Trong các bộ trung tinh của Tử Vi, chỉ có 3 đôi có tính cách đặc biệt là Xương Khúc, Long Phượng, Tả Hữu, được người đời tiếp đón chủ về văn học sáng giá, riêng bộ Xương Khúc phối hiệp với Khôi Việt là khoa bảng quyền uy. Xương Khúc đứng cặp với Âm Dương, dầu là vị trí lạc hãm cũng được cải tạo quang minh là những bậc uyên bác học gia. Khôi Việt có tính cách nổi bật cao siêu. Đứng cặp với Xương Khúc thì nêu cao văn tài để rồi chiếm địa vị đàn anh trên khoa trường .
Khôi Việt đứng với Tả Hữu là khả năng lãnh tụ.
Khôi Việt đứng với Long Phượng là ngôi vị cao cả của danh nhân chính phái.
Xương Khúc Tả Hữu Long Phượng là 3 bộ trung tinh quí cách cho phẩm giá cá nhân không như tam hoá Khoa Quyền Lộc chỉ là những tấm huy chương phản ánh về quyền lộc.
Tiếc rằng Khôi Việt ít khi đứng cặp với 3 bộ Xương Khúc Long Phượng Tả Hữu nhất là Khôi. Vị trí đặc biệt của bộ này đứng trong địa bàn không cho phép tiếp tay, nên hãn hữu mà có thì cũng nghịch hẳn lý âm dương: Tuổi Giáp Mậu là dương đặt Khôi Việt ở Sửu Mùi mà có thì cũng bị Tuần Triệt bẻ gẫy.
Khôi Việt đứng theo thiên can sắp xếp, hoàn toàn gần như nghịch hẳn lý âm dương:
Tuổi Giáp Mậu là dương đặt Khôi Việt ở Sửu Mùi ( âm cung)
Tuổi ất Kỷ là âm đặt Khôi Việt ở Tí Thân ( dương cung)
Tuổi Bính (D) Đinh (Â) đặt Khôi Việt ở Hợi Dậu ( âm cung)
Tuổi Nhâm (D) Quí (Â) đặt Khôi Việt ở Mão Tỵ ( âm cung)
Tuổi Canh ( D) Tân ( Â) đặt Khôi Việt ở Ngọ Dần ( dương cung)
Theo chỗ đứng như bảng ở trên Thiên Khôi luôn luôn ở chỗ bị chôn bời cung và Triệt làm cho thất thế. Là tư cách đoàn trưởng mà chính lại là người ở bậc thứ trung, làm nổi bật hẳn ý nghĩa của 4 chữ Thiên ất Quí Nhân.
Thiên Ất là gì ?
Xưa nay thương nghe 2 chữ Độn Giáp hay Thái Ất thần số là một môn toán dịch lý thuyết đoán cát hung của mỗi sự việc . Vậy tại sao lại gọi là Độn Giáp hay Thái ất ?
Độn Giáp là đôn chữ Ất lên thay thế cho chữ Giáp là địa vị đoàn trưởng của 10 Thiên Can, để chữ Giáp luân lưu ẩn chỗ của 6 chữ Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quí ở 6 con Giáp Ti', Tuất, Thân, Ngọ, Thìn , Dần.
Thái ất cũng cùng một ý nghĩa là chữ Ất ngôi vị thứ nhì lên lãnh vai thủ trưởng của Giáp.
Thiên ất là ngôi vị thứ nhì kế cận ngôi cao quí thiêng liêng, là vị tối cao phụ tá ban phước lành (quí nhân) che chở cho những ai xét ra hợp lý mà tính đáng thương.
Những ai được Thiên Ất thủ mạng là những người đương nhiên không bao giờ là người Thái Tuế cũng như Tuế Phá. Người Thái Tuế là người sinh ra như để gánh vác một công việc gì cao cả tốt đẹp, phải gặp nhiều điều may mắn để tiếp đón nhận lãnh trách nhiệm, đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên mã làm hậu thuẫn. Hai phái này luôn luôn đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên Ất, tức là Khôi Việt đóng ở dương cung thì Thái Tuế, Tuế' Phá phải ở âm cung, trái lại Thiên Ất ở âm cung thì Thái Tuế, Tuế Phá đứng ở dương cung. Chỉ còn 2 phái Thiếu Dương là người có linh tính nhạy cảm hơn người và Thiếu Âm là người thành thật mà bị thua thiệt, là ở cùng Khôi còn Việt chỉ có 2 tuổi Đinh Tỵ, Quí Sửu đứng chung Thái Tuế. Đau đớn cho tuổi Canh Dần Ngọ Tuất và Quí Dậu hoàn toàn thất bại vì Triệt thủ tiêu mất Khôi hoặc Long Phượng.
Vậy tình cảm người được Thiên ất quí nhân thủ mạng là tình cảm hoàn toàn không đắc ý. Ở địa vị thứ nhân mà đương nhiên thủ vai trò đoàn trưởng lo toan mọi việc có tính cách phước thiện . Cái gì trái với đạo lý nghịch luân thường là khẳng định bất khuất.
Người Thái Tuế là người định mệnh nặn ra để lãnh những nhiệm vụ sáng giá.
Người Thiên Ất là người sinh ra phụ giúp cho đời bằng hành động tích cực nhân nghĩa.
Trong Tử vi có rất nhiều hào thủ đức độ và từ thiện đứng đầu là Thiên Quan, Thiên Phúc quí nhân, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long đức, Phúc đức, Giải Thần, là một đoàn linh mục thượng toạ đầy đủ nhân hậu. Nhưng không sức mạnh quyền uy như Thiên Ất là ngôi vị ở ngay chính toà trực tiếp với vị tối cao ra lệnh cứu nhân độ thế. Việc cứu giải tai hoạ mọi sự đắc lực thành công dễ dàng hơn.
Tóm lại Khôi Việt là Thiên Ất quí nhân có tính cách lãnh tụ của vai trò mà thứ nhân quản nhiệm rất thành công trong việc cứu giải tai nạn cho dương nhân, được chuẩn nhận xứng đáng mà đương thời không mấy đắc ý.
Nữ văn thi hào Tương Phổ là điển hình của Thiên Ất quí nhân, tuổi Đinh Dậu ngày 22 tháng 11 giờ Mão. Nhờ tuổi Đinh mà mệnh đứng ngay vị trí Thái Tuế ( Dậu cung) chung cùng Thiên Việt một cặp minh tinh hành Hoả đắc cách cho Hoả mệnh vô chính diệu. Thân phá cách ( Tuế Phá) bổ khuyết cho mệnh đắc Khôi Xương Khúc là đặc tài văn chương xuất chúng, vẫn phải chịu hẩm hiu lẻ bóng goá chồng ngay từ tuổi 23. Lời văn bà là cả giọt mưa ngâu buồn bã thánh thót gợi mối thương tâm do Bà ( Thân) đủ tư cách khêu gợi.
Phải chăng người lỗi lạc của Thiên Ất quí nhân nếu được trường hợp nào đắc cách hơn ai thì không thể không có giông tố phũ phàng vùi dập, bởi do vị trí nghịch lý âm dương mà Khôi Việt bị xếp đặt trong khuôn khổ. Nói chung, người được Thiên Ất quí nhân chiếu cố là người đã có sự đồng ý của định mệnh làm cho nghiêng ngửa (ngả?) để rồi Khôi Việt ra tay tế độ mới rõ rệt chân lý.
TRƯỜNG HỢP NÀO LÀ NGƯỜI TỨ ĐỨC
Đức là phần tôn vinh thuộc về tinh thần, có tính cách nhân ái rộng lòng vị tha. Người được khen là có đức là người dẫn dắt cuộc sống theo đạo lý lập công hơn là kể ơn. Cổ nhân đã sắp xếp bên dương (nam) cũng như bên âm (nữ) có 4 đức. Nam thì hiếu để trung tín tức là đạo hiếu với cha mẹ trước nhất, rồi đến mến yêu anh em mới thành người trung của nước, tín thực với mọi người. Nữ thì công dung ngôn hạnh nghĩa là thông hiểu mọi việc, đi đứng khoan thai, nói năng khuôn phép, hạnh kiểm nết na, lại còn buộc theo môt khuôn sống là tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Xét ra có phần nghiêm khắc cho phái nữ .
Tứ đức trong tử vi là đức chung bao gồm từ cả vũ trụ xuống đến một giòng họ thế nhân. Hai thế lưỡng nghi là Thiên đức (dương) Nguyệt đức (âm) xuống đến tứ tượng Long đức (Thiếu âm) Phúc Đức (Thiếu Dương) là tất cả đạo lý cao dầy cần phải nhận định sao cho hợp hoàn cảnh.
Tứ đức đứng chụm vào vòng Thái Tuế là vòng do địa chi chi phối tạo nên tư thế cá nhân trong xã hội nhân quần. Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ là trách vụ nặng nề phải gánh vác được đền công xứng đáng tuyệt đối. Cái gì đã được nêu tên là “Thái”' (tối đa thì còn có gì vượt lên trên được). Theo luật ngũ hành giao dịch có sinh phải có khắc, có xuất tất phải có nhập. Thái đã là tối đa rồi mà lại được nhập thêm, đương nhiên là điều bất hạnh. Lý công bằng là khi thiếu cần phải bổ khuyết, khi đã đầy đủ rồi mà bồi đắp thêm sẽ đi đến thế lệch, lệch đến thế tận cùng là tàn tạ. Do đó mới có Thiên Không đứng bên Thái Tuế.
Phải chăng Thiên không là giấc mộng hoàng lương đối với 3 hạng người trong tử vi có những điều kiện khác biệt.
Hạng người tứ chính ( Tí Ngọ Mão Dậu ) là người khẳng khái nhiều khi quá cứng rắn, nên kết quả thường đem lại có phần ác liệt (Thiên Không tứ mộ). Người tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) vì lòng tự hào có phần cao nên Thiên không hăm hạng này vào vòng di luỵ mỗi khi tham vọng quá mức (Đào Hoa Thiên không). Còn người Tứ Mộ ( Thìn Tuất Sửu Mùi) biết thân hiểu phận chân yếu tay mềm, dễ khiến nhạy cảm yếm thế ( Hồng Loan, Thiên Không).
Ba hạng này một khi đã bị Thiên không thâm nhập huyết quản thì đồng đều ở trong tam hợp có Thiên đức, Nguyệt đức và Phúc đức, còn Long đức đứng ở thế xung, có nghĩa là phân chia cho Thiếu dương tam đức, còn để dành cho Thiếu âm.
Sao vậy ?
Theo luật âm dương, hai phái khác biệt hẳn nhau như nước với lửa, kim với mộc. Thiếu dương đã vượt lên trên Thái Tuế tức là tinh khôn hơn Thiếu âm đứng ở tam hợp sau Thái Tuế có phần thật thà thua thiệt, vì Thiếu dương luôn luôn có Hồng Đào xốc nách ( Thiếu âm nhiều trường hợp không có) . Giữa Thiếu Dương và Thiếu âm đã thấy rõ ràng cán cân bù trừ chính xác. Thiếu dương được Hồng Đào vì vướng Thiên không nên được tam tứ đức đứng ra khuyên nhủ. Thiếu âm bị bạc đãi nên chỉ một Long đức đứng lên khuyên nhủ.
Trước cảnh hùng bí bao la của bầu trời (Thiên đức ), cái dịu mát trong sáng của trăng soi (nguyệt Đức), cái độ lượng nhân hậu của bậc nguyên huấn (Long đức) và sự ham muốn tu tạo bác ái của một giòng giống ( Phúc đức) hẳn những ai trong kiếp nhân sinh chẳng may ở vào vị trí Thiên không không thể không suy nghĩ kỹ càng với bộ óc thông minh ( Thiếu dương Hồng Loan) được định mệnh đã ban phát, dầu là hợp tình hợp cảnh giữa ngã rẽ độ đường Tứ Đức với Thiên không.
Điển hình trên những lá số nên cần được vô chính diệu ở trong có những An Quang (Mộc), Hỷ thần ( Hoả), Thiên thọ ( Thổ), Tấu Thư ( (Kim), Thanh Long ( Thuỷ) tuỳ theo hợp hành với Mệnh là đắc cách. Nếu có chính tinh thì mệnh phải khắc sao cho phù hợp như vô chính diệu và Hoá Khoa điều chỉnh để dọn đường cho Tứ Dức dễ dàng sinh hoạt. Chẳng may vô chính diệu lại chứa chấp sát tinh như Thiên Hình (Kim) Lưu Hà (Thuỷ) Kiếp sát (Hoả)… mà mệnh lại đồng hành là tất cả những gì độc hại không bờ bến.
TINH THẦN VÀ THỂ XÁC KHÁC BIỆ TUỲ THEO MỆNH THÂN ĐÓNG Ở TỨ SINH, TỨ CHÍNH HAY TỨ MỘ
Tử vi là một khoa nằm trong dịch lý. Căn bản của dịch lý là âm dương. Trong âm dương phân tách thấy ngũ hành phối hợp. Từ cái bất dịch là hình xác một vật gì, trải qua thời gian là giao dịch sinh khắc chế hoá tạo mối hưng thịnh đến lẽ suy vong thay đổi là biến dịch.
Trong địa bàn tử vi có đầy đủ ngũ hành, thấy phần trội là Thổ có nghĩa là mọi sự diễn biến đều ở trong đất mà ra, mà sự khắc chế chỉ ở 4 thế Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả mới đáng kể Mỗi hành đều có thể liên minh để củng cố thế tranh đua như Thân Tí Thìn ( Thuỷ) Dần Ngọ Tuất ( Hoả) , Tỵ Dậu Sửu (Kim) và Hợi Mão Mùi (Mộc) được ghi danh là tam hợp cục.
Tứ chính là cái nguyên bản ngã của nó nên Tí Ngọ Mão Dậu được liệt danh là chính xác của hành đắc dụng làm 4 phương chính:
Tí = Bắc phương thuộc thuỷ
Ngọ = Nam phương thuộc Hoả
Mão = Đông Phương thuộc Mộc
Dậu = Tây phương thuộc Kim
Trong thế liên minh cái thế phát nguồn được đặt ở trên để nuôi dưỡng thế chính đứng ở giữa được gọi là tứ sinh: Dần Thân Tỵ Hợi. Dần là Mộc nuôi Hoả là Ngọ. Thân là Kim bù trừ cho Thuỷ là Tí. Tỵ là Hoả ở trong có cái Mậu Thổ sản sản ra Kim là Dậu, Hợi là Thuỷ dưỡng Mộc là Mão. Mọi sự đều dùng sân khấu thế gian là Thổ, đến khi tàn tạ cũng về với đất là Thìn Tuất Sửu Mùi là giai đoạn chót ghi danh là Mộ địa.
Mỗi thế liên minh (tam hợp cục) đều có cung sinh cung chính và cung mộ. Mỗi cung đều có ảnh hưởng trực tiếp cho cái bản xác Mệnh thân ở đó tuỳ tinh thần cho đến thể xác tuỳ theo trách nhiệm của cung làm phận sự.
Dần Thân Tỵ Hợi là sứ sinh, công việc của chúng vốn là bồi bổ cho Tí Ngọ Mão Dậu nên có lòng tự hào quá cao ( ưa đề cao khoe khoang) nuôi dưỡng người được sức khoẻ dồi dào ( tràng sinh) nhưng không phải là người nặng cân.
Tí Ngọ Mão Dậu là phần danh dự lãnh vai trò chính xác của ngũ hành phải là người cương nghị, sức khoẻ đầy đủ ( Đế vượng) .
Vị trí tứ Mộ là nơi gần đất xa trời, người này thường là thiếu thốn sức khoẻ ( năm ngày ba tật). Biết phận mình nên không ưa muốn phiền nhiễu ai, là tư cách chính đáng của người tứ mộ (mềm dẻo).
Dầu là tứ sinh, tứ chính hay tứ mộ vẫn một phần quan trọng phối hợp lẽ âm dương mỗi hành đều có một cung dương và một cung âm ), tức là dương cung thì cứng rắn nhiều hơn, trái lại âm cung thì phần hoà hợp có lấn trội, vì dương là tư cách của người sinh nhập nên chu đáo cẩn thận đúng mức, còn âm tư là tư cách của người sinh xuất nên rộng rãi bao dung.
Có thể xếp thành nguyêt tắc căn bản đại cương như:
a/- Mệnh Thân ở tứ Sinh : Mạnh khoẻ, ít khi nặng cân , tính tình hay đề cao ưa phô trương.
b/- Mệnh Thân ở tứ Chính: Đầy đủ sức khoẻ, tinh thần kiên quyết.
c/- Mệnh Thân ở Tứ Mộ: hay đau yếu nhưng không muốn phiền luỵ ai, tính tình mềm dẻo.
Như thế chẳng hoá ra thiệt thòi cho 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi một khi được vinh dự đóng ở Thái Tuế ( tứ mộ) .
Thưa rằng: Thái Tuế không phải là khi nào ngồi vào vị trí chính xác Thái tuế . Bốn tuổi này đều ở vị trí Quan Phù hay Bạch hổ phải kể là dị nhân kỳ tài, đem hết khả năng tận tình suy tính để tạo nên sự nghiệp huy hoàng phải kể là đáng trọng ( Số Trương Lương Hàn Tín ) . Bốn tuổi này đã được quy định là nơi Mộ địa là nơi trình diễn những vở tuống đời sáng giá với chiếc lọng che uy nghi cao cả ( Hoa cái do hàng chi xắp dặt ngôi vị thực thể ) để đền bù sự suy kém sức khoẻ.
Đứng trước cái tài tình thông đạt của dịch lý, là hậu sinh không thể không nghiêng đầu kính cẩn vị thánh nhân Phục Hy thời Thái cổ đã khám phá rành rẽ được sự bí hiểm huyền bí tạo vật, một ý nguyện mong người đời thấu đáo đạo lý xử thế.
Những thành quả đặc biệt của Tràng sinh, Đế vượng và Hoa Cái ( một hình tượng của Mộ theo luật âm dương ) .
Tràng sinh chỉ đứng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi tức là thế sinh của tam hợp. Vậy chỉ những tuổi tứ sinh mới đắc cách hợp thức luật âm dương và Thái tuế. Về phương diện ngũ hành người Thuỷ mệnh được chủ cách bền vững lâu dài.
Đế vượng chỉ ở 4 chính cung Tí Ngọ Mão Dậu thì cũng chỉ 4 tuổi này mới thụ hưởng những gì là tư thế thịnh đạt vượt mức với Kim mệnh.
Hoa cái, một lợi điểm danh dự cho những người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi tuỳ theo ngũ hành chế hoá của Mệnh với Hoa cái ( Kim) tới mức nào
Chúng ta nên chú ý tại những cung mà có nhiều Phúc Thiện tinh như Quan Phúc, Khôi Việt, Tứ Đức... tụ hợp chung lại đều là những cung có sự hiểm nghèo vì nghịch lý âm dương và bị Sát tinh lủng đoạn hoành hành để giúp đỡ cứu tai giải họa và báo động cho người có số biết sẽ có những trở ngại và thử thách gay go trong cuộc sống, để đương nhân suy gẫm và điều chỉnh lại cung cách sống sao cho có ích, kết quả tốt hay xấu còn tùy ở người có tuân theo mà cải thiện hay là bỏ qua.
Sửa bởi toitimtoi: 24/09/2011 - 23:25