. Bố trí lên đồ bàn thì ta sẽ có:





Như thế thì Sao Minh Duy trực phù cung giữa đã 4 năm rồi. Còn 26 năm nữa mới chuyển cung.
Tóm lại: Ta thường quen nghe câu “nền tảng cơ sở”. Vậy mà ta lại không xem xét cũng như hiểu thấu đáo hai chữ “cơ sở” này rồi. Bởi nó vốn có nghĩa rất đơn thuần như Cơ là Số. Và Sở là Sở Hữu hoặc Sở Dụng.
Vậy nền tảng của mọi sự chính là dựa trên hệ thống của Số rồi vậy. Thế nên ta mới thấy trong lĩnh vực khoa học; Toán Học là mang tính quyết định và vô hiệu hóa mọi bàn cãi. Nếu một khi công cụ ngôn ngữ đơn thuần của Lý Thuyết (Lý) và công cụ ngôn ngữ của Hình học (Tượng) đã tỏ ra bất lực khi mô tả.
Bằng như ta vẫn cứ tranh luận. Đó là ta chưa đủ ý thức để lĩnh hội nổi điều đơn giản này mà thôi.
Từ đây suy ra: Những diễn đàn tranh luận trong lĩnh vực khoa học vật lý hiện nay. Là hoàn toàn không đủ khả năng để nói lên mô hình thực tại tiềm ẩn trong vũ trụ tự nhiên cho được.

.



73 - NỀN TẢNG TAM TÀI TRONG CƠ SỞ CỬU CUNG



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Như tôi đã từng phát biểu trên trang này rằng; Đối với không gian chiều thứ tư thuộc về cái gọi là “chiều tâm lý” so với 3 chiều vật lý phương tây. Điều này vốn lại là sở trường của tư tưởng phương đông.
Vì thế trong bài viết này, chúng ta có thể tận dụng vào sở trường này mà đi trước một bước. Để khai thác mô hình của Ma Trận cơ bản cuối cấp là 9x9 qua mô hình của Cửu Tinh mà các bạn đã biết vừa qua. Sở dĩ tôi nói đi trước là vì chúng ta vẫn chưa tham khảo cũng như xác định được vị trí thứ 3 phải xuất hiện tại điểm nào trong mô hình của vũ trụ tự nhiên cả. Tuy nhiên, do là sở trường, nên chúng ta có quyền được ưu tiên xem xét trước thời điểm một bước.
Chúng ta cùng tiếp tục du hành trên phương tiện Cửu Cung với những tham luận như sau:
Với mô hình của không – thời gian Ma Trận cấp 9x9 vừa qua. Chúng ta liên tưởng đến mô hình của Cửu Cung là hoàn toàn hợp lệ cho một mô hình không gian cho sẵn cơ bản và đơn thuần nhất để quan sát và tiến hành xem xét. Rõ ràng mô hình Cửu Cung hay chính xác hơn là đồ hình của Lạc Thư này. Chính là sở trường của các bạn một cách rất thuyết phục rồi vậy. Bởi vì chúng ta nói chung đã “rất quen” với đồ hình này từ xưa đến nay. Chúng ta tiến hành giải phẫu đối tượng này thôi.
Nếu ta quan sát tổng thể qua một lượt…, vật bị quan sát là mô hình Cửu Tinh vừa qua. Chúng ta dễ dàng nhận thấy có tất cả là 3 mô hình của Cửu Tinh bao gồm; Quý Thần – Thiên Tôn – Văn Xương! Ta thấy nơi đây, mô hình của vũ trụ tự nhiên, vẫn mô tả một cách trung thành với hệ thống của Tam Tài tiềm ẩn trong đó!! Bởi vì hệ thống của Cửu Tinh Văn Xương còn có tên là Địa Mục! Điều này có nghĩa là Mắt Đất trong Lý Địa của Tam Tài!! Vậy ta có thể chuyển vị trí đã xác định được là gốc của không thời gian trong vũ trụ để dùng Mắt Đất mà quan sát toàn ảnh của mô hình vũ trụ rồi vậy!!! Và tôi cũng giới thiệu cùng các bạn luôn một thể đối với hệ thống của bộ Cửu Tinh Thiên Tôn là; Bộ sao này cũng có tên là Thiên Mục!!! Ta lại có được cách gọi rất hình tượng trong tư duy chung của phương đông là “Thiên Nhãn” rồi vậy. Và vị trí xác định được theo nguyên lý định và bất định chính là vị trí của sao Bắc đẩu phía trên của đồ hình Cửu Cung như các bạn đã được biết. Tất nhiên điều xem xét cuối cùng là “Nhân Mục”, chính là bộ Cửu Tinh Quý Thần đấy các bạn ạ! Thế nhưng chúng ta chưa xác định được vị trí thứ 3 này. Đó cũng là lý do tại sao tôi nói chúng ta đi sớm một bước. Bởi vì vị trí để Nhân Mục đứng vào để quan sát mô hình của vũ trụ là chưa có.
Tóm lại: Chúng ta đồng nhất cùng Thiên Mục, Địa Mục và Nhân Mục, mô phỏng một cách trung thành với Thiên Ý là hệ Tam Tài. Để đứng vào đúng vị trí của nó trong không – thời gian của vũ trụ để quan sát vũ trụ vạn vật là khả dĩ tuyệt đối sánh cùng Thiên Cơ rồi. Điều này nó cũng phản ảnh ở hệ thống (tam tài) của một Nguyên tử đơn thuần với 3 hạt là electron – proton – neutron vậy.
Bằng như xét chi tiết hơn nữa để tôi xô đổ luôn mọi quan điểm đã lung lay tận gốc rễ của nền khoa học vật lý như sau:
Nếu ta tiến hành va chạm cho một electron thì lập tức nó cũng vỡ ra thành hệ 3 “mảnh vỡ” nhỏ hơn với thành phần của các quark; Up – Down – Neutrino! Vốn cũng là hệ Tam Tài khác mà thôi. Cho dù nó có biến ra thành tro, hoặc hóa hư không, ta cũng nhận diện được. Bởi các bạn đã cùng tôi nắm được cái gốc nguyên nhân của toàn bộ sự việc rồi. Nếu các nhà chuyên môn tiến hành xem xét thí nghiệm va chạm đối với hạt proton thì nó phản ảnh ra thành; 3 điều kiện cơ bản đó với 2 quark Up và một quark Down!! Bằng như va chạm cùng hạt neutron thì lại có 2 quark Down và 1 quark Up!!!
Thế nhưng ta quan sát thấy mô hình của hai hạt proton và neutron là không đủ để được gọi là cơ bản cho mô hình chuẩn của tự nhiên là Tam Tài rồi vậy. Và tôi liệt kê ra hệ thống cơ bản nhất của thế giới hạt này cùng các bạn thưởng lãm bức tranh trừu tượng của Tạo Hóa này như sau:
1- Thí nghiệm va chạm của hạt Electron, ta có hệ thống cấu thành cơ bản là 3 quark: Up – Down – Neutrino!
2- Thí nghiệm va chạm của hạt Muon, ta có hệ thống cấu thành cơ bản là 3 quark; Charm – Strange – Neutrino!!
3- Thí nghiệm va chạm của hạt Tau, ta có hệ thống cấu thành cơ bản là 3 quark; Top – Bottom – Neutrino!!!
Được tôi trình bày cụ thể phả hệ như sau:





Đó chính là hệ thống Tam Tài mà Tạo Hóa đã bủa Thiên La, Địa Võng khắp vũ trụ. Một mạng lưới của Trời Đất, chứ không phải hình ảnh trừu tượng của hệ thống mạng lưới trong thế giới kỹ thuật số. Nó đã được mô phỏng như hình của cái mạng lưới nhện trong bát quái hoặc cái mạng lưới các ô vuông trong biểu đồ không – thời gian của Friedmann vậy. Thế nên vạn vật trong vũ trụ không có thể thoát ra khỏi cái hệ thống vận hành của mạng lưới này cho được.
Thế nên ta quan sát thấy trong Cửu Cung với hệ thống số đã được ngôn ngữ đơn thuần diễn đạt qua hệ thống của Cửu Tinh này rồi vậy. Ví như các bạn có thể hình dung để nắm cái cội rễ của sự việc này như sau;
  • Chúng ta quan sát thấy qua hệ thống số tính theo thứ tự tự nhiên thì hệ số 1 – 2 – 3 là mô phỏng hệ thống của Tam Tài thứ nhất. Hệ thống này đã được phản ảnh qua mô hình của không gian 3 chiều vật lý hiện tại. Xét theo quan điểm phương đông thì số 4 là số thành. Điều này cũng có nghĩa là nó đại diện cho cái lý tiềm ẩn trong đó là chiều thời gian. Và đó cũng chính là hệ thống của mô hình không – thời gian 4 chiều.
  • 2. Thế nên xét đến hệ số 4 – 5 – 6. Ta thấy đây chính là hệ thứ hai, cũng mô phỏng một cách trung thành với hệ Tam Tài và được phản ảnh như: Số 7 cũng có giá trị tiềm ẩn như số 4 trước đó. Tất nhiên chúng ta cũng quan sát thấy nó trong mô hình của một tuần lễ với 6 ngày hoạt động và ngày nghỉ thứ 7 tiềm ẩn trong một tuần đó. Đấy cũng chính là quy luật mà ta nghe nói rằng ngày xưa Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong 7 ngày vậy.
  • 3. Và cuối cùng thì ta xem xét đến hệ số cuối là 7 – 8 – 9. Rõ ràng…, để trung thành một cách tuyệt đối với trật tự mô phỏng của vũ trụ tự nhiên đó; Hệ tam tài cuối cùng này cũng có số 0 tiềm ẩn để kết thúc cũng như quay trở về chu trình ban đầu. Tuy nhiên ta vẫn có thể gọi đó là số 10 để tiến triển đến tương lai với những mô hình vận hành đến vô hạn của hệ thống.



Tóm lại: Qua trình bày ở trên đây. Các bạn đã có được nền tảng cơ sở của nguyên nhân hình thành và vũ trụ tự nhiên vận hành một cách chính xác và tuyệt đối rồi vậy. Bởi vì các bạn quan sát một so sánh hai vật bị quan sát mà tôi nêu ra như sau:




Các bạn nhận thấy bảng 1 và 2 đều mô tả như nhau về một mô hình cũng như trật tự một cách tự nhiên như thế trong hệ thống của biểu đồ. Điều này lại được tôi chỉ rõ nó thể hiện một cách tiềm ẩn trong mô hình…:




Khi ta quan sát trong biểu đồ không – thời gian (cửu cung) của hình 1 ở trên. Lưu ý: Lúc này ta thấy mô hình cửu cung hay biểu đồ không – thời gian, hoặc mô hình không gian đã đồng nhất làm một với nhau rồi. Thế nên ta có thể đọc nó theo ý nghĩa của biểu đồ nào cũng được các bạn nhé. Vì thế trong hình 1 là diễn tả trật tự hình thành của hệ thống Tam Tài. Đọc theo kênh ngang thì hàng trên cùng là thành phần cấu tạo nên Lý Thiên. Hàng giữa là Lý Địa và hàng cuối cùng là Lý Nhân.
Vật thì khi ta quan sát và xem xét đối với hình 2 thì thấy đó là sự bố trí hệ thống tam tài này đổi theo kênh dọc…
Và hình 3 là thể hiện sự vận hành của hệ thống như Dịch Lý là: Lý Nhân đứng giữa để dung hòa Trời Đất mà điều hành vạn vận phát triển đến tương lai với giá trị vô hạn trong đó.
Thời điểm của luận giải này chợt làm chúng ta ngỡ ngàng bởi: Mô hình này chính là mô hình Thế Cục của học thuật mà ta quen gọi là Kỳ Môn Độn Giáp suốt hàng ngàn năm qua!!! Sở dĩ tôi mang ra hệ thống số này để so sánh, gợi ý cũng các bạn là bởi; Đây chính là cục diện vận hành đầu tiên trong Kỳ Môn Đôn Giáp đơn thuần nhất, để các bạn dễ nắm bắt sự việc mà hình dung. Ví dụ:


Biểu đồ Thế Cục của Tam Kỳ Lục Nghi. (trong Kỳ Môn Độn Giáp)




Với các bạn đã biết qua Kỳ Môn Độn Giáp thì có thể bày bố cục của Kỳ Môn ra mà chiêm nghiệm một cách rõ ràng rồi vậy. Hệ thống này ta gọi là “Tam Kỳ Lục Nghi”.
Điều này có nghĩa là bài viết này đã đưa chúng ta vào thẳng sự thật tiềm ẩn phía bên trong của thế giới hạ nguyên tử rồi vậy. Các nhà bác học nói chung, chưa có thể biết được điều này. Bởi qua đây, chúng ta có thể trả lời cùng các nhà chuyên môn giá trị thành quả trước khi cuộc thí nghiệm va chạm của các hạt được tiến hành rồi. Bởi thế giới đó chẳng qua cũng chỉ mô phỏng lại sự vận hành của vũ trụ theo trật tự tự nhiên này mà thôi. Bởi điều này có cùng một bản thể không khác được. Vậy, các cuộc thí nghiệm của các nhà chuyên môn phía bên trong các phòng thí nghiệm chỉ còn giá trị đơn thuần là xác minh lại thành quả cũng như nguyên nhân sự vận hành này mà thôi. Ngay lập tức, ta thấy những nguồn kinh phí khổng lồ để đầu tư cho những thí nghiệm va chạm của thế giới hạt đã được bảo toàn giá trị dự trữ rồi vậy…
Thế nên tôi bố trí lại các hệ thống hạt trong thế giới này có trật tự nhất định theo như mô hình của vũ trụ tự nhiên vận hành như sau:




Qua những gì trình bày trong bài viết này; Chúng ta thấy rằng thuật lập Kỳ Môn là hoàn toàn quá xa lạ đối với quan điểm của các vị Thầy, Bà xưa nay từng tưởng tượng trong sự mê tín chung. Điều này chứng minh cho câu mà tôi từng phát biểu rằng: Các vị sợ mọi người cho là mê tín, nên rất muốn khoác chiếc áo khoa học lên mình của các vị. Thế nhưng chiếc áo khoa học đó là quá rộng đối với các sự hiểu biết của các vị rồi. Chúng ta không nên cứ lạm dụng ngôn từ khoa học này một cách liều lĩnh như thế nữa. Rất mong lắm thay. Bởi sự kém cõi đó chỉ làm rối loạn cũng như ô uế thêm bản thể của Đạo hơn mà thôi. Trước hết, những quan điểm đó đã phủ lấp toàn bộ giá trị chân lý của Đạo là một điều thực tế như xã hội hiện nay tại đất nước Việt Nam của chúng ta.
Tôi mượn một câu nói của Nguyễn Bĩnh Khiêm để kết luận bài viết này như sau:
“Uổng thay cho cái học mọi đương thời”.
Và đó cũng chính là một lời Sấm Truyền của Trạng Trình nước Việt cho thời cuộc hôm nay. Và đồng thời cũng đã ứng nghiệm trên trang Ký Sự Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư này rồi vậy.


74 - TAM KỲ LỤC NGHI



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




( theo câu hỏi của bạn đọc Tuấn Nguyễn)
… “Có khúc mắc một chút trong ‚’’ biểu đồ thế cục của tam kỳ lục nghi ( trong Kỳ môn độn giáp) là, đối với cung Khảm thì hiện nay đang bố trí là các tiết khí là Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn là hết cung Khảm, nhưng trên đồ hình của thầy đưa lên thì cung Khảm lại bắt đầu từ Tý là tiết Đông chí, đến Tiểu hàn, Đại hàn thì lại chuyển sang vị trí của Sửu thuộc cung Cấn một cung là tiết Đại hàn, Thầy có thể giảng về sự khác nhau đó được không ạh".
Trước hết, chúng ta cùng nhau tham luận những ý mà tôi sẽ nêu ra như sau:
Đầu tiên trên trang này bàn đến việc chúng ta lạc mất cội nguồn bao gồm lịch sử, văn hóa và giống nòi Thần Tiên. Quan sát rộng ra…, Nền khoa học cũng đang lạc mất nguyên nhân! Rồi tôn giáo cũng lạc luôn cả chân lý của đạo từ thuở tạo thiên lập địa mà các giáo chủ thay nhau chuyển kiếp…, mong vãn hồi trật tự đã mãi rối loạn theo năm tháng. Từ đó khiến nên quy luật của vũ trụ phải đến hồi phải đào thải, tận diệt.
Tuy nhiên, đến thời điểm này. Chúng ta đã cùng nhau xác định được 2 vị trí thực tại, tiềm ẩn trong mô hình trật tự tự nhiên của vũ trụ rồi. Đó là một thành quả nhất định đã đạt được cho quan điểm cũng như tư duy chung của chúng ta. Các bạn nhớ bước chân đầu tiên chúng ta tìm hiểu ở chốn mà tôi gọi là Thiên nhai Hải giác. Vậy Thiên Nhai có nghĩa là Chân Trời và Hải Giác là Góc Biển rồi vậy.
Thế nên từ đây suy ra…; Nếu liên tưởng đến đồ hình của mô hình không – thời gian đơn thuần, cơ bản nhất có mẫu tương quan với biểu đồ của Cửu Cung trong Dịch Lý nói chung. Và ta quan sát thấy đối với vùng chân trời thì sự kiện chất điểm phải xuất hiện tại vị trí của Sao Bắc Đẩu. Thuộc về vị trí của cung Khảm (khởi thủy) phía trên của biểu đồ là tuyệt đối. Tất nhiên để đối lập với trật tự tự nhiên đó, miền hải phận phải có định xứ nguyên nhân tại vị trí gốc của không – thời gian là ở vào hướng Tây Nam của đồ hình. Ta có thể tham lược lại biểu đồ đó như sau:




Vậy căn cứ vào nền tảng cơ sở này. Tôi sẽ bố trí cùng các bạn, mô hình của Kỳ Môn Độn Giáp vào biểu đồ đó với trật tự tự nhiên như sau:




Các bạn còn nhớ tôi thường nói câu “định phương, lập hướng” trong những bài viết trước đây! Cho nên quan sát biểu đồ trên đây thì trong hình thứ nhất vốn là âm tính. Thế nên ta bố trí trật tự của Tứ Lập theo 4 Tiết Chính trong năm, phải ở vào vị trí của 4 góc này. Tất nhiên các bạn thấy trong hình hai là Tứ Phương với vị trí của 4 Tiết chính khác nữa, vốn thuộc dương tính nên phải có vị trí như thế mà không thể sai lạc cho được. Tất nhiên đó là 8 tiết chính trong 24 Tiết của một năm mà ta quen nghe gọi là Bát Tiết. Dĩ nhiên chúng ta đều đã biết trong Bát Tiết này thì Tiết Đông Chí thuộc khởi sơ khí của đầu năm. Đồng thời vị trí đó phải là Cung Khảm, nên cũng gọi là Khởi Thủy vậy.
Do mỗi Tiết, ứng với các Cung và số như; Khảm=1, Khôn=2, Chấn=3, Tốn=4, Kiền=6, Đoài=7, Cấn=8, Ly=9. Phù hợp với Bát Quái của Lạc Thư. Trong quy luật của Bát Tiết thì cứ mỗi Tiết chính lại kiêm hai Tiết phụ trong cùng một cung đó như sau:




Qua sự bố trí theo trật tự ở trên. Ta thấy cứ một trong 8 tiết chính thì đều kiêm 2 tiết phụ trong đó. Và cứ 3 tiết (tam tài) là cơ cấu hình thành bên trong của một Cung Quái như Kiền, Khảm v.v… Ta không có thể bố trí một cách tùy tiện, mất trật tự của mô hình tự nhiên cho được. Về nguyên tắc này, tôi cũng đã có bố trí trong hình “Thái Cực Tượng Đồ của Nước Việt Nam Trong Kỷ Nguyên Mới” ở trang các bài trước đấy. Cung Khảm nhất định kiêm 3 tiết Đông Chí – Tiểu Hàn – Đại Hàn không khác được. Bằng không, ta không có thể nào mà lập Kỳ Môn Độn Giáp cho được. Nếu cố lập nữa, ắt cũng không thể nào dụng cho được cả. Bởi nó đã sai với mô hình vốn có của vũ trụ vận hành từ cội rễ rồi.
Ta nắm được cái gốc nguyên nhân cũng như nền tảng cơ sở của trật tự quy luật này. Tác giả nào viết sai trật tự của mô hình tự nhiên này là ta nhất định biết là sai ngay tức khắc. Bằng như họ cố cãi nữa! Ta đủ biết phải làm sao rồi vậy. Thế nên; Sách không còn đủ giá trị để minh chứng đúng sai nữa rồi vậy. Do ta đã biết cũng như hiểu thấu sự việc từ nguyên nhân của những sự việc đó, vốn là như thế rồi.
Khi ta bố trí một đồ bàn Bát Quái hay Bát Môn như xưa nay. Thì những giá trị này là hoàn toàn không có chữ. Vậy ta phải biết đọc cả chỗ không có chữ này trong sự tưởng tượng của tư duy nữa. Thế nên mới có sự việc như: Cùng một đồ hình, mà tại sao người này nhìn vào lại “thấy” nhiều giá trị thông tin hơn người khác là chính ổ chỗ “không có chữ” này mà ra cả. Vậy kết quả là cùng nhìn như nhau, thế nhưng giá trị lại lệ thuộc vào cái vốn tri thức mà mỗi người đã tích lũy trước đó, khiến nên có khác thành quả đạt được.
Cái sự học này mới gọi là “tư tưởng học thuật”. Mắt nhìn không thể nào thấu cho được rồi. Bởi những giá trị ngôn ngữ đó là hoàn toàn vô hình cả thảy. Thế nên mới gọi là Thiên Cơ. Không phải che hay giấu đi giống như cái học của thế nhân. Cứ phơi bày ra trước mắt cả đấy, chẳng ai có thể học hay lấy đi đâu cho được cả. Bởi có chữ nào đâu mà phải che với giấu!? Đó là ta đã Lĩnh Hội được tư tưởng của học thuật này.
Dĩ nhiên, nếu ta bố trí những trật tự như trên sai lạc quy luật đi. Tất nhiên ta không có thể vận dụng nó cho được. Bằng như cố khai thác, ta phải mất công sức đến hết cả một đời mà vẫn chưa có thể biết cũng như lĩnh hội nổi học thuật này cho được. Những tình trạng như thế, đã xảy ra không biết bao nhiêu cho thế nhân chúng ta xưa nay, một khi ai đó khai thác đề tài này.
Và sau đây, tôi mới có thể ứng dụng mà khai thác cùng các bạn tham khảo như sau:
Tính từ khởi thủy là tại Cung Khảm. Bởi khí đầu năm vận hành tại vị trí của Tiết Đông Chí. Vốn là dương khí, nên vận hành hết nửa vòng là đến hết tiết mang chủng thuộc thuận hành. Ta cũng biết đó thuộc là phần dương, theo mô hình lưỡng nghi của Thái Cực. Rồi từ tiết Hạ chí đến hết tiết Đại Tuyết thuộc âm, nên vận hành theo chiều nghịch.
Thế nên căn cứ vào số 1 tại cung Khảm làm thế cuộc đầu tiên. Từ đó ta tính đi… và kết hợp những giá trị của nơi không chữ trong tư duy như: Một năm có 24 Tiết. Cứ 2 tiết vào 1 tháng là hợp với 12 tháng trong năm. Lại 2 tháng vào 1 Khí, thành ra 6 Khí cả thảy. Lại 1 Tiết có 3 Hậu, 1 Hậu có 5 ngày. Vậy 72 Hậu x 5 ngày = 360 ngày trong 1 năm trọn. Vậy ta tính nữa năm đầu, tính từ tiết đông chí là có 36 thế cuộc vận hành theo dương thế. Cho nên:
Vậy dương thì hành âm nên ta lấy số 1 của Cung Khảm làm kỳ thứ nhất là thượng nguyên, Thiên lý, Ất kỳ, v.v… những giá trị có liên quan. Cộng với số của Lão âm là 6. Thế nên ta có cuộc thứ hai là số 7, vận hành theo quy luật của trung nguyên thế. Và cuối cùng thì lại 7 + 6 nữa là được 13. Ta lại lấy đó trừ cho số 9 là Lão Dương, ta sẽ được 13-9=4. Đó chính là số của cuộc thế hạ nguyên mà ta đã thấy như 1 – 7 – 4 trên biểu đồ của Tam Kỳ Lục Nghi.
Một ví dụ điển hình như; Nếu các bạn đang đọc bài này vào từ ngày thứ 20 đến hết ngày 25 tháng này (âl). Là ta phải căn cứ vào số của Tam Kỳ Lục nghi của Tiết Đại Hàn mà lập thế cuộc kỳ môn số 9 (thuộc vận hành theo thế cuộc trung nguyên) trong tất cả 72 thế trận Kỳ Môn Độn Giáp. Ta có thể theo thế cục đó mà tính tùy theo là 5 ngày , 5 tháng, 5 năm v.v…, cho từng sự kiện muốn ứng dụng mà xem xét. Đó là lệ chung. Tuy nhiên cũng tránh gặp phải các bạn khác lại thắc mắc, vội đả kích. Nên tôi lưu ý rằng: Năm nay là năm Nhuận, nên Kỳ Môn rất khó tính. Thế nên ta phải dụng đến phép Siêu Thần, Tiếp Khí mới bố trận chính xác được. Là học thuật khó nhất trong Kỳ Môn Độn Giáp. Bởi ngày 19 trở đi đã là chuyển ra thế cục khác mất rồi. Do tháng nhuận tác động mà ra lạc Tiết, Khí đi hết. Thế nên thay vì cục số 9 như thường lệ đó. Ta phải lập cục thế số 8 mới chính xác được! Phức tạp vô cùng. Tôi tạm lưu ý như thế, kẻo lại làm rối các bạn lên hết mà không nắm bắt được. Chu Du ngày xưa thua Khổng Minh chính là bởi yếu tố này mà tính không ra Gió đổi hướng trong trận Xích Bích đấy.
Từ đây ta mới có thể hiểu ra được rằng: Cái đàn mà Khổng Minh lập ngày đó để hú gió gọi mưa chỉ là đòn hỏa mù mà thôi. Bởi không ai có thể hiểu nguyên cớ này cho nổi, cứ hồ nghi. E họ trễ nải việc binh, nên phải giả lập cái đàn như thế để mọi người không dám xem thường mà trễ nải việc binh. Người đời không hiểu thấu cơ sự, nên lại cho rằng Khổng Minh có khả năng khiến cả quỷ thần mà điều cả gió, khiển lẫn mưa! Lại dìu dắt nhau vào sự mê tín cả một lượt. Từ đây mới dẫn đến những sự việc học đòi theo mà lập đàn, cắm cờ xanh đỏ, rồi bấm độn, đọc thần chú, đốt bùa mà gây rối loạn hết cả thiên hạ đi hết một lượt. Tôi mà kể đến chuyện “sái đậu thành binh” ra đây nữa là… Các bạn phải lăn quay ra mà ôm bụng, cười lau nước mắt không kịp với các vở diễn hề đối với thiên cơ luôn đấy. Nói sao hết việc thế nhân đại loạn mà gây rối trật tự xã hội mãi xưa nay.
Tôi nhắc thêm về Tam Kỳ Lục Nghi có nghĩa là: Kỳ Môn là chu kỳ của thời gian vận hành qua 8 Cửa. Trong đó thì Can Giáp phải độn trong mô hình của Cửu Cung đó. Và Tam Kỳ cũng có nghĩa như thế. Là 3 chu kỳ của thời gian vận hành mà vạn vật đều nhất loạt chịu sự tác động chung trong cùng một quy luật đó mà biến hóa theo. Đó là Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên. Ý nghĩa của thuật này phối vào với ý của Thập Thiên Can như sau:
Do Giáp đã độn (Độn Giáp), cho hợp với 9 cung. Vậy ta tính từ 1 là Ất, 2 Bính, 3 Đinh. Ta gọi đây là Tam Kỳ. Chu kỳ thứ nhất thì gọi là Ất Kỳ, thuộc thượng nguyên cuộc thế. Chu kỳ thứ hai là Bính Kỳ, là trung nguyên cuộc. Và chu kỳ thứ ba là Đinh kỳ với hạ nguyên vậy. Số can còn lại, được tính từ Mậu đến Quý là 6 Can cả thảy. Ta gọi đó là Lục Nghi. Nghi ở đây có nghĩa là Ngôi, là chỉ vị trí của Can đó. Đấy là ý nghĩa của thuật ngữ Tam Kỳ Lục Nghi mà học thuật Kỳ Môn Độn Giáp sử dụng.
Vậy ta thấy, trong một Tiết, đã có tất cả 3 sự vận hành theo tam lý trong đó rồi. Vậy tính chi tiết ra thì ta có 1 kỳ là 5 ngày bằng 1 Hậu. Thời gian tính như ngày xưa thì 12 giờ là 1 ngày. Ta có 12 giờ x 5 ngày = 60 giờ! Điều này có nghĩa là Một nguyên với 60 năm, tương ứng với chu kỳ vận hành của 60 Hoa Giáp là trọn đủ 1 vòng. Mô hình đó đã phản ảnh một cách chi ly trong khoảng thời gian của 1 Hậu với 60 giờ rồi. Như thế, ta có thể nắm diễn biến sự việc trong có thể nói được là từng phút rồi vậy. Thậm chí, có thể tính đến từng sát na như lời phật từng có nói đến. Những giá trị của cái gọi là sát na đó. Hôm nay nhân loại chúng ta mới có thể bám kịp cùng vận tốc của ánh sáng mà có thể chi phối được tốc độ của một đầu đạn hạt nhân đã rời bệ phóng, vốn mang đầy tham vọng của loài người.
Tất nhiên; Ta biết được lúc nào mà đầu đạn đó đang đi vào vùng mà chu kỳ của không - thời gian thuộc Cửa Tử. Thiên La đang đợi sẵn… Lưới trời lồng lộng mà thế nhân khó có thể thoát cho được rồi vậy.
75 - TRUY LÙNG… GIÁ TRỊ THỰC TẠI TIỀM ẨN




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Với tiêu đề của bài viết này. Các bạn thấy rằng câu Truy Lùng Giá Trị Thực Tại Tiềm Ẩn cũng có giá trị như là giá trị của một chân lý thực tại thất lạc vậy!
Các bạn chỉ hình dung rằng những giá trị đó chưa bao giờ hiển lộ, kể từ ngày Tạo Hóa gây hình vũ trụ cho đến hôm nay rồi. Chí ít thì trong giới hạn của 100 năm qua nơi đỉnh cao của nền khoa học vật lý. Biết bao nhà bác học cũng đã thay nhau chuyển giao cái ước mơ miên vĩ đó cho các thế hệ nối tiếp…, cứ thế mà chuyển giao… và chuyển giao…
Thế nên trong trang này. Chúng ta đang cùng nhau thảo luận đến sự việc hầu như là không tưởng, đối với nhân loại xưa nay nói chung. Đó là một lý tưởng, chúng ta hãy cố gắng dấn thêm nơi đoạn cuối để vượt qua cái sa mạc này nhé. Vậy chúng ta lại tiếp tục cuộc trường chinh..., khai thác suối nguồn đã lạc mạch. Thế hệ hôm nay, nếu một khi đã được hé lộ phần nào đó của thiên cơ. Chúng ta không có thể chấp nhận được việc; Tại sao dân tộc Do Thái với Kinh Thánh, họ đã khơi nguồn được cái mạch giếng giữa sa mạc khô cằn như thế. Khiến nên hằng năm, các giáo chúng có chung một cội nguồn vẫn hành hương về trung đông để tưởng nhớ...
Vậy thì không có lý do gì mà dân tộc Việt hôm nay đã tìm được Kinh Dịch cùng giống nòi thất lạc rồi, mà lại không có thể khơi được mạch suối nguồn chân lý đã tắc dòng từ trong quá khứ xa của dòng Sử Thần Tiên cho được?!
Mở bài với vài dòng mài dũa sĩ khí dân tộc lại như thế cho thêm tinh nhuệ. Chúng ta tiếp tục cuộc du hành thôi các bạn nhé:
Qua tham khảo bài Cửu Cung, chúng ta tích lũy thêm những giá trị tri kiến để quay trở lại quan sát chi tiết hơn đối với Ma Trận cấp 9x9 vừa qua một cách toàn diện các góc độ có được như sau:




Bây giờ, khi các bạn quan sát lại hai biểu đồ vừa nêu ở trên đây. Các bạn thấy đó chính là hai mô hình diễn đạt với những quỹ đạo tương tác cơ bản nhất mà chúng ta đã biết rồi. Thế nhưng vấn đề phát sinh là với mô hình của Ma trận cấp 9x9 trên đây. Mô hình này chỉ có đáp ứng được tất cả là 16 Ma trận có giá trị cùng một đáp số 369 mà thôi! Yêu cầu đòi hỏi đáp ứng hàng trăm Ma Trận (9x9) tương xứng là có khiếm khuyết nhất định cho mô hình cơ bản tổng thể rồi. Là bởi:
Xét theo nguyên lý của Dịch thì hệ thống Tam Tài có trật tự số sinh là 1 – 2 – 3. Nguyên lý này được thể hiện như câu… một sinh hai, hai sinh ba..., và ba sinh… vạn vật! Điều này cũng có nghĩa số 4 là “số thành” rồi vậy. Thế nên ta xét thấy Ma Trận các cấp của hệ số dương như 3, 5, 7, là đã vận hành qua 3 bước rồi. Vậy cho nên bước thứ 4 là phải biến, mà hóa ra khác đi nữa! Từ đây suy ra số 3 đã là giới hạn mà ta quen gọi với thuật ngữ chuyên môn là chân trời sự cố. Điều này được phản ảnh như không gian 3 chiều, và chiều thứ 4 là phải tiềm ẩn đi trong mô hình của không gian đó vậy. Là ở về phía bên kia của chân trời sự cố. Vùng biến cố địa phương! Thế nên quỹ đạo vận hành của 3 vùng không gian này là không còn giá trị ứng dụng được nữa. Đã thế, tôi lại thiết kế một mô hình của Ma Trận cấp 9x9 với một quỹ đạo khác và không khác đó (theo lý tính của Thuyết Lượng Tử bao gồm cả Dịch Lý) như sau:




Với mô hình Ma Trận cấp 9x9 mà tôi vừa nêu ra ở trên. Các bạn quan sát thấy tổng các quỹ đạo vẫn có đáp số là 369. Mặc dù mô hình này đã thay đổi hệ thống số và tương tác qua các quỹ đạo khả dĩ khác đi, so với Ma Trận mà ta đã được biết! Tuy nhiên đối với mô hình này. Chúng ta đã đáp ứng được hàng trăm mô hình tương quan như yêu cầu đã được đặt ra và đòi hỏi là đồng bộ cùng mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên là như thế!
Thế nhưng vấn đề rắc rối lại phát sinh là hệ thống Tam Tài đòi hỏi mô hình của trật tự thứ 3 cho đủ cơ bản của Thiên – Địa – Nhân!!! Đã thế, chúng ta phải giải quyết cho đến cùng. Bởi nhân loại đang cần một mô hình của tương lai thật sự cơ bản một cách tuyệt đối. Các bạn tiếp tục tham khảo tôi lại phải thiết kế thêm một mô hình của Ma Trận khác đi nữa như sau:



Với mô hình này, tôi đã cho các hệ thống số phân tán đúng nghĩa của thuật ngữ Ma Trận Phân Tán trong toàn miền không – thời gian của vũ trụ cuối đó. Các bạn vẫn thấy được giá trị bảo toàn là 369 cho toàn vùng, không khác!
Sự phức tạp lúc này đã được đẩy lên đến đỉnh điểm của mô hình đang được xem xét đến. Bởi vì chúng ta nhận thấy nơi không – thời gian cuối cấp của hệ thống số này. Cứ mỗi một trong 3 mô hình Ma trận cơ bản như thế, lại còn kiêm hàng loạt những mô hình của Ma trận cơ bản khác (!?) , bên trong đó nữa. Những mô hình vũ trụ trong vũ trụ! Sự biến hóa trong các vũ trụ Ma Trận làm lạc lối tư duy là có thật. Hiện cảnh mô hình của Tạo Hóa đã được mở ra trước mắt của nhân loại chúng ta như thế. Hy vọng nào cho nhân loại chúng ta xác định được đâu là một mô hình thực tại cơ bản duy nhất?
Bắt buộc thời điểm này của sự khai thác mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên. Ta phải tìm cho ra và xác định cho bằng được mô hình Ma Trận cơ bản nhất trong những điều cơ bản rồi vậy!!! Bởi vì thế giới mà nhân loại chúng ta đang sống và tồn tại trong đó. Chỉ có duy nhất một mô hình vận hành mà thôi. Chúng ta thấy rằng, khảo luận cùng với những gì đã được tôi đưa ra cho đến thời điểm này. Thật sự những thực tại cơ bản này đã bỏ rơi tư duy của các nhà khoa học lại rất xa lắm rồi.
Các bạn thấy sự biến hóa muôn hình vạn trạng nơi mô hình của vũ trụ cuối với Ma Trận cấp 9x9 là thật sự gây sốc cho tư duy chung của chúng ta. Ý thức bắt buộc chúng ta thêm một lần nữa phải quay trở ra khỏi những vũ trụ của Ma Trận đấy mà kiểm điểm lại toàn miền của cái gọi là giá trị thực tại tiềm ẩn. Trong cuộc du hành này, chúng ta đang đứng trước ranh giới của cái gọi là “mông hạn ảnh” rồi. Là cái điều mà thuật ngữ chuyên môn của các nhà khoa học hiện nay gọi với tên “chân trời sự cố”. Để vượt qua miền chân trời sự cố đó, chúng ta phải xem xét lại những công cụ, thiết bị khai thác lần cuối cho cuộc du hành ở phía trước nhé. Bởi với những giá hiện có cho đến thời điểm này. Chúng ta chưa đủ thiết bị cần thiết để vượt qua ranh giới của miền chân trời sự cố trước mắt này.
Điều tôi muốn nói đến đó, chính là vị trí quan sát thứ 3 trong không – thời gian mà chúng ta chưa xác định được. Qua đó, để ta có thể đứng vào góc độ đấy mà quan sát mô hình vũ trụ toàn miền thực tại và phi thực tại. Chúng ta cùng nhau kiểm điểm thực lực lại lần cuối cho cuộc vượt biên vũ trụ các bạn nhé:
Trong ký ức chung của tất cả nhân loại chúng ta xưa nay; Mãi mãi tồn tại câu nói “Chỉ có thời gian mới có thể trả lời tất cả”. Thế mà chẳng một ai ý thức thực tại câu phát biểu này mà xem xét toàn diện về giá trị của nó cả! Nhất định hôm nay chúng ta phải mổ xẻ đối tượng thời gian này xem xét bản thể của nó ra sao. Sau đó, ta mới có thể ứng dụng công cụ này vào khai thác mô hình của Vũ trụ Ma Trận phân tán cho được. Chắc chắn đây sẽ là câu trả lời cuối cùng và chính xác nhất. Bởi vì; Nếu như mô hình của Ma Trận nào diễn tả bản thể của thời gian trong đó. Thì mô hình đấy, chính là Ma Trận mang mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên cơ bản nhất rồi vậy. Thế nhưng thời gian vốn lại đồng nhất cùng không gian! Vậy điều cần phải xem xét trước hết phải là đối tượng không – thời gian gồm có cả thảy bao nhiêu chiều đang tiềm ẩn trong đó.
Ta nhất định phải giải cho bằng được bài toán hóc búa này mới có hy vọng hiểu biết được đối tượng thời gian đang tiềm ẩn trong chiều không gian nào của toàn vùng không gian vũ trụ thực tại. Vậy trong bài viết tiếp theo sau: Các bạn cùng tôi khai thác mô hình vũ trụ gồm có bao nhiêu chiều không gian mà giai đoạn của thời gian đòi hỏi phải xác định được. Được thế, ta mới có thể bắt buộc đối tượng thời gian phải trả lời theo đòi hỏi mà nhân loại đang yêu cầu.
Và đó cũng là yêu cầu mà Tạo Hóa đòi hỏi nhân loại chúng ta phải giải quyết. Sau đến, mới có thể vượt qua giới hạn của sự vô hạn trong mô hình vũ trụ tự nhiên được.
Mong các bạn có mặt đúng điểm hẹn. Để cùng tham gia quan sát tôi khai thác mô hình của không – thời gian thực tại tiềm ẩn trong bài viết về “sự kiện phải đến” tiếp theo sau…
.

Sửa bởi MikeDo: 08/04/2018 - 20:47


#26 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 20:51

76 - KHAI THÁC CÁC CHIỀU KHÔNG – THỜI GIAN…



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Cuộc du hành trên trang Ký Sự này. Sau khi vượt qua các vũ trụ của Ma Trận, cuối cùng cũng đã đưa chúng ta đến miền ranh giới của độ mông hạn ảnh!...
Nơi chân trời sự kiện này. Nhân loại chúng ta vấp phải sự cố mà mô hình của trật tự tự nhiên đặt ra là yêu cầu giải bài toán không - thời gian gồm có bao nhiêu chiều cả thảy! Bởi vì đó chính là chiếc vé thông hành, để chúng ta có thể du hành vào vùng biến cố địa phương tương lai được!! Vì thế, trước cánh cổng của giai đoạn, Tạo Hóa đang kiểm soát vé…!!!
Vậy các du hành viên độc giả, nhất định phải cùng hướng dẫn viên tôi; Quan sát, thảo luận, nhận định đối tượng Không – Thời gian bị quan sát đó. Bắt đầu từ những gì dưới đây, sau hai dấu chấm xuống dòng là…
Chúng ta phải quay trở lại vị trí ban đầu là biểu đồ của Friedmann với mô hình không – thời gian 2 chiều. Tiến hành quan sát toàn miền…, và thao lược lại sự hình thành vũ trụ ban đầu với sự xuất hiện trật tự các chiều như sau:






Chúng ta ôn lại mô hình hình thành của vũ trụ ban đầu với sự xuất hiện của “Chất Điểm” tại vị trí của số 0 trong hình 1. Trong hình thứ 2 thì diễn tả rằng; Chất điểm tuy trong trạng thái chân như bất động nguyên thủy. Thế nhưng thời gian vẫn đang trôi qua… Thế cho nên ta thấy theo chiều tung (quy định là chiều của thời gian), có tượng vận hành hướng lên…, để diễn tả thời gian đang vận hành.
Cứ thế, chiều mũi tên vận hành hướng lên mãi theo thời gian… Thế nên trong hình 2, tôi diễn tả tính đồng thời trong đó là ta quan sát thấy sự vận hành của thời gian đến khoảng cách mà thời điểm xuất hiện vị trí của số 1! Điều này cũng có nghĩa là thời điểm của vũ trụ ban đầu đó, trạng thái mô phỏng và phản ảnh chỉ có 1 chiều. Dĩ nhiên chiều thời gian là xuất hiện đầu tiên.
Do có tính chu kỳ, cho nên tại thời điểm của chu kỳ. Thời gian 1 chiều đó tự nhiên phải lập lại. Thế nên cái lý, do lập lại tại điểm 0 ban đầu. Chiều không gian vốn có tính đồng nhất, nên bắt buộc phải đồng nhất cùng chiều thời gian mà hình thành chiều không gian theo chiều hoành trên biểu đồ của hình 3. Và ta xét thấy trong thời điểm mà chu kỳ thời gian 1 chiều lập lại đó. Vũ trụ hình thành theo trật tự tự nhiên là không gian chiều thứ 2 ra đời. Trong hình 3 này, tất nhiên tôi cũng lấy số 2 làm biểu thị cho chiều không gian để ám chỉ chỉ trạng thái không - thời gian 2 chiều ban đầu của mô hình vũ trụ hình thành thuở sơ khai.
Cuối cùng, hiễn nhiên là hình 4 diễn tả sự hình thành của mô hình vũ trụ ban đầu với mô hình của không – thời gian 2 chiều. Điều này mô tả chính xác với biểu đồ không – thời gian của Friedmann không khác. Cũng bởi cái lý số 4 là số thành. Thế cho nên các bạn thấy trong hình thứ 4 này, tôi đã thay ngôn ngữ số thành ngôn ngữ của ký tự.
Với biểu đồ đã trình bày vừa qua như ở trên. Tôi diễn tả chiều tung là chiều của thời gian 1 chiều theo mũi tên hướng lên. Từ A đến B là khoảng cách (x) mà thời gian vận hành để hình trong vũ trụ sơ khởi. Và chiều hoành với vị trí từ A đến C được xem là khoảng cách của không gian chiều thứ 2 tiếp theo trật tự tự nhiên của mô hình Tạo Hóa. Vì thế nên biểu đồ của Friedmann này là mô hình của không – thời gian 2 chiều mà thôi. Trong đó thì không gian 1 chiều, và thời gian là 1 chiều. Vậy điều tiếp đến là chúng ta phải tìm xem chiều không gian thứ 2 trong mô hình của không – thời gian 3 chiều đang tiềm ẩn ở đâu trong biểu đồ này?
Ta cũng biết không gian và thời gian vốn có tính đồng nhất trong đó. Vậy ta xem xét đối với một trong 2 chiều thì chiều không gian thứ 2 không thể tiềm ẩn trong chiều hoành, vốn là chiều không gian thứ 1 ban đầu cho được. Mà nó phải tiềm ẩn theo chiều của thời gian là chiều tung trong mô hình. Nguyên tắc hình thành ban đầu là xuất hiện chiều thời gian vận hành trước. Cho nên ta cũng xem xét và lược lại sự hình thành vũ trụ ban đầu với sự xuất hiện trật tự các chiều tại vị trí có khả năng tiềm ẩn của chiều thời gian như sau:




Vẫn trung thành theo nguyên tắc cũng như trật tự của sự hình thành đó của mô hình tự nhiên. Với hình 1, lúc này đã được trình bày đúng với biểu đồ không – thời gian 2 chiều của Friedmann. Cho nên các bạn cũng quan sát thấy hình thành các ký tự A, B, C là bởi: Khi ta xem xét trong chiều dọc (chiều thời gian) thì ta phải đọc ngang. Cho nên lúc này phải bố trí ký tự theo trật tự của sự thành quả chứ không phải là cái lý của nguyên nhân nữa. Do ta đang tiến hành xem xét và khai thác chiều không gian thứ 3, đang tiềm ẩn trong chiều thời gian thứ 1 chứ không phải ở chiều không gian thứ 2. Và các bạn cũng đừng quên đây cũng chính là cái lý của Dịch vậy.
Vậy tôi sẽ trình bày sự khai thác đó, các bạn tiếp tục quan sát tiến trình tiếp diễn được lập luận lý của nó như sau:
Các bạn cũng đã biết rằng tại vị trí của A, chính là vị trí mà ta đã xác định được là vị trí gốc của không – thời gian rồi. Như thế, nếu xét trong khoảng cách của chiều không gian đó thì; Điểm B chính là vị trí “điểm ngọn”, so với “điểm gốc” của không gian. Và khi ta chuyển vị trí quan sát qua góc độ của chiều thời gian thì cũng đồng một mô hình mà tự nhiên phản ảnh như thế. Cho nên từ A đến C cũng có nghĩa là vị trí điểm gốc và ngọn của chiều thời gian trong mô hình cơ bản chung.
Do không – thời gian vốn là đồng nhất. Thế nên ta nối một đường thẳng từ điểm ngọn của chiều không gian tại B và chiều thời gian tại C lại với nhau. Ta chia đôi giữa đường thẳng của hai chiều không – thời gian đó để xác định vị trí tâm của hai chiều tại điểm d. Tiếp đến, thì sự diễn đạt trong hình 2 là ta nối một đường thẳng tại vị trí gốc của không thời gian đến vị trí tâm của không – thời gian. Ta sẽ xác định được chiều thứ 3 phải xuất hiện. Và hình 3 như ở trên, là mô tả đến sự hình thành của mô hình không – thời gian 3 chiều hoàn thiện từ buổi ban đầu của vũ trụ cơ bản tự nhiên không khác được.
Từ đây, ta rút ra được một kết luận rằng: Không gian chiều thứ 3 sẽ xuất hiện tại vị trí giữa tâm của không – thời gian 2 chiều. Có nguyên nhân phát triển dựa trên nền tảng tại điểm gốc của không – thời gian.



Với những gì mà tôi trình bày vừa qua ở trên. Chúng ta nhận thấy một mô hình thực tại của vũ trụ sơ khởi hình thành ban đầu với trật tự các chiều từ 1, 2, 3 trong đó một cách cơ bản nhất định. Điều này như một quyết định khai tử mô hình không - thời gian hình thành ban đầu của Thuyết Big Bang. Nó vốn chỉ được sinh ra từ sự hư cấu của một giả định không xác định. Là quan điểm chung đã hình thành từ sự xác xuất của Thuyết Lượng Tử đương thời khi đó mà thôi. Đây quả thật là cả một sự vô lý mà tôi rất lấy làm ngạc nhiên vô cùng. Khi Thuyết Big Bang nổ ra là đã có đủ 3 chiều không gian bao gồm cả chiều thứ 4 là thời gian trong đó rồi!
Sự đột tử từ Thuyết Big Bang qua kiến giải sự hình thành vũ trụ ban đầu như ở trên. Sẽ khiến cho mô hình không – thời gian của Lý Thuyết Dây, chỉ là sự hoài thai giả định trong tư tưởng của các nhà bác học mà thôi. Bằng như các nhà khoa học không chấp nhận sự tận thế đầu tiên xảy ra trong thế giới của khoa học. Không đành lòng nhìn tòa công trình Big Bang, bị nhấn chìm dưới đáy đại đương của kỷ nguyên mới là một thực tại. Tôi cũng nương theo sự nuối tiếc đó mà bố trí lại thực tại của mô hình không – thời gian của vũ trụ ban đầu đó. Và mở một lối thoát làm cứu cánh như sau:
Do tiến trình hình thành các chiều không – thời gian của vũ trụ ban đầu, vốn có trật tự tự nhiên như thế (1, 2, 3). Sự hình thành chiều thứ nhất trong mô hình của vũ trụ sơ khởi ban đầu là thời gian. Những thực tại ý thức này, hoàn toàn không có trong ý niệm của Thuyết Big Bang nữa! Vậy tôi sẽ đưa những điều thực tại này tồn tại vào khoảng thời gian từ giây 0, sau vụ nổ Big Bang đến thời điểm của 10^-33. Thời điểm mà quan điểm của Thuyết Big Bang gọi là “thời kỳ lạm phát”. Ta thấy xu hướng các nhà khoa học lạm dụng quy tắc; “Được phép bỏ qua những yếu tố không lý giải, để đủ được gọi là khoa học” này như một cơn nghiện kinh niên. Hoặc tôi sử dụng môt góc ngôn ngữ mô tả khác là; Như một căn bệnh nan y di truyền trên thân thể của Thuyết Lượng Tử, và lây lan dần trên diện tư tưởng rộng của tương lai.
Tóm lại; Cái thời gian sơ khai của vũ trụ ban đầu mà Thuyết Big Bang gọi là thời kỳ vũ trụ lạm phát đó. Chính là thời kỳ vũ trụ trong tuổi ấu thơ! Các nhà khoa học, với quan điểm đuổi theo những giá trị của vật chất. Đã bỏ qua giai đoạn thời gian này, giống như đã đánh cắp mất đi tuổi ấu thơ ban đầu của vũ trụ vậy!! Thế nên nhân loại chúng ta không hề biết gì đến những diễn biến từ thuở ban đầu của vũ trụ đó cho được. Thế nên thời kỳ ấu thơ của vũ trụ mà tôi vừa mở lối cho Thuyết Big Bang tìm về đó. Sẽ là một cứu cánh cho nền khoa học, nếu các nhà chuyên môn tìm về…
Với quan điểm của người Việt xưa nay. Thời kỳ ban đầu đó, được gọi là tuổi ấu thơ của vũ trụ. Là tuổi Thần Tiên! Bởi vì tuổi ấu thơ ban đầu đó lại chính là thế giới Thần Tiên của Tiểu Vũ Trụ, của tất cả vũ trụ nhân loại chúng ta. Nhân loại chúng ta vì mãi theo đuổi những giá trị vật chất mà đã vô tình đánh mất thế giới Thần Tiên này trong quá khứ của tâm khảm rồi vậy.
Và dân tộc Việt lại chính là giống nòi của Thần Tiên! Thế cho nên giống nòi này; Hiểu rõ những giá trị thực tại nào, tiềm ẩn trong thế giới của xứ sở Thần Tiên đó.
Điều này; Lại cũng là một thực tại tự nhiên của Tạo Hóa, không khác.

77 - TẢN MẠN ĐẦU NĂM MẬU TUẤT.
Chào xuân Mậu Tuất cùng các bạn trên trang Ký Sự Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư. Chúng ta cùng tán gẫu đầu năm làm động lực nhé. Nếu tính theo Ngũ Can Tuất, thì Mậu Tuất thuộc về “con chó đá”!
Thoạt nghe cũng lạ tai! Bởi như Giáp Tuất là chó gỗ (Mộc), Bính Tuất rõ là chó lửa (Hỏa) đi rồi còn gì? Vậy xét tiếp Canh Tuất là chó sắt (Kim) và Nhâm Tuất đành là chó nước (Thủy) thôi vậy. Thế nên Mậu Tuất, ắt chúng ta phải xem là chó đá (Thổ) các bạn nhé!
Nếu như dòng sử thiêng của giống nòi Thần Tiên, trót đã đa mang nặng gánh thiên thư với thiên tượng Hòn Vọng Phu nơi ải bắc Lạng sơn thì; Tại Nam môn quan cũng đáp lại tượng Hòn Phu Tử ở Kiên Giang, cùng ngóng chờ thời khắc giống nòi đoàn viên sau bao ngàn năm chia lìa. Thế nên văn hóa của dân tộc này cũng kịp có một trang huyền tích của Con Chó Đá cho đủ được gọi là đèo bòng vậy!
Một con chó ngóng chủ trong trang sử của dân tộc, suốt bao ngàn năm cũng hóa đá mà trung thành cùng đôi tượng chủ đang mãi lạc nhau!? Mong lắm thay. Con chó đá của năm nay, rũ bụi rêu phong của thời gian từng phủ lấp ký ức dân tộc Việt. Bất chợt vẫy đuôi, mừng chủ về đến đúng thời điểm mà ngàn năm giống nòi đã từng ngóng chờ trong linh cảm của núi sông bao đời qua. Chúng ta cũng đã từng biết được rằng; Con Chó Đá ngóng chủ trong trang sử thiêng của người Việt đó. Chỉ đứng lên vẫy đuôi mừng, khi chủ đã được ghi danh trong sách trời là đỗ Trạng Nguyên mà thôi. Bằng không, chó đá vẫn trơ như tượng phỗng mà ngồi ngóng mãi cùng năm tháng…, một cách trung thành miệt mài theo thiên ý.
Chúng ta cùng nhau dò tìm lại dấu vết xưa kia, kể từ khi giống nòi Bách Việt phải lưu lạc vì chiến tranh do tham vọng của thiên hạ. Vậy thì mấy ai hôm nay, trong nhóm Bách Việt đó. Biết được rằng chúng ta đã từng lạc mất dòng Lang Việt, trong giai đoạn nào đó của quá khứ đầy tang thương vốn đong đầy oan khốc. Từ đó, dẫn đến nhánh rẽ của dòng sử thiêng mà phải lạc mất một trong những tộc đầu dòng như thế?! Bởi tộc Lang Việt vốn lấy linh vật Thiên Lang làm linh hiệu (logo)!!! Nguồn gốc có diễn biến nơi đầu nguồn dòng sử của giống nòi Bách Việt, được tôi mô tả lại cùng các bạn như sau:
Các bạn riêng trên trang này đã biết qua giai đoạn khi Hoàng Đế thôn tính xong Thần Nông và Xi Vưu thì đã thành dân chung một nước. Tôi có nhắc đến việc hai tộc Phục Hy và Xi Vưu kết duyên cùng tộc Hoàng Đế (Hữu Hùng) thì được gọi là Hoa Trung (dẫn đến tên gọi như Trung Hoa ngày nay. Do ý từ chữ Trung Hòa mà ra). Khi Hoàng Đế gả con về với Xi Vưu thì được gọi là Hoa Hạ. Bằng như gả cho Phục Hy thì là Hoa Thượng. Thế nhưng ở đây chúng ta chưa bàn đến chuyện dòng của Phục Hy gả về cho Xi Vưu! Đó chính là dòng mà sử xưa gọi là Lang Việt, Điền Việt. Cho nên cái huyền tích Ngưu Lang Chức Nữ, cũng là để ám chỉ đến sự kiện này mà ra cả!
Để các bạn có thể hình dung sâu hơn nữa về cội nguồn. Tôi lại phải giới thiệu sơ qua cái gốc của sự việc đó, có nguyên nhân như sau:
Trong “Kỷ Tam Nguyên” mà ta quen gọi là Tam Tài ban đầu đó. Ta thấy có 3 dòng là Hữu Hùng, Xi Vưu và Phục Hy. Trong đó, thì họ Hồng Bàng của Xi Vưu mới là Cổ Thiên Tử mà thôi. Khi Hữu Hùng chiếm được thì mới tự lạm xưng là Hoàng Đế như ta đã biết. Thế nhưng trong giai đoạn của dòng sử xa mờ này. Khó có một ai có thể nhận ra được là;
Cha của Hoàng Đế là dòng về Thiếu Điển. Vậy cha của Chiến Thần Xi Vưu chính là dòng thuộc Thái Điển rồi vậy. Thế nhưng cha của Phục Hy là thuộc phả hệ của dòng nào? Giai đoạn mà tôi đang nhắc đến cùng các bạn ở đây chính là giai đoạn của cái gọi là Kỷ Nhị Nguyên phân lập. Cho nên, chưa có sự hiện diện của dòng Phục Hy. Đây là một sự thật mà trong thiên thư ghi chép một cách rất rõ ràng.
Bởi vì ta chỉ biết trong Kỷ Tam Nguyên, có sự hiện diện của Tam Tộc là Xi Vưu, Hoàng Đế, Phục Hy đại diện cho nguyên lý Tam Dương. Về Tam Âm là Kim Mẫu Nương Nương, Cửu Thiên Huyền Nữ và Nữ Oa Nương Nương. Từ đây, ta đều manh nha hiểu được ra rằng; Nữ Oa là vợ của Phục Hy, Tây Vương Mẫu là vợ của Hoàng Đế và Tiên Huyền Nữ là vợ của Xi Vưu. Đó là bộ Tam âm Tam dương của buổi ban đầu khởi nguồn mọi dòng sử của toàn miền quá khứ thuở hồng hoang này.
Ta không biết được rằng Phục Hy vốn lại là một thuộc quyền dưới trướng của Tây Vương Mẫu trong cung Diêu Trì mà ra. Sau khi Kim Mẫu theo về với Hoàng Đế, thì Phục Hy cũng theo mà cùng ngụ trong gò Hiên Viên của Tòa Bắc Đẩu. Chính vì sau đó, trộm tuyệt kỹ Dao Cầm mà xảy ra việc Hoàng Đế phát hiện, phải cất thân chinh phạt Thần Nông. Rồi từ đó kéo theo đến việc thôn tính Xi Vưu. Từ đây khiến dẫn đến loạn lạc ra khắp thiên hạ đến tận hôm nay, khi chúng ta đang cùng tham luận những tản mạn này. Ta không được lầm lẫn giữa Hiên Viên là Phục Hy với Hữu Hùng là Hoàng Đế. Và sau này sử mới gọi chung là Hiên Viên Hoàng Đế, Cộng Chủ, Cộng Công, hoặc Viêm Hoàng tử tôn là một. Đó chính là sự chủ đích lập lờ đánh lận con đen của họ mà ra. Không hề có việc đế Du Võng mãi tận đời thứ 8 nào, thêm thắt để lạc được vào đây cả. Mọi sai lạc này là từ Ngô Sĩ Liên bày ra một cách vô lối.
Việc Nữ Oa từng gieo cả quả núi về phía của Chiến Thần Xi Vưu khi xưa mà sử của họ còn ghi lại. Vậy thì đời của Đế Du Võng, thuộc hàng Chút, Chít đời thứ 8 nào lại dám cả gan hiện diện nơi đây cho được. Lại còn là con của Đế Lai thì càng phải xóa kịch bản này đi nhanh hơn mà thôi. Bởi điều đó thật khôi hài lắm thay. Lại câu Cộng Chủ mà Tư Mã Thiên có nhắc đến đối với Cổ Thiên tử Xi Vưu. Chính là Hoàng Đế và Thần Nông chứ không phải là Du Võng bao giờ cả. Vậy trận Phản Tuyền, chính là trận đánh mà Hoàng Đế đã diệt Thần Nông mà thôi.
Ta thấy, cái gọi là Viễn Đông Bác Cổ của người Pháp đó. Không đủ để lạm bàn đến huyền sử của dòng Bách Việt cho nổi là một sự thật rồi vậy. Bởi vì cái nhìn nông cạn của họ vẫn bị che khuất từ bức màn của Ngô Sĩ Liên là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư mà thôi. Dĩ nhiên lối mòn đó sẽ dẫn tư duy của các học giả lẫn sử gia người Pháp đến với sử ký của Tư Mã Thiên mà thôi. Tóm lại; Người Pháp, không hề đủ khả năng để quan sát cũng như đánh giá đến cội nguồn của dân tộc Việt Nam này cho được. Thật đáng buồn thay cho giống nòi. Bởi không ít những thế hệ trước đây, từng du học bên Pháp. Đã có những quan điểm lai căn về cội nguồn của Dân Tộc Việt Nam hôm nay.
Cho nên ta thấy dòng Lang Việt với linh tượng Thiên Lang đó. Người Trung Quốc đã gọi là dòng Sói Lang! Thế nhưng họ không thể nào che được một sự thật là dòng Hoàng Đế lẫn Xi Vưu vẫn gọi là Thần Nhị Lang. Dĩ nhiên với quan điểm của Tiên Đạo thì Hạo Thiên Khuyển phải là của Nhị Lang Thần mà không khác chủ cho được. Tề Thiên, nhất thiết phải sợ Hạo Thiên Khuyển.
Tản mạn mãi những giềng mối rối loạn, phủ lấp như thế. Chúng ta mới có thể bàn thảo đến con chó đá hôm nay trong huyền sử của dân tộc, trước ngưỡng cửa của năm Mậu Tuất này cho được.
Về tộc Lang Việt trong Bách Việt đó. Xưa kia sử sách từng có ghi chép lại là nước Dạ Lang, Thiên Độc, Tang Kha, Phù Đồ… Vì thế cho nên ta mới thấy nước Phù Tang hay Phù Nam là ý ám chỉ đến dòng Lang Việt của nước Dạ Lang này. Đa số đã bị lạc mất tông tích của dòng tộc này nói chung. Đã từng có rất hiếm những học giả, sử gia cứ ngỡ rằng họ đã bị tuyệt chủng cùng với Nước Điền Việt trong giai đoạn Nhà Hán đô hộ 1000 năm mất đi rồi. Bởi vì khi Nhà Hán thôn tính nước Nam Việt của Triệu Đà. Đã từng có âm mưu liên kết cùng nước Dạ Lang, sau mới có thể đánh úp được nước Nam Việt của Triệu Đà khi xưa.
Ta thấy sử xưa chỉ thoáng nhắc nhớ đến đại loại như Hoài Nam…, Nam Hoa… Người Việt đến nay vẫn nhắc trong sự tiếc thương da diết cho giống nòi này qua những ca điệu Nam Ai, Nam Bình của miền Trung. Hay như khúc Dạ Cổ Hoài Lang của người miền Nam vậy. Thế nhưng có mấy ai hiểu được những lời ca ai oán đó, cốt là để thương nhớ về dòng Lang Việt này, đã từng thất lạc giống nòi trong quá khứ khi xưa bởi chiến tranh. Ta có thể xét thấy sự kiện dẫn đến loạn lạc vì chiến tranh, không phải từ trận Trác Lộc. Mà là từ giai đoạn Nhà Thương vượt qua sông Dương Tử. Đánh vào nước Xích Quỹ của Kinh Dương Vương nơi Hồ Động Đình và Hồ Phiên Dương mà ra.
Tiếp đến là sự loạn lạc thứ hai xảy ra là khi Tần Thủy Hoàng đánh vào vùng Ngũ Lĩnh. Khi đó các tộc bao gồm Kinh Việt, Dương Việt, Thường Việt, Mân Việt, Lang Việt, Điền Việt, Tây Âu, Âu Việt, Lạc Việt… đang sinh sống toàn vùng phía bờ nam sông Dương Tử. Chính giai đoạn này mà dòng Bách Việt với địa phận của Nước Điền Việt, giáp với Miến Điện và Ai Lao. Họ đã di tản ra các nước quanh vùng, kể cả Ấn Độ. Do dòng Thường Việt, Dương Việt là chủ đạo từ dòng Mẹ (Tiên Huyền Nữ). Thế nên dòng này đã hòa huyết với toàn vùng khi đấy.
Khảo luận nơi đây, buộc chúng ta phải xem xét kỹ càng hơn giai đoạn ly tán này của giống nòi Bách Việt như sau: Giai đoạn này chính là giai đoạn Xuân Thu, thuộc Đông Chu. Đồng thời cũng chính là lúc Phật Thích Ca tại thế ở Ấn Độ. Với dòng Thường Việt, dòng có và hiểu rất rõ về di ấn của Quy Tàng Dịch đang lưu cư bên đó (di tản từ chiến tranh Nhà Thương). Và việc Đề Bà Đạt Đa cùng với Kiều Trần Như tức tốc dò tìm sang Việt Nam như tôi từng có nhắc đến là hoàn toàn hợp logic. Bởi dò theo dấu chân của Kiều Trần Như, thì sẽ thấy trước khi đến nước Phù Nam trong giai đoạn đó. Kiều Trần Như đã từng đi qua nước Dạ Lang (Phù Đồ) của dòng Lang Việt. Không phải ngẫu nhiên mà thiên ý định cho A Nan khi mất đi, đã nguyện hóa thành giống Quạ. Một loài chim chỉ chờ ngày 7 tháng 7 hằng năm. Chỉ một lòng đội đá, bắc cầu cho sự chia cắt của Ngưu Lang và Chức Nữ đâu các bạn ạ!
Lại một nhóm Thường Việt khác, vốn có nguồn gốc từ Âu Cơ (Âu Việt). Từ nước Chiêm Thành, Phù Nam, hòa huyết ra các nước Cát Miệt (Cao Miên, Campuchia), Thái Lan, Malaysia… Nói chung họ là dòng Thường Việt, Dương Việt, Âu Việt mà ngày nay ta gọi là Thái, Tráng (Choang)… Về người Thái Lan, vốn được hòa huyết cùng người bản xứ là Cát Miệt với Thái của dòng Thường Việt, Dương Việt này mà ra. Thế nên ta không lấy làm ngạc nhiên gì cho mấy, khi biết các nước này có chung gen di truyền và cùng một tiếng nói cội nguồn của người Thái, Tráng tại Việt Nam.
Vấn đề là Nước Dạ Lang, sau khi bị Nhà Hán xóa mất trong quá khứ lịch sử. Dòng Lang Việt này hiện nay, đang lưu lạc nơi đâu? Bởi xét tượng trời theo Thiên Thư thì con Chó Đá, vẫn đang ngóng chủ một cách trung thành trong văn hóa của người Việt Nam hôm nay. Theo thiên tượng đó, thì dòng Lang Việt chưa hề tuyệt chủng bao giờ cả!!! Vậy nếu ta xét kể từ khi Bà Âu Cơ dẫn 50 con định cư từ Chiêm Thành trở vào. Trong giống nòi lúc đó bao gồm các dòng như; Thường Việt, Dương Việt, Âu Việt…, thuộc hệ Mẹ (Cửu Lê). Và các dòng Lang Việt, Kinh Việt, Lạc Việt…, thuộc hệ Cha (Tam Miêu). Vậy Lang Việt đang lẫn lộn trong Miêu Việt, thuộc dân tộc Kinh ngày nay.
Thế nên dòng Thiên Lang đó. Vẫn mãi trung thành mà ngóng chủ, đến nỗi hóa đá trong văn hóa của người Việt! Năm nay cũng đã đúng là năm của Chó Đá (Mậu Tuất)!! Không biết chó đá có vẫy đuôi mừng chủ về kịp thời điểm hay không? Mà cũng không biết chủ đã về đến hay chưa? Hay còn phải chịu nhiều oan khuất nào nữa? Khiến cho sự ngóng chờ cơ nghiệp ngàn năm của dân tộc, vẫn mãi mỏi mòn ngóng trông…
Bởi cái gương xưa còn đó; Chủ nay e chăng việc “chưa đỗ ông nghè, đã đe làng tổng”, mà phải lặng tiếng giữa thời t*o loạn… Khiến nên dân tộc vẫn mãi mong chờ trong khắc khoải từng ngày qua đi…, qua đi…, qua đi…
Mong lắm thay!
Bởi Dậu đã thủng, rào đã thưa…, Chó có sủa dồn… chăng?!
Vẫn, nén tiếng..., thở dài… ngao ngán…

78 - HOÀI CỔ VỀ NƯỚC DẠ LANG!
Xem ra, tôi nhất thiết phải viết về nước Dạ Lang cũng như tộc Lang Việt cùng những thế hệ hôm nay rồi vậy. Một dòng tộc bị thất lạc trong nhóm Bách Việt khi xưa! Mong sao, qua đó. Chúng ta hôm nay biết được gốc rễ, nguồn cội của dân tộc Việt, từng đã lưu lạc trong quá khứ của dòng sử Thiêng.
Về nước Dạ Lang này. Ngay cả các nhà khảo cổ, sử gia, học giả trên thế giới, không ngoại trừ cả Trung Quốc. Đến nay vẫn còn rất mơ hồ về tông tích của một nước cổ Dạ Lang này. Tung tích của họ vẫn mãi biệt vô âm tín, suốt hàng ngàn năm qua cho đến tận ngày hôm nay. Qua những khảo cổ, di chỉ khai quật được hiện nay. Càng phát biểu cho những thế hệ hôm nay được biết rằng; Đã từng có một nước cổ Dạ Lang, tồn tại trong một giai đoạn của vùng không – thời gian xác định được, trong toàn miền quá khứ đầy miên viễn, xa xưa đó. Thế nhưng những gì mà tư liệu hiện tại thu nhập được thông tin về giá trị của nước cổ này. Hầu như chỉ là những chuỗi dấu chấm hỏi và chấm than, thi nhau tiếp nối cùng những cuộc tranh cãi vô hồi kết mà thôi !?...
Chúng ta nói chung thì thấy rất bình thường đối với bài viết chào xuân Mậu Tuất vừa qua trên trang này. Thế nhưng đối với các nhà khảo cổ, sử học thì rất lấy làm sửng sốt! Bởi đó chính là ánh sáng vừa được thắp lên giữa đêm trường của vùng địa phương Dạ Lang, đã mãi chìm trong dạ sử của tư duy. Vậy, nhân tiện. Tôi tháo dần một mối rối, từng bị loạn lạc của giống nòi Bách Việt. Vì thế bài viết sau đây, sẽ được các bạn xem xét ở một tầm cao của quan điểm, một tầng sâu của tư duy. Không nên vội lướt qua những giá trị nông cạn làm lạc mất những giá trị thực tại của nó.
Chúng ta tiếp tục nhé:
Tạm tính từ giai đoạn Lạc Long Quân mang 50 con ra Phong Châu mở nước. Mục đích chính là bảo tồn giống nòi Tiên Rồng cùng với non sông oai linh mà tổ tiên ngàn năm trước để lại.
Ta phải được biết và hiểu một cách rõ ràng về cội nguồn rằng; Trong thời nhà nước Văn Lang. Văn hóa của dân tộc Việt đã được thể hiện rõ ở các Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc bộ theo theo họ của Lạc Long. Do nước là Văn Lang, ý ở các đời con cháu theo đó mà nối dõi. Thế nên hoàng tử thì lấy theo tên Lang, công chúa thì lấy tên Mỵ (Mỵ còn có nghĩa là Hùng nữa). Và đó cũng chính là tông chỉ truyền đời, biệt riêng cho giống nòi Thần Tiên này mãi đến tương lai mai sau. Ta thấy ngay từ thuở xa xưa của buổi đầu dựng nước đó. Văn hóa của người Lạc Việt đã chứa đựng thể loại Văn U Mặc rồi vậy. Trong khi văn u mặc lại là đỉnh cao của triết học, tư tưởng của nhân loại. Với sự phát triển của nền văn minh cũng như văn hóa hiện nay. Ta đã thấy cũng khó có thể vươn đến để thẩm thấu tư tưởng tuyệt học này cho được. Bởi nó vốn sánh cùng thiên cơ.
Chúng ta suốt hơn 500 năm qua, với sự vẽ vời của Ngô Sĩ Liên trong giai đoạn này từ Đế Minh, đến Lạc Long Quân lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ. Rồi kết thúc rằng: “Đó há không phải là cội nguồn lịch sử của dân tộc Việt hay sao” !!!. Tôi trả lời rằng; “Không”. Đó không hề là lịch sử cội nguồn của nòi giống Tiên Rồng này bao giờ cả. Mà rằng;
Trong giai đoạn của dòng sử Thiêng của dân tộc Việt khi này. Chúng ta chỉ biết loáng thoáng với vị Vua Hùng đầu tiên là Lạc Long với tên gọi Hùng Hiền. Thế nhưng không một ai biết được rằng người con cả đầu dòng là Lang Việt vốn có tên Hùng Thục, đã bị thất lạc nơi đầu dòng nguồn sử thiêng của dân tộc Việt đi rồi! Hùng Thục mà trong một vài trang sử hiếm hoi xưa đã từng gọi với các tên khác như Hùng Dục, Hùng Huyệt!
Trãi khi Hùng Thục trưởng thành. Ông cũng có chí ngao du như dòng máu của chiến Thần Xi Vưu khi xưa. Một con người lỗi lạc của dòng Âu Lạc . Và Lạc Long Quân đã giao cho Hùng Thục một sứ mệnh bất khả thi trong buổi đầu định quốc Văn Lang khi đấy là:
Ông đã quay trở về quê hương nội ngoại nơi vùng Ngũ Lĩnh, thuộc đất Tương dạ, Quế lâm… Khi này, đất Kinh và đất Dương nơi động đình hồ, vẫn đang trong giai đoạn giao tranh cùng Nhà Thương với nhà nước Xích Quỹ rất khốc liệt. Hùng Thục đã ở lại tại miền Quế lâm, là nơi có núi Thiên đài sơn mà Lộc tục từng tế lễ trời đất, xưng vương lập quốc khi xưa. Vốn cũng sở hữu tiêu khúc của giống nòi, thế nên ông đã chọn vùng sông tương, dừng chân xem xét, điều nghi thế cuộc. Thế rồi, do bởi sự tàn phá của Nhà Thương đối với quê cha đất tổ. Hùng Thục đã nhận Chu Văn Vương làm học trò, dạy dỗ, nuôi chí thôn tính nhà Thương từ trong nội bộ. Thế cho nên sử sách Nhà Chu đã nhắc đến ông với tên gọi là Huyệt Hùng.
Chính Huyệt Hùng đã truyền cho Văn Vương phép bói Tiên Thiên, vốn là Liên Sơn Dịch, thuộc di chỉ sở hữu từ giống nòi Chiến Thần Xi Vưu khi xưa. Sự việc dẫn đến việc Trụ Vương nghi ngờ Văn Vương đang có di ấn, mới có việc giam giữ. Vấn đề tấn công nước Văn Lang ngay sau khi được mãn hạn tù ở Dữu Lý là do riêng ý của riêng Văn Vương mà thôi. Bởi khi đó thì Văn Vương vừa ra tù mà chưa về đến nước mình nữa. Ta xét thấy, nguyên do mà Văn Vương biết được Kinh Dịch ở bên nước Văn Lang, là cũng từ nguyên cớ ở Huyệt Hùng mà ra cả thôi. Đến khi mượn Nhà Chu tiêu diệt được Nhà Thương. Bắt buộc Nhà Chu phải chia đất cho Dục Hùng và mở ra Nước Sở. Từ đây, ông lấy lại họ Hùng như cũ. Thế nên Hùng Dục là tổ tiên mở ra nước Sở theo sử Tàu đã chép. Đến đời Chu Thành Vương, Cháu đời thứ tư của Hùng Dục là Hùng Dịch! Đòi nhà Chu phải phong đất tổ khi xưa cho nước Sở là vùng đất Kinh ở phía nam sông trường giang. Sau đó nước Sở hùng mạnh lên và dần thôn tính các nước bên bờ bắc trường giang. Khi đó, Chu Công đã từng gọi nước Sở là “nước Kinh Thư”! Điều này càng minh chứng cho Kinh Dịch vốn là của dân tộc Việt.
Về vấn đề phả hệ của Hùng Dục, vốn có xuất phát cội nguồn như thế. Không hề là từ Quý Liên theo dòng Đế Cốc, như sử sách của người Trung Quốc đã ghi như xưa nay bao giờ cả. Văn hóa của họ từ ngàn xưa nay, vốn dĩ là dạng văn hóa vay mượn, chiếm đoạt mà có. Thế nên họ vẫn lầm lẫn về cội nguồn mà chưa có thể phân định rành rẽ ra cho được. Bởi Đế Khốc vốn là dòng thuộc về Hoàng Đế, được nối ngôi từ Xuyên Húc mà ra (Xuyên Húc chứ không phải Chuyên Húc). Còn xét về Ông Cốc, lại là dòng Bách Việt, chỉ là một viên quan trông coi về việc thủy lợi trong thời Đế Nghiêu thôi. Do Đại Vũ là cháu nội của Ông Cốc, nên trong thời Nhà Hạ đã được phong Hầu. Thế nên khi Nhà Thương diệt Nhà Hạ, diệt luôn cả hai chư hầu, vốn là họ hàng là Côn Ngô và Bành tổ. Do Quý Liên lại là em ruột của hai vị đó. Thế nên tránh Nhà Thương truy sát, mới đổi theo họ Mỵ, vốn là Hùng để tị nạn. Từ đó, khiến nên người trung Quốc lầm tưởng Hùng Dục, tổ tiên của nước Sở. Có cội nguồn từ Quý Liên, Đế Khốc mà ra!!! Nếu như khả năng phát triển của hôm nay, tôi chỉ định thẩm định ADN là xong.
Vậy, ta mới có thể mục kích cũng như hiểu một cách tường tận về toàn bộ sự kiện mà Sở Trang Vương Hùng Lữ. Đã dám cả gan “vấn đỉnh” Chu Định Vương ngày đó trên bờ sông Lạc thủy, để nhắc khéo lại cơ đồ của Bách Việt rồi đấy. Tôi cũng lưu ý thêm cùng các bạn và thế hệ hôm nay là:
Lại xem xét kỹ càng hơn trong giai đoạn lịch sử này thì; Như tôi đã từng nói là dòng Lang Việt hay Thiên Lang, Dạ Lang này, vốn là sự hòa huyết giữa tộc Xi Vưu và Phục Hy. Xảy khi đó, cũng được phân chia cơ đồ từ Nhà Chu. Nên dòng Ngoại là Phục Hy mở ra Nước Ba với họ Khương, thay vì họ Hồng Bàng từ Xi Vưu là họ nội. Riêng dòng không chia rẽ ra thì lập Nước Thục với Đỗ Vũ. Trong các bộ tộc của Nước Thục thì có Nước Dạ Lang tại vùng Tương Dạ, trong dãy Quế Lâm là hùng mạnh nhất. Như thế, nếu ta tính chung là Lang Việt thì Nước Sở thuộc Nhất Lang, Vậy nước Dạ Lang là Nhị Lang. Trong đó thì nước Dạ Lang ở đất Tương Dạ. Vùng này lại có sông Tương với loại trúc đặc biệt là Tiêu khúc. Thế nên ta thấy cũng có một số tộc lấy chữ Trúc làm họ, để tưởng nhớ Tiêu Khúc từ Chiến thần khi xưa. Và đây cũng chính là dòng mà sử gọi với danh hiệu là Thiên Trúc, Thiên Lang. Cùng với nước Dạ Lang lại còn có nước Điền Lang nữa. Vậy Điền Lang ở đây có nghĩa là Tam Lang vậy. Thế nên ta thấy trong giai đoạn đó, Nước Sở thường cất quân đáng dẹp hai “kẻ nổi loạn” này. Và sử khi đấy gọi chung họ là dòng của nhóm tộc “Miêu – Khương”!, là những bộ tộc Nhiễm Man!! Dòng Việt Lang với nước Dạ Lang này thường sống tách biệt giữa nước Sở và nước Nam Văn Lang, Âu lạc v.v… nói chung. Thế nên họ còn có danh gọi chung chung của sử xưa là nước Thân Độc!
Khảo luận này lại cho thấy; Ngay cả các nhà sử học xưa nay tại Trung Quốc cũng rất còn lơ mơ về nước Dạ Lang này. Bởi xét như câu thành ngữ “Dạ Lang Tự Đại” trong văn hóa chung của họ cho thấy; Nhà Hán không hề biết gì đến nước Dạ Lang này cả. Họ thường gọi chung chung là các nước vùng Đông Di hoặc man di mà thôi. Chỉ có Đường Mông là biết rất rõ. Là do Đường Mông làm huyện lệnh của vùng Phiên Dương. Đây chính là khu vực của Hồ Phiên Dương khi xưa của Dương Việt hay Thường Việt cư ngụ trong thời Kinh Dương Vương. Thế nên Đường Mông thường xuyên qua lại mà buôn bán với nước Cổ Dạ Lang này.
Đến lúc xảy ra sự kiện thôn tính nước Nam Việt của Triệu Đà. Đường Mông xin Nhà Hán cấp quân liên kết với nước Dạ Lang để thôn tính Nam Việt. Khi Đường Mông đến hỏi thăm thì vua Dạ Lang khi đó là Đa Đồng đã hỏi dò: Nước Hán và Dạ Lang thì ai mạnh hơn? Từ đó câu thành ngữ Dạ Lang Tự Đại ra đời. Họ không biết rằng ý của Vua Dạ Lang khi đó là do; Bởi trước đó đã tách biệt với nước Sở từ lâu và bị cấm vận đối với các nước đương thời khi đó. Dạ Lang cứ nghĩ rằng nước Sở thời Nhà Chu là rất mạnh. Đến khi Nhà Hán nổi lên đánh Tần thì Sở vẫn mạnh, nên mới phải có sự kiện Hán phải rút qua sạn đạo đấy thôi. Đến khi Nhà Hán bình định trung nguyên thì Dạ Lang chưa nắm được thông tin. Thế nên mới có câu hỏi dò là Hán mạnh hay Dạ Lang mạnh vậy. Nhà Hán lại không hiểu nguyên do, lại cho là nước Dạ Lang Tự Đại! Và rồi sử liệu mất dấu nước cổ Dạ Lang này vào thời Nhà Hán, Đường trong giai đoạn 1000 năm đô hộ dân tộc Bách Việt sau đó. Nước cổ Dạ Lang không còn hiện diện, và sử sách xem như đã tuyệt chủng trong giai đoạn đó mất đi rồi.
Lại nữa; Xuất phát hai tên gọi Thiên Trúc và Thân Độc là bởi từ Ấn Độ. Do những nhóm người tản lạc từ chiến tranh Nhà Thương và Xích Quỹ. Không loại trừ giai đoạn nhà Tần về sau đó nữa. Thế nên nhóm người Bách Việt đang tị nạn tại Ấn Độ khi đó, đã lọt vào tầm Huệ Nhãn của Phật Thích Ca! Thế là sứ mạng mà Đề Bà Đạt Đa cùng với Kiều Trần Như tức tốc sang Việt Nam tìm Kinh Dịch trong giai đoạn huyền sử xa mờ là từ nguyên cớ này vậy. Và cái tên nước Thiên Trúc để ám chỉ nước Dạ Lang khi đó. Ắt là chốn mà có Như Lai hiện diện theo quan niệm của Nhà Phật. Do nước Dạ Lang được đồn đoán khi đó là nước có mang theo Phù Đồ (di chỉ của giống nòi; Kinh Dịch). Dĩ nhiên ta thấy bước chân của Kiều Trần Như trong giai đoạn đó in dấu trên nước Phù Nam là hoàn toàn không phủ nhận được. Lại còn; Nước Dạ Lang khi này từng ở vùng đất được sử gọi là Tang Kha. Là do có một đặc sản từ cây Tang (rất giống cây Dâu) nức tiếng khi đó. Thế nên mới có việc xuất hiện những thành ngữ như Giấc Nam Kha, Phù Tang v.v… để ám chỉ đến nước Dạ lang này nói chung.
Ta lại cũng cần phải biết, làm tư liệu bổ sung hoàn thiện cho các nhà ngôn ngữ học thêm nữa rằng: Cái tên China để ám chỉ đến vùng khu vực này. Chính là do người Ấn, gọi theo dấu của Kiều Trần Như khi đó mà ra cả thôi! Bởi Kiều Trần Như trước khi về với Phật Thích Ca, ông vốn lại có gốc đạo từ Mahavira của Kỳ Na giáo. Thế nên đạo Phật mà Kiều Trần Như đã phát triển cho khu vực này. Vốn có hình ảnh của Kỳ Na giáo lẫn với Phật giáo là rất nhiều. Từ đó cái tên “China” chính là gọi trại âm từ “Kỳ Na” mà ra. Đó là từ cổ thuộc Ấn Độ chứ không phải từ ngôn ngữ của người Trung Quốc khi xưa. Bởi China còn có ẩn nghĩa là Kinh của người Kinh với Kinh Dịch nữa!!! Ta xét thấy một cách rõ ràng là cả toàn vùng khu vực có tên vùng biển China đó. Chính là toàn vùng của nước Xích Quỹ khi xưa, phía bờ nam sông Dương Tử cả mà thôi. Đó cũng là từ mà người Ấn Độ dùng để chỉ khu vực có nước Phù Đồ và Phù Nam của dân tộc Kinh Việt nói chung.
Và Tạo Hóa đã dựng kịch bản của Nhà Phật nơi trang cuối qua ý; A Nan cuối đời đã lẳng lặng bơi thuyền ra giữa dòng sông Hằng mà hóa ở đấy. Với sở nguyện hóa thành loài quạ, nối nhịp cầu ô thước cho Chàng Ngưu Lang tìm về với Chức Nữ nơi thời kỳ cuối cho đạo trời viên mãn.
Vấn đề hôm nay, với bài viết này, nhân dịp tết Mậu Tuất. Dòng Lang Việt nói chung khi xưa. Đã từng trở thành dấu chân hoang trong dòng sử thuở hồng hoang. Cho đến tận hôm nay, vẫn còn là dấu chân đi hoang của giống nòi Chiến Thần và Tiên Huyền Nữ. Một loài “sói đơn độc”, dễ quen cùng “tiếng gọi nơi hoang dã”. Loài sói khi xưa đã thuần chủng mà thành chó nhà, là bạn trung thành cùng loài người. Không khéo, đi hoang lại trở thành kiếp sói, dễ quên giống nòi bầy đàn. Bởi nơi thời kỳ cuối này. Tôi nhắc lại nguồn gốc vốn đã bị gây lạc loài khi xưa từ chiến tranh, tham vọng nơi nơi của nhân loại. Mong thay, giống nòi Lang Việt trong Bách Việt còn lưu lạc tổ tiên chung. Tưởng đến cội nguồn mà tìm về, chờ ngày phán xét trước tòa công luận của Tạo Hóa.
Trước bối cảnh của một tương lai gần như thế. Thật đáng trách thay, khi lại có một số ít, từ dòng máu Lang Việt hôm nay. Đang có xu hướng “hóa đá” lương tri giống nòi, nghe theo tiếng gọi nơi hoang dã…
Một loài Chó Đá!
Nguy hơn!!; Cận giao thừa năm MậuTuất. Hiện tượng Trăng Xanh, Trăng Máu đã xuất hiện như một dấu hiệu thiên cơ cho thời kỳ cuối. Không chắc được rằng; Con Chó Đá trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt, có kịp vẫy đuôi mừng chủ. Hay lại nghe theo tiếng gọi nơi hoang dã mà trở thành Ma Sói theo mỗi thời kỳ Trăng Máu?
Dòng Lang Việt nói riêng trong Bách Việt, biết đâu nguồn cội. Để chọn tiếng gọi của Trăng Máu hay Trăng Xanh?!

79 - THIÊN THƯ KÝ!
Xét câu hỏi của bạn Khanh Trinh trong bài 78 là rất quan trọng. Bởi đó cũng là bao nỗi niềm, tâm tư chung của dân tộc Việt có ý thực về cội nguồn cũng như giống nòi suốt bao đời nay. Thế nên tôi lại phải viết riêng một bài kết luận về cội nguồn đó, có nguyên nhân như sau:
Lưu ý; Những gì tôi trình bày dưới đây, chính là những điều mà trong thiên thư đã chép như thế! Do đó, không hề là những suy diễn, tưởng tượng, hư cấu cho thành kịch bản như thế nhân thường làm xưa nay bao giờ. Cho dù ta có chấp nhận hay không chấp nhận thực tại này. Nơi thời kỳ cuối, vẫn cứ phải phơi bày ra toàn diện sự thật đó để thiết lập lại đời mới thôi. Tuy nhiên, tôi có thể lập ra một pháp thiền 49 ngày cho bất kỳ ai, để khai mở trí huệ ra mà nhìn thấy được toàn diện thực tại được gọi là thiên cơ đó. Những thực tại phía sau bức màn u minh ngàn đời mà tham vọng của loài người miệt mài che dấu. Lúc đó, ta mới có thể nói đến việc tranh luận hay bàn thảo về vấn đề sánh tựa thiên cơ này. Nếu cần. Mọi học giả, sử gia, bác học, người dân tầm thường nhất. Tôi đều ứng dụng hàng loạt (không giới hạn số người), cho một pháp thiền duy nhất, không khác. Bởi đó chính là thực tại đạo.
Tôi có đôi dòng mở đầu như thế cùng các bạn. Sau đến, mới có thể tiếp tục trình bày như sau. Những thông tin mà tôi trình bày dưới đây. Sẽ là tư liệu làm nền tảng cho các bạn dò tìm những manh mối rải rác khắp nơi thành một chuỗi dây chuyền hoàn hảo nhất có thể. Bằng như tất cả các nguồn tư liệu đã có xưa nay, là không đủ để hệ thống được việc này. Bởi những tư liệu đó cũng chỉ dẫn đến những cuộc tranh cãi triền miên…, rồi đi vào bế tắc chung mà thôi. Nhất định thế.
Thật ra ngay trên trang này. Nếu các bạn liên kết, hệ thống lại… Là các bạn đã có được một tầm nhìn xuyên suốt về quá khứ cội nguồn lịch sử của dân tộc Việt rồi. Vì thế, tôi sẽ xâu chuỗi lại thôi. Mọi sự là do dân tộc Việt của chúng ta. Vốn là nền tảng gốc của nguyên nhân sự việc. Đã bị che dấu, phủ lấp sự thật. Từ đó khiến nên không ai có thể đủ khả năng tìm ra nguyên nhân cho được nữa. Đó là tôi nói bao gồm toàn vùng lịch sử của các dân tộc, quốc gia có liên quan như Mông, Hán, Triều, Nhật, Pháp v.v… Riêng về Nam – Bắc Hàn nói chung. Do tôi chưa có đủ sử liệu của nước này nên chưa kết luận vội. Tuy nhiên trong các bài trước, tôi có đá động đến mối liên hệ đó từ nhân thân rất gần của bộc tộc Cửu Lê từ Tiên Huyền Nữ với một bộ tộc “luân di” của nước Thiên Kim rồi (Nam – Bắc Hàn khi xưa). Do họ có họ gần với Cửu Thiên huyền Nữ chứ không phải Xi Vưu. Do ngày trước là hai nước cùng ranh với nhau (Đông Di), lại Xi Vưu hòa duyên cùng Tiên Huyền Nữ. Thế nên người Hàn hai miền cũng xem Xi Vưu là tổ tiên của họ. Đến nay, tượng kỳ của họ vẫn là hình ảnh của Tứ Tượng đồ quái đấy thôi. Tạm về nước Nam – Bắc Hàn như thế, tất nhiên mọi sự sẽ hạ hồi phân giải.
Ở đây, tôi chưa bàn đến kỷ nhất nguyên sơ khai hay kỷ nhị nguyên phân lập. Mà là chỉ tạm bàn đến trong giai đoạn của kỷ tam nguyên khai thái, cho đủ tính công bình thôi. Bởi có tính chung cho các đối tượng hiện diện, đang cần phải bàn đến. Ý còn bỏ ngỏ trước đó là để còn xem nhân vật thấu thiên thư nào lên tiếng tranh luận nữa. Kẻo lại gặp đầy rẫy thành phần chỉ nói loạn mà học nói hai tiếng thiên cơ, gây rối loạn đạo lý. Thuở hỗn mang của vũ trụ, đất trời. Vẫn còn đang chờ các vị thi thố khả năng thiên cơ đấy.
Cũng cùng một mô hình thực tại của vũ trụ cơ bản tự nhiên tiềm ẩn ban đầu, như nền khoa học mà tôi đã trình bày trên trang ký sự này. Ta xác định và lấy vị trí sao Bắc Đẩu làm khởi nguyên xuất phát điểm mô hình phát triển theo quan niệm của người phương đông nói chung. Bởi Sao Bắc Đẩu còn có tên là Sao Gấu! Vậy Gấu cũng có nghĩa là Hùng. Đó chính là cái tên chung mà kể cả bộ tộc Xi Vưu với họ Hồng Bàng và tộc Hữu Hùng với họ Công Tôn cùng xưng hiệu. Dĩ nhiên, ta không quên sự hiện diện của Phục Hy với họ Khương cùng ngự nữa. Thế cho nên mọi sự, sẽ được tôi mô tả như sau:
Với những cái tên nguyên thủy thì trong bộ Tam Quang bao gồm các sao Tiêu – Dao – Du. Đây chính là vùng mà Xi Vưu cai quản. Còn xét về khu Tứ Mộ thì có các sao Khu – Toàn – Cơ – Quyền, lại thuộc miền của Hữu Hùng cai trị. Bên trong của khu tứ mộ còn có tòa Hiên Viên nữa. Đó, chính là lãnh thổ của Phục Hy. Các bạn xét thấy đấy cũng chính là bộ tam tài cơ bản mà vũ trụ tự nhiên hình thành từ thuở ban đầu rồi vậy!
Thuở ban đầu đó thì Xi Vưu chính là vị Thiên tử mà trời đã đặt thiên mệnh. Thế cho nên ta mới thấy trong sử ký Tư Mã Thiên. Ông có nhắc đến và gọi một cách tôn kính là Cổ Thiên Tử Xi Vưu. Trong khi đó thì Hữu Hùng (hay Hoa Hùng, Hòa Hùng cũng chỉ là một), Phục Hy (Hiên Viên), chỉ gọi là Cộng Chủ mà thôi. Là ý ở Hai Chủ, cùng cộng cư phía bên khu Tứ Mộ của Tòa Bắc Đẩu mà ra. Thiên sự mà Tạo Hóa đã trao cho Xi Vưu, chính là việc điều tiết khí hóa của vũ trụ bốn mùa. Thế nên Cổ Thiên Tử Xi Vưu mới được ban ấn trời, chính là Liên Sơn Dịch lý để mà điều khí nơi nơi trên toàn vùng vũ trụ khi đó. Dĩ nhiên, ông cũng được ban cho một loài ngựa trời để đi kịp trọn vòng trời trong 1 canh giờ để điều tiết vạn vật, muôn loài. Đó chính là Ngựa Tiêu Sương. Với những gì sở hữu khi đấy như; Lưng mang túi càn khôn, hông đeo bầu nhật nguyệt. Xi Vưu đã được khắp nơi suy tôn là một vị Chiến Thần. Đó là chưa nói đến tính lãng tử phiêu bồng mà tôi đã từng kể cùng các bạn nghe trước đây. Và đó, cũng chính là hình ảnh của một vị nguyên soái của chốn Thiên Bồng từ thuở hồng hoang vậy.
Tạm nhắc, ôn qua cùng các bạn như thế. Tôi chỉ trả lời dựa theo những ý mà bạn Khanh Trinh đã nêu lên thôi nhé:
Ngay ý thứ nhất thì ngay cả như nước Sở là một nước hùng mạnh thời Đông Chu nói chung, mà các vị đã nhìn không ra gốc phát nghiệp từ đâu! Thì nói đến tranh cãi gì cho được nữa? Đã có mấy ai biết được Dục Hùng là thầy của Văn Vương. Vốn không phải có phả hệ từ Quý Liên, ngược trở về Đế khốc đâu. Lấy gì để biết được Dục Hùng lại chính là Hùng Thục, con của Hùng Hiền bên nước Văn Lang. Vốn mang sứ mệnh tuyệt mật mà khôi phục cơ đồ của tổ tiên từ Chiến Thần Xi Vưu để lại hàng ngàn năm trước đó nữa. Vì có một sự thật ràng ràng ra trước mắt mà không một ai thấy hay bàn đả động đến như: Nhà Chu, vốn chỉ chia đất cho con cháu trong dòng tộc mà thôi. Điều này không phải bàn cãi nữa. Thế nhưng sao nước Sở và nước Tề vốn lại không phải thuộc dòng tộc của Nhà Chu? Lại còn được phong đất lớn mạnh hơn con cháu của Nhà Chu. Khiến nên sau này hai nước Sở và Tề. Uy hiếp con cháu Nhà Chu đến nước chỉ còn có dựa vào yếu tố đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ để mà bám vào như bản năng sinh tồn mà thôi!?
Bởi nguyên do, Văn Vương Nhà Chu, vốn thuộc phả hệ từ tộc của Hoàng Đế. Dục Hùng với nước Sở lại là tộc của Xi Vưu mà ra. Còn nước Tề với Khương Tử Nha thì có nguồn gốc từ tộc Phục Hy. Rõ ràng; Ta xét thấy cơ nghiệp mà Nhà Chu đã đoạt được từ Nhà Thương đó. Ắt phải là đại công của Thầy và Quân sư của Văn Vương mà ra cả thôi. Thế nên mới có sự chia chác rõ ràng như thế sau cuộc chiến, cho Dục Hùng và Khương Tử Nha đấy thôi.
Lại các vị vẫn chưa đủ để nhìn ra là người Sở với người Hoa Hạ vốn chỉ là một mà thôi! Như tôi đã từng có thảo luận cùng các bạn trên trang này rằng: Từ Hữu Hùng, Hòa Hùng hay Hoa Hùng cũng chỉ là một. Vì thế, Hoa Hùng hay Hòa Hùng. Là dùng để chỉ sự “Trung Hòa” của tộc Hòa Hùng “Hòa Huyết” với hai tộc Xi Vưu và Phục Hy mà ra. Hạ Hòa là để chỉ sự hòa huyết với tộc của Xi Vưu. Và dĩ nhiên Thượng Hòa là sự Hòa Huyết với tộc Phục Hy. Thế nên gọi là Trung Hoa vốn là người Mông Cổ chứ không phải người Hán cho được. Do nhận giặc làm Cha (Viêm - Hoàng Tử tôn, hay Hiên Viên - Hoàng Đế) , để người Hán tiện bề nhận Trung Hoa là tổ tiên của mình, sẵn vơ luôn cả cơ đồ của người Mông Cổ về theo. Từ Hòa Hạ là Hoa Hạ sau này, vốn là dùng để chỉ người Sở là một. Và ta còn thấy từ nguyên Thượng Hòa tiềm ẩn trong câu “Hòa Thượng” ngày nay đó vậy. Vậy; Thượng Hoa, Trung Hoa và Hạ Hoa. Vốn có gốc tích, nguyên nhân, cội rễ là từ đây. Kẻ ăn ốc nói mò đã đành. Song kẻ đi mò cũng lại chưởi kẻ quen ăn ốc!!! Thế mới đủ lạ lắm thay cho trò đời nhân thế xưa nay, bao kẻ diễn!!!
Chúng ta hôm nay và các thế hệ mai sau, hãy quên ngay đi. Về việc cứ mãi tranh giành nghề trồng lúa hay cái gọi là văn minh lúa nước với người Trung Quốc! Tổ tiên của dân tộc Việt. Không hề trồng lúa bao giờ cả!! Mà đó lại chính là nghề tổ từ Thần Nông của họ mà ra. Cái văn minh của Người Việt chính là sự văn minh Di Canh chứ không phải Định Cư như sự lầm lạc cội nguồn xưa nay. Cái sự văn minh của Di Canh đó. Nó vượt trên vạn lần hơn sự văn minh định cư là lúa nước. Do thất lạc nên không một ai có thể biết cũng như lĩnh hội tới cho nổi được. Nhất định, tôi phải phục hồi và đưa ra trước ánh sánh của kỷ nguyên mới trong nay mai thôi. Điều này cũng giống như ta mường tượng như 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư, cũng như Hoàng Đế Nội Kinh là không một ai lĩnh hội học thuật ấy cho được. Bởi nó vốn được diễn lập ra từ Liên Sơn Dịch của tộc Xi Vưu xưa kia. Tuy nhiên vẫn còn quá nhiều thiếu sót chung chung trong đó. Âu, đó cũng là ý của tạo hóa cả thôi.
Chiến Thần Xi Vưu thuộc Tộc Tam Miêu, Tiên Huyền Nữ thuộc tộc Cửu Lê. Sánh duyên nhau mà sinh ra Bách Việt trong buổi sơ khai. Vì thế họ có nói Xi Vưu là tổ tiên của Tam Miêu hay Cửu Lê cũng đều đúng cả. Tranh với cãi nhau về những điều mình không đủ biết đến, chỉ làm khôi hài thêm hơn cho sự việc vốn đã đong đầy bi hài mãi rồi. Nhân đây, tôi cũng xác định cùng các bạn về nguồn gốc của lịch sử luôn rằng: Liên Sơn Dịch của Chiến Thần Xi Vưu. Vốn khởi từ quẻ Cấn. Là vùng Đông Bắc, thuộc vùng Cấn Quỷ mà ta quen nghe sử hay gọi là phương cấn, quỷ v.v… Là vùng mà nước Đông Di của Xi Vưu kiểm soát. Chữ Di thuộc Quẻ Tốn ở Đông Nam với văn hóa Di Canh từ vùng Ngũ Lĩnh với Hồ Động Đình sang đến, là tàn cuộc đất trời đã định phận. Thế nên khiến sử xưa nay vẫn cứ nói đến tộc người Đông di hay Man di cũng chỉ là một. Về những cái nguyên lý của Dịch Lý này. Vô phúc thay cho các nhà sử gia nào mà không biết gì đến Dịch Học. Lại lần mò vào sử Việt mà suy đoán hay giảng giải về cội nguồn của dòng sử Thiêng.
Lưu Bang vốn gốc là người Hán. Do ở trên đất thuộc về vùng kinh Sở khi xưa. Không hề là người Việt như bài dẫn của bạn ở trên bao giờ cả. Chúng ta tuyệt đối không bao giờ được lầm lẫn cái lỗi rất sơ đẳng này cho được. Ta thấy xưa nay. Họ cứ tranh cãi “loạn xí ngàu” với nhau lên hết cả mà thôi. Như gà mắc tóc hết cả một lượt, còn dây mực, bêu đầy sử sách ra đấy. Xóa sao hết cho được.
Vậy Đông Di, vốn là tên mà sử xưa dùng để gọi để nói đến vùng lãnh thổ mà Chiến Thần Xi Vưu cai quản. Thuộc về toàn miền phía bờ Nam Sông Dương Tử. Nguyên do Hoàng Đế phạt tộc Phục Hy trong đời Thần Nông thì tôi cũng đã có mô tả đến rồi. Là Thần Nông bị bại trong thận Phản Tuyền chứ không phải Du Võng. Vì làm thế quái nào mà họ cố nặn ra cho được kịch bản; Đế Du Võng là cháu đời thứ 8 của Thần Nông. Lại đánh nhau với Hoàng Đế trong trận Phản Tuyền, trước Xi Vưu là trận Trắc Lộc. Mà trong khi đó lại còn ghi rằng; Nữ Oa, vốn là mẹ của Thần Nông. Đánh nhau với Xi Vưu!? Vậy Du Võng thuộc hàng Chít đời thứ 9, lại có mặt cùng thời với Tổ Nữ Oa, để cùng đánh Xi Vưu kia à!!! Kịch bản này; Tôi cam đoan, ngày nay cỡ như đạo diễn James Cameron đi chăng nữa. Cũng chỉ có thể tưởng tượng đến hai hoặc ba đời từ tương lai trở về là cùng. Nếu không, tôi tin chắc Arnold Schwarzenegger cũng phải bỏ chạy mất dép mà không dám nhận vai diễn!!!
Ấy! Thế mà điều này vẫn hiện diện trong sử sách của họ suốt hàng bao ngàn năm qua!! Có rối mớ bòng bong cho cái sự đời đi không?
Thôi! Thế thì chúng ta cũng quên luôn cả cái kịch bản mà Đạo Diễn Ngô Sĩ Liên đã vẽ ra cho dàn diễn viên hư cấu rất hùng hậu bao gồm: Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai luôn đi các bạn nhé. Bởi tôi tạm dẫn mạch nguồn dòng sử như sau: Khi hoàng Đế thôn tính xong Thần Nông. Lúc này thì mới có thể làm giấy khai sinh cho cái tên gọi là tập đoàn Lưỡng Hạo, như sử sách của họ đã ghi cho được. Vì Thái Hạo là Hoàng Đế, còn Thiếu Hạo lại là Kỷ Chất (Nghiệt). Vốn là con cả của Hoàng Đế. Khi thôn tích xong Thần Nông, mỗi người cầm đầu một tộc cùng công kích vào Xi Vưu trong trận Trác Lộc sau đấy. Thế nên mới gọi là Hội Chư hầu ở Cối Kê, hay tập đoàn Lưỡng Hạo được. Bằng như trước trận Phản Tuyền, thì làm gì có chư hầu hay Lưỡng Hạo để mà gọi thành tên cho được.
Thế nên sau khi gồm thâu luôn cả tộc của Xi Vưu. Hữu Hùng mới chính thức xưng là Hoàng Đế, như ta quen gọi xưa nay. Tất nhiên, ta thấy Hoàng Đế mới chia cho Thiếu Hạo phía bờ Nam sông Dương Tử, trị vì chung với nước Thiên Kim khi xưa (Nam – Bắc Hàn). Đến khi Hoàng Đế truyền cho em của Thiếu Hạo là Xuyên Húc kế vị. Tiếp đến là Đế Khốc là xảy ra nạn lụt hồng Thủy. Hai bên bờ Dương Tử đã cách trở. Khắp nơi, mãi lo chạy loạn vì lụt chưa xong. Lấy đâu để biết tình hình của Thiếu Hạo đã bị chia cắt phía bên kia dòng Dương Tử cho được nữa. Bên vùng Ngũ Lĩnh, Động Đình Quân đã nổi lên tiêu diệt Thiếu Hạo. Là dòng thuộc về tộc Cửu Lê của Tiên Huyền Nữ nổi lên, tiếp nối Xi Vưu mà cai quản khu vực Động Đình Hồ mất rồi. Trong giai đoạn này. Thú thật là tôi thật sự đã lạc mất tông tích của người con cả và con thứ tiếp theo của Xi Vưu sau trận Trắc Lộc! Vì thế, tôi tạm thời đặt giải thuyết kịch bản này và chờ hạ hồi truy về manh mối như sau:
Khi Thiếu Hạo tiếp quản nước Đông Di. Lực lượng của Bách Việt tan rã, họ đã lưu vong bên nước Thiên Kim. Thế nên sau đó ta mới thấy Thiếu Hạo thôn tính luôn Thiên Kim và nhập làm một với Đông Di tiếp theo sau đấy. Như tôi đã nói là do thiếu thông tin sử liệu của nước Thiên Kim (Nam – Bắc Hàn), nên tôi chưa kết luận vội là thế. Ta không phải ngạc nhiên gì cho mấy. Khi các thế hệ về sau của họ cũng nhìn nhận Xi Vưu là tổ tiên. Vậy ta thấy có 2 mắc xích ràng buộc có tính liên quan mật thiết ở giai đoạn đầu đối với 2 dân tộc này là; Giai đoạn thứ nhất là giữa Tiên Huyền Nữ và Nữ Chân. Giai đoạn thứ hai là khi Đông Di và Thiên Kim đều bị gồm thâu dưới quyền của Thiếu Hạo sau trận Trắc Lộc. Chắc chắn, tung tích của người con cả và thứ của Xi Vưu đã lưu lạc trong cội nguồn dòng sử của Nam – Bắc Triều rồi vậy. Bởi Động Đình Quân, vốn là người con thứ 3, lại nghiêng về gốc mẹ đã tiếp nhận lại non sông liền sau đấy từ Thiếu Hạo.
Cùng thời điểm này. Đế Nghiêu trị thủy không xong, bèn nhường ngôi và giao cho Đế Thuấn, là tộc của Phục Hy lãnh trách nhiệm. Vậy ta xét thấy giai đoạn mà Hai Đế Nghiêu - Thuấn đó. Tương đương với khoảng thời gian mà Động Đình Quân trị vì bên nước Đông Di. Xảy đến khi Đại Vũ Khai nước từ Hoàng Hà ra sông Dương Tử thì gặp khi Lộc Tục đang hiện diện phía bờ nam. Bởi Lộc Tục chính là con rễ của Động Đình Lão Quân tại Hồ Động Đình khi đấy rồi.
Phải biết, trận lụt hồng thủy chia cắt, nhấn chìm cả toàn miền sông Hoàng Hà khi đó dưới quyền cai trị của Hà Bá mất rồi! Thế nên ta mới thấy sự kiện Đại Vũ đã dùng rìu của Chiến Thần Xi Vưu. Xẻ núi, dẫn nước từ Hoàng Hà theo đập Tam Hiệp, tháo ra Dương Tử, mới thoát được nạn hồng thủy khi đấy. Mặt mũi của Đế Minh nào mà xuất hiện, chen ngang vào ở đây cho được. Đế Minh lại là cháu đời thứ 3 của Thần Nông mới là lạ. Lại còn theo Ngô Sĩ Liên đi ngao du sang bên này khi đang trong cơn nạn lụt hồng thủy chia cắt toàn miền như thế để đẻ ra Lộc Tục cho được nữa chứ?
Thú thật! Các nốt của phím gõ dưới đầu ngón tay của tôi bỗng trở nên ngại ngùng, khi tôi muốn gõ tiếp đến giai đoạn Đế Lai sinh ra ai tiếp đến!? Bởi nó ghép dòng, nảy nòi một cách sống sượng, đầy tai hại mất đi rồi. Tôi có thể dựa vào tượng trời, sắp thế đất của buổi ban đầu lịch sử toàn vùng này như sau:
Căn cứ vào Tòa Sao Bắc Đẩu. Khu Tứ Mộ thì địa phận 2 sao Khu và Toàn thuộc về Hiên Viên (Phục Hy). Và 2 Sao Cơ - Quyền lại vốn là của Hữu Hùng. Cương giới Xi Vưu rõ ràng là 3 Sao Tiêu – Dao – Du bên Tam Quang. Đó là tôi đã xét có phần ưu ái cho Phục Hy rồi. Khi Hữu Hùng gồm Thâu về một mối thì mới xưng danh là Hoàng Đế. Đó cũng là những điều mà Thiên Thư đã ghi. Từ Xuyên Húc xuống đến Đế Nghiêu là dòng của Hoàng Đế, thuộc người Mông Cổ. Đế Thuấn thuộc về dòng Phục Hy (người Hán), được giao lại ngôi là bởi cớ hy vọng trị được nạn lụt hồng thủy qua tiếng Dao Cầm từ khúc Nam Phong. Và Đại Vũ lãnh ấn tiếp theo lại là người Việt của tộc Xi Vưu, kéo dài cho đến hết Nhà Thương. Đến đây là hết một cuộc bể dâu của trời đất vửa đủ. Nhà Chu lại trở về với tộc của Hoàng Đế, thế nên ta mới thấy trong thế cuộc mới, lại chia thế chân kiềng cho ba tộc là Nhà Chu thuộc người Mông (Hoàng Đế), do Văn Vương làm đại diện. Nước Sở là người Việt, giống Xi Vưu, có Dục Hùng ứng cử. Và sau cùng là Nước Tề (người Hán), vốn gốc Phục Hy với đại biểu Khương Thượng.
Dòng nguồn sử, chảy qua các giai đoạn vốn mạch lạc như thế. Mạch nguồn dẫn nào mà hòa dòng Đế Minh, lủng củng nhập vào đây cho được như thế?!
Tóm lại; Có tam lược, lục thao qua hết cả thảy một thế cục như trên. Ta mới thấy được nguyên do của từ nguyên Sao Gấu (Bắc Đẩu) mà có cái tên “Hữu Hùng” của họ Công Tôn lấy hiệu làm Hoàng Đế. Thế nhưng Cổ Thiên tử Xi Vưu mới chính thức là Thiên Tử của Tòa Bắc Đẩu từ thuở hồng hoang đó. Cho nên họ Hồng Bàng mới chính thức xưng là “Hùng Vương” (Vua của Gấu) về sau này, để xác định sự chỉnh đốn theo mệnh trời lại vậy.
Thế hệ hôm nay và mai sau của giống nòi Thần Tiên. Nhất định phải khắc sâu vào tâm khảm muôn đời về dòng sử thiêng của dân tộc Việt, vốn có xuất phát cội nguồn là như thế. Không khác được.
Giả như có may mắn do thế sự đẩy đưa. Là sử gia của dân tộc này. Chớ có ăn nói ngọng nghịu mà vấy bẩn dòng sử Thiêng của dân tộc Việt thêm nữa. Một dòng sử oai linh, vốn đã chịu nhiều hoen ố trong rất nhiều trang sử của quá khứ rồi. Kẻo lại phải bêu danh cùng sử sách trong một tương lai gần và…, rất gần.



80 - NGƯỠNG CỬA KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ TƯ



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Thời điểm hiện tại. Nhân loại chúng ta đang tìm mọi phương cách để khám phá không gian chiều thứ tư. Tuy nhiên, trong một chừng mực của ý thức chung. Các bạn thấy có một điểm chung là chúng ta vẫn đang thảo luận về điều này một cách rất mơ hồ và còn hạn chế như nhau mà thôi. Nếu có xuất sắc lắm, cũng chỉ có thể mô tả được rằng; Đó là chiều mà sự phát triển của nhân loại chúng ta hiện nay không thể nào hiểu biết đến một cách cụ thể cho được!
Nền khoa học vẫn chưa có thể có được một kịch bản nào khả dĩ, thuyết phục quan điểm của nhân loại chúng ta ngoài những bao biện, bỏ ngỏ về sự hình thành của mô hình không – thời gian 4 chiều này! Với Thuyết Big Bang thì khi sự kiện của vụ nổ xảy ra, để đáp ứng cho sự nổ trong không gian bình đẳng hướng. Vũ trụ cận cảnh đã phải thể hiện mô hình không – thời gian là đã hội đủ 4 chiều trong đó làm nền để thiết kế rồi! Lý Thuyết Dây có chiều khá hơn, khi dựa trên mô hình quãng tính để vẽ lên từng chiều không gian riêng phần, xuất hiện trong đó theo thời gian toàn phần!! Thế nhưng có một điều gây “khó chịu” cho tư duy của các nhà thiết kế nên học thuyết này là mô hình của vũ trụ đó phản ảnh có đến 10 chiều cơ?! Thế rồi…, 6 chiều còn lại đó. Các nhà khoa học tránh né thực tại này và đành chấp nhận vo tròn, gói gọn 6 chiều đó trong mô hình của cái gọi là không gian Calabi-Yau!!!
Thế nhưng thực tại của mô hình vũ trụ theo mô hình đó, đã đâu chịu buông tha cho quan điểm né tránh của các nhà khoa học khi nó phản ứng, biến hóa ra không biết bao nhiêu mô hình của không gian Calabi-Yau như thế nữa! Trong bối cảnh rơi vào sự lúng túng, gây hoang mang chung như thế. Một phát biểu gợi ý của Witten với mô hình của chiều thứ 11, xuất hiện trong ý niệm của ông. Các nhà vật lý mạo hiểm, khai phá vào vùng địa phương tương lai của nhân loại với công cụ là giả thuyết đó. Lại tiếp tục bước dẫm vào dấu chân cũ đã thành thông lệ của nền khoa học. Một thói quen xấu, đã trở thành tục lệ lâu đời trong tư duy của các nhà chuyên môn; “Vội bỏ qua những thành phần không lý giải, để đủ được gọi là khoa học”!
Xét trong một chừng mực nhất định thì đây chính là: Một hủ tục đã được suy tôn, lạm dụng, như môt dạng tín ngưỡng lượng tử một cách mê tín đầy tai hại của nền khoa học suốt bấy lâu nay!!! Bởi nó cho phép các nhà khoa học bỏ qua sự giải thích về không gian chiều thứ tư! Các nhà chuyên môn đã “mượn gió…”, lướt qua 6 chiều không gian đang còn rối loạn trong không gian Calabi-Yau. Rồi “…lựa chiều bẻ măng”, với công cụ không gian chiều thứ 11, vốn được thiết kế chỉ bằng sự giả định trừu tượng!?
Thế nên thế hệ chúng ta hôm nay nhất định phải làm sáng tỏ vấn đề này, nếu muốn tiến xa hơn nữa về một mô hình thực tại của vũ trụ tương lai. Vậy chúng ta cùng nhau tiếp tục tham khảo về những diễn biến hình thành chuỗi các chiều không gian nối tiếp như sau:






So sánh hai mô hình ở trên, chúng ta dễ dàng nhận ra trong hình thứ 1 là biểu đồ mà bấy lâu nay các nhà chuyên môn thường mô tả về mô hình của không - thời gian 4 chiều trong đó. Bao gồm chiều dọc, chiều ngang và chiều cao. Trong đó thì chiều thứ tư tiềm ẩn trong chiều cao, vốn là chiều của thời gian nguyên thủy ban đầu. Và ta lập luận với dạng ngôn ngữ thô, còn vơi vơi ý rằng; Trong chiều ngang thì có qua, có lại. Có phải, có trái. Với chiều dọc thì có trước, có sau. Có tới có lui. Và chiều cao thì có cao, có sâu. Có trên, có dưới v.v…
Thế nhưng quan sát sâu hơn nữa thì ta thấy rằng trong mô hình đó. Không hề được mô tả một cách rõ ràng về chiều Sâu! Nếu thế, tôi lại phải thiết kế lại với quan điểm đã được rút ra từ lập luận đó, cho đủ được gọi là đủ hoàn thiện hơn như sau:




Quả thật! Chúng ta nhận thấy mô hình vừa trình bày qua là rất lạ lẫm đối với quan điểm chung xưa nay về mô hình của không – thời gian 4 chiều mà ta đã quen thuộc. Bởi vì đó chính là một khiếm khuyết của mô hình không – thời gian 4 chiều mà ta chưa diễn tả đủ. Bởi theo như quan điểm cũ. Ta vẫn chưa trình bày chiều sâu trong mô hình đó. Vậy cho dù ta có chấp nhận theo như sự thiết kế đề xuất, trình bày vừa qua của tôi như trên. Chúng ta lại phải tiếp tục có một so sánh đối với các biểu đồ tiếp theo để nhận định ý tưởng đó phát biểu như sau:




Hóa ra…! Chúng ta ngỡ ngàng khi nhận thấy đó chính là sự mô tả trung thành đúng theo như biểu đồ mà trong những tiến trình va chạm của thế giới Hạt nguyên tử, ở phía bên trong các phòng thí nghiệm suốt hằng trăm năm qua!! Cho dù thế nào đi chăng nữa. Mô hình đó, cũng phát biểu và chỉ rõ là mô hình của Ma Trận Phân Tán dương mà thôi (hình 2)!!! Bởi các bạn trên trang này, cũng đã từng biết qua mô hình biểu đồ của Ma Trận Phân Tán ( mô tả phản ứng) của cơ học lượng tử, chính là biểu đồ trong hình thứ 3 ở trên. Do nguyên tắc của Dịch lý là dương trước, âm sau. Thế nên ta nhất định phải thấy cái nguyên nhân xuất hiện trước, trong mọi tiến trình diễn giải rồi vậy (hình 2).
Như thế. Ý tưởng phát biểu gợi ý cho mô hình vừa qua, được chấp nhận có cơ sở để xem xét tiếp rằng;
Từ đây, ta nhận thấy biểu đồ xưa nay diễn tả về mô hình của không – thời gian 4 chiều là đã đi xuyên qua trục gốc của không – thời gian mất đi rồi vậy! Điều này cũng có nghĩa là chúng ta đã bị lạc gốc của nguyên nhân xuất phát từ cội nguồn mà không xác định được. Nguyên do là bởi chúng ta không xác định được vị trí điểm xuất phát tại gốc của không thời gian trong mô hình hình thành của vũ trụ ban đầu từ nguyên lý nào. Dựa trên nền tảng này, ta có cơ sở để tiếp tục xem xét xem... Có còn các chiều không gian nào tiềm ẩn trong mô hình của không – thời gian toàn miền nữa hay không? Chúng ta lại tiếp tục khảo xét…, thiết kế mô hình thực nghiệm như sau:




Chúng ta quan sát thấy trong hình 1. Đó là biểu đồ của mô hình không – thời gian 4 chiều mà chúng ta đã biết. Trong mô hình này thì tôi trình bày, diễn giải sự hình thành các chiều xuất hiện theo trật tự của ngôn ngữ Số kèm theo. Đó là mô hình của không gian 3 chiều vật lý (hữu hình), nên hệ thống số thể hiện là 1, 2, 3. Chiều thời gian vốn là chiều tâm lý (vô hình), nên được biểu thị bằng số 0, có giá trị tiềm ẩn trong mô hình đó. Và chiều cao là chiều gốc nguyên thủy của chiều thời gian, đồng thời cũng hợp logic và trung thành với nguyên tắc của biểu đồ không – thời gian của Friedmann quy định.
Bước quan sát trình tự tiếp theo trong hình thứ 2. Do nguyên lý của sự đối hạt (lý âm dương). Thế nên, nếu muốn tìm không gian chiều thứ tư đó (không – thời gian 5 chiều). Ta nhất thiết phải xem xét trong chiều thời gian. Chiều của tâm lý, vốn là thế giới vô hình. Theo Thuyết Lượng Tử thì đó chính là nguyên lý đối xứng gương. Cũng sử dụng công cụ ngôn ngữ giả định. Tôi gọi điều đó chính là “không – thời gian ảo”.
Cho nên trong thế giới ảo, đối lập đó. Ta thấy trong hình 2. Thể tượng của “thời gian ảo”, đang trôi qua…! Thế nên bắt buộc tại vị trí gốc của không – thời gian thực. Phản ảnh gương thể hiện sự mô tả; Trong chiều của thời gian ảo xuất hiện một “xung lực”, nhất định phải xuất phát và được biểu thị bằng mũi tên hướng xuống…
Cùng một nguyên lý hình thành mô hình trong không thời – gian thực. Ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư. Vùng biến cố địa phương, vị trí, gốc, sở tại zero. Không – thời gian ảo, cũng mô phỏng trung thành theo nguyên lý vận hành đó không khác được! Và dĩ nhiên chiều không gian thứ tư phải xuất hiện tại vị trí này, và phản ảnh lên mô hình của không – thời gian toàn miền vũ trụ thực tại.
Đây là một thực tại tiềm ẩn trong mô hình cơ bản của vũ trụ tự nhiên mà chúng ta không thể phủ nhận hay chối bỏ cho được. Đồng thời đó cũng chính là mô hình của không – thời gian 5 chiều rồi vậy.
Tôi kết luận; Đó chính là mô hình thực tại cơ bản tự nhiên của không – thời gian 5 chiều. Bởi chiều thứ 5, lại tiếp tục tiềm ẩn trong chiều thời gian như cũ (chiều cao, thứ 1). Tuy nhiên, công cụ ngôn ngữ số, đã tố cáo điều tiềm ẩn đó qua hệ thống trật tự 0,1,2,3,4, bao gồm 5 giá trị vị trí, cơ bản tự nhiên hiện hữu trong toàn vùng của biểu đồ được thiết kế.
Tất nhiên, khi quan sát tổng tiến trình phát triển trong cả 4 mô hình thì; Các bạn cũng đã hình dung ra chiều không gian thứ 6 xuất hiện ra sao rồi vậy. Vì trong thế giới ảo này. Không - thời gian ảo 3 chiều cũng phát triển và vận hành không khác đối với mô hình của thế giới thực của chúng ta như chúng ta đã biết. Vẫn trung thành mô phỏng cùng một quy luật như thế, khi chiều không gian ảo thứ 5 đồng nhất. Ta vẫn chia đôi khoảng cách giữa điểm ngọn của hai chiều không – thời gian ảo để xác định chiều không gian thứ 6.
Tóm lại:




Như thế, trong quá trình hình thành mô hình của không – thời gian 6 chiều bao gồm trong hình 1 nói chung. Vậy nói riêng 3 chiều đối xứng trong không – thời gian ảo (tâm lý), đối với 3 chiều ngoài không – thời gian thực (vật lý) mà chúng ta đang sống. Ta nhận ra có một thế giới song song của không – thời gian ảo, luôn luôn tồn tại một cách tiềm ẩn. Đó chính là thế giới vô hình của chiều tâm lý. “Ở Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư”.
Vậy quan sát tổng các biểu đồ trên đây. Mô tả cho chúng ta biết sự hình thành tất cả 8 chiều không gian toàn vùng vũ trụ tự nhiên cơ bản như thế. Và chiều thời gian thứ 9, lại tiếp tục tiềm ẩn trong chiều cao (chiều thứ 1), vốn là chiều bản thể của thời gian nguyên thủy của nó. Từ đây suy ra…; Chiều không gian thứ 9, vẫn xuất hiện tại vị trí gốc của mô hình là vị trí tâm của biểu đồ, vị trí số 0. Điều này có nghĩa là chiều không gian thứ 9 tiềm ẩn theo chiều của tầm mắt quan sát của người quan sát, trực diện thẳng với tâm của vật bị quan sát vốn là vị trí gốc của không – thời gian của vũ trụ toàn miền. Tôi có thể trình bày cùng các bạn biểu đồ mô tả như sau:




Với 3 mẫu biểu đồ ở trên đây. Chúng ta có thể hình dung được mặt cắt của mô hình không – thời gian 9 chiều hiện hữu. Trong đó, chiều thời gian tâm lý vẫn luôn tiềm ẩn trong toàn vùng không – thời gian đó nữa là 10. Nguyên lý của chiều thời gian là luôn tiềm ẩn tại chiều không gian thứ 1 là chiều cao. Đồng thời cũng vận hành và phát triển trong toàn miền 9 chiều không gian riêng phần đó, tùy theo từng thời lượng mà ta xác định thời điểm của chu kỳ gốc của thời không, xuất phát.
Đến đây. Ta có thể kết luận được rằng: Mô hình không – thời gian tiềm ẩn của vũ trụ tự nhiên cơ bản là 10 chiều. Thực tại này đã được mặc định trong hệ thống số từ 0 đến 9, bao gồm 10 giá trị toàn phần. 10 giá trị đó có thể tương tác với nhau qua các quỹ đạo khả dĩ như một mạng lưới của vũ trụ tự nhiên cơ bản đến vô hạn sau mỗi chu kỳ thời không của nó.
Đó, chính là mô hình thực tại tiềm ẩn cơ bản của vũ trụ một cách tuyệt đối.


81 - NÓN ÁNH SÁNG ĐỦ!



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Ánh sáng là một khái niệm chung cho thực tại giá trị cao quý nhất mà nhân loại luôn khát khao hướng đến. Ví như có thể liệt kê các khái niệm chung chung bao gồm; Ánh sáng tri thức, ánh sáng văn minh v.v… Vân vân cao hơn nữa như ánh sáng của Trí Huệ Phật hay ánh sáng của Chúa Thánh Thần!
Thậm chí, ta có thể xem trong góc độ ánh sáng đơn thuần của một ngọn lửa nơi buổi bình minh khi loài người phát hiện ra nó để ý thức thân phận loài người so với muôn loài. Là biểu tượng khai sinh ra nền khoa học trong tư tưởng của Heraclitus. Cuối cùng, hôm nay. Ánh sáng vẫn đang thể hiện giá trị tuyệt đối vận tốc đối với vạn vật trong vũ trụ đương đại.
Thế nhưng, sau những lời ca tụng như thế nơi mọi góc độ tiếp cận quan điểm quan sát đối với ánh sáng. Những mô tả vừa qua chỉ là ánh sáng của hiện tại và quá khứ từng đã là như thế thật! Bởi xét theo chiều hướng của hiện tại và tương lai. Giá trị ánh sáng vẫn đang còn là một giá trị tương đối mà thôi! Mọi mô hình của tương lai chỉ là những lỗ đen đầy hỗn độn. Rất đáng phải nên sợ cho tương lai đó mà nhân loại của chúng ta đang vận hành dần đến. Chỉ cần trầm tư trong chốc lát. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đủ để thấy ngay một cận cảnh tương lai đầy đen tối trên tổng các quan niệm về ánh sáng nói chung.
Ấy, là bởi sự phát triển của nhân loại của chúng ta, đã lạc giữa đêm trường tư duy bế tắc đủ lâu. Để thắp sáng lên khoảng không – thời gian 10 chiều mà chúng ta vừa khai thác và thiết kế trong các trang vừa qua. Chúng ta nhất định phải xem xét lại đối tượng ánh sáng này vậy. Nói chính xác hơn là xem xét, bố trí lại mô hình của nón ánh sáng. Tìm xem, nguyên do nào mà ánh sáng đó, không đủ giá trị soi sáng đến vùng tương lai chung dù gần. Đã thế, các bạn cùng tôi quay trở lại với mô hình của không – thời gian 4 chiều xem lại… những thảo luận như;
Theo như biểu đồ của không – thời gian 4 chiều mà ta từng đang có xưa nay thì; Ta quan sát lại cách mà các nhà chuyên môn đã bố trí nón ánh sáng trong mô hình của không gian 3 chiều vật lý đó ra sao?




Các bạn quan sát thấy trong các chiều không gian của cả 4 mô hình trên. Mô tả nón ánh sáng được bố trí theo mỗi chiều trong đó. Riêng trong hình thứ 4 là diễn đạt nón ánh sáng được bố trí tại vị trí gốc của không – thời gian (vị trí gốc vừa xác định được thôi). Chúng ta không thể phủ nhận được một sự thật trong đó là tất cả các nón ánh sáng đều có một khiếm khuyết nhất định mà rất khó gọi thành tên cho được!
Đã thế, tôi cũng đưa ra một điển hình ví dụ như sự bố trí nón ánh sáng đó;
Đôi khi…



So sánh trong các biểu đồ này. Ta nhận thấy các nón ánh sáng là không đủ hoàn thiện cho các miền không gian chung của vũ trụ hiện nay. Với hình 1, ta thấy đó là một sự thiết kế, bố trí “ngẫu nhiên” đã quen, mà không hề có một nguyên lý nào làm nền tảng cả! Và hình 2 thể hiện mô hình của không – thời gian 3 chiều. Tất nhiên mô hình của nón ánh sáng tố cáo sự khiếm khuyết rõ ràng hơn cho tư duy chung của chúng ta. Và hình 4 là biểu đồ không – thời gian 4 chiều thì: Đó chính là sự thể hiện của một nữa của nón ánh sáng trong không gian mà thôi.
Tóm lại: Với một cách hiểu nào đó, tùy mỗi cá nhân trong chúng ta. Nón ánh sáng hiện nay; Không che đủ rộng tri thức của nhân loại chúng ta trong miền tối của không gian tương lai. Bởi vì mô hình toàn vùng sáng tối của vũ trụ tương lai đó. Còn đang thể hiện là những hố đen hỗn mang đối với sự sáng tri thức của nhân loại chúng ta hiện nay mà thôi. Thế nên ta không phải lấy làm ngạc nhiên cho mấy, khi: Quan điểm hiện nay của các nhà khoa học đang vẽ nên bức tranh tương lai gần, với… sự hoang mang tổng thể như; Vũ trụ lỗ đen, hành tinh thứ 9, người ngoài hành tinh, người máy chiếm quyền kiểm soát v.v… Và sáng giá nhất với cận cảnh trí tuệ nhân tạo sẽ điều khiển nhân loại chúng ta ngay trong nay mai!!!
Vậy, với mô hình không – thời gian 10 chiều mà chúng ta vừa tham khảo qua đó. Chúng ta cùng nhau xem xét những giá trị của mô hình đó, đối với nón ánh sáng ra sao nhé.



Các bạn quan sát thấy trong hình 1. Ví dù với cách bố trí nón ánh sáng tại gốc của không thời gian đi chăng nữa. Tư duy ta suy sâu hơn tí nữa, sẽ nhận ra mô hình đó chỉ đơn thuần là một nón ánh sáng méo mó và còn nhiều khiếm khuyết. Vậy so sánh với hình thứ 2, các bạn nhận thấy trong mô hình của không – thời gian 10 chiều (tiềm ẩn). Thì mô hình nón ánh sáng của nền khoa học xưa nay. Chỉ phản ảnh một nửa của mô hình nón ánh sáng thực tại cơ bản, hoàn toàn thiếu vắng những giá trị còn đang tiềm ẩn mà thôi. Một nửa của nón ánh sáng, đang nằm bên ở phía bên kia của địa phương mà tôi gọi là vùng tối của tư duy hiện nay. Nơi mà nền khoa học hiện nay gọi với thuật ngữ vùng có những giá trị của năng lượng tối.
Tất nhiên trong hình thứ 3 và 4 là tôi diễn tả mô hình của “nón ánh sáng đủ”, trong vũ trụ với không – thời gian 10 chiều.
Vậy; Bước tiếp liền theo, sẽ hướng sự quan sát của chúng ta cùng xem xét tiếp theo một tiền nghiệm trong mô hình của không – thời gian tương lai dự kiến đó, đối với nón ánh sáng như sau:



Qua hai biểu đồ trình bày như trên. Đối với hình 1 thì tôi mô tả mô hình không – thời gian của thế giới lượng tử. Các bạn quan sát thấy trong mô hình của vũ trụ này thì biên vũ trụ bị giới hạn trong Ma Trận cấp 8x8. Với sự phát triển bị giới hạn trong mô hình đó ( thực trạng hiện nay). Với khả năng của Thuyết Lượng Tử, bao gồm các khả năng cũng như nguyên lý đã có. Chúng ta không thể nào bám kịp vận tốc tương đối của ánh sáng là 300,000km/s cho được. Trên biểu đồ chỉ rõ; Nón ánh sáng cũng như vận tốc của nó, đã vượt qua khỏi phạm vi biên và hoàn toàn nằm ngoài tầm với của Thuyết Lượng Tử. Đây là một thực tại mà các tín đồ lượng tử của chúng ta. Phải chấp nhận, dù rất khó nuốt trôi các thành phần ngôn ngữ giả định bao biện, vốn đã quen trau chuốt và điểm tô cho tòa kiến trúc lượng tử xưa nay.
Rất cay đắng cho Thuyết Lượng Tử, đối với thực tại tiềm ẩn này!
Sự quan sát tiếp đến trong mô hình thứ 2 như ở trên thì sao?! Tất nhiên, cũng suy cùng một nguyên lý như những gì đã xem xét trong hình 1. Đây là mô hình thế giới mà Thuyết Tương Đối ngự trị. Nó được phác thảo và thiết kế “giản biên” vũ trụ với mô hình không - thời gian lên cấp 9x9 (Ma Trận 9x9)! Vào thời điểm của khảo luận này, ý thức chợt tố cáo; Xưa nay, các nhà thiết kế của chúng ta. Luôn trình bày mô hình của không – thời gian là tùy tiện và hoàn toàn không xác định được rằng; Như thế nào, và làm sao mới là một mô hình cơ bản của không gian yêu cầu đủ để thiết kế, mô phỏng phù hợp với thực tại cơ bản của vũ trụ? Không hề!!!
Quay trở lại góc độ quan sát mô hình của không – thời gian vũ trụ cấp 9x9, chúng ta thấy: Vận tốc cũng như nón ánh sáng, đủ bao trùm phạm vi của vũ trụ này. Trong đó, vận tốc của ánh sáng cũng được tính tương đối là 300.000km/s như giai đoạn phát triển giới hạn hiện nay của nhân loại chúng ta. Dĩ nhiên giá trị thực tại vận tốc của ánh sáng còn tiềm ẩn là 60.000km/s ở phía bên kia của không gian chiều thứ tư trở đi nữa!!
Điều này, gợi nhắc cho chúng ta nhớ đến vận tốc tuyệt đối của ánh sáng là 360.000km/s mà trên trang này đã từng giới thiệu cùng các bạn. Chúng ta cùng xem xét điều rất khó chấp nhận đó như sau:



Như thế. Ta xác định được rằng: Trong mô hình phạm vi vũ trụ mà chúng ta đang sống cùng với tầm phát triển giới hạn hiện nay. Vận tốc ánh sáng là không thể vượt qua giới hạn của 300.000km/s cho được. Mọi thí nghiệm với kỳ vọng vượt qua giới hạn của vận tốc ánh sáng đó chỉ có giá trị là vô vọng. Điển hình như sự gia tốc của nhà máy LHC chẳng hạn. Đây chỉ là một dự án dẫn đến sự phá sản của nền khoa học hiện đại hiện nay mà thôi.
Khốn nỗi! Nhà máy LHC lại vốn là mô hình của thế giới Hạt. Một mô hình của vũ trụ hữu hạn trong Ma Trận cấp 8x8 đối với những giá trị vô hạn của Thế giới Ma Trận!!! Thật không may cho Thuyết Lượng Tử. Một học thuyết đã quen xây dựng bằng sự giả định trên những giá trị xác xuất, đong đầy quan điểm cờ bạc cùng Tạo Hóa.
Tất nhiên mô hình tự nhiên của tạo hóa đang phản ảnh nhân loại chúng ta đang vận hành đến miền địa phương tương lai tối trong một vài bước chân nữa… Một tương lai tối với nguồn năng lượng tối mà các nhà khoa học đang nhắm bàn đến mỗi ngày! Một vũ trụ tối với vô hạn lỗ đen hỗn mang chung mà nhân loại chúng ta hôm nay đang phải rơi vào...
Giữa bối cảnh như thế; Giai đoạn, lại đang còn có đầy rẫy những tri thức tối phát sinh! Và đang kỳ vọng khai thác cũng như nói đến khả năng tối tăm đó mà làm hãnh diện, tự hào cho một mô hình tương lai tối khả dĩ hơn!!!
Thế nên; Quy luật của Tạo Hóa nhất định đào thải và đang bỏ rơi cộng đồng nhân loại chúng ta ở lại…, khá xa lắm rồi. Nếu một mai, khi nhân loại chúng ta bước vào mô hình của một vũ trụ tối như nhận định của các nhà khoa học hiện nay. Ắt hẳn, ánh sáng mặt trời sẽ tắt đầu tiên. Nhân loại chúng ta có 8 phút! Với khoảng thời gian ngắn ngủi đó. Cứu cánh nào cho nhân loại chúng ta sẽ đến?
Nhất định; Trong bài viết tiếp đến. Chúng ta phải xem xét một cách chi tiết khoảng thời gian ngắn ngủi này tìm cứu cánh chung vậy. Biết có sơ suất gì trong khoảng cách thời gian giữa mặt trời và trái đất của chúng ta hay không?
Bởi, như các bạn đã thấy; Vận tốc ánh sáng thực tại đã hiện diện là 360.000km/s rồi. Quỹ vốn của thời gian có còn là 8 phút nữa hay không? Hay cũng đã rơi vào cơn khủng hoảng thời gian mà lạm phát luôn cả đi rồi???

.82 - ĐO BÓNG THỜI GIAN




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Sau khi chúng ta đã kiện toàn mọi khiếm khuyết của nền khoa học nói chung. Những công cụ đó, xem ra đã đủ để chúng ta khai thác vào mô hình thực tại cơ bản tiềm ẩn của vũ trụ tự nhiên rồi. Vậy, yêu cầu đòi hỏi được xem xét đầu tiên chính là đối tượng “thời gian”! Bởi thời gian sẽ trả lời tất cả. Qua đó, chúng ta hôm nay mới có thể thiết kế một mô hình của vũ trụ tương lai hoàn thiện và tốt đẹp hơn. Cho nên chúng ta cùng chuẩn bị đột phá tại thời điểm này nhé.
Tuy nhiên, nếu muốn thế. Chúng ta nhất thiết phải đặt lại những câu hỏi đúng về bản thể của thời gian. Sau đến, mới có thể nhận định và tiến hành khai thác cho được. Ví như ta phải xác định một cách rành mạch ra rằng thời gian vốn là chiều Tâm Lý đối với 3 chiều Vật Lý của không gian. Vậy điều đó có nghĩa là thế giới vô hình mà ta chỉ có thể cảm nhận nó được bằng cảm giác mơ hồ mà thôi. Nó chỉ là ảnh gương, là ảnh ảo đối với thế giới hữu hình mà chúng ta đang sống và nhận biết, va chạm hằng ngày bằng trực giác. Tôi có thể đưa ra một ví dụ điển hình như;
Đối tượng Thời Gian mà chúng ta đang bàn đến đó. Nó phản ảnh lên không gian 3 chiều thực tại chính là “Cái Bóng”! Các bạn có thể nhìn vào cái bóng của chính mình và quan sát vật (thể, dạng) bị quan sát đó xem sao nhé!! Ví như thời gian vào lúc 9 giờ sáng. Cái bóng nó dài ra… Đến 12 giờ, nó lùi ngắn lại... 15 giờ thì nó lại tiến dài ra theo chiều ngược lại...
Nó biến hóa từng sát na, không có bất cứ một kích thước hay mô hình nào cụ thể cả! Ở trên mặt đất bằng thì nó dài, gặp tường thì nó đứng theo, gặp bất kỳ trở ngại nào thì nó cũng biến hóa, uốn éo theo muôn dạng đó!! Đồng thời nó chỉ có một dạng đen “mờ mờ nhân ảnh” như nhau mà không có bất kỳ một đường nét nào ở đây cả!!! Thế nên ta không thể nào đo lường, thiết kế, mô phỏng hay phát biểu về đối tượng này một cách cụ thể cũng như rõ ràng cho được. Những gì mô tả về thời gian chỉ có tính chung chung như nhau mà thôi. Đó chính là thế giới song song đang luôn tồn tại đối với thế giới thực của chúng ta. Và những thực tại sự việc của thế giới đó, cũng biến hóa muôn hình vạn trạng đúng như cái bóng đã mô phỏng, phản chiếu về thế giới đó như thế. Nói đúng hơn là cái bóng của thời gian đang phát biểu lên những mô hình thực tại, tiềm ẩn trong không gian chiều thứ tư vốn là như thế cùng nhân loại chúng ta suốt từ ngày tạo dựng vũ trụ đến nay rồi. Thế nhưng chúng ta vẫn chưa có thể nhận ra những thực tại sự việc này cho được. Thời gian vận động rất chậm, rãi từng bước tích - tắc trên giây, một cách từ tốn, miệt mài…! Thế nhưng, khó có ai trong chúng ta đủ kiên nhẫn để theo dõi những bước chân như bà già đi âm phủ đó cho nổi! Chợt quên đi, ngoảnh lại… Nó đã vút qua rất nhanh mất rồi!!! Nó sinh ra tất cả và đồng thời cũng đào thải tất cả. Nó đánh cắp tri thức nhân loại của chúng ta!
Và tôi đã gọi thời gian là “Kẻ Trộm Vũ Trụ”! Tất cả kho tàng của nhân loại chúng ta đang tiềm ẩn trong bản thể của thời gian. Kể cả Khoa Học lẫn Tôn Giáo, bao gồm thiên đường và địa ngục, sự sống và cái chết. Tất cả. Thế cho nên đối tượng “T” nhất định phải được khai thác và sở hữu công cụ này một cách nghiêm túc và thật sự nghiêm túc. Nếu nhân loại chúng ta muốn vận hành đến kỷ nguyên tương lai với mọi mô hình thiết kế.
Xem xét lại trong giai đoạn cuối của kỷ nguyên vừa qua. Ta bắt gặp Einstein đã từng phát biểu về đối tượng thời gian này rồi. Trộm nhớ…; Trong một buổi thuyết trình nào đó, đã từng diễn ra trong quá khứ về thời gian. Ta thấy Einstein có phát cho mọi người nhiều chiếc đồng hồ riêng để làm thử nghiệm cho buổi thảo luận đó. Vậy, qua những hành động ngày đấy. Ta nhận ra rằng Einstein đã dùng chiếc đồng hồ để làm công cụ khai thác đối tượng thời gian này. Tóm lại; Chiếc đồng hồ trong ngày đó, chính là công cụ dùng để đo lường thời gian.
Xem ra ngày đó, Einstein gợi ý công cụ khai thác có chiều còn rất đơn sơ đối với giai đoạn thời gian đó! Như thế. Hôm nay, ngay trên trang này. Tôi sẽ đề cử cùng các bạn đến những 3 công cụ đo lường thời gian để cùng khai thác đối tượng này như sau:
1.Thiết bị đo lường thuộc diện hạn hẹp là; Chiếc đồng hồ.
2.Thiết bị đo lường tương đối hơn với: Lịch Pháp của 1 năm.
3.Thiết bị đo lường quy mô hơn là: Một Vận với 360 năm.
Các bạn thấy đây chính là 3 công cụ dùng để đo lường, hay có thể phát biểu chính xác hơn là kiểm soát thời gian rồi vậy. Bởi chiếc đồng hồ là công cụ kiểm soát thời gian trong 1 ngày với chu kỳ của vòng tròn là 360 ͦ trong đó. Lịch Pháp là công cụ đo lường thời gian trong 1 năm với 360 ngày. Và cuối cùng là Lịch Vạn Niên với Một Vận là 360 năm. Vậy sau đây, tôi sẽ ứng dụng công cụ này để khai thác đối tượng thời gian. Qua đó, chúng ta sẽ biết được trong 3.600 Ma Trận mà các bạn đã từng biết. Ma Trận nào là mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn trong thế giới Ma Trận đó. Như thế; Nếu mô hình Ma Trận nào phản ảnh quy luật của thời gian vận hành trong đó. Thì đấy chính là mô hình cơ bản duy nhất của vũ trụ tương lai mà Tạo Hóa đã mặc định một cách tiềm ẩn đối với nhân loại chúng ta rồi vậy.
Trước khi tiếp tục cuộc phiêu lưu, tôi ôn lại một clip để các bạn hình dung rõ ràng hơn sự việc. Chúng ta cùng tham gia cuộc phiêu lưu thực nghiệm đang chờ đợi ở phía trước nhé:




… Qua clip bắt buộc ở trên. Bởi các bạn đã ý thức được rằng; Nếu thiếu vắng điều trình bày và mô tả đó. Chúng ta không thể nào hình dung được sự việc, cho dù tôi đã trình bày bằng tất cả 3 công cụ ngôn ngữ trên trang này để khai thác đề tài đang được bàn đến rồi. Từ đó suy ra…, những cuộc tranh cãi đơn thuần, càng không thể nào đối với vần đề này cho được rồi vậy.
Các bạn quan sát thấy tôi trình bày và mô tả hay lập Ma Trận các cấp độ một cách “quán tính” trong clip đó mà thôi! Tôi có thể trộn lẫn các hệ thống số hay một số cơ bản nhất trong cả hệ thống cũng rất dễ dàng mà vẫn bảo toàn kết quả như nhau. Cho dù là Ma trận cấp 3 hay 30, 300, 3000 hay 3 tỷ, hoặc v.v… hơn nữa! Thậm chí là vô giới hạn mà tôi vẫn lập với một tốc độ như thế!!
Đó chính là bản thể nguyên nhân gốc của hệ quy chiếu quán tính!!! Vậy, một trong hai quy tắc mà nền khoa học vật lý sử dụng bắt buộc để trình bày như; Một là dựa trên những phương trình, đẳng thức để trình bày. Hai là dựa trên hệ quy chiếu quán tính. Những gì mà các bạn đang cùng tôi bàn thảo trên trang này mà không nhất thiết phải là nhà chuyên môn. Chính là đã được dựa trên nền tảng của hệ quy chiếu quán tính này đấy. Thế nên các bạn không phải lo lắng có là trong hay ngoài chuyên môn ở trên trang ký sự này làm gì nữa. Mà là một sân diễn luận chung, cùng thảo luận và nói lên chính kiến cũng như quan điểm của mình, cho một mô hình của tương lai chung các bạn nhé.
Với thực trạng thực tại tư duy của các nhà khoa học tại việt nam hiện nay; Trên con đường phát triển khoa học đó. Chúng ta chỉ dẫm dấu quanh trên lối mòn quan điểm hằn sâu tri thức muộn.
Bởi các vị ấy xem nền khoa học thế giới đang tiến như vũ bão! Và các vị đang quan sát họ với ánh mắt đầy kinh ngạc, sững sờ đến xiêu hồn lạc phách hết đi cả rồi!! Trong nền tảng học hàm hoặc tâm khảm của các vị, không hề vương một tí nghi ngờ gì về sự bế tắc của nền khoa học vật lý đã rối loạn suốt gần một trăm năm qua!!! Một sự mù quáng trong khoa học hiện thực. Bất hạnh thay cho học thuyết nào nếu ra đời tại Việt Nam trong thời điểm của giai đoạn tri thức muộn này. Vì thế, giai đoạn đang phải thực thi quy luật của sự đào thải tự nhiên đồng bộ là phải đến. Điều đó, nhân loại chúng ta trên bình đẳng tư duy, quan điểm chung. Thường hay quen gọi là ngày tận thế.
Ngày tận thế tuy có vẻ như đổ xuống rất thình lình. Thình lình như sự phân hủy bêta vậy! Vì thế, thời điểm phân hủy là cơ bản không xác định được, đối với nhân loại chúng ta hiện nay. Nó mãi mãi đến vô tận, đồng thời cũng có thể là bất kỳ lúc nào!!! Vấn đề là trên trang ký sự này xác định được thời điểm đó. Chúng ta đang cùng bàn thảo và nhận định cũng như chỉ rõ điều đó ra trước ánh sáng dù muộn.
Vậy; Tạo Hóa đã ưu tiên khi đã báo hiệu ngày đó cho các quan điểm nơi đỉnh cao tri thức của nhân loại chúng ta chính là lĩnh vực khoa học, tôn giáo, tư tưởng văn hóa v.v… Sau mới đến đồng bộ trên các dân thường ngoài chuyên môn như tôi và các bạn.
Đó chính là hồi chuông cảnh tĩnh mà Tạo Hóa đã cất lên…
Vậy trong bài tiếp đến; Chúng ta cùng ứng dụng xem Ma Trận nào mô phỏng sự tiềm ẩn của đối tượng thời gian là ngụ xứ trong địa phương sở tại đó. Nếu đúng thế; Ma Trận đó chính là mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn rồi vậy. Qua đó, mô hình thực tại cơ bản của nhân loại chúng ta trong tương lai sẽ được thiết lập một cách cơ bản theo quy luật tự nhiên của Tạo Hóa. Cùng đồng nhất vận hành vào tương lai.
Đó chính là kỷ nguyên thiên đàng. Một địa phương xứ mà ngày xưa khi tạo dựng vũ trụ, Người đã hứa cùng nhân loại chúng ta. Đã đến lúc mà Tạo Hóa phải thực thi lời giao ước đó. Và dân tộc đại diện để nhận giao ước đó trước kỷ nguyên tương lai chính là dân tộc Việt Nam với thế hệ hôm nay rồi vậy.
Không khác được.
Các bạn có toàn quyền lo sợ - vui mừng, lẫn cười chê - nhạo báng cho điều đó, như bản tính vốn có của thế nhân xưa nay. Dẫu sao, ngày mai vẫn đang dần đến…, bước thời gian từng bước thầm…, tích - tắc…, tích - tắc…
.



83 - THỜI GIAN TRẢ LỜI




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Thời gian sẽ trả lời tất cả. Chẳng phải đây chính là câu nhắn nhủ của mô hình tự nhiên dành cho nhân loại chúng ta đó sao? Một câu gợi ý thường trực trên môi của thế nhân và tồn tại suốt mãi từ bao giờ. Là sở hữu chung, đồng đẳng cho bình diện nhân loại toàn quyền sử dụng để kết luận mọi phát biểu hoặc tranh cãi rơi vào thế bế tắc. Tóm lại; Đó chính là câu cáo chung cho mọi sự việc, không loại trừ bất kỳ giới hạn của sự kiện nào. Dù có hoặc không xảy ra.

Thế nên các bạn cùng tôi nhất thiết phải đưa đối tượng thời gian này lên bàn phẫu thuật rồi vậy! Bởi toàn miền địa phương vũ trụ mà nhân loại chúng ta định xứ trong đó. Đang phải đối mặt trước điểm kỳ dị thời gian, căn bệnh “kỳ dị tận thế”! Mầm mống căn bệnh truyền nhiễm, lây lan tư tưởng từ các…, những nhà triết học, bác học, khoa học, đạo học và thậm chí len lỏi tận chốn hoang sơ của các bộ tộc vô học, lạc hậu nhất, tận rừng sâu Amazon.

Phải. Chính hắn! Thời gian là đối tượng “bị” chỉ định; Lên bàn mổ.

Các bạn cũng đã tham khảo qua một video clip, giới thiệu sơ lược công cụ khai thác đối tượng này rồi đấy. Và trong bài viết này. Chúng ta cùng nhau ứng dụng, khai thác không gian chiều thứ tư này các bạn nhé. Trong cuộc trường chinh qua sa mạc khoa học trên trang này vừa qua. Chúng ta đã phát hiện được; Thế giới Ma Trận, chính là miền sở tại nguyên quán mà đối tượng Thời Gian làm định xứ trong toàn miền.

Trong vũ trụ Ma Trận Phân Tán vô hạn đó. Ít nhất, chúng ta cũng đã có được giá trị xác định 3.600 mô hình không – thời gian Ma Trận phản ứng cơ bản trong giới hạn hệ thống của 10 đơn vị số cơ bản. Chúng ta cũng đã biết đó chính là mô hình của không – thời gian 10 chiều. Vốn đã được mặc định một cách tiềm ẩn trong 10 đơn vị số, một cách tự nhiên trong mô hình vũ trụ. Là “Cái Chước”, mà Tạo Hóa đã che giấu nhân loại chúng ta, kể từ ngày Người tạo dựng vũ trụ đến nay (phải bắt cho được cái chước đấy của Tạo Hóa các bạn nhé). Chúng ta nhận thấy nơi cuối chân trời sự kiện không gian chiều thứ tư này. Những phức tạp tính trầm trọng một cách cơ bản cho ngôn ngữ mô tả đơn thuần thô của nhân loại chúng ta, để diễn đạt khai thác rồi vậy. Có đi mưa mới biết lạnh. Thế nên ta mới chợt cảm thông phần nào đó cùng Einstein khi; 30 năm cuối đời, Einstein đã lao vào khai thác triết học một cách miệt mài. Với tất cả hy vọng dùng nó để mô tả, chia xẻ với cộng đồng chúng ta những thực tại ý niệm đang thấy, biết, trong tư duy lẻ loi, cô độc riêng ông. Tôi nhắc lại câu thét gào trong tuyệt vọng một cách vô vọng của Einstein nơi thời điểm quá khứ đã qua, làm sống lại minh chứng đó;

“Ngay cả một một học giả, đòi hỏi phải có năng khiếu và tính gan dạ. Khi phát biểu về sự thật cũng vấp phải khó khăn bởi những thành kiến triết học, bao gồm những gì đã học và tích lũy được từ khoa học”!

Các bạn, những thế hệ của chúng ta hôm nay thấy đấy; Vô vọng…!!!

Chúng ta đã manh nha biết được. Chiều Thời gian này tiềm ẩn, biến hóa, đồng nhất. Định và bất định trong tổng thể 9 chiều không gian toàn các miền vũ trụ Ma Trận cơ bản đó! Một đặc tính cơ bản của Kẻ Trộm Vũ Vụ, mang ký hiệu “T”, rất quái quyệt.

Tuy nhiên, với sở trường của người Phương Đông. Điều phức tạp này, các bạn có thể hình dung như “Phép Độn Giáp” trong tất cả 9 miền Thiên Can trong mô hình không gian của Cửu Cung vậy nhé! Điều này có nghĩa là ta quy chiếu một cách quán tính như sau; Chiều Thời Gian có giá trị như Can Giáp vậy. Và 9 chiều Không Gian còn lại, sẽ không khác, so với 9 Can trong Thập Thiên Can tiếp sau đó trong hệ thống. Như thế, mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn đã hiện nguyên hình. Và các bạn và tôi, những kẻ đang ở phía bên ngoài các phòng thí nghiệm. Hoàn toàn đủ khả năng thâm nhập vào mô hình này mà tiến hành những cuộc thực nghiệm và cùng trãi nghiệm như sau:

Vật ta xét thấy, mô hình cơ bản nhất chính là Biểu đồ Cửu Cung của Hà Đồ, tương quan với mô hình của không – thời gian 3 chiều trong quan điểm của tư duy khoa học. Và mô hình của Vũ Trụ Cuối cơ bản với biểu đồ của không – thời gian cấp 9! Bởi sự phát triển của nhân loại chúng ta trong thời điểm đương đại là đang giới hạn trong phạm vi biên của mô hình không thời gian cấp 8x8 mà tôi đã chỉ rõ.

Và;

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lưu ý; Trong hình 1. Các bạn sẽ được hiểu và đọc rằng; Ý của mô hình này thì đó chính là không gian 3 chiều. Và chiều thời gian đơn thuần, đang tiềm ẩn trong toàn miền 9 cung đó, được biểu hiện bằng hệ thống của 9 đơn vị số cơ bản, đồng nhất toàn miền vũ trụ mà ta quen gọi là Hà Đồ. Trong hình 2. Là mô hình mô phỏng không – thời gian 10 chiều của mô hình vũ trụ cuối của nhân loại chúng ta. Với Ma Trận cấp 9x9. Trong khoảng Không gian 9 chiều cho sẵn này. Chiều Thời gian thể hiện bằng cách đồng nhất với hệ thống số đã phản ứng và phân tán tổng các miền trong mô hình của vũ trụ đó.

Những lưu ý trên là điều cốt tủy mà một quan sát viên nhất định phải nắm được. Để tiến hành tham gia quan sát trong suốt quá trình khảo sát thực nghiệm và du hành trong không gian chiều thứ tư. Vậy sau đây, tôi tiến hành khai thác đối tượng thời gian này. Chúng ta cùng xuất phát;

Theo như 3 công cụ khai thác thời gian mà các bạn đã được biết qua là;

1- Chiếc Đồng hồ với chu kỳ đo lường thời gian của 1 ngày (vòng 360⁰).

2- Lịch Pháp với chu kỳ kiểm soát thời gian trong 1 năm là 360 ngày.

3- Lịch Vạn Niên với chu kỳ quy định thời gian của một Vận là 360 năm.

Và Hằng Số Hấp Dẫn đã được kiện toàn từ Thuyết Tương Đối với 360=0. Đây cũng chính là Hằng Số Vũ Trụ của Kỷ Nguyên Mới (bao gồm “360=0” và “10⁻49”). Vậy tôi sẽ ứng dụng bản thể của Thời Gian với quy luật vận hành của nó tiềm ẩn trong mô hình của vũ trụ Ma Trận như sau:

Công cụ được tôi sử dụng, đưa vào khai thác thời gian. Chính là mô hình quy luật vận hành và phát triển của Thời Gian cao nhất, với Một Vận bằng 360 năm. Lịch Vạn Niên. Những trình bày diễn đạt sau đây, dựa trên nguyên lý đơn thuần và dễ nắm bắt nhất cho số đông trong cộng đồng chúng ta. Tôi trình bày trong phạm vi giới hạn của 360 giờ là tốt nhất cho tất cả các bạn đang tham gia quan sát với tính cộng đồng ngoài chuyên môn.

Vậy địa phương mà chúng ta chọn làm nơi đột phá khẩu chính là mô hình của Tam Kỳ Bát Tiết! Và bản đồ sơ lược về địa phương đó, được tôi giới thiệu với các bạn trước cuộc du hành, có nguyên mẫu như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tôi đơn cử điển hình cùng các bạn mẫu đồ hình như trên đây, vốn là nguyên mẫu của bảng Tam Kỳ Bát Tiết. Chúng ta đều đã biết một Tiết có 15 ngày. Vậy 1 ngày là 24 giờ. Ta có 24 giờ x 15 ngày = 360 giờ cả thảy. Điều này cũng có nghĩa là quy luật của 1 năm = 360 ngày hoặc 1 Vận = 360 năm cũng không khác. Thế nên tôi dùng bảng Tam Kỳ Bát Tiết với 15 ngày này cho đơn giản và các bạn sẽ dễ dàng hình dung, nắm bắt sự việc hơn. Vả lại. Trong Bát Tiết thì Tiết Đông Chí là khởi đầu, nên cũng rất dễ hiểu. Bằng như các Tiết kia là sự vận hành đã lên một quỹ đạo phức tạp hơn lên gấp nhiều lần rồi. Rất khó nắm bắt chung được. Không khéo là rối tung lên hết cả thôi. Quen dần, ta sẽ thâm nhập đến đấy sau các bạn nhé.

Ta thấy, quy luật vận hành trong thế giới Ma Trận với diễn giải của ngôn ngữ số đã phức tạp trầm trọng rồi. Ta dễ lạc trong thế giới đó như không. Thế nhưng ở đây, quy luật của Ma Trận lại biến hóa ra thành ngôn ngữ đơn thuần của chúng ta rồi. Sự việc lại càng khó có thể nắm bắt cho được. Tôi sẽ vận dụng tất cả sự đơn giản nhất có thể. Hy vọng qua đó, các bạn sẽ du hành tư duy trong thế giới thiên biến vạn hóa đó của Tạo Hóa một cách vững vàng và có thể quan sát sự việc được như sau;

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quan sát qua hai biểu đồ ở trên. Ta so sánh quy luật của Ma Trận cấp 9x9 đã được tôi bố trí, phân tán trên toàn miền của cả hai biểu đồ là như nhau. Và sau đây, tôi lại trình bày, mô tả bằng 1 video clip. Để các bạn tiện theo dõi quy luật đó được mô phỏng là cùng một nguyên lý vận hành tự nhiên tiềm ẩn trong cả hai mô hình đó nhé.



Như thế, Qua sự trình bày của clip vừa rồi. Chúng ta đã phát hiện ra quy luật của Ma Trận cấp 9x9, vận hành trong bảng Tam Kỳ Bát Tiết. Hay có thể diễn tả khác đi là bảng Tam Kỳ Bát Tiết, chính là quy luật của Ma Trận cấp 9x9. Và đó cũng chính là bản thể của Thời Gian, đã tiềm ẩn trong mô hình này. Vì đây là quy luật của thời gian vận hành trong Tiết Đông Chí với 360 giờ trọn một chu kỳ. Tôi trình bày tóm tắt 1 nguyên là 60 hoa giáp trong đó. Ta gọi là Ất Kỳ. Là chu kỳ của thời gian đã vận hành hết 1 nguyên lý (Thiên). Đây chính là cái họi là “dẫn 1 cực 3”. Vì vẫn còn hai chu kỳ của Trung và Hạ Nguyên nữa mới kết thúc được. Tôi chỉ giới thiệu đơn sơ qua để các bạn dễ nắm bắt quy luật này. Vì tổng thể quy luật đó thì được tính và bố trí theo quy tắc của Bát Môn Độn Pháp. Ta sẽ bàn sau.

Điều này, cũng giống như thời gian 360 năm của một Vận, cũng mô phỏng cùng một quy luật như thế không khác. Tóm lại; cuộc du hành đã đưa chúng ta đến tận miền sở tại mà Thời Gian làm nơi định xứ. Vậy, trong bài nối tiếp. Chúng ta tiếp tục phân tích và làm rõ vấn đề đối tượng Thời Gian này với nguyên quán tại nơi đâu trong toàn miền không gian cơ bản 9 chiều đó?

Bởi vì… Dường như đối tượng Thời gian này có vẻ hành vi là trú xứ trong bất định xứ địa phương toàn miền không gian vậy!. Thật phức tạp và khó khăn vô cùng cho sự truy lùng bằng tư duy có giới hạn nhất định của nhân loại chúng ta. Tuy nhiên bằng mọi giá. Nhân loại chúng ta hôm nay. Nhất định phải dò cho ra hành tung cũng như quản thúc cho bằng được “Kẻ Trộm Vũ Trụ” này.

Bởi Tương lai của cả nhân loại chúng ta đang bị kẻ trộm này che giấu suốt bao lâu nay, bao gồm cả các giềng mối của Đạo.

.84 - THAM THIỀN KHẢO.

Thiền!

Không biết từ bao giờ, khái niệm này đã gắn liền với Nhà Phật?! Bởi một khi nghe nhắc đến hai chữ Tham Thiền. Hầu như ngay lập tức, ý niệm khởi phát đầu tiên trong tâm tưởng của chúng ta, ai ai cũng đều nghĩ như thế. Nếu như ta quan sát trên bình diện tôn giáo. Thì hầu như bất kỳ giáo phái nào cũng đều có một pháp Thiền chứ không riêng gì Phật giáo cả.

Tuy nhiên, trong bài viết này. Chúng ta chỉ giới hạn trong phạm vi cái biết chung đơn thuần của đại đa số cộng đồng tại Việt Nam hiện nay thôi nhé. Thuộc những gì giản dị, dễ hiểu mà ta thường gọi là bình dân. Vì thế, nó chỉ có tính sơ lược. Ngay sau khi hết đề tài khoa học. Chúng ta sẽ phân tích chi tiết và bàn vào sâu hơn. Theo quan điểm như thế. Chúng ta cùng tham khảo: Cũng theo như lệ cũ là từ đơn giản nhất, dần đến phức tạp nhất, là dừng lại các bạn nhé. Tiếp tục nữa là loạn mất!

Lưu ý chung: Những gì trao đổi dưới đây, không phải là tôi hướng dẫn hay khuyến khích mọi người nhập thiền như thế để đắc đạo bao giờ cả! Mà chỉ có tác dụng khả quan hơn mọi phương pháp mà trước đây các bạn đang hành thiền thôi. Lại chú ý và phân biệt một cách rõ ràng ra là; Chỉ Tham Thiền thôi. Nếu ai đó có ý phiêu lưu mà Du Thiền thì cũng đừng bao giờ mạo hiểm, dẫn đến Nhập Thiền là rất nguy. Bởi lúc đó chúng ta đã ở trong trạng thái được gọi là Thiền Định rồi. Tạo Hóa lại trớ trêu đến nỗi… Mọi sự Thiền Định mà mong đắc đạo xưa nay của hầu hết thế nhân chúng ta đó. Có giá trị chỉ như là Định Thiền, đối với mô hình thực tại Đạo mà thôi!!!

Bởi vì phương pháp Thiền. Còn có rất nhiều yếu tố quan trọng khác nữa, mới có thể đắc cho được. Ví như có bạn nào nhân vì phúc đức của mình đã nặng gieo bởi duyên lành mà đắc quả (như trị bách bệnh, nhìn xuyên mộ v.v…). Hãy luôn nhớ rằng; Đó chỉ mới là ngưỡng cửa của thực tại Đạo mà thôi nhé. Ngộ nhỡ có ai ngỡ rằng mình đã đắc đạo rồi là hỏng. Từ đó tạo bản ngã tự tôn dẫn đến tự ngã trong hố đen luân hồi…, bất thối chuyển!

Tuy nhiên, không nên vận khí lung tung khi chưa biết rõ về hệ thống Kinh Lạc vận hành ra sao. Rất dễ dẫn đến tẩu hỏa nhập ma lắm. Bởi hễ gieo nhân đúng, gặt quả tốt. Gieo nhân sai, thành quả xấu. Tùy theo ta có kịp tỉnh ngộ mà sự việc xảy ra ít hay nhiều, lâu hay mau. Bằng như ta mãi cố chấp, tác hại vẫn đeo đẳng mãi mà rất khó tỉnh lại được. Vì thế yêu cầu tuyệt đối:
Tránh hai Tiết Tiểu Thử và Đại Thử.
Thả lỏng toàn bộ ý nghĩ. Không được nghĩ đến việc vận khí, cho dù chỉ là ý nghĩ.
Xả chấp tất cả, không chấp định vào bất kỳ vị trí nào, một khi ta đã quen thở sâu để Du Thiền.
Tuyệt đối tránh Luân xa số 1. Vì đây chính là nơi nguy hiểm nhất. Nó được mệnh danh là Hỏa Xà, Lửa Tam Muội v.v… Thực tại bản chất của nó là kích hoạt Lửa dâm dục bốc lên mà không cách gì có thể ngăn chặn nổi được. Gây họa cho xã hội là tất yếu. Những sự việc này sẽ bàn sâu vào chi tiết sau này mới được (khi đã hiểu thấu về nó).

Thống nhất thế, chúng ta cùng du khảo nhé;

… Khi vừa bước qua Cửa Thiền (Thiền Môn) để thâm nhập vào lãnh địa của Xứ Thiền nói chung. Hầu hết mọi người đều phải chú ý và quan tâm đến hơi thở là đầu tiên. Chính điều này, đã đánh lừa tư duy của hầu hết thế nhân là phải định tâm vào hơi thở! Các bạn thấy đấy. Ngay từ bước chân đầu tiên, thế nhân đã bị thế giới hư hư, thực thực này đánh lừa ý thức, dẫn đến sai lạc quan niệm hết cả rồi!! Điều tai hại này, không biết từ bao giờ; Nó đã trưởng thành thành quan điểm, rồi lại hình thành thành thành kiến!!! “Nhập nhằng thế đấy”.
Lược Trích lời Chúa:
“Ta đặt trước ngưỡng cửa thiên đàng một hòn đá tảng. Bất cứ ai bước ngang qua đó, cũng đều phải vấp ngã”. “!?”.

Nói chung cho mọi phương pháp xưa nay đều phải ngậm miệng lại, đầu lưỡi chạm nướu trên, sát chân răng. Vì có chung quan điểm là nối liền hai mạch Nhâm và Đốc. Điều này ta có thể mường tượng giống như đóng công tắc để nối dòng điện hai chiều vậy (điện nhà). Nếu ta nối đúng, đèn sáng. Bằng như nối sai, hoặc quá tải là “chập mạch”. Đơn giản thế. Và trong quá trình Thiền là quá trình hình thành dòng điện… (nhân điện).
Vậy khi ta thở mà hít vào bằng mũi và thở ra bằng miệng. Cũng giống như dòng điện xoay chiều (điện đường). Một đóng, một mở. Thế nên khi nóng quá thì tự tắt, khi đủ nguội thì tự sáng. Cứ thế mà không hề sợ “chập mạch”. Tuy nhiên vẫn xảy ra tình huống quá tải là khi ta nạp đủ khí mà không biết. Lại cố tình vận khí lung tung là quá tải ngay thôi, “lại chập”!!!

Vậy ta sẽ được hiểu một cách đơn giản là thời điểm của thời gian mà ta đã chọn để hấp thụ đó (sáng chiều). Nó không quá dương hoặc không quá âm mà là đắc Trung hòa. Động tác một hô - một hấp, cũng tác động mà cân bằng giữa luồng khí trung hòa. Quen dần, vẫn không hề phải lo là quá dương hay quá âm gì ở đây cả. Ta đã loại tối đa yếu tố tẩu hỏa nhập ma rồi, cho dù có lỡ sai lạc trong suốt quá trình tham thiền. Và lại, ở đây là ta theo nguyên lý thứ hai của Maxwell và Faraday. Có nghĩa là Từ sinh ra Điện, trong đó thì Trường là yếu tố nối đến dẫn.

Và từ đây suy ra; Từ - Trường, vốn được sinh ra ở Khí. Vậy Khí, có ở khắp trong không gian. Và tùy từng thời điểm của Thời Gian mà Trường tụ và tán xứ tại địa phương đó. Ví dụ; “Thời Điểm” là cơ cấu độc lập cơ bản, tiềm ẩn trong cấu trúc của Thời Gian toàn phần. Vì vậy Thời Điểm có nghĩa là Thời Gian hoặc yếu tố Thiên trong hệ thống Tam tài. Và “Địa Điểm” chính là Không Gian, thuộc yếu tố “Địa” trong Tam Tài. Vậy luận giải này cho ta thấy rõ yếu tố “Nhân Điểm” trong hệ thống Tam Tài, chính là để xác định “Vị Trí” nào trong toàn miền của không – thời gian đó. Sự phát triển hiện nay của nhân loại chúng ta là chưa xác định được vị trí của “Chất Điểm” ở đâu trong mô hình của không – thời gian đó cả. Chưa!

Thế nên; Ta mới có thể chợt “hốt ngộ” ra được rằng; Làm gì có chuyện tham thiền mà đắc đạo như xưa nay thế nhân chúng ta từng nghĩ như thế cho được. Tóm lại: Tư duy của nhân loại chúng ta chưa đủ trưởng thành để làm lễ phối ngẫu cho Không gian và Thời gian. Thế nên trong tư duy chung chưa có sự kết tinh để hoài thai một ý niệm vị trí có tên là “Chất Điểm” để xác định cho được. Nó chưa được sinh ra kể từ trước khi học thuyết này cất lên tiếng khóc chào đời cùng nhân loại! ( Trích lại; …Tiếng khóc đó, khó chịu lắm lắm. Bởi nó có âm giống như Tiếng Sấm vậy)!!!

Các bạn thấy qua những rắc rối, lằng nhằng những lý giải ở trên, đã đan xen như một mạng lưới đó. Chúng ta cũng phác thảo được một cái nền móng tương đối cơ bản về Khí. Bởi vì nếu muốn tham thiền thì đầu tiên là tập thở. Thở có nghĩa là phải hấp thụ Khí. Thế nên đối tượng Khí này nhất định phải được mổ xẻ và nhận định trước tiên như thế là hoàn toàn chính xác. Đối với quan điểm của Phương Tây thì khái niệm Khí này còn lạ lẫm và rất mơ hồ chung chung lắm. Nhưng với quan điểm của phương đông chúng ta thì; Các bạn cũng biết được nó gồm có tất cả đến 6 loại Khí khác nhau cơ!
Điều này có nghĩa là cơ bản Khí có 6 loại Trường, luân chuyển mà thay nhau tụ và tán khí trong mô hình của Không – Thời gian đó! Nôm na là nó có Thanh Khí, Trọc Khí và Tạp Khí. Và cứ mỗi thành phần Khí này cũng đều có hai tính khí âm và dương như nhau! Vậy, ta có đủ ý thức rằng mình đang Thiền và định hơi thở trong dạng khí nào có khí chất đồng với ta hay không? Tôi không ngần ngại mà trả lời luôn là hoàn hoàn không.

Vậy thời điểm thì các bạn đã xác định cùng tôi là giờ Mão và Dậu rồi nhé. Vấn đề là khi ta đã biết và hiểu rõ như thế. Ai có khả năng để lay động quan điểm đã lập trường như thế về Thiền hay Đạo nữa hay không? Bằng như ai đó hiểu thấu để luận bàn đến, cũng chỉ có thể bồi đắp kiến thức thêm cho vững vàng hơn thôi. Không thể xô đổ nền móng đó của tự nhiên cho được. Ắt vị đó cũng đủ để được gọi là Minh Sư rồi vậy. Kỳ dư, các bạn cũng đủ để nhìn ra là họ chỉ tự biện quanh. Bấu víu mớ ngôn ngữ vụng cùng sự chết đuối quan điểm giữa biển cả thực tại tri thức chung mà thôi.

Lược quan điểm lại thêm lần cuối. Các bạn dễ dàng nhận thấy được rằng; Trong 6 loại Khí đó, nó đều sản sinh và mang nguồn năng lượng riêng, khác nhau trong nó mà ta gọi là Trường. Tùy vào từng Thời điểm của thời gian mà nó tụ xứ và tán xứ trong từng miền không gian riêng biệt toàn vùng. Vậy khi Khí tán xứ thì ta gọi là Vô Khí. Và lúc Khí tụ xứ thì ta gọi là Tụ Khí. Thế nên ta mới nghe những khái niệm như Hưu tù, Vô khí. Hoặc như Khí rời, Khí tuyệt mà các học thuật Thái Ất thường dụng đến. Từ đây suy ra: Khí rời có nghĩa là tán Khí. Khí tụ có nghĩa là Đắc Khí. Và Khí tuyệt là Vô Khí vậy. Thế nhưng trong các khái niệm tưởng chừng như mơ hồ đó lại còn có phân ra là: Chính khí, Tà khí và Tạp khí nữa! Đó chính là Khí Thanh, Khí Trọc và Khí Nhiễm rồi vậy.

Thế nên cho dù ta có thiền, thì biết lúc đó ta hít thở (hấp thụ) phải loại tính khí nào trong đó? Trong khi những Khí đó, luôn vận hành đúng thứ tự một cách trật tự tự nhiên như hệ thống số trong Ma Trận vậy. Thế nên mới có câu là Khí Số. Và cái Mệnh số mà Tạo Hóa đã định số và an bài nào đó. Một khi Khí Số đã tận là bởi đã vận hành hết một chu kỳ cuối của nó rồi. Là chu kỳ của Thời gian đã vận hành đến Thời điểm mà Khí số đó đã tận. Hoặc thời điểm mà Khí Số đó có mang nguồn Năng lượng mà ta gọi là Phần Số đã định.

Đấy là chưa nói đến ta đang cố hấp thụ cái… Hữu Khí mà thành ra Vô Khí nữa kia! Bởi nó không phải Linh Khí thì lấy đâu mà Cảm để Ứng cho được! Chúng ta đã liễu ngộ được câu “Đạo cao” lắm rồi đấy các bạn ạ. Và tất cả những yếu tố mà chúng ta vừa bàn thảo qua đó. Cũng chính là lý do tại sao tôi khuyên các bạn đừng cố Thiền. Bằng như nếu có, thì chỉ nên thả lỏng mà thôi. Và đó cũng chính là câu vạn pháp trong một pháp. Mà bất kỳ một pháp nào cũng có giá trị vô biên luận là vì thế. Đó mới là thực tại bản thể Đạo. Đạo chỉ ở nơi đỉnh cao chót vót của tư duy khoa học của nhân loại chúng ta mà thôi.

Để theo đúng cái luật mà Tạo Hóa đã định số như thế. Ta xét thấy; Tất cả các phần số là như nhau. Tạo Hóa không thêm hoặc bớt đi của bất kỳ Mệnh số nào ở đây cả. Do chúng ta mê muội, không biết được tận nẻo Cùng – Thông mà cứ mãi than Trời, trách Đất mà đổ cho số phận! Nếu có chăng, đấy cũng lại bởi sự cố chấp, tham lam trong u minh của con Người tạo ra, khiến nên ngăn cản mà gây trở ngại rồi ra lầm lạc cả thôi.

Thế nên, các bạn chỉ nên xử cái Thế cục này trong lúc tiếp tục Tham Thiền hiện nay là thả lỏng tất cả. Chỉ mong là thanh thản, trầm tĩnh, giữ sức khỏe. Thậm chí dưỡng một số sinh khí để điều hòa một số bệnh lặt vặt là tốt nhất thôi. Thống nhất như thế. Chúng ta tiếp tục dấn thêm một vài bước nữa như sau:

Vì lý do tập thở, thế nên chúng ta tốt hơn hết là tập trung tại vị trí của Đan Điền thôi nhé. Vì nó vốn có tên khác nữa là Khí Hải, nên Khởi Thủy hay Khởi Nguyên tại vị trí này là đúng cho đại đa số chúng ta rồi. Khi ta tập thở như thế, đồng nghĩa với ý nghĩ chúng ta đang tập trung tại đó. Khi nào đã quen, chúng ta thả lỏng ý nghĩ luôn đi nhé. Do yêu cầu của Thiền là phải tĩnh tâm. Ý nghĩ còn đang tập trung để nhiếp hơi thở như thế là vẫn còn đang động ý nghĩ rồi. Phải buông xả ý nghĩ luôn mới được.

Thế nhưng khi ta buông ý nghĩ thì phát hiện hơi thở sẽ loạn ngay! Ví như nó đứt quãng, không đều… Ý nghĩ tập trung bắt nó đều lại thì nó êm đi. Thế nhưng ý nghĩ lại động mất rồi! Trạng thái lúc này, ta sẽ phát giác các giác quan bao gồm là Thính, Thị, Vị, Khứu, Xúc giác đồng loạt quấy phá mà không cách nào dẹp yên cho được. Bởi vì ta đã chạm đến được sào huyệt của Ngũ Tặc rồi. Nó sẽ đồng loạt nổi lên ở khắp nơi mà nổi loạn ngay.

Nếu ta đang dùng ý dẹp hơi thở là Khứu Giác thì giặc Thị giác sẽ động. Khi ta quay sang trấn an Thị giác thì giặc Thính Giác nổi lên. Ta lại thu phục Thính Giác thì giặc Xúc giác bắt đầu khởi. Quay qua Xúc giác thì cuối cùng là Giặc Vị giác quấy… Cứ thế mà Ngũ Tặc nổi lên quấy phá, gây rối loạn khắp cả Tiểu Vũ Trụ. Cho dù ý thức có dẹp yên cái loạn của đám Ngũ Tặc này đi chăng nữa. Xét trong một chừng mực nào đó của ý thức thì ý nghĩ vẫn cứ phải cơ động miệt mài! Làm sao mới có thể tĩnh tâm cho được. Bằng nếu như các bạn tham thiền mà chưa đối diện với đám Ngũ Tạc này quấy phá. Ắt các bạn chưa có thể đi đến đâu trong thế giới Thiền này hết cả. Chỉ khi nào các bạn xâm phạm vào đúng lãnh thổ của nó, thì lúc đó nó mới nổi lên mà cho nếm mùi lợi hại thôi. Bằng như không xâm phạm đến, ắt không biết đến Ngũ Tặc này khiếp cỡ nào đâu.

Chỉ khi nào đã rơi vào hoàn cảnh cũng như trải qua kinh nghiệm này. Các bạn mới bắt đầu ý thức được việc phải tìm cho ra vị Tướng nào đó, đủ khả năng để thu phục đám Ngũ Tặc này. Đó chính là Thính Giác.

Lúc này, các bạn hãy dùng phương tiện Thính Giác lắng thử xem sao. Quả thật, có đi mưa rồi mới biết lạnh. Hoặc cùng nghề thì mới biết người trong cuộc nói gì. Chỉ lúc này, các bạn mới ngộ được câu dạy của Phật Thích Ca khi xưa là; “Mười phương tam thế các chư Phật, đều lắng bằng tai. Không hề có lối mòn nào khác”. Đó cũng chính là lý do tại sao Phật phân “Công đức” cho Tai là có 12.000 Công đức. Mà quán xét trong Dịch Lý thì Tai cũng thuộc Khảm đấy các bạn ạ. Nhất định nó phải Khai Khiếu ở đấy thôi. Đâu khác được, bởi chân lý là một mà.

Lại còn phải bàn sơ qua đến việc cách ngồi Thiền nữa chứ. Như tôi có từng nói Chúa đại diện cho Cha, Phật đại diện cho Mẹ và tất cả thế Nhân chúng ta, đại diện cho Con. Tạm phân;

Chúa Jêsu là Dương, thuộc Động, là Chân Không. Chết đứng, tượng mở mắt v.v… Có bóng dáng gian nan, nhọc nhằn của người Cha. Phật Thích Ca là Âm, thuộc Tĩnh, là Chân Như. Chết nằm, tượng nhắm mắt v.v… Có hình ảnh từ bi, hiền dịu của người Mẹ. Kinh Thánh của Chúa thì nói đến (Chúa) Thánh - Thần. Kinh Phật thì nhắc đến Phật - Tiên. Vậy, xét về Người thì là yết tố Trung hòa giữa Trời – Đất trong hệ Tam tài Thiên – Địa – Nhân. Vậy Kinh Dịch vốn là của Thần – Tiên. Là hai tên ghép chung trong Kinh Thánh là Thánh – Thần và Kinh Phật là Phật – Tiên rồi vậy.

Chúng ta, Người Việt vốn lại là giống nòi của Thần Tiên với Kinh Dịch của Chiến Thần Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ, đã từng bị đánh cắp khi xưa đấy thôi. Tôi khẳng định chắc như thế, không sai một. Và Tạo Hóa khiến nơi thời kỳ cuối tìm lại được mà hòa cùng đất trời theo Thiên Ý đã định.

Do Chúa dặn dò Hòa hợp, Phật nhắn nhủ Đồng nhất. Thế nên tôi đã hòa và đồng nhất giữa cách đứng của Chúa với cách ngồi của Phật mà ra thế; “Nửa đứng, nữa ngồi”! Các bạn hình dung xem…; Đó chính là cách ngồi trên ghế và buông hai chân chạm đất. Đó cũng chính là cách ngồi của Thế Nhân. Dung hòa giữa Trời và Đất, giữa Chúa và Phật. Bảo đảm vẫn đáp ứng “Đầu đội Trời, Chân đạp Đất” mà nhìn thẳng vào khắp cả thiên hạ.

Bởi ta lại phải xét tiếp trong vạn sự nữa. Vì tôi đã thường nói cùng các bạn là; Chúng ta đã thật sự tìm Đạo chưa? Bởi nó nằm trong vạn sự việc khắp vũ trụ. Không phải chỉ trong Lịch sử, Văn hóa, Kinh Điển mà là kể cả những câu ca Bà ru Cháu trên cánh võng, Mẹ ru Con từ thuở nằm Nôi kia. Thậm chí đến côn trùng, cỏ cây nữa. Bởi bản thể Đạo vốn nằm trong vạn vật.

Vậy, ta lại phải dụng đến sở trường của giống nòi dân tộc Việt chính là Kinh Dịch, để mà tiếp tục truy mối Đạo còn đang tiểm ẩn tiếp nhé (Tuyệt nhiên không được Bói đâu đấy). Mà phải là Chiêm Tượng (…xem tượng trời, xét thế đất…). Di chỉ của giống nòi có Mặc Định nơi đầu dòng sử là: Hễ “Kinh” là Vương (Kinh Dương Vương). Thì “Lạc” cũng là Quân (Lạc Long Quân). Vậy một Kinh và một Lạc, phối hợp mới đủ nói lên cái Quỹ Đạo để Khí Huyết vận hành trong toàn Tiểu Vũ Trụ được.

So sánh ra bên ngoài Đại Vũ Trụ. Tôi chỉ tạm bàn giới hạn cùng các bạn trong phạm vi Thiền của bài viết này thôi nhé. Xét trong tất cả mọi pháp Thiền từ ngàn xưa đến nay. Căn cứ vào trục dọc tính từ đỉnh đầu là Bách Hội. Chạy theo trước bụng, xuống Hội âm, vòng qua Trường cường rồi lại chạy phía sau lưng trở lên lại Bách Hội. Đó chỉ tương ứng với hệ thống của Lạc mà thôi. Không phải là hệ thống của Kinh bao giờ cả. Vậy cho dù ta có tài cán đến cỡ Thiên Ma Bách Chiết đi chăng nữa. Nào có đắc được nẻo Đạo bao giờ đâu.

Kinh vốn là hệ thống Dọc, phía trên. Sau mới có thể đổ xuống Lạc là đê ở dưới mà dẫn nước (huyết - khí) ra khắp nơi cho được. Phàm, Lạc thì không cách nào mà đổ nước ngược lên Kinh cho được. Lấy gì mà nói đến Đắc Đạo? Khôi hài làm sao ấy (không tả được, ngượng lắm)!

Không luận hết được. Tôi chỉ tóm lại để kết thúc bài viết này như sau:
12 Kinh, bao gồm 6 Kinh dương đi từ các đầu ngón tay chạy dọc theo má ngoài cánh tay, lên đến bả vai ngoài, là Kinh Thiếu Dương. Tiếp tục chạy phía sau lưng (gần xương sống, vòng tay phải hoặc trái qua trước ngực, dưới nách, ôm với ra sau lưng hết cỡ, là chạm), xuống đến qua hông là Kinh Dương Minh. Và từ đó chạy tiếp phía má ngoài chân, xuống vòng ra sau mắt cá và ra các đầu ngón chân là Kinh Thái Dương. Cả hai bên là 6 Kinh Dương.
Lại tính từ Huyệt Lao cung, vị trí là ở giữa lòng bàn tay, chạy theo má trong cánh tay, lên đến qua nách là Kinh Thiếu Âm. Từ đó lại chạy tiếp theo phía trước ngực (đối xứng Kinh sau lưng) và xuống đến ngang, tương quan với huyệt Đan điền là Kinh Quyết Âm. Từ đây lại tiếp tục chạy theo má trong của chân, thẳng xuống đến Huyệt Dũng Tuyền, giữa lòng bàn chân là Kinh Thái Âm. Cả hai bên là 6 Kinh Âm. Vậy tổng thể là có 12 Kinh cả thảy. (Mười hai bến nước mà ca dao ám chỉ đến).

Các thế bắt Ấn thì để tôi sẽ bàn chi tiết sau. Mà tôi chỉ bàn cùng các bạn rằng: Với cái “Thế Nhân” mà ta ngồi như bình thường trên ghế đó. Chính xác thì trên thạch bàn là tốt nhất. Vì đá vẫn nối thông và dẫn được Khí từ đất lên xuống. Ta xét thấy 6 Kinh Âm đã được nối thông cùng Khí Đất. Và 6 Kinh Dương cũng câu thông được với Khí Trời. Việc còn lại là Con Người nối hai Khí đó giao hòa bằng cách; Để hai tay buông bình thường trước bụng. Một tay ngửa lên, một tay úp xuống. Đặt các đầu ngón tay (sấp, down), vốn và nơi “Khí Đạo” ra của 6 Kinh Dương. Chạm vào lòng bàn tay (ngửa, up) ngay huyệt Lao cung giữa lòng bàn tay để nối mạch cho Khí âm dương giao hòa vào với 6 Kinh Âm mà cùng du hành khắp Tiểu Vũ Trụ nữa mà thôi. Hình thế hai tay giao nhau này, cũng có dáng là hình của Thái Cực.

Lời cuối:
Chúa đại diện cho Dương. Thế nên ta mượn “Thiên Nhãn” để quan sát thấy; 6 Kinh dương trên thân thể của Chúa Jêsu là còn nguyên. 6 Kinh âm đã bị bể hết các huyệt đạo này, do Loài Người gây ra rồi. Thế nên các dấu đinh đóng tên tay và chân của Chúa (kể cả ở vị trí hông), là đã bể các huyệt thuộc 6 Kinh âm đi hết cả rồi. Nó bao gồm các huyệt Lao cung và Dũng Tuyền, vốn là để dẫn Khí âm. Thế nên khi sống lại. Thân thể Chúa không tích tụ được Kinh Âm nên không có Khí Âm. Tất phải Thăng lên Trời là tất yếu thôi. Bởi tính dương là phải Thăng. Chúa ngày đó có muốn ở lại cũng không cách nào được nữa rồi. Tội lỗi đó chính là do loài người gây ra.
Và Phật đại diện cho nguyên lý Âm. Thế cho nên ta quan sát thấy; Cách ngồi của Phật là tất cả các huyệt thuộc Kinh Âm là ngửa lên Trời hết cả! Kể cả hai Huyệt Dũng Tuyền nơi hai lòng bàn chân và hai huyệt Lao cung nơi hai lòng bàn tay đều ngửa cả lên. Tất cả 6 Kinh Dương là không có tác dụng. Thế nên bản Khí vốn là Âm. Nên Phật phải Giáng xuống mà nhập Niết bàn là Tất yếu. Bởi Phật là Âm nên tượng là khi ngồi thì 6 Kinh âm ở các lòng bàn tay và chân phải ngửa hướng lên mà tiếp thêm khí Trời. Chúa là dương nên đứng. Và tượng 6 Kinh với các huyệt âm đều hướng xuống mà tiếp nhận thêm khí Đất.

Nhớ đấy: Thế Nhân chúng ta phải ngồi Thiền đúng với bản thể của Loài Người để còn Dung hòa cả Chúa và Phật đấy nhé.

Chỉ Định:
Hãy chuẩn bị viên sủi Panadol, sau và trước khi muốn đọc lại!!!

Bạn đọc tự do chia sẻ.



85 - TRAO ĐỔI CHUNG CÙNG CÁC BẠN




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

·

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đến bài viết này. Tôi buộc lòng phải có đôi trao đổi chung cùng các bạn trên trang “Ký Sự Phía Bên Kia Không Gian Chiều Thứ Tư”. Mong rằng qua đó, các bạn sẽ hiểu mục đích chính khi tôi mở trang này cũng như chia xẻ, thông cảm cùng tôi phần nào có thể được.

Hy vọng, (chỉ hy vọng thôi) qua đó, một số các bạn khác. Vội thiển cận, không hiểu ý. Cứ ngỡ tôi đang giảng Đạo hay giáo hóa làm lung lạc người khác. Nhất là các Vị nào đang tu hành hay đang đứng giảng đạo trên một trang nào đó của riêng họ về các học thuyết cũng như học thuật mà họ theo.

Do các bạn hỏi đến các chủ để có tính liên quan. Nên chúng ta mới bàn sang mà “dây, vướng” đến họ trong một góc độ phiến diện. Xảy ra có ít nhiều bất hòa nên tôi vạn lần không muốn như thế. Vậy mục đích chính của trang này là tôi lên tiếng công bố về một học thuyết mới ra đời. Đó chính là học thuyết có tên; Định Luật Điểm Tựa!

Định Luật Điểm Tựa là một học thuyết có thể gọi là “Theory Or Everything” (Lý thuyết của tất cả). Một ước mơ mà nền khoa học vật lý của nhân loại chúng ta đang ra sức truy lùng gần một trăm năm qua. Bởi nó bao gồm và hợp nhất được kể cả khoa học và tôn giáo. Tính riêng trong góc độ của Tôn Giáo cũng đã hợp nhất tông chỉ tư tưởng của các giáo phái. Thế nên các bạn khác cảm thấy có liên can đến thành kiến quan điểm của cá nhân họ (không phải thực tại giáo phái mà họ đang theo). Và xảy ra các sự việc tranh cãi có tính đố kỵ, hiềm khích xảy ra một cách cố chấp mà ta nên tránh.

Chúng ta nên tránh. Bởi là tổng các lịch sử. Cho nên các góc độ quan điểm đó cũng chỉ là một thành phần cơ cấu của cả Học Thuyết Định Luật Điểm Tựa này mà thôi. Là một mô hình tương lai của cả nhân loại. Dĩ nhiên còn có cả những nhà vô thần, thậm chí những ai không biết biết hay quan tâm gì về tôn giáo hay khoa học nữa kia.

Tôi không hề đứng hẳn về bất kỳ một giáo phái hay có quan điểm bênh vực hay xô đổ giáo phái nào cả. Mà là chỉ rõ những sai lầm, u mê, dốt nát gây ra lầm lạc hết cả chân lý đi mà thôi. Các bạn có thể thấy điều này qua các Học thuyết, Nguyên lý, Nguyên tắc của các nhà Triết gia, Bác học bên lĩnh vực khoa học đã được tôi chỉ rõ. Thế nhưng khi phân tích bên tôn giáo thì cơ man nào là những tư duy thấp kém nhất cũng có thể reset điệp khúc giáo điều với trạng thái volume hết cỡ theo chiều kim đồng hồ! Rồi chỉ cần gõ lên bàn phím một vài lời là quy chụp tất tần tật lên trang này ngay! E gây rối loạn lên hết. Trong khi còn quá nhiều sự thật oan khốc vùi lấp chân giá trị các giáo phái mà tôi chưa phủi bụi thời gian đi nữa. Hơn nhiều lần nữa, e rằng chân lý của Đạo không thể nào đưa ra ánh sáng cho được. Sự hủy diệt hay đào thải tất không thể nào tránh khỏi trong nay mai. Thế nên ta có thể nhận thấy giặc dốt cũng như giặc u mê, rào lối Đạo trong sự mê tín là nguy hiểm vô cùng. ­­

Vậy tôi giới thiệu sơ lược qua về mô hình cấu thành học thuyết Định Luật Điềm Tựa này có kết cấu như sau:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tôi giới thiệu qua sơ đồ hình thành như trên. Ôn lại: Theo như mô hình thực tại tự nhiên tiềm ẩn của vũ trụ thì: Trong người với bàn tay có 5 ngón. Bên trong có Ngũ Tạng. Bên ngoài có 5 giác quan. Quy trình vận hành phát triển tự nhiên thì có Ngũ Vận. Yếu tố kết cấu sinh diệt có Ngũ Hành. Màu sắc có 5 Gam và thế giới có 5 Châu. Tất nhiên học thuyết này có 5 Học Thuyết của Khoa Học và đối lập là 5 Triết Thuyết của Tôn Giáo.

Đó, chính là mô hình thực tại cơ bản của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn. Từ đây các bạn có thể suy ra; Bàn tay là nhất định phải và chỉ có 5 ngón mà thôi. Nếu 4 hay 3 ngón thì ta gọi là khuyết tật. Bằng như từ 6 trở đi? Ắt là dị tật rồi vậy.

Vì thế, theo tư tưởng của Phương đông thì mô hình cơ bản với đại diện là Ngũ Hành đó. Để hình thành cấu trúc này, ta có 3 phần dương và 2 phần âm. Khái niệm để đặt thành tên gọi chung cho hai thực thể kết cấu này là “Tham Thiên và Lưỡng Địa”. Lại xét thành phần trong hai cơ cấu đó, ta thấy; Tham Thiên chính là hệ thống Tam Tài và Lưỡng Địa với hệ thống Âm Dương. Cuối cùng thể hiện hệ thống Tam Tài với ba đại diện là Khoa Học – Dịch Học – Đạo Học là bởi; Xét Dịch Học có cả hình ảnh của Khoa Học lẫn Tôn Giáo đồng nhất trong đó. Lý Thuyết Trường không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi này.

Để các giáo phái không phải kỳ thị, tranh chấp (lạ thật, đạo vốn đồng. Thế nhưng mọi giáo chúng luôn luôn kỳ thị giữa các giáo phái!). Sao không ai trong chúng ta thấy được ra rằng; Các giáo phái không hợp nhất được với nhau thì đến lúc nào mới có thể đối đầu với đối thủ sừng sỏ nhất đang chờ đợi là Khoa học cho được? Để giải quyết vấn đề hóc búa ngàn năm này. Tôi phân ra như sau:

Bởi tôn giáo có hàng ngàn ngàn giáo phái. Cớ sao tôi lại chọn 5 giáo phái như trên làm đại diện? Là xem xét, chọn lựa dựa trên tiêu chí; Giáo Phái nào tồn tại cùng với Thời Gian trên ngàn năm. Vì điều gì không phải là chân lý, thì cùng với thời gian sẽ bị quy luật tự nhiên đào thải. Và Kinh Điển của các giáo phái đó, phải đạt đến đỉnh cao của tư tưởng triết học. Đồng thời cũng được cộng đồng nhân loại mặc nhiên chấp nhận.

Vậy các giáo phái nào có cùng một nguồn gốc như nhau mà phát triển ra. Tôi hợp nhất lại và chọn một đại diện tiêu biểu. Ví dụ:

Đạo Do Thái, Tin Lành, Thiên Chúa v.v… Tôi gọi chung là Đạo Chúa. Thế nên ta thấy được:

1- Ấn Độ Giáo (Hindu) với Kinh Veda.

2- Hồi Giáo……………với Kinh Coran.

3- Huyền Giáo………..với Kinh Dịch.

4- Thiên Chúa Giáo….với Kinh Thánh.

5- Phật Giáo………….với Kinh Phật.

Đó là sự cơ bản thực tại tự nhiên tiềm ẩn. Dĩ nhiên 5 tiêu chí này đại diện cho nguyên lý Dương. Vậy 5 tiêu chí đại diện cho nguyên lý Âm là đối lập như bên khoa học mà ta đã thấy. Điều này cũng tương quan như cả hai bàn tay có đủ 10 ngón vậy.

Các bạn dễ dàng quan sát thấy mô hình này có tất cả là 10 góc độ quan sát cũng như nền tảng để kết cấu hình thành nên cấu trúc của học thuyết Định Luật Điểm Tựa này. Thế nên khi tôi viết một bài thảo luận cùng các bạn trong một góc độ nào đó. Các bạn phải biết cũng như ý thức được rằng; Còn có 9 góc độ tư tưởng cũng như vị trí quan sát khác nữa.

Điều này cốt là tôi lưu ý đến những bạn nào cứ mang một góc độ quan điểm phiến diện, công kích một cách không thể nào hiểu nổi cho được. Đó là tôi chưa nhắc đến nguyên lý của “Tổng Các Lịch Sử” tham gia quan sát nữa. Các bạn thấy đó. Chỉ xét riêng về nhóm Huyền Giáo đây thôi. Là tư tưởng bao gồm của nhóm Bách Gia Chư Tử đấy. Với đa số chúng ta hôm nay cũng đã đủ rối loạn lên hết cả rồi. Các bạn nào càng cố cãi chày cãi cối nữa. Điều đó càng chỉ rõ bạn đó đang “Lạy Ông Tôi Ở Bụi Này” mất đi rồi còn gì nữa. Bạn ấy chỉ ra sức tố cáo giá trị cũng như bản chất của mình trước công luận mà thôi. Tôi có muốn bênh vực cho một lời tốt, e cũng khó lắm.

Tôi cứ nói mãi rồi. Là Phật giáo có giá trị tương quan như Thuyết Lượng Tử đấy. Ai đó, có cảm thấy khó chịu thì đứng sang góc độ của Thuyết Lượng Tử mà tự soi và xem xét lại những giá trị của mình. Bởi đó chính là ảnh gương, phản ảnh thực tại giữa không gian 3 chiều với không gian chiều thứ tư trở đi.

Điển hình vài 3 đề cử ví dụ để so sánh:

1- Nếu công cụ ngôn ngữ Nhà Phật là Ẩn Dụ thì công cụ ngôn ngữ Lượng Tử có Giả Định!

2- Bằng như Phật nói “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”? Lập tức Lượng Tử gọi “Hạt là Sóng, Sóng là Hạt”!!

3- Hễ Phật mô tả thực tại Vô Biên, sẽ được Lượng Tử diễn giải giá trị Vô Hạn!!!

4- Lại khi Phật giới thiệu Tam Bảo, Tam Tạng, đó là lúc Lượng Tử đề cử Ba Quark, Ba Hạt !?. Cứ thế, Vân vân và V.v…

Thế nên, tôi mong rằng; Qua mô hình trên. Các bạn có toàn quyền công kích nhưng phải ý thức được góc độ để hình thành sự quan sát của mình. Để khi công kích thì phải cho chính xác nhé. Kẻo không biết mình cứ mãi đánh vào chổ hư vô cả. Tuy nhiên, thay vì công kích. Ta thay bằng quan điểm cũng như chính kiến của mình thì có hay hơn không? Đã có nhiều bạn như thế rồi, dù đúng dù sai. Các bạn ấy vẫn rất đang rất được trân trọng chung trên trang này.

Ta nhớ Giai Thoại Người Mù Bẩm Sinh của Thuyết Tương Đối mà tôi đã từng có trình bày rồi đấy. Cho dù Einstein có cầm tận tay, cũng có nguy cơ hiểu sai về Sữa! Mặc dù anh bạn Mù Bẩm Sinh rất tận tình để hỏi. Bằng như công kích hay hạch hỏi thì lại càng; “Anh đi xa quá…”!

Bằng như chúng ta cứ bàng quan, đưa quan điểm bàn luận thì có phải hay lắm không. Tôi đang rất mong muốn có những thảo luận như thế để hoàn thiện cho một mô hình của tương lai chung kia mà. Lỡ như có sai thì cũng đâu phải ngại gì. Các bạn trên trang cũng đang rất hòa đồng mà nương dựa, nâng đỡ, hoàn thiện chính kiến mà đùa vui với nhau đấy thôi. Cửa Thiên Đàng, Cõi Cực Lạc, Chốn Thần Tiên là của chung và luôn rộng mở với tất cả chúng ta kia mà. Chính sự đố kỵ, ích kỷ, nhỏ mọn đã khiến các bạn tách rời cộng đồng đấy.

Nếu các bạn nào có thiện ý quay lại cùng thảo luận cho vui. Hãy đổi tên khác là được. Không ai nhận ra nữa đâu. Thế giới mạng vẫn có cái hay của nó đấy. Cửa Tạo Hóa tuy hẹp, thế nhưng vẫn luôn rộng cửa cho tất cả chúng ta bước vào. Tôi bảo lãnh, ưu tiên cho người Việt Nam chúng ta hôm nay trước thời điểm cuối. Thế nhưng, các bạn cũng phải xứng đáng với sự bảo lãnh đó với nhé.

Tôi không nói ngông. Bởi Tạo Hóa biết rất rõ; Tổ tiên cũng như giống nòi Thần Tiên này. Đã trả giá quá đắt trong suốt cội nguồn dòng Sử Thiêng bao ngàn năm qua. Và hôm nay, Anh Linh cũng như Hồn Thiêng của Núi Sông đã đưa con tàu Dân Tộc Việt về đến trước cánh cổng của Kỷ Nguyên Mới rồi. Trong suốt cuộc hành trình đầy tang thương cũng như đong đầy oan khốc trong lịch sử đó. Là mô phỏng một cách trung thành và tuyệt đối những sự oan khốc vùi lấp chân lý thực tại Đạo, kể từ ngày Tạo Hóa gây hình vũ trụ cho đến hôm nay đấy các bạn ạ!!!

Tôi đang chờ đợi để đối đầu với các nhà Bác Học, Sử Gia, hoặc các bậc Đạo Cao Đức Trọng trước tòa công luận trên bình diện địa cầu chứ không phải đối chọi với người Việt Nam chúng ta hôm nay đâu. Các bài viết về khoa học trên trang này là một bằng chứng hùng hồn nhất cho lời phát biểu kết thúc bài viết này cùng các bạn.

Rất mong các bạn cùng cảm thông. Được vậy. Chúng ta hãy cứ tự do trao đổi một cách thoải mái nhé. Để chung tay kiện toàn cho Định Luật Điểm Tựa.

Lược Trích:

Archimedes phát biểu: “Ai cho tôi Điểm Tựa, tôi sẽ bẩy Trái Đất”.

Hôm nay, chúng ta đã có nền móng của Điểm Tựa, dù thô. Tại sao không chung tay thiết kế nên hoàn thiện để cùng…; Bẩy tối thiểu là nền kinh tế hiện nay của đất nước một lần xem sao?

Thế nhưng Tạo Hóa mãi éo le cho đến tận thời điểm cuối cùng khi; Trong kho tàng văn hóa chung của nhân loại chúng ta còn có:

“Dời một Hành Tinh, còn dễ hơn khiến người khác thay đổi Định Kiến”!!!

Chợt nhớ…;

“Muốn kêu một tiếng cho to lắm.

Rằng ối ai ơi! Nó thế nào…”.

Vậy, cũng nhàm rồi. Tôi đề xuất chúng ta cùng giải trí cho thư giãn nhé. Để lại còn tiếp tục cuộc du hành đang chờ đợi ở phía trước…


Bạn Việt Nam Vô Địch có hỏi.
“Thưa ngài, mong ngài khai thị lý giải nguyên do cho kẻ hậu bối tối tăm này...! Khi đọc các bài viết đã qua về lịch sử dân tộc và những lý giải sơ lược về Thiền định... tôi có 2 vấn đề khúc mắc muốn hỏi: Thứ nhất là vấn đề lịch sử dân tộc giai đoạn Tây sơn nhà Nguyễn tranh hùng! Tại sao Quang Trung hoàng đế và nhà Tây sơn có công to lớn với nước nhà như vậy...! * chắc ai cũng biết* tại sao lịch sử và * Thiên Mệnh* của nòi giống giồng tiên lại không phù hộ và lựa chọn nhà Tây sơn, lại đi phù cho Nguyễn Ánh.! Và để cho dòng dõi Tây sơn và con cháu phải chịu kết cục bị thảm đến như vậy...! Ngài từng nói tạo hoá và Thiên mệnh rất công bằng...và không bao giờ lựa chọn sai! Đó là ý Trời bởi nhân thế này mọi chuyện xảy ra đều có Nguyên do nhân quả của nó!!! Vậy tại sao Ông Trời lại Sinh ra Nguyễn Huệ vs những chiên công hiển hách để rồi vùi dập ông chẳng thương tiếc ...!
Thứ 2 về vấn đề Thiền định;
Tôi phát hiện ra rằng trong Thiền định hơi thở là cánh cửa trung gian giữa ý thức và vô thức và chính hơi thở là sợi dây cho ta bám vào hòng Nhiếp tâm trong Thiền định..! Nhưng khi ở mức độ sâu thì nó lại chính là chướng ngại cho ta nhập định..! * Hồi xưa thầy Thích Chân Quang* có nói là Nhiếp tâm an trú vào hơi thở..! Dừng hơi thở để nhập định..! Khi đó con người sẽ chuyển vào trạng thái thở thai tức (tức thở như thai nhi) theo quan điểm của tôi..! Vậy có cách nào giúp con người nhập vào trạng thái Thai Tức ko thưa ngài? Mong phúc đáp ..! Nếu câu hỏi quá nông cạn mong ngài bỏ qua cho”

Trả Lời:
Do câu trả lời phải đủ ý và trong comment lại giới hạn số chữ nên tôi trả lời thành một bài và chúng ta cùng trao đổi bạn nhé. Vì những uẩn khúc lịch sử như thế này. Bàn luận có hết mực cũng chưa có thể hết ý được. Một vài câu ngắn gọn chỉ làm mơ hồ thêm cho sự việc hơn thôi.
Về ý thứ nhất, rất hệ trọng. Phàm, gỡ rối việc hệ trọng, cần người trầm tĩnh và mẫn trí, mới có thể suy xét thấu đáo sự việc cho được.
Trước tiên, tôi nói việc của “Ý Nhân Cơ”. Sau sẽ bàn đến việc của “Ý Thiên Cơ”. Chúng ta cùng tham luận nhé.

Với quan điểm của tất cả mọi người, kể cả toàn khu vực. Mãi từ giai đoạn Nhà Hán cho đến khi Nhà Nguyễn mở cõi. Đều xem ở phía bên kia Đèo Ngang trở vào Nam. Vốn là Nước của Chiêm Thành chứ không phải Nước Việt. Khi Nhà Tây Sơn nổi lên. Nhà Nguyễn biết rất rõ 3 anh em Tây Sơn có gốc là người Chiêm Thành chứ không phải người Việt! E rằng cơ đồ mà tổ tiên 9 đời đã mở mang, phải bị Chiêm Thành thu về lại mất. Nguy cơ Nhà Tây Sơn chiếm luôn cả nước Việt khi đó, vốn là Đàng Ngoài, về với Chiêm Thành luôn một thể. Vì Vua Quang Trung đã thống nhất Nam - Bắc về một mối rồi. Thế nên bằng mọi giá, Kể cả Gia Long lẫn Chúa Trịnh, Nhà Lê đều phải lấy lại cho bằng được. Bởi ngày trước, Nhà Nguyễn chiếm nước Chiêm Thành, thì ngày nay Vua Quang Trung chiếm lại Nước Việt là có thật. Khi xem xét, tư duy phải đặt vào quan điểm của hai nước giao tranh, chiếm đoạt và thôn tính lẫn nhau trong giai đoạn đấy mới được. Nền tảng trên hết để thiết lập tư duy lập luận. Phải lại là sự tồn vong tương lai của cả quốc gia và dân tộc mới được.

Tuy Vua Quang trung chưa có biểu hiện gì. Thế nhưng đối với sự lo sợ của các vị rường cột của nước nhà khi đấy. Vận mệnh của cả quốc gia và dân tộc là tối hậu. Không một ai mang đi đánh đổi hay trông chờ vào sự rủi may bao giờ cả. Cho dù bản thân riêng Vua Quang trung không có ý gì. Thế nhưng, còn các đời nối tiếp sau đấy nữa. Chắc chắn không phải là một bậc anh minh như Vua Quang Trung là một sự thật (hành động của Nguyễn Nhạc, tinh ý một chút, ta đã thấy rõ). Riêng Vua Quang Trung. Thì cũng đã được lưu “Danh Thơm” vào dòng Sử Thiêng của dân Tộc Việt về công nghiệp của Vua với hậu thế chung rồi.

Thế hệ hiện nay, chúng ta biết gì về nhân thân thật sự của Vua Quang Trung? Đó là Ý của Nhân Cơ. Ta xét thấy sự việc của Người còn đầy oan khốc ra cả mà còn chưa có thể biết đến cho được như thế. Khi đã xem xét xong việc của Người rồi. Ta bàn tiếp đến việc của Trời nhé. Sự việc cách đây chỉ mới hơn Một Vận với vài trăm năm thôi. Sử sách đã sai lạc hết cả rồi. Nói chi đến Một Hội của đất trời với những sự kiện trước đó hàng ngàn năm của lịch sử nữa.

Xét về Ý của Thiên Cơ thì: Đấy chính lại là dòng của Bà Âu Cơ khi xưa mang đi mở cõi. Cho đến giai đoạn đó, hầu như không một ai còn nhận biết được nguồn gốc này hết cả. Mà đã xem nhau như là hai nước thù địch khác nhau rồi. Không cách gì có thể nhận lại giống nòi khi xưa cho được nữa. Trong khi đã đến thời kỳ cuối rồi. Ý của Tạo Hóa đã định là phải để cho giống nòi Tiên – Rồng này nhận lại nhau sau bao ngàn năm lưu lạc vì chiến tranh. Nay nguy cơ chiến tranh lại gây chia rẽ, lầm lạc ra và chất chồng thêm hơn nữa. Mà Quang Trung vốn là dòng Mẹ, Gia Long mới đích thực là dòng Cha. Vua Lê, Chúa Trịnh cũng thuộc về đại diện dòng Mẹ theo Cha với 50 con khi xưa xuống biển. Nước Phù Nam trước đấy mới là dòng Cha theo Mẹ (50 con lên non).

Vậy Ý Thiên Mệnh, đã giao cho Nhà Nguyễn, vốn là tộc của Tam Miêu, phải nhất thống sự chia rẽ này lại trước thời kỳ cuối. Ý của Trời khi tạo thiên lập địa với câu “Tham Thiên Lưỡng Địa” mà ký gửi trong Dịch Kinh rồi. Điều này có nghĩa là dương 3 và âm 2. Vậy dương là Cha, là chủ động mà Mẹ là âm, phải thuận theo. Nếu ta làm ngược ý đó, ắt phải nghịch thiên ý mà chuốc tai ương (âm thịnh dương suy). Ta có thể xét thấy chính Cửu Thiên Huyền Nữ vì nhẹ dạ, cả tin mà giao sách cho Hoàng Đế. Từ đó khiến gây nên Chiến Thần Xi Vưu vướng vào kế hiểm mà ra cảnh tang thương ngàn đời cho giống nòi về sau. Rồi xảy đến việc An Dương Vương (dòng Mẹ) cướp ngôi lại gây ra cảnh nô lệ 1000 năm. Lại Nhà Hậu Lê cũng thuộc dòng Mẹ… Khiến từ đó xảy ra những vân vân và v.v… sự việc.
Vua Quang Trung thuộc về dòng Mẹ đấy các bạn ạ. Trong khi vào Vận cuối là phải kiện toàn chân lý mới có thể kịp định kỳ theo như định số mà Tạo Hóa đã an bài được.
Để xác minh cho lời của tôi đúng hay sai. Sử sách là xưa nay chưa hề biết đến để tìm dẫn chứng. Tôi nhắc lại là các bạn có thể dựa vào “niên số” của Lịch sử mà tính từ khi nhà Nguyễn mở cõi đến Vua Quang Trung là đủ số của 144 năm. Khớp với số của Hào âm của Dịch số. Từ Vua Gia Long tính đến 1945 là 216 Hào dương của Dịch lý. Tổng bằng một Vận là 360 năm. Vậy tính luôn 24 năm mà Vua Quang trung hiện diện đó nữa là đủ 384 Hào số của Kinh Dịch. Vậy điều này có nghĩa nói lên Thiên Ý đã định số và an bài như thế đối với Vua Quang Trung rồi. Công nghiệp của Vua Quang Trung, vẫn nói lên cái Thiên Mệnh Việt mà Tạo Hóa đã an bài phần số trong cơ cấu của số trời mà ta quen gọi là Thiên Cơ. Nên những gì thuộc về Thiên Cơ. Con người khi chợt phát lộ, thì chỉ có thể kinh ngạc đến ngỡ ngàng, chứ không có thể biết được nguyên do từ đâu cả.

Lại chợt xảy ra…;

Người Pháp biết nguyên do Nước Chiêm Thành với vua Quang Trung và Nước Việt Nam với Vua Gia Long không phải là một! Do góc quan sát của Người Pháp đối với bối cảnh khi đó là: Người Việt Nam đã chiếm nước của Người Chiêm Thành chứ không phải Chiêm Thành ( Nhà Tây Sơn) chiếm nước của Việt Nam. Nên lại nhúng tay vào mà chiếm đoạt lấy trong 100 năm nữa!! Người Mỹ khi phát giác sự việc. Tính tham vọng vốn có của loài người, khiến người Mỹ lại tiếp tục chia cắt, để hòng mưu lợi cho lợi ích của riêng họ nữa!!! Và H.C.M (cũng xuất phát từ khu vực của Tổ Rồng khi xưa) chính là người gánh trách nhiệm phải xóa nhòa cái ranh giới đó một cách hoàn thiện nhất. Đó là ý trời. Là chân lý cũng như chính nghĩa phải thuộc về H.C.M (thuận theo thiên ý). Thế nên H.C.M phải thắng là tất yếu. Bởi bằng như theo ý và quan điểm của Ngô Đình Diệm hay NVT, thì nước Việt Nam vẫn cứ phải bị chia hai là Nghịch Mệnh Trời rồi vậy. Chân lý không thuộc về chỉ vì sự ích kỷ của một chế độ nhất thời nào đó, mà lại xóa đi tất cả mọi giá trị của cội nguồn dân tộc suốt bao ngàn năm trước đó. Chưa kể những giá trị của các thế hệ tương lai bị mai một và sai lầm thực tại lịch sử đi nữa.

Giả như đường lối có sai lầm là do các thế hệ kém cỏi sau này, chứ việc làm của H.C.M là thuận thiên ý. Tôi biết rất rõ H.C.M là Thiên Tài đúng nghĩa, chứ không phải biết theo cách nghe nói và học thuộc lòng như thế bao giờ cả! Đó là sự thật của Thiên Cơ.

Vì vậy, Thiên Ý là dân tộc Việt phải nhìn lại giống nòi mà không còn cảnh một nước, chia hai như hai Hổ một hang, hai thuồng luồng một lỗ nữa.
Cho dù có là toàn cầu hay chăng chăng đi nữa. Cũng không thể ngăn cản được việc giống nòi này quy về chung một nhà sau hàng bao ngàn năm lưu lạc cho được. Thế nên những thế hệ hôm nay, chớ có vì mê muội mà gây chia rẽ nhau mãi nữa. Tất cả đều phải đứng trước vành móng ngựa nơi thời kỳ cuối không bao lâu nữa đâu.

Nhân đây. Tôi cũng lưu ý kỹ càng lại với chung các bạn rằng: Bách Việt là từ Chiến Thần Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ sinh ra. Là Bách Tộc Việt chứ không phải là Bách Quốc Việt xưa, như một số trong các bạn đã nghĩ như thế. Trong Bách Tộc đó. Chỉ có một số Tộc Việt đã gầy dựng được nước riêng, chứ không phải là cả một Trăm Nước.
Và Bách Bộc là của Lạc Long và Âu Cơ sinh ra về sau này mà chuyện trăm trứng nở trăm con như trong lịch sử đã ghi. Cũng giống như thế. Chỉ một số dòng con tiêu biểu lập quốc thôi. Không phải là một trăm con thì lại cứ suy diễn ra là phải lập đủ một trăm nước. Vì thế, Lạc Việt chỉ xuất hiện từ Lạc Long Quân mà thôi. Trong nhóm Bách Việt trước đó là Lạc Long Quân chưa được sinh ra. Không thể có Lạc Việt hiện diện trong Bách Việt trước đó cho được.

Dòng Lạc Việt, nếu tính ngược trở về trước đó, thì phả hệ thuộc về; Kinh Việt, Đông Việt trong Đông Di, Miêu Việt trong Tam Miêu. Vậy nếu ta nói Trong nhóm Bách Việt thì phải gọi là Kinh Việt hoặc Miêu Việt vậy. Không gọi lầm lẫn ra thành Lạc Việt chung trong nhóm Bách Việt cho được. Ta có thể thấy điều thực tại này, qua cách mà Hùng Dịch đã xưng Nước Sở là Kinh Sở và buộc Nhà Chu phải công nhận. Ý là Xứ Sở của người Việt là ở mãi tận Đất Kinh nơi Hồ Động Đình thuộc vùng Ngũ Lĩnh xưa kia mà ra.

Bằng như có cuốn sách nào viết không phải như thế thì cũng không phải mang ra để dẫn chứng mà làm gì. Bởi vì tác giả đó đã hồ đồ mà viết sai lạc mất rồi. Ta có thể xét thấy tính phi logic, giống như tình huống của Ngô Sĩ Liên trong phần Ngoại Kỷ vậy. Không khéo rồi lại… Dẫn đến khả năng gỡ rối thì thiếu, tiềm năng gây rối thêm hơn nữa, lại có thừa!!!

Cái sở tri kiến của đa số chúng ta hôm nay, tròng trành như chiếc xuồng độc mộc giữa dòng tri thức muộn vậy. Lại cứ phải chấp vướng vào cái phi thực danh của một vài kẻ chỉ vơ đầy tạp tri kiến cho đầy bằng cấp mà tự dối mình, dối người. Gây thoái hóa xã hội trầm trọng. Cho dù ta không đủ tri kiến để xem xét sự việc. Ta cứ nhìn thẳng vào tư tưởng, lời nói cùng những việc làm của họ là ra cả thôi. Tiếc thay cho những hạt giống vừa được gieo trước ánh bình minh. Chỉ qua một đêm thôi. Thiếu ánh sáng của vầng thái dương, ngay hôm sau đã phải lụi tàn sau một đêm khoác áo giấy!

Dòng sử bao ngàn năm của dân tộc Việt chúng ta, đã đủ rối như tơ vò lắm rồi. Chớ có vô tình thiển ý, mà làm cho rối thêm hơn nữa, hỡi những thế hệ hôm nay, có lắng nghe.

Về sự thắc mắc thứ hai của bạn thì tôi có góp ý như sau:

Đúng như nhận định của bạn Lãng Tổ trong một cmt nào đó (?), đã có. Chạm vào vấn đề tôn giáo hiện nay tại Việt Nam à? Giống như ta chạm vào tổ Ong Vò Vẽ vậy! (vì loại ong này thường “vẽ” Hổ Phù lên tổ như một cái “vò”, nên có tên theo miền nam như thế! Giống ta chạm - khắc tượng trời lên cái vò vậy!!). Nhất định phải chờ đến khi đêm về, tất cả say ngủ trong đêm trường tối tăm. Ta phải thắp sáng lên ánh sáng của một ngọn lửa tri thức. Ta mới có thể chạm vào đấy được. Bằng không là rất nguy, thậm chí Nguy!

Chúng ta chỉ ngóng xa xa và chấp nhận đứng dưới gió để quan sát các bạn nhé. E có một vài chú ong đang đi “tìm mật” lảng vảng đâu đây, và “cuộc sống gõ cho một phát” (nhặt lại lời của một bạn đọc, đã xa…). Lại cả một đàn ong kéo đến!!! Thống nhất thế, chúng ta cùng mạo hiểm nhé;

Trên suốt các nẻo Thiền mà tôi đã đi qua. Khi ngang qua Đất Phật. Tôi có “trộm nghe” được về lối Thiền Môn của Người, mà tôi đã “lắng giữ” đến nay là: “Mười phương tam thế các chư Phật, đều lắng bằng tai. Không hề có lối mòn nào khác”. Bằng như câu định trong hơi thở thì phải xem lại nguồn gốc của câu phát biểu đó có xuất phát từ đâu mới được. Tôi thì biết câu phát biểu đó lại chính là nẻo Thiền của Tiên đạo từ Lão Tử mà ra cả thôi. Không hề là quan điểm của Phật bao giờ cả. Ta cứ mãi lầm lạc như thế đấy. Do quan điểm Phật giáo tại Việt Nam đã đồng nhất Tam Giáo Quy Nguyên từ Nhà Lý rồi. Sau lại lạc mất gốc của quan điểm đó. Như tôi có nói Đạo Cao Đài, phục hồi lại tư tưởng đó có phần xuất sắc nhất. Kể từ khi lạc đi cái gốc của tư tưởng đó, so với các giáo phái khác (thuộc hệ Phật giáo tản lạc chung chung) tại VN thôi.

Nếu đã nắm được cội nguồn của từ nguyên đó. Ta có thể phát hiện nguyên lý đó, có lối dẫn để thâm nhập như sau:

Nếu ta mở lối, định trong hơi thở để quán vào Thiền. Cuối lối rẽ đó, tất nhiên có trở ngại rồi! Bởi đó là nẻo “Cùng” chứ không phải là nẻo “Thông” mà Phật đã từng nói đến!! Bởi nếu như ta so sánh giữa hai lối định trong “hơi thở” là Khứu Giác với nẻo định trong “sự lắng” của Thính Giác thì sao? Trong khi Phật cho tất cả 5 giác quan cũng chỉ là Ngũ Tặc mà thôi!!! Cái ý chỉ cao nhất mà Phật muốn mượn phương tiện ngôn ngữ để ẩn dụ tới đó. Chính là cái thức thứ 6 của tư duy trí huệ để đạt đến cái biết toàn diện. Đã vừa dạm chân chỉ mới ở đầu ngõ mà đã lạc lối Thiền mất đi rồi! Thiền Môn là vô số cửa, nhưng không phải cứ cố chấp một cách u mê là; “Đường nào cũng về La Mã” cho được đâu các bạn ạ! Không khéo, mình đi lạc còn dẫn người khác lạc thêm vào là… đạt đẳng Bất Thối Chuyển rồi. Các vị Bất Thối Chuyển tại Việt Nam hiện nay là vô số kể. Biết thế, nên tôi không hề có ý định lay họ “thối chuyển” quan điểm về Phật Pháp bao giờ cả. Không hề. Chỉ mong sao tất cả họ đủ ý thức mà chớ phát biểu vội, gây họa loạn chung cho xã hội và vùi lấp thêm cho thực tại Đạo mà thôi.

Còn bàn về khái niệm “Thai tức” đó. Thật ra trước đây đã có vô số quan điểm loạn lạc về điều này rồi. Bởi vì họ cũng chỉ nghe nói đến qua Kinh sách xưa của Tiên đạo mà gọi là “Thánh Thai”! Rồi dẫn đến suy diễn, gây tranh cãi loạn hết cả lên. Giai đoạn này bùng phát vào thời điểm của những năm 1980. Những tri kiến tạp loạn đó, cũng đã gây rối loạn hết tư duy những kẻ “rớt thời, rơi vận” khi đó nhan nhản cả. Những kẻ xuất sắc, cố dấn vào thì tẩu hỏa nhập ma. Dở tỉnh, dở dại khắp chợ đời giữa Sài Gòn. Kẻ yếm thế hơn thì dạt vào núi sâu hẻo lánh mà mong tìm quên sự đời nhiễu nhương…

Tôi chưa từng nghe qua, nên không biết cái ý của khái niệm “Thai Tức” mà vị thiền sư Thích Chân Quang nói đến đó là gì. Vì đây chính là một thực tại trong thế giới đó. Nếu vị thiền sư này đã từng du thiền đến sở tại xứ đó trong cảnh giới thiền là hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên tôi cũng mô tả về trạng thái đó như sau:

Khi bắt đầu tập thở. Ai ai cũng phải chú ý vào hơi thở để tập hít thở sao cho dài, chậm, sâu… Đó có nghĩa là ta đang định (ý nghĩ) vào hơi thở rồi. Lâu dần thành thói quen. Nhất định cứ như thế lâu hơn nữa, sẽ trở thành quán tính. Khi đã rơi vào trạng thái quán tính đó. Ta sẽ cảm thấy hơi thở tự nó vận hành như thế! Mặc dù ta không còn chú ý đến nó hay hít thở gì nữa!! Hơi thở vẫn nhịp nhàng mà vào đến Đan Điền rồi tự trở ra ngoài. Cùng lúc đó, trạng thái của Bàng Quang cũng tự phình ra… đến một giới hạn nào đó (vô giới hạn), rồi lại tự hóp bụng vào đến một giới hạn nào đó…, rồi lại phình ra. Chứ thế, bụng tự co vào và phình ra mà ta không phải thở hay chủ ý can thiệp vào nữa. Tất cả đều trong trạng thái quán tính mà ta nghe mô tả là vô thức. Đó chính là khái niệm Thai Tức mà vị thiền sư Thích Chân Quang muốn nói đến cùng các bạn. Là một thực tại trong thế giới Thiền chứ không phải huyễn hoặc hay mơ hồ gì cả.

Muốn đạt đến trạng thái như thế. Các bạn cứ theo trình tự như tôi đã diễn tả ở trên là đến được bến bờ đó thôi. Chắc chắn như thế. Yêu cầu để nhanh đạt đến đích đó là không gian phải yên tĩnh và hoàn toàn không bị tác động, chi phối tư tưởng bởi mọi âm thanh tạp loạn xung quanh trong suốt quá trình tham thiền. Khi ta đã quen thở đều rồi. Ta thả lỏng luôn cả ý nghĩ tập trung vào hơi thở. Trong một thời điểm của một sát na nào đó. Trạng thái Thai Tức sẽ xuất hiện với bất cứ ai thôi. Lúc đó, cho dù ta có chú ý đến. Trạng thái Thai Tức đó cũng không mất đi. Thế nhưng nếu ta cứ chú ý mãi và tương đối lâu, trạng thái đó sẽ mất. Cố nắm bắt sẽ mất, chợt quên đi lại còn. “Lìa có - lìa không, gọi là Đạo”.

Thế nhưng, thực tại Đạo. Không hề định xứ nơi sở tại của địa phương xứ có tên là Thai Tức hay Thánh Thai đó bao giờ cả! Bởi vì ta hoàn toàn chưa có thể biết được rằng không – thời gian đó. Trường có tụ xứ hay tán xứ trong địa phương đó hay không nữa! Điều này có nghĩa là ta không hề biết được thời điểm nào mà Tạo Hóa lỏng then. Để may phúc phần mà có thể “trộm nhìn” qua then Tạo…, Chiêm ngưỡng như có, như không, cái dáng của Đạo, đang tiềm ẩn trong đó nữa.

Bởi cho đến tận thời điểm phát triển như hiện nay. Ta đã biết gì về đối tượng không gian lẫn thời gian? Để còn biết thời điểm nào mà “kẻ trộm vũ trụ” xuất hiện. Lại còn tình huống kẻ trộm xuất hiện nhằm thời điểm mà kẻ trộm có hoặc không có mang theo kho tàng nữa. Biết chuẩn bị công cụ gì mà còn nắm bắt và đạt lấy cho đắc hay không?

Kinh nghiệm về tình huống này. Ta có thể thấy Lão Tử từng đã có thoắt gặp qua trong quá khứ khi đang tham thiền. Thế nhưng khi Lão Tử chợt giật mình, định thần lại. Thì thực tại Đạo đó đã thoắt vào hư không mất rồi. Lão Tử chỉ còn biết than trời trách đất, gửi lại trang sách cho mai sau. Vì tự biết rằng trọn kiếp, không bao giờ được gặp lại lần thứ hai nữa rồi!!!

Thực tại này, những truyền thuyết mà ta gọi là Huyền Thoại bên Nhà Chúa cũng đã có từng nhắc đến như: Loài Người, đại diện là một vị đã được Thánh Hóa, nói chuyện với Loài Quỷ. Loài Quỷ, đại diện cho Chúa Quỷ kể rằng: Trong quá khứ lâu, mờ xa… Tôi đã từng được diện kiến Chúa Trời. Vị Loài Người thắc mắc hỏi: Thế dung mạo của Người ra sao? Có đẹp và sáng láng không? Vị Loài Quỷ sau một lúc trầm ngâm, rồi lắc đầu rằng: Tất cả sự việc trên thế gian này gộp lại, cũng không thể so sánh bằng với nét đẹp của Người cho được!!! Sự sáng láng và đẹp đẽ đó. Khiến tôi ước mơ được gặp lại lần thứ hai. Rồi sau đó nguyện vĩnh viễn trong Địa Ngục cũng được. Thế mà vẫn chưa bao giờ gặp được lại lần nào nữa “!?”.

…!!!
[font=Helvetica, Arial, sans-serif]
Cái ước mơ cũng như nguyện vọng chung của kể cả Loài Người và Loài Quỷ đó. Sẽ đến trong thời kỳ cuối nay mai thôi.


#27 MikeDo

    Bát quái viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 851 Bài viết:
  • 843 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 21:16

Cuối cùng cũng đã xong.

Tài liệu tham khảo:

I - HUYỀN THOẠI VÀ THỰC TẠI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1. HỘI LONG HOA

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2. HỘI LONG HOA THUẦN TIÊU SƯƠNG MÃ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


II - MA THIÊN LÃNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1. KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 5

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


III - VIỆT NAM THÁI CỰC TƯỢNG ĐỒ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1. PHƯƠNG TIỆN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2. UẨN KHÚC TRI ÂM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


3. ĐIỆU ĐÀN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


4. UẤT KHÚC DAO CẦM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


5. KHÚC QUẢNG LĂNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


6. HOÀNG ĐẾ VỚI DAO CẦM KHÚC NÔI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


7. DAO CẦM VÀ OAN KHÚC NGÀN NĂM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


8. KINH DỊCH KINH VIỆT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


9. VĂN VƯƠNG VỚI KINH DỊCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


10. KHỔNG-LÃO VỚI KINH DỊCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


11. TRUY DẤU LẠC THƯ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


12. NHÀ HÁN- DẤU VẾT KINH DỊCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


13. DÒNG SỬ ĐỤC… 1000 NĂM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


14. LỮ ĐIẾU, ĐỒ NAM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


15. TỘC HOÀNG ĐẾ TRỞ LẠI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


16. KINH DỊCH THỜI NHÀ MINH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


- LỖI NHỊP VÀ LẠC ĐIỆU

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


17. LẠC THƯ TÌM VỀ LẠC VIỆT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


18. DÒ NGUỒN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


19. LONG ĐÀM HÙNG SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


20. Ý CHỈ THỜI HÙNG VƯƠNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


21. LƯỢC THẾ SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


22. DÒNG ÂU CƠ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


23. VŨNG LẦY LỊCH SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


24. 500 NĂM – VÓ NGỰA TRỜI NAM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


25. NẶC ẢNH TỊ HÌNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


26. LONG HỔ TRANH CHÂU

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


27. AI VÃN CHUNG VỚI AI TƯ VÃN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


28. GIỌT LỆ NÀO CÓ RƠI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


29. ĐIỂM LƯỢC CUỐI SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


30. NHẬP CUỘC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


31. ĐỊNH THẦN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


32. LỐI RẼ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


33. TRUY TÌM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


34. LỐI TẮT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


35. THAM THIÊN LƯỠNG ĐỊA

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


36. THĂM DÒ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


37. KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 6

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


38. GÓC QUAN SÁT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


39. VỊ TRÍ QUAN SÁT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


40. GÓC ĐỐI LẬP

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


41. KIẾN TÁNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


42. EINSTEIN NÓI GÌ VỀ THUYẾT TƯƠNG ĐỐI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


43. E=MC2 VÀ GIÁ TRỊ TIỀM ẨN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


44. E=HV BỨC TƯỜNG PLANCK

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


45. MỘT VI TRẦN TRONG VŨ TRỤ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


46. VŨ TRỤ TRONG MỘT VI TRẦN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


47. CÔNG CỤ KHAI THÁC THƯ 2

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


48. THÂM NHẬP THẾ GIỚI HẠT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


49. HUYỆT CHÍ TỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


50. KINH PHẬT VÀ SỬ TIÊN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


51. SỬ TIÊN VÀ KINH THÁNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


52. KINH DỊCH VÀ KHOA HỌC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


53. MA TRẬN NGUYÊN NGHĨA

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


54. CỬU TINH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


55. THẢO LUẬN VỀ MA TRẬN S

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


56. MỞ HƯỚNG KHÁC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


57. VÀNH MÓNG NGỰA TIÊU SƯƠNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


58. TRÊN CÁN CÂN LUÂN HỒI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


59. ÁN SỬ VIỆT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


60. TRANG SỬ LẤP

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


61. TIẾP CUỘC TRƯỜNG CHINH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


62. BẢN THỂ VÀ BẢN CHẤT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


63. KIỆN TOÀN NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


64. RÀ SOÁT LẠI KHÔNG-THỜI GIAN TOÀN VÙNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


65. PHÁP HOA HỘI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


66. THIÊN HOA HỘI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


67. THIÊN HOA HỘI TIẾP Ý

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


68. GỢI Ý CUỐI VỀ THIÊN HOA HỘI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


69. XÁC ĐỊNH GỐC CỦA NGUYÊN NHÂN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


70. BIÊN CỦA VŨ TRỤ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


71. MÔ HÌNH VŨ TRỤ CUỐI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


72. CỬU TINH THIÊN TÔN VÀ CỬU TINH VĂN XƯƠNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


73. NỀN TẢNG TAM TÀI TRONG CƠ SỞ CỬU CUNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


74. TAM KỲ LỤC NGHI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


75. TRUY LÙNG… GIÁ TRỊ THỰC TẠI TIỀM ẨN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


76. SỰ HÌNH THÀNH CÁC CHIỀU KHÔNG-THỜI GIAN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


77. TẢN MẠN ĐẦU NĂM MẬU TUẤT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


78. HOÀI CỔ VỀ NƯỚC DẠ LANG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


79. THIÊN THƯ KÝ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


80. PHÍA BÊN KIA KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ TƯ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


81. NÓN ÁNH SÁNG ĐỦ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


82. ĐO BÓNG THỜI GIAN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


83. THỜI GIAN TRẢ LỜI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


.TRẢ LỜI CÂU HỎI BẠN ĐỌC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


84. THAM THIỀN LUẬN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


85. THẢO LUẬN CHUNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


I - HUYỀN THOẠI VÀ THỰC TẠI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1. HỘI LONG HOA

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2. HỘI LONG HOA THUẦN TIÊU SƯƠNG MÃ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


II - MA THIÊN LÃNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1. KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 5

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


III - VIỆT NAM THÁI CỰC TƯỢNG ĐỒ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


1. PHƯƠNG TIỆN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2. UẨN KHÚC TRI ÂM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


3. ĐIỆU ĐÀN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


4. UẤT KHÚC DAO CẦM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


5. KHÚC QUẢNG LĂNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


6. HOÀNG ĐẾ VỚI DAO CẦM KHÚC NÔI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


7. DAO CẦM VÀ OAN KHÚC NGÀN NĂM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


8. KINH DỊCH KINH VIỆT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


9. VĂN VƯƠNG VỚI KINH DỊCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


10. KHỔNG-LÃO VỚI KINH DỊCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


11. TRUY DẤU LẠC THƯ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


12. NHÀ HÁN- DẤU VẾT KINH DỊCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


13. DÒNG SỬ ĐỤC… 1000 NĂM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


14. LỮ ĐIẾU, ĐỒ NAM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


15. TỘC HOÀNG ĐẾ TRỞ LẠI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


16. KINH DỊCH THỜI NHÀ MINH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


- LỖI NHỊP VÀ LẠC ĐIỆU

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


17. LẠC THƯ TÌM VỀ LẠC VIỆT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


18. DÒ NGUỒN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


19. LONG ĐÀM HÙNG SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


20. Ý CHỈ THỜI HÙNG VƯƠNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


21. LƯỢC THẾ SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


22. DÒNG ÂU CƠ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


23. VŨNG LẦY LỊCH SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


24. 500 NĂM – VÓ NGỰA TRỜI NAM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


25. NẶC ẢNH TỊ HÌNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


26. LONG HỔ TRANH CHÂU

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


27. AI VÃN CHUNG VỚI AI TƯ VÃN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


28. GIỌT LỆ NÀO CÓ RƠI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


29. ĐIỂM LƯỢC CUỐI SỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


30. NHẬP CUỘC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


31. ĐỊNH THẦN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


32. LỐI RẼ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


33. TRUY TÌM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


34. LỐI TẮT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


35. THAM THIÊN LƯỠNG ĐỊA

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


36. THĂM DÒ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


37. KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ 6

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


38. GÓC QUAN SÁT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


39. VỊ TRÍ QUAN SÁT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


40. GÓC ĐỐI LẬP

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


41. KIẾN TÁNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


42. EINSTEIN NÓI GÌ VỀ THUYẾT TƯƠNG ĐỐI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


43. E=MC2 VÀ GIÁ TRỊ TIỀM ẨN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


44. E=HV BỨC TƯỜNG PLANCK

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


45. MỘT VI TRẦN TRONG VŨ TRỤ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


46. VŨ TRỤ TRONG MỘT VI TRẦN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


47. CÔNG CỤ KHAI THÁC THƯ 2

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


48. THÂM NHẬP THẾ GIỚI HẠT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


49. HUYỆT CHÍ TỬ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


50. KINH PHẬT VÀ SỬ TIÊN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


51. SỬ TIÊN VÀ KINH THÁNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


52. KINH DỊCH VÀ KHOA HỌC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


53. MA TRẬN NGUYÊN NGHĨA

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


54. CỬU TINH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


55. THẢO LUẬN VỀ MA TRẬN S

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


56. MỞ HƯỚNG KHÁC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


57. VÀNH MÓNG NGỰA TIÊU SƯƠNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


58. TRÊN CÁN CÂN LUÂN HỒI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


59. ÁN SỬ VIỆT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


60. TRANG SỬ LẤP

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


61. TIẾP CUỘC TRƯỜNG CHINH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


62. BẢN THỂ VÀ BẢN CHẤT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


63. KIỆN TOÀN NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


64. RÀ SOÁT LẠI KHÔNG-THỜI GIAN TOÀN VÙNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


65. PHÁP HOA HỘI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


66. THIÊN HOA HỘI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


67. THIÊN HOA HỘI TIẾP Ý

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


68. GỢI Ý CUỐI VỀ THIÊN HOA HỘI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


69. XÁC ĐỊNH GỐC CỦA NGUYÊN NHÂN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


70. BIÊN CỦA VŨ TRỤ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


71. MÔ HÌNH VŨ TRỤ CUỐI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


72. CỬU TINH THIÊN TÔN VÀ CỬU TINH VĂN XƯƠNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


73. NỀN TẢNG TAM TÀI TRONG CƠ SỞ CỬU CUNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


74. TAM KỲ LỤC NGHI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


75. TRUY LÙNG… GIÁ TRỊ THỰC TẠI TIỀM ẨN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


76. SỰ HÌNH THÀNH CÁC CHIỀU KHÔNG-THỜI GIAN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


77. TẢN MẠN ĐẦU NĂM MẬU TUẤT

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


78. HOÀI CỔ VỀ NƯỚC DẠ LANG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


79. THIÊN THƯ KÝ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


80. PHÍA BÊN KIA KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ TƯ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


81. NÓN ÁNH SÁNG ĐỦ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


82. ĐO BÓNG THỜI GIAN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


83. THỜI GIAN TRẢ LỜI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


.TRẢ LỜI CÂU HỎI BẠN ĐỌC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


84. THAM THIỀN LUẬN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


85. THẢO LUẬN CHUNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#28 vietnamconcrete

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4363 Bài viết:
  • 5865 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 22:54

Tôi nghiệm ra một điều đúng đắn là "vẽ ma quỷ dễ, vẽ chó mèo khó". Quả thực vậy, cái gì mà mơ mơ màng màng, hư hư ảo ảo thường sẽ là cái dễ được chấp nhận. Bởi vì thực tế rất buồn tẻ và chán ngắt, trong khi mơ ảo trong cõi huyền mơ thì rất là thú vị.

Vớ vẩn, một vận 360 năm gồm 2 thế, mỗi thế 180 năm??! Ông Thiệu Khang Tiết mà nghe thấy là ông ấy đội mồ sống lại chửi cho mà nghe.

Thanked by 1 Member:

#29 Durobi

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4105 Bài viết:
  • 17599 thanks

Gửi vào 08/04/2018 - 23:09

Đây là áng huyền văn liên miên bất tận, bất hủ tài tình của một Việt nhân thương yêu nước Việt đến tận cùng cội rễ.

#30 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 09/04/2018 - 03:23

Qui tức là cách thở bụng (đan điền) nhẹ và sâu như con rùa qua mũi . Tác giả đề nghị thở ra (hô) bằng miệng . Cách này chỉ khi nào luyện tập nặng và nhanh gấp như cữ tạ, chạy bộ, v,v ...cần tống thán khí ra và lấy oxy vào cho nhanh để cung cấp cho bắp thịt còn thì quí vị mà thở ra bằng miệng lúc ngủ (khi mũi bị nghẹt) sẽ thấy rất mệt mõi trong giấc ngủ và khô cã cuống họng. Con rùa sống lâu nhờ hơi thở nhẹ và sâu. Con chó đời sống ngắn ngủi vì thở hồng hộc bằng miệng. Tạp khí hay tà khí còn do nơi Tâm chánh hay tà, niệm động hay tịnh . Tà tâm vọng niệm thì một hơi hấp vào dù ở bồng lai cũng trở thành tà khí trong nội thể. Có rất nhiều điều tác giả viết tôi không thấy hợp Lý như chuyện Tam Tạng mất kinh và Huệ Năng tìm kinh hay ma phương cửu cung chỉ có 9 chiều, theo tôi từ cửủ cung có thể suy ra là 12 chiều mà 4 chiều ẩn trong đó 1 có thể hiển còn 3 chiều kia thì không bao giờ thấy được nó và có thể suy điều này khi dùng lý thuyết Dịch và ngũ hành, ngay cã dùng lý thuyết về con số 4 mà tác giả thường đề cập. Phương trinh E=mt của tác giả thì tôi chịu thua vì tác giả không giải thích tại thơi gian 0 hay 360 thì năng lượng biến mất đi đâu ? Nhưng phải công nhậc tác giả có sức tưởng tượng rất phong phú và năng khiếu về diển đạt và viết văn rất hấp dẩn.


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |