Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng...
hoadung 23/03/2021
Tôi cũng có phần mềm Four Pillars, đúng là ghi của khoai.to 46% / 54%. Nhưng chơi loại này không nên xem như vậy, mà nên xem rõ Tài tinh bao nhiêu %,Quan sát bao nhiêu %, Ấn bao nhiêu..., như vậy thì thấy Tài Quan Ấn "nặng nhẹ" thế nào. Nhưng chỉ là hình tuợng trưng cho vui, vẫn phải biết như Hỏa Tài tinh của ông chỉ là 2% so với Quan Sát 38% thì thấy lực Sát này ngang ngang tầm "thuận lợi 46%". Cái khắc chế cũng có khi là thuận lợi vì nó ngăn mình hành động khó kiểm soát.
Sửa bởi hoadung: 23/03/2021 - 16:42
Sửa bởi hoadung: 23/03/2021 - 16:42
SongHongHa 23/03/2021
Kimnguyenbao, on 23/03/2021 - 15:52, said:
Sao nói chuyện thô thiển thế nhỉ ?
Già rồi mà sao trong đầu toàn những thứ dung tục không vậy
Không cần phải lên lớp người khác khi bản thân mình còn chẳng ra gì nhé.
Một người ăn cháo đá bát, khinh thường người đã viết ra sách cho ông học thì không có tư cách để dạy đời người khác nhé.
Thêm phần đầu óc bệnh hoạn, toàn liên tưởng tới những cái gì đâu đâu.
Ban quản trị cho hỏi, những từ ngữ và nội dung trên của người này có được gọi là phạm quy không vậy.Quá thô tục !
Già rồi mà sao trong đầu toàn những thứ dung tục không vậy
Không cần phải lên lớp người khác khi bản thân mình còn chẳng ra gì nhé.
Một người ăn cháo đá bát, khinh thường người đã viết ra sách cho ông học thì không có tư cách để dạy đời người khác nhé.
Thêm phần đầu óc bệnh hoạn, toàn liên tưởng tới những cái gì đâu đâu.
Ban quản trị cho hỏi, những từ ngữ và nội dung trên của người này có được gọi là phạm quy không vậy.Quá thô tục !
Đúng là Đầu Đất thì mãi mãi vẫn chỉ là Đầu Đất mà thôi, không thể khá lên được.
Đành P....ó tay thôi.
kimpah 23/03/2021
SongHongHa, on 23/03/2021 - 16:44, said:
Đúng là Đầu Đất thì mãi mãi vẫn chỉ là Đầu Đất mà thôi, không thể khá lên được.
Đành P....ó tay thôi.
Đành P....ó tay thôi.
ông tâm thần vừa thôi ông ơi , tâm thần nặng quá khổ thân ông ,chứ chẳng khổ ai đâu.
đợi ông tính được vương suy bằng cách của ông, thì xã hội người ta lập trình an sao , lập lá số , tính vượng nhược , % ngũ hành búa xua rồi . thậm chí xem hạn còn đúng được 40%
ông ngâm cứu tử bình 10 năm rồi, xem hạn còn chưa biết thì nói ai . bố khỉ
rõ ràng là người sống trên trái đất mà cứ đòi làm con gì ngoài vũ trụ ko à ,
người ta đi đến đâu mang lời hay, tiếng tốt, mang vinh quang, tài trí đến đấy , làm rạng danh . ông đi đến đâu bị cấm đến đó , 4-5 cái diễn dàn thấy ông là cấm nick . nghĩ nó chán v,ãi linh hồn thật
rõ ràng là lớn tuổi rồi mà còn thua mấy đứa trẻ trâu
Sửa bởi kimpah: 23/03/2021 - 17:19
Nghịch Thiên Cải Mệnh 23/03/2021
hoadung, on 23/03/2021 - 16:41, said:
Tôi cũng có phần mềm Four Pillars, đúng là ghi của khoai.to 46% / 54%. Nhưng chơi loại này không nên xem như vậy, mà nên xem rõ Tài tinh bao nhiêu %,Quan sát bao nhiêu %, Ấn bao nhiêu..., như vậy thì thấy Tài Quan Ấn "nặng nhẹ" thế nào. Nhưng chỉ là hình tuợng trưng cho vui, vẫn phải biết như Hỏa Tài tinh của ông chỉ là 2% so với Quan Sát 38% thì thấy lực Sát này ngang ngang tầm "thuận lợi 46%". Cái khắc chế cũng có khi là thuận lợi vì nó ngăn mình hành động khó kiểm soát.
Tài tinh ít thì có giàu được không bác.
Mấy năm nay đang nghiên cứu phương pháp để thoát nghèo hèn mà mãi vẫn không ra.
Không biết trồng con gì nuôi con gì bây giờ
A men
SongHongHa 23/03/2021
Bởi vì 4 ví dụ mẫu trên khi ứng dụng lý thuyết về luận hành vận của VULONG (hay của đại sư Lưu Bá Ôn) lấy can Đại vận làm trọng đã phù hợp với thực tế của các đương số đó. Điều này hiển nhiên khẳng định lý thuyết về lấy Can đại vận làm trọng là đúng 100% không thể chối cãi.
Bây giờ tôi lấy 4 ví dụ mẫu trên để kiểm tra phương pháp dùng Toán Học của VULONG xác định Thân vượng hay nhược xem tỷ lệ đúng là bao nhiêu % (bất kỳ phương pháp nào khác muốn biết đúng sai như thế nào cứ kiểm tra vào 4 ví dụ mẫu này sẽ cho kết quả đúng sai chính xác 100%).
Ví dụ số 1 trong cuốn Trích Thiên Tủy: Vua Càn Long
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Thân là Kim có tới 12,52đv lớn hơn Thủy, Mộc và Hỏa mỗi hành trên 1đv lên theo định nghĩa của VULONG thì Thân của Tứ Trụ này là vượng. Thân vượng mà Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Đinh ở trụ tháng.
Điểm vượng của các trạng thái trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ được VULONG xác định chính xác tới 1% đv (đã được ghi trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ ở trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“, muốn tìm hãy gõ lên Google chủ đề “Vulong: Tứ Trụ cho tất cả mọi người“ là có ngay, hiện giờ có sửa lại chút ít).
Giả dụ như Tân trụ tháng Lâm Quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv, Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv, Mão trụ năm ở trạng thái Tuyệt có 3,2đv…
Cách tính toán được tóm tắt đơn giản như sau:
1 – Quy ước: Tứ Trụ được mô tả bằng hình chữ nhật như sơ đồ trên cùng can chi của 4 trụ, lần lượt trụ đầu tiên là trụ năm Tân Mão tới trụ tháng rồi trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ Bính Tý.
Vùng tâm là vùng mặt phẳng được giới hạn bởi hình chữ V có can trụ ngày ở phía trong, có thể coi can ngày là tâm điểm của vùng tâm. Ý nghĩa của vùng tâm là vùng không còn phải lo lắng (Nước xa không cứu nổi Lửa gần) nữa, tức là với điểm vượng của các can chi trong vùng tâm thì biết ngay chúng tác động tới Thân (can ngày) là như nhau không còn sợ chúng ở xa hay gần Can ngày nữa).
2 - Những can bị khắc gần (tức can của trụ ở ngay bên cạnh) như Tân trụ năm và Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ tháng nên 2 can này phải khoanh tròn để biết chúng không sinh hay khác được với các can chi khác.
Ngọ trụ ngày bị khắc gần bởi Tý trụ giờ, Bính trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Tý cùng trụ nên Ngọ và Bính cũng phải khoanh tròn lại.
Mão trụ năm không bị Dậu hay Tân và Canh khắc, còn Dậu chỉ bị Đinh khắc trực tiếp cùng trụ mà thôi.
3 – Can Chi bị khắc cùng trụ giảm 1/2đv của nó, khắc gần giảm 1/3đv, tức giảm 4/12 (với khác dấu tức âm dương khắc nhau, còn cùng dấu - âm khắc âm hay dương khắc dương - giảm 5/12) của nó, khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/4), khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/9), khắc cách 3 ngôi giảm 1/20 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/19).
4 – Điểm vượng của can ở trụ năm, chi trụ tháng và chi trụ giờ vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv của chúng còn chi trụ năm vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv của nó.
Bây giờ ta áp dụng lý thuyết này để tính cụ thể từng can chi khi vào vùng tâm còn lại bao nhiêu:
1 – Can trụ năm là Tân ở trạng thái Lâm quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv bị Đinh trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 9.7/12đv, khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.7/12.3/5đv = 3,15đv.
2 – Đinh trụ tháng ở trạng thái Trường sinh ở lệnh tháng Dậu có 6đv bị Tý trụ giờ khắc khác dấu cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 6.9/10đv = 5,4đv (Dậu ở trong vùng tâm).
3 – Canh trụ ngày đế vượng ở tháng Dậu có 10đv bị Đinh khắc gần khác dấu giảm 4/12 còn 10.8/12đv = 6,67đv.
4 - Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv bị Tý cùng trụ khắc trực tiếp giảm ½ còn 2,95.1/2đv = 1,48đv.
5 - Tý trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv không bị can chi nào khắc cả nên vào vùng tâm giảm 2/5 còn 5.3/5đv = 4,2đv.
6 - Ngọ trụ ngày Tử ở tháng Dậu có 2,95đv bị Tý khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 2,9.7/12đv = 1,72đv.
7 – Dậu trụ tháng ở trạng thái Lâm quan có 9đv bị Dậu khắc trực tiếp cùng trụ giảm 1/2 còn 9.1/2đv, vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.1/2.3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão trụ năm Tuyệt ở tháng Dậu có 3,2đv vào vùng tâm giảm 1/2 còn 3,2.1/2đv = 1,6đv.
Bây giờ ta chỉ cần cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm là xong.
Mộc có 1,6đv.
Hỏa có (5,4 + 1,48 + 1,72)đv = 8,6đv.
Thổ có 0đv (không tính các can tàng là tạp khí).
Kim có (3,15 + 6,67 +2,7)đv = 12,52đv.
Thủy có 4,2đv.
Ta thấy số điểm vượng của từng hành trong vùng tâm đúng như kết quả đã ghi trên sơ đồ tính toán trên.
Từ đây ta thấy Thân (Kim) có 12,52đv lớn hơn Thủy có 4,2đv, Mộc có 1,6đv và Hỏa có 8,6đv mỗi hành trên 1đv nên ta kết luận Thân của Tứ Trụ này là vượng (theo định nghĩa về Thân vượng hay nhược của VULONG).
Nếu tự tính trên chục Tứ Trụ thì các bạn sẽ quen dần lên khi đó tính ví dụ này chắc các bạn chỉ mất 10 phút là cùng, khi đó các bạn có quyền tự hào đã thắng được cả tới cao thủ Nhâm Thiết Tiều là cái chắc, vì ông ta mất cả đời nghiên cứu Tử Bình mà xác định Tứ Trụ này vẫn sai là Thân nhược.
Bây giờ tôi lấy 4 ví dụ mẫu trên để kiểm tra phương pháp dùng Toán Học của VULONG xác định Thân vượng hay nhược xem tỷ lệ đúng là bao nhiêu % (bất kỳ phương pháp nào khác muốn biết đúng sai như thế nào cứ kiểm tra vào 4 ví dụ mẫu này sẽ cho kết quả đúng sai chính xác 100%).
Ví dụ số 1 trong cuốn Trích Thiên Tủy: Vua Càn Long
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Thân là Kim có tới 12,52đv lớn hơn Thủy, Mộc và Hỏa mỗi hành trên 1đv lên theo định nghĩa của VULONG thì Thân của Tứ Trụ này là vượng. Thân vượng mà Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Đinh ở trụ tháng.
Điểm vượng của các trạng thái trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ được VULONG xác định chính xác tới 1% đv (đã được ghi trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ ở trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“, muốn tìm hãy gõ lên Google chủ đề “Vulong: Tứ Trụ cho tất cả mọi người“ là có ngay, hiện giờ có sửa lại chút ít).
Giả dụ như Tân trụ tháng Lâm Quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv, Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv, Mão trụ năm ở trạng thái Tuyệt có 3,2đv…
Cách tính toán được tóm tắt đơn giản như sau:
1 – Quy ước: Tứ Trụ được mô tả bằng hình chữ nhật như sơ đồ trên cùng can chi của 4 trụ, lần lượt trụ đầu tiên là trụ năm Tân Mão tới trụ tháng rồi trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ Bính Tý.
Vùng tâm là vùng mặt phẳng được giới hạn bởi hình chữ V có can trụ ngày ở phía trong, có thể coi can ngày là tâm điểm của vùng tâm. Ý nghĩa của vùng tâm là vùng không còn phải lo lắng (Nước xa không cứu nổi Lửa gần) nữa, tức là với điểm vượng của các can chi trong vùng tâm thì biết ngay chúng tác động tới Thân (can ngày) là như nhau không còn sợ chúng ở xa hay gần Can ngày nữa).
2 - Những can bị khắc gần (tức can của trụ ở ngay bên cạnh) như Tân trụ năm và Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ tháng nên 2 can này phải khoanh tròn để biết chúng không sinh hay khác được với các can chi khác.
Ngọ trụ ngày bị khắc gần bởi Tý trụ giờ, Bính trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Tý cùng trụ nên Ngọ và Bính cũng phải khoanh tròn lại.
Mão trụ năm không bị Dậu hay Tân và Canh khắc, còn Dậu chỉ bị Đinh khắc trực tiếp cùng trụ mà thôi.
3 – Can Chi bị khắc cùng trụ giảm 1/2đv của nó, khắc gần giảm 1/3đv, tức giảm 4/12 (với khác dấu tức âm dương khắc nhau, còn cùng dấu - âm khắc âm hay dương khắc dương - giảm 5/12) của nó, khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/4), khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/9), khắc cách 3 ngôi giảm 1/20 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/19).
4 – Điểm vượng của can ở trụ năm, chi trụ tháng và chi trụ giờ vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv của chúng còn chi trụ năm vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv của nó.
Bây giờ ta áp dụng lý thuyết này để tính cụ thể từng can chi khi vào vùng tâm còn lại bao nhiêu:
1 – Can trụ năm là Tân ở trạng thái Lâm quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv bị Đinh trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 9.7/12đv, khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.7/12.3/5đv = 3,15đv.
2 – Đinh trụ tháng ở trạng thái Trường sinh ở lệnh tháng Dậu có 6đv bị Tý trụ giờ khắc khác dấu cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 6.9/10đv = 5,4đv (Dậu ở trong vùng tâm).
3 – Canh trụ ngày đế vượng ở tháng Dậu có 10đv bị Đinh khắc gần khác dấu giảm 4/12 còn 10.8/12đv = 6,67đv.
4 - Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv bị Tý cùng trụ khắc trực tiếp giảm ½ còn 2,95.1/2đv = 1,48đv.
5 - Tý trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv không bị can chi nào khắc cả nên vào vùng tâm giảm 2/5 còn 5.3/5đv = 4,2đv.
6 - Ngọ trụ ngày Tử ở tháng Dậu có 2,95đv bị Tý khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 2,9.7/12đv = 1,72đv.
7 – Dậu trụ tháng ở trạng thái Lâm quan có 9đv bị Dậu khắc trực tiếp cùng trụ giảm 1/2 còn 9.1/2đv, vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.1/2.3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão trụ năm Tuyệt ở tháng Dậu có 3,2đv vào vùng tâm giảm 1/2 còn 3,2.1/2đv = 1,6đv.
Bây giờ ta chỉ cần cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm là xong.
Mộc có 1,6đv.
Hỏa có (5,4 + 1,48 + 1,72)đv = 8,6đv.
Thổ có 0đv (không tính các can tàng là tạp khí).
Kim có (3,15 + 6,67 +2,7)đv = 12,52đv.
Thủy có 4,2đv.
Ta thấy số điểm vượng của từng hành trong vùng tâm đúng như kết quả đã ghi trên sơ đồ tính toán trên.
Từ đây ta thấy Thân (Kim) có 12,52đv lớn hơn Thủy có 4,2đv, Mộc có 1,6đv và Hỏa có 8,6đv mỗi hành trên 1đv nên ta kết luận Thân của Tứ Trụ này là vượng (theo định nghĩa về Thân vượng hay nhược của VULONG).
Nếu tự tính trên chục Tứ Trụ thì các bạn sẽ quen dần lên khi đó tính ví dụ này chắc các bạn chỉ mất 10 phút là cùng, khi đó các bạn có quyền tự hào đã thắng được cả tới cao thủ Nhâm Thiết Tiều là cái chắc, vì ông ta mất cả đời nghiên cứu Tử Bình mà xác định Tứ Trụ này vẫn sai là Thân nhược.
Hoa Cái 23/03/2021
Cao thủ như kiến, giỏi quá hén .
Giỏi thì tự giải và tự cho là mình đúng đi nhé .
Tôi cho rằng KHÔNG thích thì không giao lưu nữa . Thậm chí không viết .
Thỉnh thoảng tôi có viết vì cần thiết hay vì stress . Ngoài ra tôi thấy không cần thiết trao đổi .
SongHongHa sắp bị kỷ luật rồi, đừng dùng chữ nặng nề quá !
Tại đây cứ tưởng như là Tụ Hiền Trang của Thiên Long Bát Bộ .
HC
Sửa bởi Hoa Cái: 23/03/2021 - 19:48
Giỏi thì tự giải và tự cho là mình đúng đi nhé .
Tôi cho rằng KHÔNG thích thì không giao lưu nữa . Thậm chí không viết .
Thỉnh thoảng tôi có viết vì cần thiết hay vì stress . Ngoài ra tôi thấy không cần thiết trao đổi .
SongHongHa sắp bị kỷ luật rồi, đừng dùng chữ nặng nề quá !
Tại đây cứ tưởng như là Tụ Hiền Trang của Thiên Long Bát Bộ .
HC
Sửa bởi Hoa Cái: 23/03/2021 - 19:48
Tutrumenh 23/03/2021
Bác HC giải nhiệt đi bác
Bác không cần giải hộ ai cả, bác luận tứ trụ đó hoàn toàn đúng, họ không tin thì kệ họ thôi.
Bác không cần giải hộ ai cả, bác luận tứ trụ đó hoàn toàn đúng, họ không tin thì kệ họ thôi.
Hoa Cái 23/03/2021
Cám ơn Tutrumenh
Như tôi ưa thích ông Thiên Lương lắm nhưng từng nói cụ có sai lầm . Vĩnh viễn tôi kính mến cụ .
Nếu tôn kính thầy quá mà không dám nói ra cái sai thì vô tình hại cho hậu học cắm đầu cắm cổ đi theo con đường mòn dẫn vào cái hố to trơn trợt .
Tôi thấy mấy ông giáo chủ tại D D Tử Vi ra vẻ ghê gớm lắm, tôi thách thức thực chiến thì họ cho đệ tử ra tiếp . Ha ha ha , đâu khác gì Võ Hoàng Yên .
Tôi đọc nát 2-3 cuốn TB của Thiệu Vĩ Hoa, xét mình không có khiếu nên không đụng tới nữa .
Tôi đọc bài của VL thấy OK, trừ mấy chữ mấy câu kinh dị quá . Làm ơn nhẹ tay viết bay bướm như tôi là OK.
Tôi nói thật nhe, thử đem các thầy trụ cột ra thực chiến (đoán quá khứ) thì biết đá vàng ngay !
HC
Như tôi ưa thích ông Thiên Lương lắm nhưng từng nói cụ có sai lầm . Vĩnh viễn tôi kính mến cụ .
Nếu tôn kính thầy quá mà không dám nói ra cái sai thì vô tình hại cho hậu học cắm đầu cắm cổ đi theo con đường mòn dẫn vào cái hố to trơn trợt .
Tôi thấy mấy ông giáo chủ tại D D Tử Vi ra vẻ ghê gớm lắm, tôi thách thức thực chiến thì họ cho đệ tử ra tiếp . Ha ha ha , đâu khác gì Võ Hoàng Yên .
Tôi đọc nát 2-3 cuốn TB của Thiệu Vĩ Hoa, xét mình không có khiếu nên không đụng tới nữa .
Tôi đọc bài của VL thấy OK, trừ mấy chữ mấy câu kinh dị quá . Làm ơn nhẹ tay viết bay bướm như tôi là OK.
Tôi nói thật nhe, thử đem các thầy trụ cột ra thực chiến (đoán quá khứ) thì biết đá vàng ngay !
HC
SongHongHa 23/03/2021
Ví dụ số 50 trong cuốn Trích Thiên Tủy:
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Ở sơ đồ này giống ví dụ trước là không có các tổ hợp.
Ta thấy Bính trụ tháng bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu (về ngũ hành), Thân trụ năm cũng bị khắc gần cùng dấu bởi Ngọ trụ tháng và Canh trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Ngọ cùng trụ nên ta phải khoanh tròn 3 can chi này (Bính, Thân và Canh).
Ở sơ đồ này có thêm 2 quy tắc mới là:
1 - Có 3 chi liền nhau là Ngọ ở trụ tháng, trụ ngày và Thìn ở trụ giờ đều không bị khắc gần hay trực tiếp hặc bị hợp mà Ngọ trụ tháng cùng hành với Ngọ trụ ngày nên Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn (nếu Ngọ trụ tháng mang hành sinh cho Ngọ trụ ngày thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Thìn), vì Ngọ mang hành Hỏa có thể sinh cho Thìn mang hành Thổ.
2 - Thìn trụ giờ có Ngọ gần bên cạch là trụ ngày mang hành sinh cho nó nên Thìn trụ giờ có thể sinh được 50%đv của nó cho Canh cùng trụ (còn nếu Thìn có chi gần bên cạnh cùng hành với nó thì nó chỉ có thể sinh được 1/3đv của nó cho can cùng trụ).
Bây giờ ta tính toán xem điểm vượng của từng can chi vào vùng tâm có bao nhiêu:
1 – Nhâm trụ năm ở trạng thái Thai của lệnh tháng Ngọ có 4,1đv bị Thìn trụ giờ khắc cùng hành cách 3 ngôi giảm 1/19 òn 4,1.18/19đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,1.18/1.3/5đv = 2,33đv.
2 – Bính trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 10.7/12đv = 5,83đv.
3 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp giảm 1/2 còn 7.1/2đv và bị Ngọ trụ tháng khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm thêm 1/4 còn 7.1/2.3/4đv = 2,63đv.
4 – Ngọ trụ ngày ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 10.8/9đv = 8,89đv.
Như trên cho biết thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn trụ giờ là 8,89.1/12đv = 0,74đv.
5 – Thìn trụ giờ ở trạng thái Đế vượng có 10đv và nhận thêm 0,74đv của Ngọ gần bên cạnh sinh cho (như tính toán ở trên) thành 10 + 0,74đv = 10,74đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 10,74.3/5đv = 6,44đv.
Thìn trụ giờ có 10,74đv có Ngọ gần bên cạnh mang hành sinh cho nên Thìn có thể sinh được 1/2đv của nó cho Canh cùng trụ (vì Thìn là Thổ có thể sinh cho Canh là Kim cùng trụ) là 10,74.1/2đv = 5,37đv.
6 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv được nhận thêm 5,37đv của Thìn cùng trụ sinh cho thành 7đv + 5,37đv = 12,37đv nhưng bị Ngọ trụ ngày khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 và Ngọ trụ tháng cũng khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 12,37.3/4.8/9đv = 8,25đv.
7 – Ngọ trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 còn 10.3/4đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10.3/4.3/5đv = 4,5đv.
8 – Thân trụ năm ở trạng thái Mộc dục có 7đv và có thêm 4,05đv đắc địa Lộc của can ngày Canh tại Thân thành 7đv + 4,05đv = 11,05đv bị Ngọ trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 và Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi cùng dấu giảm 1/4, vào vùng tâm giảm thêm 1/2 còn 11,05.7/12.1/4.1/2đv = 2,42đv.
Khi cộng tất cả điểm vượng cùng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trong sơ đồ trên.
Ta thấy Thân (Kim) có 13,3đv không lớn hơn Hỏa 1đv (vì Hỏa có tới 19,22đv) nên Thân của Tứ Trụ này là nhược nhưng trong trường hợp này Thân có thể nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (theo quy tắc thứ nhất) thành 13,3đv + 6,44.1/2đv = 16,52đv.
Với số điểm 16,52đv này Thân vẫn không thể lớn hơn Hỏa 1đv nên Thân vẫn là nhược.
Lý thuyết khi Thân nhược có thể nhận được 50% điểm vượng của Kiêu Ấn sinh cho là:
Điều kiện Cần:
1 - Kiêu Ấn (ý nói điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn) lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Nhật can phải được lệnh.
2 - Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Thân phải lớn hơn Tài tinh và Quan Sát.
3 –…
Xem trong sách.
Điều kiện đủ (chưa có trong sách):
1 – Thân phải có Tỷ Kiếp (tức ngoài Nhật can ra - tức can của trụ ngày - phải có thêm 1 can hay 1 chi Tỷ Kiếp, không tính các can tàng là tạp khí).
2 - …
Sẽ công bố sau.
Với ví dụ thứ 2 này phương pháp xác định Thân vượng hay nhược của VULONG đã đúng.
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Ở sơ đồ này giống ví dụ trước là không có các tổ hợp.
Ta thấy Bính trụ tháng bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu (về ngũ hành), Thân trụ năm cũng bị khắc gần cùng dấu bởi Ngọ trụ tháng và Canh trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Ngọ cùng trụ nên ta phải khoanh tròn 3 can chi này (Bính, Thân và Canh).
Ở sơ đồ này có thêm 2 quy tắc mới là:
1 - Có 3 chi liền nhau là Ngọ ở trụ tháng, trụ ngày và Thìn ở trụ giờ đều không bị khắc gần hay trực tiếp hặc bị hợp mà Ngọ trụ tháng cùng hành với Ngọ trụ ngày nên Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn (nếu Ngọ trụ tháng mang hành sinh cho Ngọ trụ ngày thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Thìn), vì Ngọ mang hành Hỏa có thể sinh cho Thìn mang hành Thổ.
2 - Thìn trụ giờ có Ngọ gần bên cạch là trụ ngày mang hành sinh cho nó nên Thìn trụ giờ có thể sinh được 50%đv của nó cho Canh cùng trụ (còn nếu Thìn có chi gần bên cạnh cùng hành với nó thì nó chỉ có thể sinh được 1/3đv của nó cho can cùng trụ).
Bây giờ ta tính toán xem điểm vượng của từng can chi vào vùng tâm có bao nhiêu:
1 – Nhâm trụ năm ở trạng thái Thai của lệnh tháng Ngọ có 4,1đv bị Thìn trụ giờ khắc cùng hành cách 3 ngôi giảm 1/19 òn 4,1.18/19đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,1.18/1.3/5đv = 2,33đv.
2 – Bính trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 10.7/12đv = 5,83đv.
3 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp giảm 1/2 còn 7.1/2đv và bị Ngọ trụ tháng khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm thêm 1/4 còn 7.1/2.3/4đv = 2,63đv.
4 – Ngọ trụ ngày ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 10.8/9đv = 8,89đv.
Như trên cho biết thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn trụ giờ là 8,89.1/12đv = 0,74đv.
5 – Thìn trụ giờ ở trạng thái Đế vượng có 10đv và nhận thêm 0,74đv của Ngọ gần bên cạnh sinh cho (như tính toán ở trên) thành 10 + 0,74đv = 10,74đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 10,74.3/5đv = 6,44đv.
Thìn trụ giờ có 10,74đv có Ngọ gần bên cạnh mang hành sinh cho nên Thìn có thể sinh được 1/2đv của nó cho Canh cùng trụ (vì Thìn là Thổ có thể sinh cho Canh là Kim cùng trụ) là 10,74.1/2đv = 5,37đv.
6 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv được nhận thêm 5,37đv của Thìn cùng trụ sinh cho thành 7đv + 5,37đv = 12,37đv nhưng bị Ngọ trụ ngày khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 và Ngọ trụ tháng cũng khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 12,37.3/4.8/9đv = 8,25đv.
7 – Ngọ trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 còn 10.3/4đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10.3/4.3/5đv = 4,5đv.
8 – Thân trụ năm ở trạng thái Mộc dục có 7đv và có thêm 4,05đv đắc địa Lộc của can ngày Canh tại Thân thành 7đv + 4,05đv = 11,05đv bị Ngọ trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 và Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi cùng dấu giảm 1/4, vào vùng tâm giảm thêm 1/2 còn 11,05.7/12.1/4.1/2đv = 2,42đv.
Khi cộng tất cả điểm vượng cùng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trong sơ đồ trên.
Ta thấy Thân (Kim) có 13,3đv không lớn hơn Hỏa 1đv (vì Hỏa có tới 19,22đv) nên Thân của Tứ Trụ này là nhược nhưng trong trường hợp này Thân có thể nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (theo quy tắc thứ nhất) thành 13,3đv + 6,44.1/2đv = 16,52đv.
Với số điểm 16,52đv này Thân vẫn không thể lớn hơn Hỏa 1đv nên Thân vẫn là nhược.
Lý thuyết khi Thân nhược có thể nhận được 50% điểm vượng của Kiêu Ấn sinh cho là:
Điều kiện Cần:
1 - Kiêu Ấn (ý nói điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn) lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Nhật can phải được lệnh.
2 - Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Thân phải lớn hơn Tài tinh và Quan Sát.
3 –…
Xem trong sách.
Điều kiện đủ (chưa có trong sách):
1 – Thân phải có Tỷ Kiếp (tức ngoài Nhật can ra - tức can của trụ ngày - phải có thêm 1 can hay 1 chi Tỷ Kiếp, không tính các can tàng là tạp khí).
2 - …
Sẽ công bố sau.
Với ví dụ thứ 2 này phương pháp xác định Thân vượng hay nhược của VULONG đã đúng.
cariga 23/03/2021
Khoai.To, on 19/03/2021 - 22:24, said:
Mệnh Thuỷ sinh vào tháng Thìn. Có Mậu Thổ xuất Can chặn lấp mất dòng thuỷ. Địa chi toàn Thổ nên Thuỷ nên có nguy cơ bị Thổ vùi lấp.
Trụ năm Giáp Tý Mộc Thủy cứu bản mệnh.
Trụ tháng Mậu Thìn giết bản mệnh.
Trụ giờ Canh Tuất. Canh sinh Thuỷ. Nhưng Tuất lại là Thổ.
Dụng thần là gì?
Nếu dùng Mộc Thực Thương để phá Thổ nhưng mệnh chủ vốn đã là Thuỷ thân nhược giờ phải tiết chế để sinh ra Mộc thì mệnh sẽ càng yếu thêm.
Lời 100tr mà chi phí đánh lộn hết 200tr. Thôi khỏi đánh.
Dụng Nhâm Thuỷ? Cũng ko được. Vì Nhâm Thuỷ bị Mậu Thổ vùi ngay từ đầu.
Nên chỉ duy nhất dùng Kim. Kim sinh Thuỷ. Làm mệnh đương số mạnh lên. Và tiết chế được khí thế của Thổ.
Thổ sinh Kim sinh Thuỷ.
Đại vận 5 xem như là đẹp nhất. Ko bị đám Mậu Thổ phá nữa.
lethanhnhi 23/03/2021
Coco
Em mua sách Trích Thiên Tuỷ , Uyên Hải Tử Bình , Tử Bình Chân thuyên về mà đọc
Hay vào trang tubinhdieudung mà đọc
Cứ đi theo cái kiểu lung tung này rồi tẩu hoả nhập ma đó
Em đã gọi anh là sư phụ thì anh có mấy câu như vậy
Nick channhu tutanh trên tử bình tứ trụ thời luận là của anh đó
Em xem anh luận chứng minh các lá số thực trên đó đó
Cơ bản vỡ lòng còn không nắm bắt cứ đòi học những thứ lung tung thì đứt
Người ta hàng nghìn năm tổng kết, bao nhiêu thế hệ viết ra sách
Mình cứ học bằng các cụ đã, rồi hẵng tính hơn
Em mua sách Trích Thiên Tuỷ , Uyên Hải Tử Bình , Tử Bình Chân thuyên về mà đọc
Hay vào trang tubinhdieudung mà đọc
Cứ đi theo cái kiểu lung tung này rồi tẩu hoả nhập ma đó
Em đã gọi anh là sư phụ thì anh có mấy câu như vậy
Nick channhu tutanh trên tử bình tứ trụ thời luận là của anh đó
Em xem anh luận chứng minh các lá số thực trên đó đó
Cơ bản vỡ lòng còn không nắm bắt cứ đòi học những thứ lung tung thì đứt
Người ta hàng nghìn năm tổng kết, bao nhiêu thế hệ viết ra sách
Mình cứ học bằng các cụ đã, rồi hẵng tính hơn
Nghịch Thiên Cải Mệnh 23/03/2021
Hai đại vận sau nhâm thân, quý dậu là kim. Hi vọng sẽ thay đổi.
Mấy vận trước
Kỷ tỵ là mộc. Mộc sinh ra tỵ hỏa khắc kim. Và kỷ thổ cũng làm nhâm thủy vẩn đục. Kết luận ko ăn thua
Canh ngọ là thổ. Thì thổ khắc thủy và ngọ hỏa khắc canh kim. Vứt
Tân mùi cũng thổ. Thổ khắc thủy. Mùi thổ cũng khắc thủy. Cộng với thìn tuất thành thổ quá mạnh. Kim bị vùi lấp, thủy bị chặn đứng bế tắc lâm vào đường cùng, lang thang như mèo hoang chó dại... A men
Thấy tui luận vậy được hem?!
Sửa bởi Khoai.To: 23/03/2021 - 21:54
Mấy vận trước
Kỷ tỵ là mộc. Mộc sinh ra tỵ hỏa khắc kim. Và kỷ thổ cũng làm nhâm thủy vẩn đục. Kết luận ko ăn thua
Canh ngọ là thổ. Thì thổ khắc thủy và ngọ hỏa khắc canh kim. Vứt
Tân mùi cũng thổ. Thổ khắc thủy. Mùi thổ cũng khắc thủy. Cộng với thìn tuất thành thổ quá mạnh. Kim bị vùi lấp, thủy bị chặn đứng bế tắc lâm vào đường cùng, lang thang như mèo hoang chó dại... A men
Thấy tui luận vậy được hem?!
Sửa bởi Khoai.To: 23/03/2021 - 21:54
lethanhnhi 23/03/2021
Giá sách đó ở Việt Nam ba bộ không tới 50 đô
Cứ học hết cái dại của các cụ đi rồi hãy khôn sau
Thà cứ làm Quách Tĩnh ngây dại, sư phụ bảo đấm một trăm phát thì đấm một nghìn phát còn thành nghề
Chứ cứ lung tung mỗi ngày một phách rồi có ngày phát bệnh như đám này
Anh coi em là học trò, anh nhìn em đi vào chỗ tối , anh ko nỡ
Còn hay dở để người đời khen chê, đừng vỗ ngực khen mình chê người
Thầy Tân bảo anh mua Tử Bình Chân Thuyên, anh mua , cuối cùng đúng là phát hiện ra nó hay tới cỡ nào
Anh cũng mong tới 90 tuổi anh được bằng thầy Đinh Văn Tân chứ anh chả mong hơn
Nói tới nhâm thân phát là nhâm thân phát
Sắp tới vận ấy rồi
Luận làm gì lắm
Thực tế nó trả lời
Cứ học hết cái dại của các cụ đi rồi hãy khôn sau
Thà cứ làm Quách Tĩnh ngây dại, sư phụ bảo đấm một trăm phát thì đấm một nghìn phát còn thành nghề
Chứ cứ lung tung mỗi ngày một phách rồi có ngày phát bệnh như đám này
Anh coi em là học trò, anh nhìn em đi vào chỗ tối , anh ko nỡ
Còn hay dở để người đời khen chê, đừng vỗ ngực khen mình chê người
Thầy Tân bảo anh mua Tử Bình Chân Thuyên, anh mua , cuối cùng đúng là phát hiện ra nó hay tới cỡ nào
Anh cũng mong tới 90 tuổi anh được bằng thầy Đinh Văn Tân chứ anh chả mong hơn
Khoai.To, on 23/03/2021 - 21:52, said:
Hai đại vận sau nhâm thân, quý dậu là kim. Hi vọng sẽ thay đổi.
Mấy vận trước
Kỷ tỵ là mộc. Mộc sinh ra tỵ hỏa khắc kim. Và kỷ thổ cũng làm nhâm thủy vẩn đục. Kết luận ko ăn thua
Canh ngọ là thổ. Thì thổ khắc thủy và ngọ hỏa khắc canh kim. Vứt
Tân mùi cũng thổ. Thổ khắc thủy. Mùi thổ cũng khắc thủy. Cộng với thìn tuất thành thổ quá mạnh. Kim bị vùi lấp, thủy bị chặn đứng bế tắc lâm vào đường cùng, lang thang như mèo hoang chó dại... A men
Thấy tui luận vậy được hem?!
Mấy vận trước
Kỷ tỵ là mộc. Mộc sinh ra tỵ hỏa khắc kim. Và kỷ thổ cũng làm nhâm thủy vẩn đục. Kết luận ko ăn thua
Canh ngọ là thổ. Thì thổ khắc thủy và ngọ hỏa khắc canh kim. Vứt
Tân mùi cũng thổ. Thổ khắc thủy. Mùi thổ cũng khắc thủy. Cộng với thìn tuất thành thổ quá mạnh. Kim bị vùi lấp, thủy bị chặn đứng bế tắc lâm vào đường cùng, lang thang như mèo hoang chó dại... A men
Thấy tui luận vậy được hem?!
Sắp tới vận ấy rồi
Luận làm gì lắm
Thực tế nó trả lời
Hoa Cái 23/03/2021
Giỏi thì phải đoán hạn quá khứ trúng nhiều hơn trật .
Cùng 1 cuốn sách nhưng có người đọc hiểu khác ---> diễn dịch khác .
Tôi thấy có người cứ tâng bốc sư phụ, cong cả lưng nhưng ấp úng giải số hạn quá khứ, sai lên sai xuống . Vậy đọc gì, hiểu gi ?
Khi nào qua 50t may ra hiểu thiên mệnh nhưng khi gần đến 70 cổ lại hi thì mới biết rằng tất cả là phù vân, là cái cầu vồng nhiều màu rượt bắt không chạm được .
HC
Cùng 1 cuốn sách nhưng có người đọc hiểu khác ---> diễn dịch khác .
Tôi thấy có người cứ tâng bốc sư phụ, cong cả lưng nhưng ấp úng giải số hạn quá khứ, sai lên sai xuống . Vậy đọc gì, hiểu gi ?
Khi nào qua 50t may ra hiểu thiên mệnh nhưng khi gần đến 70 cổ lại hi thì mới biết rằng tất cả là phù vân, là cái cầu vồng nhiều màu rượt bắt không chạm được .
HC
Tutrumenh 23/03/2021
Thôi thì hỏi các bác một câu.
Sinh thìn nguyệt, cái gì nắm lệnh?
Sinh thìn nguyệt, cái gì nắm lệnh?